Ngày 11-02-2015
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:24 11/02/2015
N2T


18. Một hành động thấp hèn phát xuất từ việc yêu mến Thiên Chúa cách thâm sâu, thì vẫn tuyệt vời hơn là làm một việc thiện lớn mà lãnh đạm.

(Thánh Francis of Sales)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

Dịch từ tiếng Hoa trong “Cách ngôn thần học tu đức”


-----------------

http://www.vietcatholic.net

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:17 11/02/2015
TRÒ CHƠI CỦA THƯỢNG ĐẾ
N2T

Thượng đế muốn cùng với nhân loại chơi trò trốn tìm.
Thượng đế bàn hỏi với các thiên sứ:
- “Tất cả mọi người cho ta một ý kiến, ta nên trốn chỗ nào là bí mật nhất ?”
Có một vài thiên sứ trả lời là nên trốn dưới biển chỗ sâu nhất, lại có một vài vị cho rằng nên trốn trên đỉnh núi cao nhất, thậm chí có một vài thiên sứ đề nghị là đến nơi các tinh tú khác mà ẩn núp.
Nhưng vị thiên sứ trưởng thông minh cười nói:
- “Thật ra thượng đế không cần phải đi đâu cho xa, Ngài nên ẩn trong tâm hồn của con người thì tốt hơn, đó là nơi mà con người khi đến bước cùng đường rồi mới biết nghĩ tới.”
(Ngôn ngữ kỳ diệu của tâm hồn)

Suy tư:
Con người ngày càng quên mất Thiên Chúa hiện hữu, ngay cả những người Ki-tô hữu cũng thế, Đức Chúa Giê-su hằng ngày ngự trong bí tích Thánh Thể nhưng hỏi có mấy ái đến thăm viếng Chúa ? Đức Chúa Giê-su ngự trong tâm hồn mỗi người Ki-tô hữu sau khi rước lễ, nhưng hỏi có mấy ai nhớ để kết hợp với Ngài từng giây phút ? Cả vũ trụ này đều bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng hỏi có mấy ai ca tụng và nhìn thấy Chúa trong vạn vật ?
Thiên Chúa không trốn đi đâu cả và cũng không trốn ai cả, nhưng chúng ta không thấy Ngài bởi vì chúng ta không tìm kiếm Ngài, chỉ khi cùng đường tắt lối gặp gian nan khốn khó mới chạy đi kiếm Ngài, nếu kiếm chưa được thì gào thét van lơn, nhưng nếu kiếm được rồi thì lập tức quên ngay sau khi đã được đạt mục đích của mình.
Hỏi: Thiên Chúa ở đâu ?
Thưa: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và đặc biệt là ở trong tâm hồn chúng ta.
Hỏi: Chúa ở trong tâm hồn chúng ta, tại sao chúng ta không thấy ?
Thưa: Vì chúng ta không thành tâm tìm kiếm Ngài...

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

--------------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:24 11/02/2015
N2T

19. Tôi không thể làm được việc lớn, nhưng tôi nguyện dùng mỗi công việc, dù là việc nhỏ, để làm sáng danh Thiên Chúa.

(Thánh Terese of Lisieux)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong “Cách ngôn thần học tu đức”

----------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Nghi thức chầu Thánh Thể tất niên và đón xuân Ất Mùi 2015
Jos. Vinc. Ngọc Biển
10:06 11/02/2015
CHẦU THÁNH THỂ

Tất Niên Năm GIÁP NGỌ 2014 – Đón Xuân Mới ẤT DẬU 2015

I. KHAI MẠC (Quỳ)

1. Làm dấu

2. Hát: Cầu Xin Chúa Thánh Thần (Lm. tiến ra quỳ trước Bàn Thờ)

3. Dẫn Nhập: (Người Hướng Dẫn (NHD) – quỳ)

Kính thưa cộng đoàn,

Hòa chung với mọi người con dân đất Việt, chúng ta đang chuẩn bị tạm biệt năm cũ, năm Giáp Ngọ, và hân hoan đón mừng một năm mới sắp đến, năm Ất Dậu. Trong giờ khắc này, hẳn ai cũng cảm thấy thiêng liêng kỳ diệu. Vì thế, đây là một khoảng thời gian cần thiết để ta lắng đọng lại trước Chúa Giêsu Thánh Thể, hầu nhìn lại chặng đường đã qua, để thấy được: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ủ ấp tôi suốt cả cuộc đời” (Tv 22,6).

Khi nhận ra và cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa vô bờ trên bản thân, gia đình, Giáo xứ, Giáo Hội và thế giới..., từ đó, chúng ta hãy cất cao lời ngợi khen Chúa như Mẹ Maria khi xưa. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng cần phải sám hối vì những thiếu xót bất toàn mà chúng ta đã mắc phải trong cuộc sống, nhất là những sự vô ơn của chúng ta với Thiên Chúa. Mặt khác, chúng ta dâng năm sống mới lên Chúa, để chính Người là chủ thời gian và không gian, ban phúc lành cho chúng ta vì: “Mọi sự đều bởi Chúa mà ra, từ Chúa mà đến”.

Với tất cả những tâm tình ấy, giờ đây, chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Chúa Giêsu Thánh Thể, để xin Ngài tha thứ, thánh hóa và chúc lành cho chúng ta.

II. ĐẶT THÁNH THỂ

1. Hát về Thánh Thể (Thinh lặng 2 phút)

2. (NHD – quỳ)

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chỉ còn ít giờ nữa là chúng con bước sang một năm mới. Vì thế, thời gian này rất quý báu và ý nghĩa với mỗi người chúng con. Trong tâm tình của người thụ ơn, chúng con xin được hợp cùng Triều Thần - Thánh trên trời, hợp cùng mọi người dương thế và mọi loài thọ sinh xin dâng lời ngợi khen Chúa.

3. Hát: Ca Lên Đi 3 – Kim Long (Đứng - vui nhộn)

1. Ca lên đi! Thần Thánh trên Thiên Đình hiển vinh, mừng Chúa yêu thương trần gian đến muôn ngàn đời.

2. Ca lên đi! Mọi thế nhân qua dòng thời gian, mừng Chúa yêu thương trần gian đến muôn ngàn đời.

3.Ca lên đi! Trời đất bao la ngợp kỳ công, mừng Chúa yêu thương trần gian đến muôn ngàn đời.

4.Ca lên đi! Rừng núi đua chen ngàn cỏ hoa, mừng Chúa yêu thương trần gian đến muôn ngàn đời.

5.Ca lên đi! Triều sóng cao dâng đẹp đại dương, mừng Chúa yêu thương trần gian đến muôn ngàn đời.

Đk: Ca lên đi, chúc tụng Chúa cả uy quyền. Trần hoàn ơi, ca lên đi. Triều thần ơi, ca lên đi.

4. (NHD - quỳ)

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể!

Trong những ngày cuối năm, nhiều công ty, xí nghiệp lớn nhỏ, cũng như các tổ chức đạo – đời, họ thường ngồi lại với nhau để tổng kết cuối năm, nhằm phát huy cái ưu và khắc phục cái khuyết; đồng thời cũng là dịp để nói lên lời tri ân lẫn nhau.

Trong giờ khắc thiêng liêng này, người Công Giáo chúng con cũng quây quần bên Chúa, để hồi tâm lại, để dâng lên lời tri ân tha thiết (thinh lặng).

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con biết đón nhận chính Lời Hằng Sống của Chúa, để chúng con an vui, tiến bước trong năm mới này, vì Lời Chúa là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi, là khuôn vàng thước ngọc, là kim chỉ nam giữa cuộc đời chúng con.

Xin Chúa thánh hóa tâm hồn, để chúng con đón nhận Lời Tình Yêu, Lời Cứu Rỗi của Chúa cách khao khát, đơn sơ, khiêm tốn và được ơn biến đổi.

5. Hát: Lắng Nghe Lời Chúa - Nguyễn Duy – (Cộng Đoàn đứng)

ĐK : Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, là đường để con hằng dõi bước. Lời Ngài đượm chất ngất niềm vui, trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi. Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời. Lời Ngài hạnh phúc cho trần ai.

6. Đọc Tin Mừng (NHD): Tin Mừng Chúa Giêsu theo thánh Mátthêu (Mt 6, 25 - 34)

Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? (26)Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? (27) Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (28) Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; (29) thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. (30) Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! (31) Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? (32) Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. (33) Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. (34) Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.

Đó là Lời Chúa (Thinh lặng)

7. Hát: Cát Biển – Sao Trời – Phanxicô (ngồi)

1. Hãy đếm tinh tú trên trời mà biết ơn Người cho đời. Và xem cát biển, để hiểu Người thương ta. Người thương ta muôn ngàn năm rất xa, thuở muôn loài chưa thành trong cõi đời. Chính Người mở cho ta, đất trời biển bao la.

ĐK: Người thương ta, tháng năm qua tình vẫn bao la, đến muôn đời tình chẳng phai nhòa. Người thương ta như mùa xuân mãi ươm hoa. Nguyện dâng Cha, trái tim con tình nghĩa phôi pha, muốn đáp đền mà lấy chi đền thì xin theo muôn lối mở tình yêu.

2. Người đã giang cánh chim bằng êm ái như là phượng hoàng. Dù con bé nhỏ muôn nẻo đường dương gian. Đường nguy nan qua vực sâu núi cao, chẳng nơi nào không tình sâu nghĩa đầy. Tháng ngày ở bên Cha, đất trời nở hương hoa.

8. Suy niệm 1: NHD (Quỳ)

“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33). Khi lắng nghe đoạn Lời Chúa này, hẳn ai cũng cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa thật tuyệt vời. Vì thế, mỗi người chúng ta: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 107, 1). Lời mời gọi đó hướng chúng ta về Thiên Chúa là Chủ Tể của mọi sự, mọi loài. Người là khởi nguyên và cùng đích. Người ban cho chúng ta hơi thở và sự sống. Người là Đấng an bài quan phòng thật diệu kỳ trên cuộc đời và trong lịch sử nhân loại. Thật vậy, mỗi ngày sống qua đi, khi đêm về và ban mai thức dạy, chúng ta nhận được biết bao nhiêu ơn lành mà Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta. Sách Aica diễn tả thật sâu xa ý nghĩa này khi nói: “Sáng nào Người cũng ban ân huệ mới. Lòng trung tín của Người cao cả biết bao!” (Ac 3, 23). Như thế, chúng ta chỉ có thể cất cao lời ca tạ ơn Chúa, bởi vì: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga, 1, 16). Như vậy: “Ở đâu và lúc nào [...] cũng đón nhận những ân huệ ấy với tất cả lòng biết ơn” (Cv 24, 3). Thật vậy, “Xin cảm tạ Thiên Chúa vì phúc lộc khôn tả Người ban!” (2 Cr 9,15); vì: “Bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 65,12).

9. Hát: Xin Chỉ Cho Con – Hùng Lân (ngồi)

ÐK. Xin chỉ cho con (xin chỉ cho con) đường đi của Chúa (đường đi của Chúa). Xin dạy bảo con (xin dạy bảo con) nước bước của Ngài (nước bước của Ngài). Xin hướng dẫn con trong chân lý. Xin dạy bảo con những điều cao quý, vì Chúa là Ðấng cứu độ con, là Ðấng ngày đêm con cậy trông.

1. Tất cả đường nẻo Chúa là tình yêu và chân lý dành cho những ai giữ trọn minh ước, điều răn Chúa ra nghiêm chỉnh thực thi. (Hát 2 lần, mỗi lần nhẹ dần)

10. Suy niệm 2: NHD (Quỳ)

Là những người có niềm tin, chúng ta xác tín rằng: Thiên Chúa luôn muốn những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” (Mt 6,26). Tuy nhiên, trong cuộc sống, cũng có những điều chúng ta xin mà không được là vì: có nhiều người trong chúng ta xin Chúa những điều trái khuấy như: xin cho con buôn gian bán lận, đánh cờ bạc, cá độ bóng đá..., hoặc xin Chúa cho con đêm nay đi cướp hay ăn chộm được thành công..., xin những điều như thế thì Thiên Chúa lẽ nào Người ban cho ta được! Thánh Giacôbê nhắc nhở như sau: "Anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4, 3). Những người như thế, thánh Phaolô cũng nói: “Vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội” (Rm 1, 21).

Như vậy, với Thiên Chúa, Người luôn ban những ơn cần thiết để ta được cứu rỗi, Người không ban những điều nguy hại đến phần hồn của chúng ta, mặc dù chúng ta nài nỉ xin Người. Thật vậy, Thiên Chúa không thể làm trái với bản chất của Người. Vì: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Ðấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7, 7-11).

Nhưng đôi khi, Thiên Chúa không những không ban ơn, Người lại còn sửa dạy để cho chúng ta trở nên tốt hơn nữa. Sách Khôn Ngoan diễn tả thật chí lý: “Chính sự vật Chúa dùng để trừng phạt chúng, lại nên ân huệ cho dân Ngài” (Kn 11,13). Thế nên, chúng ta không thể không tạ ơn Chúa vì Người đã thương yêu chúng ta một cách đặc biệt hơn hết mọi người cha trần gian. Người biết được điều gì nên ban và không nên ban, vì thế, chúng ta hãy tạ ơn Người vì những ơn chúng ta nhận ra cũng như những ơn chúng ta chưa nhận ra. Thiên Chúa được ví như gà mẹ ấp ủ chúng ta dưới bóng cánh của Người.

11. Hát: Tán Tụng Hồng Ân - Hải Linh- Vũ Đình Trác (ngồi)

ÐK1: Xin dâng lời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa bao la. Xin dâng lời cảm mến hòa theo tiếng hát dâng lên. Ðôi bàn tay Chúa nâng đỡ con, xin dâng lời cảm tạ. Cho đời con vững một niềm tin, xin dâng lời cảm mến. Ðôi bàn tay Chúa dẫn con đi, xin dâng lời cảm tạ. Tay hồng ân Chúa đưa con về, xin dâng lời cảm mến. Chúa cho con trời mới đất mới, đường đời con đổi mới. Con (i) ca ngợi lòng thương xót Chúa muôn muôn đời.

1. Ðời đời Người đã thương con, đời đời Người vẫn thương con, thương con như gà mẹ ủ ấp con dưới cánh, Chúa thương yêu ấp ủ con đêm ngày.

12. Suy niệm 3: NHD (Quỳ)

Thiên Chúa là Đấng toàn năng hằng hữu, nên Người đâu cần đến lời ca tụng của chính loài thụ tạo do chính Người dựng nên. Bởi vì điều đó là dư thừa đối với Người. Tuy nhiên, khi chúng ta tạ ơn Người thì hệ quả ngược lại. Thật thế, Kinh Tiền Tụng số IV trong Sách Lễ Rôma đã diễn tả: “Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”. Chúa Giêsu cũng đã nói: "Phàm ai đã có thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi" (Lc 19, 26). Vì thế, “ơn lại thêm ơn” nên việc tạ ơn Chúa là việc cần để được cứu độ.

Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều khi chúng ta quên mất nghĩa cử tạ ơn mà thường thì chỉ tập trung vào việc xin ơn mà thôi. Có khi hứa với Chúa đủ điều, nhưng khi xong việc là sẵn sàng cố tình quên đi những lời thề nguyền với Chúa hôm nào!

Thật vậy, tục ngữ Việt Nam ta có câu:

“Trách ai được cá quên nơm,

Được chim bẻ ná, quên ơn vội thù.

Trách ai tham đó bỏ đăng

Thấy lê, quên lựu, thấy trăng, quên đèn”.

Vẫn còn đó không ít những người vô ơn như 9 người phung cùi được Chúa Giêsu chữa lành, đến nỗi Chúa Giêsu cũng phải than phiền: "Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?" (Lc 17,17-18).

Dịp Tất Niên, Giáo Hội mời gọi mỗi chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như một mẫu gương tuyệt vời về lòng biết ơn. Khi Mẹ được Thiên Chúa đoái thương, tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Mẹ đã cất cao bài ca Magnificat để cảm tạ Chúa Cha đã thương đến Mẹ, thương đến nhân loại.

Vì thế, cùng với Mẹ, chúng ta hãy hồi tâm để ngược dòng thời gian, hầu nhận ra biết bao hồng phúc mà Thiên Chúa đã ban xuống tràn ngập tâm hồn chúng ta. Thật vậy: "…Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều kỳ diệu", nên “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho? "(Tv 115, 12).

13. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa – Kim Long (ngồi)

ĐK: Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í,a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tá. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.

1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng, Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.

2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.

14. Lời nguyện cộng đoàn (Đứng)

Chủ Sự:

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Mùa Xuân đã đến với mỗi người chúng con. Một năm mới cũng đang dần hé mở. Cõi lòng mỗi người chúng con cũng đang rạo rực xôn xao. Trong giờ phút linh thiêng này, chúng con xin hướng tới mọi thành phần dân Chúa với tâm tình hiệp thông, để dâng lên Chúa những lời nguyện xin tha thiết.

Xướng 1:

Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa lời cầu nguyện đặc biệt cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho Đức (Đức Hồng Y) Giám Mục (các Đức Giám Mục) giáo phận chúng con, cho cha xứ, các linh mục khắp nơi, các tu sĩ. Xin Chúa ban cho các ngài sức khỏe, bình an và ơn thánh, để các ngài dẫn dắt con thuyền Giáo Hội của Chúa đến mùa xuân bất diệt là Nước Trời.

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con.

Xướng 2:

Chúng con xin dâng lên Chúa những anh chị em đang bị bách hại vì Đạo Chúa ở khắp nơi trên thế giới, những anh chị em bệnh tật, bị bỏ rơi, nghèo túng, những trẻ em là nạn nhân của nạn phá thai, chiến tranh, nạn buôn người, xâm hại tình dục... Xin Chúa ban cho những người bất hạnh đó được nhiều người thương cứu giúp, ngõ hầu xã hội này được công bằng, liên đới và tình thương hơn.

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con.

Xướng 3:

Xin Chúa ban cho Giáo Xứ của chúng con trong năm “Tân Phúc Âm Hóa đời sống Giáo Xứ”, luôn được hiệp nhất với nhau, cùng chung tay xây dựng Giáo Xứ thành đại gia đình yêu thương, đoàn kết, sinh động. Biết bỏ qua những ích kỷ, tự kiêu cá nhân, để làm cho Giáo Xứ ngày được khởi sắc về mọi mặt, nhất là về đời sống đạo hằng ngày.

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con.

Xướng 4:

Gia đình là nền tảng để xây dựng Giáo Hội. Chúng con xin dâng lên Chúa từng gia đình và mỗi thành viên. Xin Chúa thánh hóa, biến đổi, để mỗi người chúng con luôn chu toàn bổn phận của mình trong ơn gọi và sứ mạng riêng.

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con.

Chủ Sự:

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, trong suốt 365 ngày đã qua, chúng con đã nhận biết bao ơn lành của Chúa ban cho Giáo Hội, Giáo Xứ, từng cộng đoàn cũng như mỗi gia đình và cá nhân. Giờ đây, xin Chúa đón nhận nơi chúng con lòng biết ơn chân thành. Xin Chúa cũng chúc lành cho những ý nguyện đơn sơ của chúng con. Xin Chúa cũng ban cho chúng con được bình an, hạnh phúc trước thềm năm mới.

Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

III. KẾT THÚC

1. Kinh Đền tạ Thánh Tâm Chúa (Quỳ)

2. Hát và lời nguyện cầu cho Đức Giáo Hoàng.

3. Hát: “Đây nhiệm tích”.

4. Lời nguyện và phép lành Mình Thánh Chúa.

5. Hát: “Kinh hòa bình”.

Lạy Chúa từ nhân xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm; để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng; để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.

Lạy Chúa xin hãy dạy con tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình.

 
Khai mạc mùa chay thánh
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
11:02 11/02/2015
Bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng

KHAI MẠC MÙA CHAY THÁNH

(Mt 6, 1-6; 16-18)

Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa : Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc : Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).

Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta nghe văng vẳng bên tai lời Chúa mời gọi: "Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van" (Joel 2,12).

Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất : chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai : Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương. Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân. Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh.

Ăn chay

Cầu nguyện

Và bố thí

Là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay, vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.

Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là : nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.

Trước hết phải khiêm nhường

Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là : " Tự nhịn bất kỳ thức ăn nào". Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, "hạ mình" trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối như tác giả Thánh vịnh nói : " Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện” ( Tv 34, 13).

Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa : " Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Ðức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa " (x. Tl 20, 26) ; " Vua Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất ; Vua trả lời: "Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: "Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống! " (2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha : " Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van". (Dn 9, 3). Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi : " Chúng nói: "Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?"... Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Ðức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? " (x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.

Đừng phô trương

Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo : "Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy…khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người " (Mt 6, 1-6).

Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vi khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: "Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng" (1Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn chúng ta có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.

Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì.

Thực hành bác ái

Xem ra con người ngày càng ích kỷ, đến nỗi Đức Thánh Cha gọi đó là sự “thờ ơ toàn cầu hóa”. Xóa bỏ sự thờ ơ là điều Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh trong sứ điệp Mùa Chay năm nay. Ngài viết: “Mong mỏi lớn lao của tôi là tất cả nơi nào có sự hiện diện của Giáo Hội, đặc biệt là nơi những giáo xứ và cộng đoàn, sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót giữa biển cả thờ ơ”. Ngài viết tiếp : “Dửng dưng với đồng loại và với Thiên Chúa cũng là một sự cám dỗ đối với Kitô hữu chúng ta” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).

Đức Thánh Cha dựa trên ba trích đoạn Kinh thánh và đề nghị mỗi tín hữu, mỗi giáo xứ và Giáo Hội suy niệm để canh tân.

- Giáo Hội

Giáo Hội và mỗi tín hữu cần tái khám phá “trong cùng một thân thể, không có chỗ cho sự dửng dưng, thứ thường hay chế ngự trong tim chúng ta” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).

- Các giáo xứ và các cộng đoàn

Câu hỏi nêu lên trong sách Sáng thế “Em ngươi đâu?” là một khởi điểm. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Tất cả những gì chúng ta đang nói về Giáo Hội hoàn vũ bây giờ phải được áp dụng trong đời sống cộng đoàn và giáo xứ. Mỗi người tự hỏi mình có phải là những chi thể của Chúa Kitô không? Ngài nhắn nhủ: “mỗi cộng đoàn tín hữu phải đi ra và hòa mình vào cuộc sống của xã hội, đặc biệt nơi những người nghèo và những vùng ngoại biên xa xôi. Tự bản chất Giáo Hội là truyền giáo; Giáo Hội không tự đóng mình lại nhưng đi đến mọi miền đất nước và mọi dân tộc” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).

- Mỗi tín hữu

Đức Thánh Cha nhận xét: “Là những cá nhân, chúng ta bị cám dỗ bởi sự dửng dưng. Nhìn thấy những tin tức ngập tràn những hình ảnh đau khổ nơi nhân loại, chúng ta cảm thấy bất lực trong việc giúp đỡ họ. Chúng ta có thể làm gì để tránh cảm giác bất lực này?” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).

Để sống đức ái trọn vẹn, mọi thành phần dân Chúa cần thực hành theo 3 phương thức mà Đức Thánh Cha Phanxicô đề nghị trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay. Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha kêu gọi cứu giúp các thuyền nhân
Lm. Trần Đức Anh OP
13:25 11/02/2015
VATICAN. ĐTC cầu nguyện và liên đới với các thuyền nhân vượt biên bị thiệt mạng vì trên đường vượt biên đến đảo Lampedusa cực nam Italia.

Lên tiếng vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng ngày 11-2-2015 tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói: ”Tôi lo âu theo dõi những tin tức đến từ đảo Lampedusa, nơi đã có thêm những người chết trong số những người di dân, vì lạnh, trong cuộc vượt biên qua Địa Trung Hải. Tôi muốn đoan chắc cầu nguyện cho các nạn nhân và tái khuyến khích liên đới với họ, để không ai bị theo sự cứu giúp cần thiết”.

Sau cùng, tôi mời gọi anh chị em cầu nguyện cho Công nghị Hồng Y nhóm trong những ngày tới đây. Xin Chúa Thánh Linh phù trợ công việc của Hồng Y đoàn và soi sáng cho các Hồng Y mới và công việc phục vụ của các vị dành cho Giáo Hội”.

Hôm 9-2-2015 có 29 thuyền nhân trẻ, tuổi từ 15 đến 20, bị chết lạnh ở kênh Sicilia, cách đảo Lampedusa của Italia hơn 100 hải lý. Có 75 người sống sót.

Trưa ngày 11-2-2015, bà Carlotta Sami, thuộc cao Ủy tị nạn LHQ cho biết có thêm hơn 300 thuyền nhân bị chết, họ đi trên 4 xuồng bằng cao su. Con số này dựa trên chứng từ của 9 người sống sót trong tai nạn này.
HĐGM Italia mạnh mẽ phê bình Liên hiệp Âu Châu đã chấm dứt chương trình Mare Nostrum cứu giúp các thuyền nhân tại Địa Trung Hải (SD 11-2-2015)
 
Con cái là hồng ân của Chúa - Một xã hội không có con là một xã hội không ký ức và không tương lai
Linh Tiến Khải
13:27 11/02/2015
** Con cái là hồng ân của Chúa, chứ không phải là một vấn đề sinh học truyền sinh, cũng không phải là một trong các kiểu tự thực hiện chính mình, lại càng không phải là việc chiếm hữu của cha mẹ. Con cái là một ơn…Một xã hội hà tiện thế hệ, không yêu thích có con cái vây quanh, nhất là coi con cái như một nỗi lo âu, một gánh nặng, một liều lĩnh, là một xã hội trầm cảm, không có ký ức và không có tương lai.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên với gần 20.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại công trường thánh Phêrô sáng thứ tư hôm qua. Hôm qua cũng là lễ Đức Mẹ Lộ Đức. Mở đầu buổi tiếp kiến ĐTC đã mời mọi người cùng ngài đọc một kinh Kính Mừng kính Đức Mẹ.

Trong bài giáo lý ĐTC đã nói về con cái trong gia đình. Ngài trích một câu trong sách Isaia miêu tả cảnh gia đình hạnh phúc: “Con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông. Khi dó ngươi sẽ nhìn và sẽ rạng rỡ, tim ngươi sẽ hồi hộp và nở lớn” (Is 60,4-5a). Đây là một hình ảnh tuyệt vời của niềm hạnh phúc đạt được trong cảnh gặp gỡ giữa cha mẹ và con cái, cùng tiến bước về một tương lai tự do và hòa bình, sau một thời gian thiếu thốn và chia cách. Thật thế, có một ràng buộc chặt chẽ giữa niềm hy vọng của một dân tộc và sự hài hòa giữa các thế hệ. Niềm vui của con cái khiến cho con tim của cha mẹ hồi hộp và rộng mở cho tương lai. ĐTC nói:

** Con cái là niềm vui của gia đình và của xã hội. Chúng không phải là một vấn đề sinh học truyền sinh, cũng không phải là một trong biết bao kiểu tự thực hiện chính mình, lại càng không phải là một chiếm hữu của cha mẹ. Không, con cái là một ơn, chúng là một món qùa, hiểu chưa? Con cái là một ơn. Mỗi người là duy nhất và không thể lập lại được; đồng thời nó cũng được gắn liền với nguồn gốc của mình một cách không thể nhầm lẫn được. Thật vậy, là con trai con gái theo chương trình của Thiên Chúa có nghĩa là mang theo trong mình ký ức và niềm hy vọng của một tình yêu đã thực hiện chính mình bằng cách thắp sáng lên sự sống của một con người khác, độc đáo và mới mẻ. Và đối với các cha mẹ mỗi một đứa con là chính nó, khác biệt. Xin anh chị em cho phép tôi nhớ tới một kỷ niệm gia đình. Tôi còn nhớ mẹ tôi đã nói về chúng tôi là năm anh chị em: “Tôi có năm người con”, Khi người ta hỏi bà: “Bà thích đứa nào nhất?” Bà trả lời: “Tôi có năm đứa con như năm ngón tay”. Bà chỉ các ngón tay và nói: “Nếu người ta đánh ngón này, nó làm tôi đau; nếu người ta đánh ngón kia, nó làm tôi đau. Cả năm ngón đều làm tôi đau. Tất cả chúng là con tôi, nhưng tất cả đều khác nhau như các ngón của bàn tay”. Gia đình tôi là như thế đấy! Các con khác nhau, nhưng tất cả là con.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: ta yêu một người con, bởi vì nó là con, chứ không phải vì nó đẹp, lành mạnh, tốt, không phải vì nó suy tư như tôi, hay nhập thể các ước mong của tôi. Một người con là một người con, một sư sống đã được sinh ra bởi chúng ta nhưng được chỉ định cho nó, cho thiện ích của nó, cho thiện ích của gia đình, của xã hội và của toàn nhân loại. Từ đó cũng phát xuất ra sự sâu thẳm của kinh nghiệm nhân bản là con trai và con gái, cho phép chúng ta khám phá ra chiều kích nhưng không của tình yêu, không ngừng làm cho chúng ta ngạc nhiên. Đó là vẻ đẹp được yêu trước: trước khi làm đuợc bất cứ gì để xứng đáng điều ấy, trước khi biết nói hay biết nghĩ và cả trước khi chào đời nữa!

** Biết bao nhiêu lần tôi thấy các bà mẹ ở công trường giơ bụng cho tôi coi và xin tôi chúc lành cho họ… các đứa trẻ này đã được yêu thương trước khi chúng vào đời. Đó là sự nhưng không, đó là tình yêu; chúng được yêu thương trước khi sinh ra, như tình yêu của Thiên Chúa, là Đấng yêu chúng ta trước. Chúng được yêu trước: trước khi làm đuợc bất cứ gì để xứng đáng điều ấy, trước khi biết nói hay biết nghĩ và cả trước khi chào đời nữa.
Là con cái là điều kiện nền tảng để nhận biết tình yêu của Thiên Chúa, là suối nguồn cuối cùng của phép lạ đích thật này.

Trong linh hồn của mỗi người con, cho dù có dễ bị tổn thương tới đâu, Thiên Chúa đặt để dấu ấn của tình yêu đó, là nền tảng phẩm giá cá nhân, một phẩm giá mà không có gì và không có ai sẽ có thể phá hủy được.

Ngày nay các người con xem ra khó tưởng tượng ra tương lai. Trong các bài giáo lý trước đây tôi đã nhấn mạnh rằng các người cha có lẽ đã thụt lùi một bước và con cái đã trở nên chắc chắn trong việc bước tới. Chúng ta có thể học tương quan tốt giữa các thế hệ từ Cha trên Trời, là Đấng để cho từng người trong chúng ta tự do, nhưng không bao giờ để chúng ta một mình. Và nếu chúng ta sai lầm, thì Người tiếp tục theo chúng ta với lòng kiên nhẫn mà không giảm thiểu tình yêu đối với chúng ta. Cha thiên quốc không lui bước; Ngài muốn rằng con cái Ngài can đảm và tiến bước.

Về phía mình con cái không được sợ dấn thân xây dựng một thế giới mới: chúng thật đúng, khi ước ao nó tốt lành hơn là thế giới chúng đã nhận lãnh. Nhưng điều này đươc làm mà không xấc láo, không yêu sách. Cần phải biết thừa nhận giá trị của con cái, và phải luôn luôn tôn kính cha mẹ.

Điều răn thứ tư xin con cái – và chúng ta tất cả là con cái – thờ kính cha mẹ (x, Xh 20,12). Điều răn này đến ngay sau các điều răn liên quan tới Thiên Chúa. Qủa thế, nó chứa đựng một cái gì thánh thiêng, một cái gì nằm ở gốc rễ của mọi loại tôn trọng khác giữa con người. Và trong kiểu nói kinh thánh của điều răn thứ tư người ta còn thêm: “để cho ngươi được sống lâu trong đất Thiên Chúa ban cho ngươi”. ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

** Mối dây nối kết mạnh mẽ giữa các thế hệ là bảo đảm cho tương lai, và bảo đảm của một lịch sử nhân bản thực sự. Một xã hội con cái không thờ kính cha mẹ là một xã hội không danh dự, bị chỉ định tràn đầy những người trẻ khô cằn và tham lam. Nhưng một xã hội hà tiện việc sinh sản, không yêu thích được vây quanh bởi con cái, nhất là coi chúng là một mối lo âu, một gánh nặng, một liều lĩnh, là một xã hội trầm cảm. Nếu một gia đình quảng đại có nhiều con cái bị coi như là một gánh nặng, thì có cái gì đó không ổn! Chúng ta hãy nghĩ tới biết bao xã hội ở Âu châu này: đó là các xã hội trầm cảm, bởi vì chúng không muốn có con, không có con, mức sinh không tới một phần trăm. Tại sao vậy? Mỗi người hãy suy nghĩ và trả lời.

Việc sinh con cái phải có tinh thần trách nhiệm, như Thông điệp Humanae vitae của Chân phước Phaolô VI dậy, nhưng có nhiều con hơn không thể tự động trở thành một lựa chọn trách nhịệm. Sự sống trở thành trẻ trung và có được các năng lực bằng cách nhân nhiều lên: nó trở thành giầu có chứ không nghèo nàn đi! Con cái học lo lắng cho gia đình, trưởng thành trong việc chia sẻ các hy sinh của nó, lớn lên trong việc đánh giá các ơn của nó. Kinh nghiệm tươi vui của tình huynh đệ linh hoạt lòng tôn trọng và việc chăm sóc cha mẹ, mà chúng ta phải biết ơn. Biết bao anh chị em hiện diện ở đây có con cái và chúng ta tất cả là con. Chúng ta hãy làm một điều, hãy giữ một phút thinh lặng. Mỗi người trong chúng ta hãy nghĩ tới con cái mình trong tim, nếu có con, hãy suy nghĩ trong thinh lặng. Và tất cả chúng ta nghĩ tới cha mẹ của chúng ta và cảm tạ Thiên Chúa vì ơn sự sống. Trong thinh lặng, ai có con cái thì nghĩ tới chúng, và chúng ta tất cả nghĩ tới cha mẹ mình. Xin Chúa chúc lành cho cha mẹ của chúng ta và chúc lành cho con cái anh chị em.

** Rồi ĐTC kết luận bài huấn dụ: Xin Chúa Giêsu là Con vĩnh cửu đã trở thành con trong thời gian, giúp chúng ta tìm ra con đường dãi toả một cách mới mẻ kinh nghiệm nhân bản là con đơn sơ và to lớn này. Trong việc nhân thế hệ nhiều lên có một mầu nhiệm phong phú sự sống của tất cả mọi nguời đến từ chính Thiên Chúa. Chúng ta phải tái khám ra nó, bằng cách thách thức thành kiến, và sống nó trong đức tin và trong sự tươi vui toàn thiện. Và tôi nói: thật là xinh đẹp biết bao, khi tôi đi ngang qua giữa anh chị em và trông thấy các người cha và người mẹ giơ con lên để được chúc lành; đây là một cử chỉ hầu như thiên linh. Xin cám ơn anh chị em vì làm như thế.

ĐTC đã chào nhiều nhóm tín hữu. Hôm qua có nhiều huynh đoàn các nơi mặc sắc phục bình dân mang theo cờ đứng thành hàng rào danh dự chào ĐTC khi ngài đi lên khán đài.

Chào các đoàn hành hương Pháp ĐTC nói ngài hiệp ý với các tín hữu hành hương Lộ Đức cầu nguyện cho các gia đình của họ, và xin cho mọi người luôn biết quảng đại tiếp nhận sự sống.

Chào các tín hữu Tây Ban Nha, Colombia Argentina và Mehicô ngài cũng xin Mẹ Lộ Đức ban ơn an ủi và sức mạnh giúp mọi người tiến về quê trời.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc cho mọi người biết lễ Đức Mẹ Lộ Đức cũng là Ngày quốc tế các bệnh nhân. ĐTC chúc các bạn trẻ sông trong thực tế nhưng cũng biết hướng mắt về trời; người đau yếu cảm nhận được lời Giáo Hội cầu nguyện cho họ, và các đôi tân hôn yêu thương sự sống, cả khi nó có mang dấu vết sự giòn mỏng và bệnh tật đi nữa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.
 
Cái nhìn sai lạc của TT Obama khi nói tới ISIS và Thập Tự Quân
Vũ Van An
21:25 11/02/2015
Buổi Điểm Tâm Cầu Nguyện Tòan Quốc (The National Prayer Breakfast) là biến cố hàng năm được tổ chức ở Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn vào thứ năm đầu tiên của tháng Hai. Vốn khởi đầu từ năm 1953, nhưng từ thập niên 1980, nó mới được tổ chức hàng năm tại khách sạn Washington Hilton, thường gồm 3,500 khách mời, trong đó, nhiều khách mời đến từ 100 quốc gia khác nhau.

Buổi Điểm Tâm đặt dưới sự chủ trì của các thành viên quốc hội Hoa Kỳ và do The Fellowship Foundation , một tổ chức lấy Chúa Kitô làm tâm điểm, đứng ra tổ chức. Trước 1970, nó được gọi là Buổi Điểm Tâm Cầu Nguyện Với Tổng Thống (the Presidential Prayer Breakfast).

Xem thế, đủ biết Buổi Điểm Tâm này chú trọng tới các TT Hoa Kỳ như thế nào. Thực vậy, mọi tổng thống Hoa Kỳ từ thời Dwight D. Eisenhower đều được mời tham dự và là một trong hai diễn giả chính. Lẽ dĩ nhiên, TT Obama được mời và ông đã đọc một bài diễn văn trong đó ông lên án tội ác của ISIS vì đã nhân danh tôn giáo làm điều ác.

Nguyên cái tiền đề trên cũng đủ nói lên khuynh hướng không muốn đánh ISIS của TT Obama, bởi nếu đánh nó thì cũng phải đánh cả mấy ông Thập Tự Quân Kitô Giáo thời Trung Cổ nữa. Mà mấy ông Thập Tự Quân Trung Cổ còn đâu để mà đánh thì đánh mấy anh ISIS này quả là bất công!

Câu chuyện không nực cười như thế, Nhưng suy cho cùng, quả đó là “thâm ý” của Ông Obama: ông không chịu chỉ nói tới ISIS mà thôi, ông phải lôi cho bằng được cái gian ác của Kitô Giáo ra để mà nói cho nó cân bằng. Nhưng, như Ben Carson nhận xét trên băng tần Fox News, mang hai cái thực tại này ra so sánh, chẳng ăn nhập vào đâu cả, một thực tại thì đang sờ sờ trước mắt, một thực tại thì đã đi vào lịch sử cả gần một nghìn năm nay. Ông ta có đang mơ ngủ không đây?

Obama nói gì

Thomas L. McDonald cho rằng đối với TT Obama, chọc giận người khác là một chuyện không khó. Sáu năm làm tổng thống, ông có biệt tài làm giới đối lập tức giận. Đôi lúc ông được biện minh, đôi lúc không.

Lúc không ấy chính là tại Buổi Điểm Tâm vừa kể. Vì sau khi lên án ISIS, ông đánh câu: “Nhân loại vốn vật lộn với những câu hỏi này suốt trong lịch sử của họ. Và để ta đừng lên lưng ngựa cao mà cho rằng việc này chỉ xẩy ra tại một số nơi nào khác, ta hãy nhớ rằng trong các thời Thập Tự Chinh và Tòa Trừng Giới (Inquisition), người ta đã phạm những việc khủng khiếp nhân danh Chúa Kitô”.

Thực ra, ông Obama không tôn trọng cả nguyên tắc cân bằng. Khi nói tới ISIS, ông không dám đụng tới Hồi Giáo hay Muhammad. Nhưng khi nói tới Thập Tự Chinh, ông không ngại chỉ đích danh Chúa Kitô.

Ký giả vừa kể nhận định rằng các sự kiện bề ngoài thì không ai chối cãi. Thời Thập Tự Chinh và Tòa Trừng Giới, một số người quả đã làm những điều kinh khủng mà không một Kitô hữu nào nên làm hay bênh đỡ. Nhưng họ cũng đã làm những điều vĩ đại nhân danh Chúa Kitô cũng chính vào thời gian đó.

Ta hãy xét một trường hợp cụ thể. Năm 1096, người Do Thái vùng Rhineland, vì sợ đám đông bài Do Thái đang cuồng nộ, đã khẩn khoản thỉnh cầu Hoàng Đế Henry IV của Thánh Đế Quốc Rôma và Godfrey, Vua vùng Bouillon, che chở. Hoàng Đế Henry ra lệnh không ai được đụng tới người Do Thái hay tài sản của họ. Tuy nhiên, một đạo quân lớn của Thập Tự Quân do Emicho, Bá Tước vùng Leiningen, chỉ huy, tràn vào Rhineland và bắt đầu chém giết người Do Thái, dù trước đó, đã nhận khoản tiền chuộc rất lớn họ bằng lòng trả để mua lấy an toàn. Các giám mục của Worms, Speyer và Mainz cố gắng chặn đứng cuộc chém giết và dấu người Do Thái trong các lâu đài và nhà thờ chính tòa của các ngài, nhưng vô hiệu. Sau khi giết ít nhất 1,000 người ở Mainz, nhét đầy túi, Emicho tiến về Đất Thánh, nhưng đạo quân của ông ta tan rã trước khi tới đích và ông ta trở về trong thất sủng.

Các truyện kể về các cuộc tàn sát ở Rhineland dĩ nhiên là ghê rợn và đáng xấu hổ. Nhưng trong đó, có cả người anh hùng lẫn quân vô lại, các động lực cũng lẫn lộn. Các Thập Tự Quân núp dưới lòng đạo đức để hành động, nhưng sự thực, họ nợ người Do Thái vùng Rhineland rất nặng và rất thèm thuồng vàng bạc của họ. Tuy nhiên, Giáo Hội lúc nào cũng vẫn nhất quán trong việc ra lệnh phải bảo vệ mạng sống Do Thái và tài sản của họ.

Lịch sử là như thế: phức tạp đến không thể rút gọn vào những công thức đơn giản. Thực vậy, bạo lực tôn giáo thực ra rất hiếm ở Tây Phương. Hầu như mọi cuộc chiến tranh và bạo lực có tổ chức đều là vì quyền lực và tiền bạc. Tôn giáo và ý thức hệ chỉ là nước sơn cung cấp biện minh mà thôi. Những kẻ có quyền có thể sử dụng chúng để thuyết phục quần chúng hành động theo một cung cách nào đó, nhưng nguyên nhân phía dưới thì gần như không bao giờ là một cuộc tranh luận thần học cả.

Thực ra Thập Tự Chinh bị khiêu khích bởi sự gây hấn của người Hồi Giáo, và ý muốn giải phóng Giêrusalem lúc ấy đã rơi vào tay Hồi Giáo. Nó là đáp ứng của một Âu Châu đang cãi cọ nhau và chia năm xẻ bẩy đối với các ý đồ đế quốc hoàn cầu của một Hồi Giáo khổng lồ và vẫn còn đang đi lên. Nói cho đúng, các đạo quân của Âu Châu đang thảm bại so sánh với sự hùng mạnh của người Thổ. Và điều chủ yếu cần nhớ là Âu Châu đã thua cuộc.

Nhưng rồi, trong các thế kỷ tiếp theo, thực tại Thập Tự Chinh đã liên tiếp bị làm ra méo mó. Trước nhất, qua bàn tay của biên niên sử và thi ca bình dân, nó trở thành chủ đề của những lý tưởng Kitô Giáo và đức hạnh nam nhi cao thượng, với những người anh hùng sáng chói và những tên vô lại đen đúa. Hình ảnh này đã bị Phong Trào Cải Cách tiêu hủy khi họ coi Thập Tự Chinh như hành động của những tên duy giáo hoàng gian dối, đầy tham lam và khát máu, muốn khuất phục dân chúng vô tội của Đông Phương phải sống dưới các ý đồ đế quốc của họ.

Rồi tới lúc đỉnh cao quyền lực Hồi Giáo đến hồi kết thúc, thế giới Hồi Giáo bước vào thời kỳ lịch sử cận đại, được xác định bằng một chủ nghĩa thực dân đắng đót. Và điều này, một lần nữa, đã tái lên khuôn các ý niệm của người ta về Thập Tự Chinh. Trung Đông được đánh dấu bằng một sự va chạm lạ lùng giữa nhiều thực tại: những quá lạm lộ liễu được đồng tiền dầu lửa kích thích, các tranh chấp nội bộ, chủ nghĩa bài Do Thái phổ biến, tranh chấp không ngừng trong nội bộ các tôn giáo, chủ nghĩa cuồng tín tôn giáo và việc xuất cảng chủ nghĩa khủng bố. Thế là vào thế kỷ trước, khi Hồi Giáo hậu Ottoman rơi vào chế độ cai trị hoặc của ngoại nhân hoặc của mấy lãnh tụ Hồi Giáo hay hỗn loạn, thì Thập Tự Chinh và người Do Thái trở thành những ông ba bị thật thuận tiện trong đầu óc người Hồi Giáo. Thập Tự Chinh bị người Hồi Giáo phóng chiếu chế độ thực dân lúc ấy của họ lên màn ảnh quá khứ dù giữa hai thực tại này, chẳng có mấy chút liên hệ. Người Do Thái thì đơn thuần vì là người Do Thái, vì vi khuẩn bài Do Thái vốn chưa bao giờ chịu rời bỏ huyết quản của nhân loại từ rất lâu.

Vấn đề là TT Obama không nắm vững thực tại: Những tên cuồng tín Hồi Giáo thiêu sống người ta. Những người da trắng kỳ thị chủng tộc cũng từng thiêu sống người ta, như thời Jim Crow (1877 đến giữa thập niên 1960). Nhưng thực tại là người Hồi Giáo tiếp tục làm thế, trong khi sẽ không bao giờ có nguy cơ nước Mỹ trở về với thời kỳ Jim Crow và Âu Châu phục hồi Thập Tự Chinh và Tòa Trừng Giới.

Cách nhìn của Obama chỉ đổ thêm dầu vào những ảo tưởng của thế giới Hồi Giáo vốn có những hình ảnh không đúng thực tại về Thập Tự Chinh. Họ cố tình tự tái đúc khuôn thành những nạn nhân vô tội từng bị bách hại gần suốt cả một ngàn năm bởi Tây Phương đế quốc mà quên rằng có lúc họ đã là những điều hiện họ đang thù ghét.

Phản ứng

Theo Juliet Eilperin, một số đảng viên Đảng Cộng Hòa rất bất bình khi nghe bài diễn văn của TT Obama. Cựu thống đốc Virginia, Jim Gilmore (Cộng Hòa), phát biểu: “các nhận định của tổng thống sáng nay tại buổi điểm tâm cầu nguyện là những nhận định xúc phạm nhất tôi chưa từng nghe một tổng thống nào trong đời tôi nói. Ông xúc phạm mọi Kitô Hữu sùng đạo tại Hoa Kỳ. Điều này thậm chí còn đi xa hơn nữa: Ông Obama không tin tưởng gì Hoa Kỳ hay các giá trị mà tất cả chúng ta đang chia sẻ”.

Nhiều nhà bình luận khác tin rằng ông Obama nên tập chú nhiều hơn vào các kẻ thù của Hoa Kỳ. Russell Moore, chủ tịch Ủy Ban Đạo Đức và Tự Do Tôn Giáo Baptsit Miền Nam, gọi nhận định của ông Obama là “mưu toan bất hạnh muốn so sánh sai lạc về luân lý”.
Ông cho hay: điều cần là “chính phủ phải đưa ra một khuôn khổ luân lý và một chiến lược rõ ràng để đánh bại ISIS”.

Động cơ

Điều đáng nói: trước khi đọc bài diễn văn trên một ngày, ông Obama có gặp gỡ các nhà lãnh đạo Hồi Giáo trong một biến cố mà chính người tham dự xác nhận đây là lần tham dự hội nghị bàn tròn đầu tiên của ông với một nhóm toàn là người Hồi Giáo kể từ ngày nhậm chức. Các nhà lãnh đạo Hồi Giáo cho rằng cộng đồng của họ bị theo dõi một cách không hợp lẽ, theo sau các vụ tấn công của khủng bố ở ngoại quốc. Dù Tòa Bạch Ốc chỉ công bố những nét đại cương của hội nghị này, nhưng những người tham dự hội nghị cho hay: nó giúp họ cơ hội bày tỏ trực tiếp với tổng thống các ưu tư của họ.

Farhana Khera, giám đốc điều hành nhóm nhân quyền Muslim Advocates, một trong 13 nhóm tham dự hội nghị, cho biết: hội nghị này giúp Obama cơ hội tập chú vào các người Hoa Kỳ Hồi Giáo cùng một cách như ông đã làm với các cử tri khác của ông như người Hoa Kỳ gốc Phi Châu và các nhóm Do Thái Giáo.

Khea cho hay: “tôi bắt đầu bằng cách nói: mối lo âu lớn nhất tôi nghe được từ các cha mẹ Hồi Giáo là nỗi sợ của họ rằng con cái họ sẽ cảm thấy xấu hổ khi phải làm người Hồi Giáo” vì bị kỳ thị. “Chúng tôi yêu cầu ông (Obama) sử dụng bài thuyết giáo về bắt nạt để có một hội nghị thượng đỉnh tại Toà Bạch Ốc về tội các kỳ thị chống các nhóm thiểu số tôn giáo, giống hội nghị thượng đỉnh về bắt nạt nhằm tái lập cuộc đối thoại về các thanh thiếu niên đồng tính luyến ái (LGBT).

Aaron Blake thì nhắc lại sự kiện này: trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của mình, ông Obama cố gắng tách biệt giữa một bên là Hồi Giáo và bên kia những tên khủng bố gây kinh hoàng nhân danh Hồi Giáo. Đơn cử trường hợp tháng Chín vừa qua, giữa lúc các đe dọa của ISIS dâng cao, thì Obama không những cho rằng các tên khủng bố không những làm ô danh tôn giáo của họ, mà chúng còn không phải là người Hồi Giáo nữa.

Ông nói: “không tôn giáo nào dung thứ việc sát hại người vô tội, và đại đa số nạn nhân (của ISIS) là người Hồi Giáo”.

Suy nghĩ như thế, ông Obama dường như không biết gì tới tâm thức người dân Hoa Kỳ. Thực vậy, cuộc thăm dò của Pew hồi tháng Chín vừa qua cho thấy lần đầu tiên, 50 phần trăm người dân Hoa Kỳ coi Hồi Giáo có khuynh hướng cổ vũ bạo lực hơn các tôn giáo khác.

Obama giết nhiều người hơn Toà Trừng Giới Tây Ban Nha

Patrick Poole thì chỉ trích ông Obama ở một khía cạnh khác. Ký giả này cho rằng ông Obama bảo người Kitô hữu đừng cưỡi cao trên lưng ngựa để chỉ nhìn thấy lỗi của người ta (Hồi Giáo) mà quên lỗi của mình (Kitô Giáo). Thực ra lời khuyên này đáng lý ra ông nên ngỏ với chính ông trước nhất, vì theo số lượng thống kê mới nhất, chiến dịch sử dụng máy bay không người lái (drones) của ông trong 6 năm qua đã giết nhiều người hơn Tòa Truừng Giới Tây Ban Nha trong 350 lịch sử của nó!

Thực vậy, ít nhất 2,464 người đã bị drones sát hại trong 6 năm cầm quyền của ông Obama ở bên ngoài vùng được Mỹ chính thức tuyên chiến là Iraq và Afghanistan. Trong số nạn nhân này, có 314 người là thường dân. Tài liệu thống kê này cũng cho hay, dưới thời Obama, những cuộc tấn công kiểu này đã gia tăng gấp 9 lần so với người tiền nhiệm là G.W. Bush. Chỉ 3 ngày sau khi tuyên thệ lần đầu, Obama đã ra lệnh cho drones tấn công rồi.

Còn Tòa Trừng Giới? Một thập niên trước đây, Vatican có công bố kết quả cuộc nghiên cứu trong 6 năm về Tòa này. Phúc trình 800 trang, được BBC tường thuật, cho hay tại Tây Ban Nha, trong suốt 350 năm lịch sử, Tòa Trừng Giới chỉ xử tử 1.8% trong số 125,000 vụ nghi ngờ là lạc giáo, nghĩa là 2,250 người tất cả. Dù vậy, Đức Gioan Phaolô II đã chính thức lên tiếng xin lỗi. Có bao giờ Obama xin lỗi hơn 3 trăm nạn nhân thường dân của máy bay không người lái?
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hội ngộ tất niên và chúc tết Ất Mùi tại Tòa Giám Mục GP Vinh
Jos. Trọng Tấn
14:08 11/02/2015
Giáo phận Vinh: Linh mục đoàn cùng đại diện Hội Đồng Mục Vụ các giáo xứ hội ngộ tất niên Giáp Ngọ và chúc tết ́Ất Mùi tại Tòa Giám Mục

Dịp Tết đến Xuân về là thời khắc quý báu để mọi người trong gia đình đoàn tụ bên nhau. Và điều đó cũng không ngoại lệ đối với đại gia đình giáo phận Vinh. Sáng 10/2/2015 (tức ngày 22 tháng Chạp năm Giáp Ngọ), quý cha đang phục vụ tại giáo phận Vinh cùng đại diện HĐMV các giáo xứ trên toàn giáo phận đã quy tụ về bên quý bề trên giáo phận mừng tất niên Giáp Ngọ và chúc tết ́t Mùi tại Tòa Giám Mục Xã Đoài.

Xem Hình

Đúng 9h00, chương trình gặp gỡ đã được diễn ra tại nhà thờ chính tòa Xã Đoài và được Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, chủ chăn giáo phận khai mạc và chủ trì, cùng hiện diện bên cạnh ngài còn có Đức cha phụ tá Phêrô Nguyễn Văn Viên và Đức Cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên. Mở đầu cuộc gặp gỡ, Đức cha Phaolô đã gửi lời chào thăm sức khỏe và bày tỏ sự biết ơn đến tất cả các linh mục đang phục vụ tại giáo phận Vinh cùng quý HĐMV vì những sự cộng tác của quý cha và quý HĐMV trong một năm vừa qua. Đức Cha Phaolô cũng dành những lời chúc mừng năm mới và phúc lành của Chúa xuân đến tất cả mọi người tham dự.

Sau đó, Đức Cha Phaolô đã sơ lược lại bức tranh toàn cảnh những hoạt động trong năm qua của toàn giáo phận qua 10 sự kiện tiêu biểu. Ngài đã chỉ ra những gì đã đạt được thì cần tiếp tục giữ vững và những gì chưa đạt được thì cần phải khắc phục, đồng thời gợi lên đôi nét những chương trình hoạt động cho năm mới.

Kết thúc chương trình gặp gỡ, cha Phêrô Nguyễn Văn Vinh, phó chủ tịch Hội đồng Linh mục, đại diện linh mục đoàn và quý HĐMV các giáo xứ trong toàn giáo phận chúc tết quý Đức cha và chúc thọ Đức cha Phaolô nhân dịp ngài bước vào tuổi “thất thập cổ lai hy”. Đáp lại tấm chân tình của đoàn con thảo, Đức cha phụ tá Phêrô thay lời quý Đức Cha đã bày tỏ sự biết ơn đối với quý cha cùng mọi người. Ngài cũng cầu chúc mọi người luôn được bình an và phúc lành của Chúa xuân trong năm mới.

Sau những giây phút chia sẻ cởi mở và hiệp nhất, lúc 10h00 Thánh lễ Tất niên Tạ ơn Chúa vì muôn ơn lành Chúa thương ban cho giáo phận trong năm qua được diễn ra tại nhà thờ chính tòa Xã Đoài. Đức cha Phaolô đã chủ tế thánh lễ, cùng đồng tết với ngài có Đức cha phụ tá Phêrô, Đức Cha Phaolô Maria và quý cha hiện diện.

Giảng trong thánh lễ, Đức cha mời gọi mọi người trở về với nơi mình đang phục vụ, nơi quê hương đất nước của chúng ta để loan báo Tin Mừng và tình yêu của Chúa đến cho đồng bào anh em chúng ta. Đối với các bậc tiền nhân, ngài bày tỏ lòng tri ân: “Chúng ta cảm ơn những thế hệ cha ông đi trước đã can đảm gìn giữ lại cho chúng ta kho tàng Đức tin, các cơ sở tôn giáo để giáo phận chúng ta được phát triển như ngày hôm nay”. Trong bối cảnh năm Tân Phúc âm hóa đời sống giáo xứ, ngài nhắn nhủ cách đặc biệt đến các cha quản xứ, phó xứ cùng các vị HĐMV phải làm cho Tin Mừng được thấm nhập vào đời sống thường ngày của mỗi người con trong giáo xứ, để rồi từ đó, mỗi người can đảm bước ra khỏi ranh giới của giáo xứ để rao giảng Tin Mừng.

Sau thánh lễ, tất cả mọi người đã cùng quây quần bên nhau trong bữa tiệc tất niên đầy tình cha con và huynh đệ. Chắc chắn, sau những giây phút ấm nồng tình cảm trong những ngày cuối năm này sẽ tiếp thêm hơi ấm và nghị lực hầu quý cha cùng quý HĐMV đồng sức, đồng lòng, cùng nhau xây dựng gia đình giáo phận ngày càng thịnh vượng, và công cuộc Tân Phúc m hoá ngày càng thiết thực, hiệu quả hơn.

Jos. Trong Tấn
 
Lễ mừng kính Đức Mẹ Lộ Đức và xức dầu Thánh tại TTCGVN. Thánh Vinh Sơn Liêm.
Trần Văn Minh
04:36 11/02/2015
Melbourne, vào lúc 10 giờ sáng Thứ Tư 11/2/2015. Tại Nguyện đường Trung tâm Công giáo Việt Nam Thánh Vinh Sơn Liêm, Linh mục Giuse Trần Ngọc Tân quản nhiệm cộng đoàn đã dâng lễ mừng kính Đức Mẹ Lộ Đức và xức dầu Thánh cho cộng đoàn trong Thánh Lễ.
Mời coi hình

Trong bài chia sẻ lời Chúa theo Phúc Âm Thánh Gioan 2, 1-11 nói về Chúa Giêsu đã làm phép lạ biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana. Linh mục chủ sự đã nói về Đức Mẹ Lộ Đức, khi Mẹ hiện ra, Mẹ đã nói Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên tội. Mẹ được lòng Chúa và Mẹ có thể xin mọi ơn cứu chữa cho mọi người. Qua tiệc cưới Cana, chúng ta đã thấy được, dù là giờ của Chúa chưa đến nhưng qua lời của Mẹ thì Chúa đã ra tay giúp đỡ cho gia đình chủ tiệc cưới ở Cana không phải bối rối vì thiếu rượu.

Nói tới Đức Mẹ Lộ Đức là nói tới sự chữa lành cho bệnh nhân của Đức Mẹ, mà hôm nay Giáo hội cũng chọn ngày này là ngày xức dầu cho bệnh nhân. Qua lễ Kính Đức Mẹ, Linh mục quản nhiệm cộng đoàn đã xức dầu cho mọi người trong cộng đoàn, để xin Chúa chữa lành cho họ cả về thể xác và chữa lành trong tâm hồn mọi người.

Sau phần chia sẻ Lời Chúa, Linh mục chủ tế đã đọc lời nguyện, và đã đến xức dầu Thánh cho các cụ gìa yếu ngay tại ghế ngồi, sau đó xức dầu cho cộng đoàn tham dự Thánh lễ. Khi đến xức dầu cho giáo dân, Linh mục quản nhiệm xức dầu lên đầu và đọc:
Nhờ việc xức dầu thánh này và nhờ lòng từ bi nhân hậu của Chúa, xin Chúa dùng ơn Chúa Thánh thần mà giúp đỡ ông (bà, anh, chị, em)
Đáp: Amen
Sau đó linh mục xức dầu nơi hai bàn tay và đọc:
Để Người giải thoát ông (bà, anh, chị, em) khỏi mọi tội lỗi, cứu chữa lành vết thương làm cho ông (bà, anh, chị, em) được thuyên giảm.
Đáp: Amen
Sau nghi thức xức dầu Thánh, Thánh lễ mừng kính Đức Mẹ Lộ Đức tiếp tục và kết thúc trong một ngày trời Melbourne đang ở nhiệt độ 36 độ C. Mọi người ra về trong an bình vì vừa được hưởng ơn xức dầu Thánh.
 
Lễ khởi công xây dựng nguyện đường và nhà tĩnh tâm đan viện Cát Minh Phú Cường
Tôma Đỗ Lộc Sơn
09:57 11/02/2015
THÁNH LỄ ĐẶT VIÊN ĐÁ ĐẦU TIÊN XÂY DỰNG NGUYỆN ĐƯỜNG VÀ NHÀ TĨNH TÂM ĐAN VIỆN CÁT MINH PHÚ CƯỜNG

9 giờ sáng nay 11/2/2015 trong khuôn viên Đan Viện Cát minh Phú Cường (Tổ 3, Kp. Tân Bình, P. Tân hiệp, Thị xã Tân Uyên, Tỉnh Bình Dương, ngay sau nhà thờ giáo xứ Bến sắn) đã diễn ra Thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Nhà Nguyện và Nhà Tĩnh Tâm do Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ nguyên Giám mục Phú Cường chủ sự. Đồng tế với Đức Cha Phêrô có Đức Cha Giuse Nguyễn Tấn Tước Gm. Giáo phận, cha chánh xứ Bến Sắn Đaminh Nguyễn Đức Trung, cùng khoảng 30 linh mục trong và ngoài giáo phận. Tham dự Thánh lễ có quý thầy, quý Sơ các dòng cùng khoảng 600 bà con các giáo xứ.

Xem Hình

Trong bài giảng, Đức Cha Phêrô chia sẻ (ý chính): Đền thờ, nhà thờ, nhà nguyện là nơi để chúng ta cầu nguyện với Chúa. Khi ta dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng ngợi khen, lời cầu xin, ta sẽ được Thiên Chúa đáp trả bằng những ân ban tuôn xuống như mưa. Lời cầu đi lên, ân ban đi xuống.

Nhà của Ta là nhà cầu nguyện, các ngươi làm thành hang trộm cướp" (Mt 21,12-13). Một khi đã là nhà cầu nguyện, chúng ta phải năng dọn dẹp gọn gàng sạch sẽ, kẻo nó biến thành hang trôm cướp.

Mỗi người chúng ta là một đền thờ Chúa ngự, “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy. Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là đền thờ ấy”. Khi chúng ta làm ô uế thân xác mình là chúng ta xúc phạm đến Đền Thờ Thiên Chúa. Tương tự, thân xác người khác cũng là Đền Thờ của Thiên Chúa, và xúc phạm đến thân xác họ là xúc phạm đến Đền Thờ Thiên Chúa.

Hôm nay cũng là ngày mừng kính Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Mẹ là Đấng Vô Nhiễm và trong kinh cầu Đức Bà: Đức Bà như Đền Vàng vậy. Chúng ta hãy xin Mẹ cho chúng ta được noi gương Mẹ, để chúng ta luôn vui mừng bên Mẹ.

Sau khi làm phép viên đá đầu tiên, Đức Cha Phêrô đã rảy Nước Thánh lên khu đất xây dựng nhà nguyện trong lời ca nguyện: Ôi ân huệ thánh thiêng tuyệt vời, tình yêu Chúa chẳng khi cạn vơi. Cảm mến tình Cha ôi thiết tha mặn mà. Ngọt ngào dư hương, nồng nàn yêu thương, Chúa luôn xót thương trên đoàn con. Cát minh lòai hoa một loại hoa ẩn nương kẽ đá trên đồi cao.

Trước khi nhận Phép lành cuối lễ, mẹ bề trên có đôi lời cảm ơn quý Đức Cha, quý cha, cùng toàn thể bà con hiện diện, xin Chúa chúc lành.

Huấn từ Đức Cha Phêrô: Đan Viện Cát Minh là dòng kín, chuyên chăm cầu nguyện, hy sinh. Chính vì thế nhà dòng cần nhiều sự đóng góp của quý ân nhân xa gần. Xin Thiên Chúa chúc phúc cho việc làm tốt đẹp này.

Thánh lễ kết thúc lúc 11 giờ, có nhiều người đứng chụp hình lưu niệm với quý dì và chung vui với quý dì trong bữa cơm trưa thân mật.

Tôma Đỗ Lộc Sơn
 
Lễ Tro: Ăn chay kiêng thịt 30 Tết Nguyên Đán Ất Mùi 2015 ra sao?
Lm Fx Nguyễn hùng Oánh
12:07 11/02/2015
Lễ Tro: Ăn chay kiêng thịt 30 Tết Nguyên Đán Ất Mùi 2015 ra sao?

Ủy Ban Phụng tự/ HĐGMVN đã ra thông báo:

1/ Về Lễ Tro: Hội Đồng Giám Mục đã quyết định cử hành Lễ Tro vào 30 Tết Ất Mùi (tức là không dời Lễ Tro).
2/ Chuyển ăn chay kiêng thịt dời vào ngày thứ sáu Mồng Chín Tết (ngày thứ sáu 27-2-2015).

Một thắc mắc của Dòng tu, của giáo dân sống như nhà tu: con ăn chay kiêng thịt ngày thứ tư Lễ Tro rồi có phải buộc ăn chay ngày thứ sáu Mồng Chín Tết không?

Phải ăn chay kiêng thịt đúng luật dạy tức là thứ tư Lễ Tro, nhưng Hội Đồng Giám mục đã cho dời vào Mồng Chín Tết, đó là một một đặc ân. Ta có thể chối từ đặc ân nầy (x. Gl 80,2) và giữ chay kiêng thịt vào Ngày thứ tư Lễ Tro (tức là không phải ăn chay kiêng thịt thứ sáu Mồng Chín Tết nữa). Ăn chay kiêng thịt ngày thứ tư Lễ Tro, xin nhớ ngày tính giờ từ không giờ (nửa đêm) đến hết 24 giờ.

Nếu Lễ Giao thừa về, ăn uống tới một, hai giờ sáng thì sao ? Thì ăn chay kiêng thịt ngày thứ sáu Mồng Chín Tết. Xin nhớ cho kỹ: 14 tuổi trọn mới buộc kiêng thịt ngày thứ sáu quanh năm cho đến chết (thứ tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần thánh phải kiêng thịt còn các thứ sáu khác thay vì kiêng thịt tức là được ăn thịt nhưng phải làm việc đạo đức, như lần một tràng hạt …hoặc việc từ thiện để bù vào) và 18 tuổi trọn đến hết 59 tuổi mới buộc phải ăn chay thứ Tư Lễ Tro, thứ sáu Tuần Thánh.
 
Lễ Đức Mẹ Lộ Đức: Ngày phục vụ Bệnh nhân
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
12:11 11/02/2015
Mở đầu Sứ điệp Ngày Thế Giới các Bệnh nhân 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ngỏ lời với các bệnh nhân và với những người phục vụ: “Tất cả anh chị em đang mang gánh nặng bệnh tật và qua nhiều cách thức khác nhau, anh chị em đang kết hiệp với Chúa Kitô chịu đau khổ; cũng như với anh chị em là những người chuyên nghiệp và những người thiện nguyện trong lãnh vực y tế”.

Chủ đề Sứ điệp trích dẫn từ câu nói của sách Ông Gióp: “Tôi đã là đôi mắt cho người mù, đôi chân cho người què” (G 29,15). Ông Gióp phục vụ những người túng thiếu. Ông Gióp có uy tín và được các kỳ lão trong thành kính nể. Uy tín được biểu lộ trong việc phục vụ người nghèo và săn sóc kẻ mồ côi, người góa bụa.(Số 2).

Đức Thánh Cha đề cao những chứng nhân phục vụ bệnh nhân. Ngài gọi “họ là 'đôi mắt cho người mù' và là 'đôi chân của người què!', họ là những người gần gũi các bệnh nhân đang cần được giúp đỡ liên tục, giúp đỡ để tắm rửa, mặc quần áo, ăn uống. Việc phục vụ bệnh nhân trong thời gian dài nên vất vả và nặng nề. Đó là một đại lộ để thánh hóa!”. Ngài nói rằng: “Thời gian trải qua cạnh người bệnh là một thời gian thánh. Là chúc tụng Thiên Chúa, Đấng làm cho chúng ta được đồng hình dạng với Con của Ngài, Đấng đã không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình để cứu chuộc nhiều người” (Số 3).

Ngày Chúa Nhật 08.02.2015, như thường lệ, Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin vào lúc 12giờ trưa trước sự hiện diện của vài chục ngàn khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô. Trong bài giảng, Ngài nhắn nhủ mọi người hãy quan tâm chăm sóc những ai yếu đau bệnh tật vì họ chính là thân mình của Đức Kitô. Quan tâm đến một người yếu đau, đón nhận người đó, phục vụ người đó là phục vụ Đức Kitô: người yếu đau là thịt của Đức Kitô (RV).

Những ai phục vụ bệnh nhân, hãy noi gương Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ đã luôn gần gũi, thăm viếng và chữa lành các bệnh nhân.

Nhắc đến sự quan tâm của Đức Giêsu đối với người bệnh tật, Đức Thánh Cha nói: “Ngự đến trần gian để loan báo và hiện thực hóa sự cứu độ cho tất cả mọi người, Đức Giêsu đã bày tỏ một sự ưu ái đặc biệt đối với những ai đang bị tổn thương nơi thể xác cũng như tinh thần: những người nghèo khổ, các tội nhân, những người bị quỷ ám, những ai yếu đau, và cả những ai bị gạt ra ngoài lề xã hội. Như thế, Ngài tự mạc khải chính mình như lương y của tất cả các linh hồn và mọi thể xác, như người Samaritanô nhân hậu vậy”. Mời gọi phản tỉnh về ý nghĩa của việc chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu, Đức Thánh Cha nói: “Thực tại của việc chữa lành các bệnh tật của Đức Giêsu mời gọi chúng ta phản tỉnh về ý nghĩa và giá trị của bệnh tật. Đây cũng là điều mà Ngày Quốc tế bệnh nhật-vốn sẽ được cử hành vào ngày thứ tư tuần tới, 11.02, dịp lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria Lộ Đức-cũng tái kêu gọi chúng ta” (RV).

Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn tỏ ra đặc biệt quan tâm tới những người yếu đau. Nhiều câu chuyện chữa lành tuyệt vời được kể lại: “Thiên hạ đem đến cho người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt và Người đã chữa họ.” (Mt 4, 24); “Chúa Giêsu trên núi đi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. Và kìa, một người phong hũi tiến lại…Người giơ tay đụng vào anh và bảo, tôi muốn, anh sạch đi. Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi.” (Mt 8, 1-3); “Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa các bệnh hoạn tật nguyền.” (Mt 9, 35)…

Quan niệm của Cựu Ước cho rằng bệnh gắn liền với tội. Bệnh tật như là một sự trừng phạt bởi tội lỗi gây ra. Vì thế, người ta xa lánh bệnh nhân, nhất là bệnh phong cùi. Đó là một bệnh nan y bị mọi người kinh tởm, không chỉ vì sự dơ bẩn “ô uế theo luật Do thái”, hay lây nhiễm, mà còn bị xa lánh như xa lánh kẻ tội lỗi.

Trong Đạo Do Thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng. Họ bị xua đuổi vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu phải kêu lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà tránh xa. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị coi như người mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong.

Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà coi như đã chết.

Tin Mừng Chúa Nhật VI kể câu chuyện: Chúa Giêsu đã vượt qua những biên giới cấm kỵ khi đến gần người bệnh phong. Người còn đưa tay chạm vào thân mình lỡ loét ấy. Lòng thương yêu đã khiến Chúa Giêsu làm tất cả. Vì thương người bệnh, Chúa Giêsu đã bất chấp những điều được coi là cấm kỵ của Đạo Do Thái.

Khi chữa khỏi bệnh phong, Chúa Giêsu giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay, anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ.

Khi chữa khỏi bệnh phong, đồng thời Chúa Giêsu cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn bao năm tháng qua. Khi chạm đến thân thể anh thì Người cũng chạm đến tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh, nay qua Chúa Giêsu anh cảm thấy mọi người gần gũi thân thương. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt, nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi, nay anh cảm thấy đựoc yêu thương vỗ về.

Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội, Chúa Giêsu bảo anh đi trình diện với Thầy Cả theo luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra bên lề xã hội, nay anh được đón nhận anh trở lại với xã hội loài người. Nhân phẩm được phục hồi, danh dự được tôn trọng. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người như mọi người.

Chúa Giêsu đã chữa lành thể xác và tâm hồn của người bệnh phong. Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ của anh đã chạm đến lòng thương xót của Chúa. Phép lạ phát sinh từ lòng tin của bệnh nhân và từ ý muốn đầy quyền năng của Chúa Giêsu.

Có một môn đệ theo gương Thầy Chí Thánh đã đến ở giữa người cùi, cùng sống và đã chết giữa họ. Đó là Cha Đamiên “Tông Đồ người hủi”. Ngài đã được Giáo Hội phong Thánh. Trong cuốn sách “Những người lữ hành trên đường hy vọng”, Đức Hồng Y FX.Nguyễn Văn Thuận đã kể chuyện cuộc đời Cha Đamien.

Molokai, quần đảo xa xăm ấy nằm cô đơn giữa lòng Thái Bình Dương mênh mông. Trên đảo toàn là người hủi: cụt tay, đứt chân, mắt đui, môi lở, răng rụng... Một hôm, Đức Giám Mục đặc trách quần đảo này gióng tiếng kêu gọi các Linh Mục ở Âu Châu tình nguyện hy sinh sang đó phục vụ. Một Linh Mục trẻ, đẹp trai, thông minh, khoẻ mạnh hăng hái đáp lời. Đó là Cha Đamien, người về sau được thêm biệt danh: “Tông Đồ người hủi”.

Chiều hôm đó, trong Nhà Thờ ở đảo Molokai đông nghẹt những người hủi da ngăm đen với mùi hôi tanh nồng nặc, Đức Giám Mục đứng trên Bàn Thờ quay xuống giới thiệu với Giáo Dân: “Các con thân mến, các con hằng mong ước có một Linh Mục đến cùng các con, thì đây, cha Đamien, một Linh Mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết. Các con có sung sướng không ?”

Cả Nhà Thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đamien đứng cạnh Đức Giám Mục chẳng hiểu tý nào. Rồi họ từ từ tiến lên Cung Thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Damien càng nhìn thấy họ đến gần mình thì càng sởn tóc gáy. Họ trông như những thây ma còn sống, như những quái thai mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây ? Họ tiến đến bên cha sờ vào mặt, vào tay, vào áo cha...

Cha hỏi Đức Giám Mục: “Thưa Đức Cha, họ làm gì thế ? Họ nói gì thế ?” Đức Cha trả lời: “Họ nói, họ không thể tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng bà con huyết thống gì với họ, còn trẻ, đẹp trai, không bệnh tật như cha, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh đất khốn cùng này. Họ không tin mắt mình nên mới đến sờ mó vào người cha, xem thử cha có thực sự bị phung hủi như họ không. Rồi họ nói với nhau: “Không, Cha đẹp quá !”.

Dần dần, cha Đamien hoà đồng được với họ. Ngài không còn cảm thấy tởm gớm họ như ngày đầu. Nói đúng hơn, ngài quá yêu Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong họ nên chẳng còn thấy e sợ, gớm ghiếc chi. Một ngày kia, đến lượt cha cũng bị mắc bệnh phong hủi. Thân hình cha lở loét, nhức nhối. Mặt mày cha sù sì, đen đủi, u nần trông rất dễ sợ.

Một số báo ở Bỉ đăng hình cha Đamien để mô tả sự hy sinh vĩ đại của cha. Bà cụ thân sinh của cha mắt mờ không đọc được, nhìn vào bức hình cũng chẳng nhận ra nổi người con yêu. Bà hỏi các con trong gia đình: “Hình ai đây mà trông mà trông ghê sợ vậy ?” Các con đều trả lời mẹ: “Thưa mẹ, đó là một trong những người hủi trên đảo Molokai của anh Đamien đấy”. Qua mặt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ... Cha Đamien đã sống với người hủi cho đến chết. Tình yêu Chúa đã giúp cha hy sinh suốt đời vì họ.

Ở Việt Nam có hai trại cùi lớn: trại Di Linh trên đường lên Đà Lạt và trại Quy Hoà ở ngoại ô thị xã Quy Nhơn. Đức Cha Jean Cassaigne đã gắn bó với anh em dân tộc K’Hor ở Di Linh bị phong cùi một thời gian dài, rồi sau 15 năm làm Tổng Giám Mục Sài gòn, đã lại xin tình nguyện quay trở về sống giữa những người bệnh cùi ở Di Linh. Ngài sống với họ thêm 18 năm rồi lây bệnh và qua đời năm 1973. Trái tim của người Việt Nam và cả thế giới đều rung cảm, ai cũng cảm phục tấm gương chứng nhân của ngài.

Cha Paul Mahu, một Linh Mục người Pháp đã từ giã quê hương với cuộc sống tiện nghi đến sống giữa những người cùi ở Quy Hoà cho đến chết. Xác ngài được chôn cất ngay giữa làng cùi bên cạnh những người ngài thương yêu nhất.

Ngày nay các Giáo Xứ khắp nơi gần xa thường tổ chức hành hương đến Di Linh, Quy Hoà để viếng mộ Đức Cha Cassaigne và Cha Mahu, thăm viếng và tặng quà cho các bệnh nhân.

Các Nữ Tu của các Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn và Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ đã đến sống phục vụ giữa những người bị xã hội xa lánh loại trừ. Chính tình yêu Chúa Kitô đã thúc đẩy các môn đệ đến sống với họ, yêu mến họ, chăm sóc phục vụ họ.

Chúa Giêsu đã cúi xuống, sờ đến người cùi và họ liền được lành sạch. Các môn đệ của Chúa cũng sờ vào người cùi, sống với người cùi đem lại cho họ tình thương, bình an và niềm vui.

Tinh thần dấn thân phục những người cùng khổ mang một ý nghĩa Tin Mừng sâu xa như lời Đức Thánh Cha Bênêđictô trong Sứ điệp ngày Thế Giới các bệnh nhân 2012: “Sự quan tâm và chăm sóc mục vụ cho các bệnh nhân, một đàng là dấu chỉ sự dịu hiền của Thiên Chúa đối với người đang đau khổ, và đàng khác mang lại lợi điểm tinh thần cho cả các Linh mục và toàn thể cộng đoàn Kitô, với ý thức rằng những gì được làm cho người bé nhỏ nhất, chính là làm cho Chúa Giêsu” (số 3).

Để phục vụ bệnh nhân theo đức ái Kitô giáo, Đức Thánh Cha Phanxicô căn dặn: “ưu tiên tuyệt đối cần 'ra khỏi mình để đến với người anh em', như một trong hai giới răn chính làm nền tảng cho mọi qui luật luân lý và như dấu chỉ rõ ràng nhất để phân định trên hành trình tăng trưởng tinh thần đáp lại sự hiến thân tuyệt đối nhưng không của Thiên Chúa” (Số 4).

“Xin Đức Maria, sức mạnh của những người đau ốm, chuyển cầu để mỗi người khi đau bệnh có thể cảm thấy sự nâng đỡ từ sự chăm sóc của những người ở bên cạnh, cũng như sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa và sự an ủi vì tình mẫu tử âu yếm của Mẹ” (RV).

“Lạy Mẹ Maria là Tòa Đấng Khôn Ngoan, trong tư cách là Mẹ, xin cầu bầu cho tất cả các bệnh nhân và những người săn sóc họ. Amen”. (Số 6).
 
Ngày Quốc tế Bệnh nhân và Lễ Quan Thầy tại giáo xứ Đức Mẹ Lộ Đức, Houston, TX.
Joseph Ký Nguyễn
12:21 11/02/2015
Ngày Quốc tế Bệnh nhân và Lễ Quan Thầy tại giáo xứ Đức Mẹ Lộ Đức, Houston, TX.

Hình ảnh

Hằng năm, giáo xứ Đức Mẹ Lộ Đức mừng Lễ Quan Thầy cùng với Lễ Quốc Tế Bệnh Nhân. Đặc biệt năm nay, Giáo xứ hân hạnh được ĐGM George Sheltz, GM Phụ tá TGP Galveston-Houston, chủ tế thánh lễ Đồng T́ế.
 
Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh mừng Tất Niên
Trầm Thiên Thu
13:40 11/02/2015
XUÂN LỘC - Theo truyền thống tốt đẹp của dân tộc, cuối năm là dịp "tính sổ" để rút ra những kinh nghiệm quý giá: Cố gắng phát triển sở trường và chấn chỉnh những gì thiếu sót. Tất niên cũng là dịp gặp gỡ nhau: Gặp nhau
để chia sẻ, yêu thương, nâng đỡ và tha thứ cho nhau theo lệnh truyền của Thầy Chí Thánh Giêsu.

Trong tinh thần đó, sáng ngày 10-2-2015 (22 Tết), nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh đã họp mặt tất niên tại Gx Lạc Sơn, Giáo hạt Gia Kiệm, GP Xuân Lộc (Ấp Lạc Sơn, xã Quang Trung, h. Thống Nhất, Đồng Nai). Chính xứ là Lm Giuse Đỗ Văn Tự – Ns Vương Diệu, nhạc trưởng nhạc đoàn Lê Bảo Tinh.

Một số thành viên không về họp mặt vì quá xa xôi (hải ngoại hoặc các tỉnh xa).

Dự tính năm nay, nhạc đoàn sẽ ra tập Cung Thánh 13 với chủ đề "Đức Mẹ và Các Thánh". Đặc biệt năm nay là dịp kỷ niệm 70 năm thành lập nhạc đoàn – sáng lập viên là NS Hùng Lân, dự tính sẽ làm một chương trình Live Show giới thiệu tác giả – tác phẩm.

Nhà soạn nhạc Beethoven nói: "Lạy Chúa, con chỉ viết được nhạc, ngoài ra con chẳng làm được gì khác". Tất cả là do Chúa ban, xin dùng chút tài mọn để tôn vinh Chúa qua giai điệu, lời ca. Deo gracias!
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Thần học và huyền nhiệm học Hồi Giáo từ năm 750 tới năm 1400 (IV)
Vũ Van An
03:41 11/02/2015
Ibn Rushd (Averroes)

Nhà tư tưởng xuất hiện để bênh vực triết học chống lại các tấn kích của Ghazali là triết gia vĩ đại Hồi Giáo tại Tây Ban Nha, ibn Rushd (1126-1198), được Tây Phương biết dưới tên Averroes. Ông là sản phẩm của nền văn hóa rực rỡ của Hồi Giáo Tây Ban Nha vốn cao hơn Tây Phương Kitô Giáo trong các định chế trí thức, trong việc hiểu biết triết học cổ thời, trong thiên văn học, y khoa và toán học. Giống người đồng thời với ông là nhà tư tưởng vĩ đại Do Thái Giáo ở Tây Ban Nha, Moses Maimonides, ibn Rushd là một thiên tài phổ quát, tổng hợp được cả cuộc sống nghiên cứu lẫn việc tích cực tham gia sinh hoạt công cộng. Ông nghiên cứu thần học, luật học, y khoa, toán học và triết học; và ông cũng giữ các chức vụ pháp lý ở cả Seville lẫn Corbora, và trở thành y sĩ cho nhà vua Hồi năm 1182. Cuối cùng ông bị thất sủng với vua Hồi al-Mansun và bị đuổi khỏi triều đình. Sau đó, ông bỏ Tây Ban Nha, tới Marốc và chết tại đó năm 1198.

Ibn Rushd tin rằng Aristốt là đỉnh cao cuối cùng của trí khôn con người, và ông dành phần lớn cuộc đời học giả của ông để chú giải các công trình của Aristốt. Ở Tây Phương Kitô Giáo, ông đơn thuần trở thành “Nhà Chú Giải”. Trong cuốn Khảo Luận Dứt Điểm (Decisive Treatise), ibn Rushd bênh vực việc nghiên cứu triết học, dưới hình thức Aristốt, chống lại những người chống đối nó dựa trên các bản văn của Kinh Kôrăng. Ông bắt đầu bằng việc định nghĩa triết học là “việc nghiên cứu các hữu thể hiện hữu và suy nghĩ về chúng như những dấu chỉ Nhà Thủ Công (hay Đấng Tạo Hóa)”. Dựa vào định nghĩa này, ông kết luận rằng nếu các hũu thể đều là sản phẩm của Nhà Thủ Công thần thánh, thì sự hiểu biết tay nghề trong chúng sẽ đem tới cho ta một hiểu biết hoàn hảo hơn về Nhà Thủ Công này. Sau đó, ông nhận định rằng Luật (của Kinh Kôrăng) kêu gọi người Hồi Giáo suy niệm về tạo thế trong câu nói của nó về Thiên Chúa: “Hãy suy niệm, ngươi sẽ có viễn kiến” (Kôrăng, 59:2). Một bản văn khác chuyên biệt thúc giục ta nghiên cứu tính toàn bộ của tạo thế: “Há ngươi đã không học hỏi nước trời và đất, và bất cứ vật gì Thiên Chúa đã tạo nên?” (Kôrăng, 8:185). Sau đó, ibn Rushd tiếp tục lý luận rằng việc suy niệm mà Kinh Kôrăng truyền làm là loại suy luận tìm thấy trong triết học Aristốt, một suy luận diễn tiến bằng cách “rút tiả điều không biết từ điều đã biết” và bằng việc chứng minh luận lý học. Ibn Rushd kết luận rằng trước khi ta có được một “nhận thức có chứng minh về Thiên Chúa Cao Cả và mọi loài Người tạo nên”, điều cần là học hỏi các nguyên tắc của luận lý học Aristốt: “các lối nó chứng minh và các điều kiện để các chứng minh này (có giá trị)”, các cách trong đó, “việc suy luận theo lối chứng minh khác với việc suy luận biện chứng, tu từ học và trá ngụy”, các kiểu chứng minh, “các tiền đề và các loại của chúng”. Chống lại các biện bác bảo thủ cho rằng loại suy luận này vốn không có nơi các tín hữu ban đầu và do đó, lạc giáo, ibn Rushd nhấn mạnh rằng “việc nghiên cứu lối suy luận luật học và các loại của nó cũng là điều đã được khám phá từ thời các tín hữu đầu tiên, nhưng đâu có bị coi là một đổi mới có tính lạc giáo”.

Ibn Rushd thừa nhận rằng một số người có thể bị việc nghiên cứu triết học làm cho lầm lạc, nhưng điều này không do bản chất của triết học. Đúng hơn, nó do một điều “ngẫu nhiên” (accidental) như một “thiếu sót” nào đó trong khả năng tự nhiên của người ta hay người này “bị thống trị bởi đam mê hoặc không tìm được thầy đúng”. Ông kết luận rằng cấm nghiên cứu triết học đối với những người có khả năng tri thức và luân lý “là tột cùng của dốt nát và ra xa lạ với Thiên Chúa Cao Cả” vì nó khóa kín “người ta khỏi cánh cửa qua đó, Lề Luật mời gọi họ nhận biết Thiên Chúa, cánh cửa của nghiên cứu lý thuyết dẫn tới nhận thức chân thực nhất về Người”. Câu cuối cùng vừa trích phản ảnh niềm tin của nhà triết học rằng “nhận thức chân thực nhất” là nhận thức đạt được qua việc nghiên cứu triết học. Có thể nhìn thấy tác động của chủ trương này trong cung cách ibn Rushd tiếp cận câu hỏi về các loại chân lý tìm thấy trong Kinh Kôrăng và trong triết học.

Giống Mimonides và Thánh Tôma Aquinô, Ibn Rushd tin rằng triết học không nên dẫn tới các kết luận đi ngược lại Thánh Kinh (Kinh Kôrăng) vì “chân lý không chống đối chân lý nhưng phù hợp với nó và làm chứng cho nó”. Nếu có sự tương phản biểu kiến giữa triết học và sách thánh, thì “cần phải có sự giải thích theo lối phúng dụ” đối với sách thánh. Ibn Rushd hiểu “sự giải thích theo lối phúng dụ” là “việc mở rộng ý nghĩa của một lối phát biểu từ thực chất qua ý nghĩa phúng dụ,… như gọi sự vật bằng tên của một điều giống như nó hay một nguyên nhân hoặc một hậu quả hay một điều đi đôi với nó, hoặc những điều khác vốn được kể trong các giải thích về sự vật thuộc ngôn từ phúng dụ”. Vì các trường phái khác nhau trong việc giải thích của Hồi Giáo ít khi nhất trí với nhau về việc các đoạn nào cần được giải thích “theo nghĩa biểu kiến (nghĩa đen)” và những đoạn nào nên được hiểu theo lối phúng dụ, nên có một phạm vi rất rộng cho các nhà triết học được sử dụng phúng dụ khi giải thích Kinh Kôrăng. Ibn Rushd cũng tin rằng chỉ các nhà triết học “những người bám rễ chắc chắn vào nhận thức” mới có khả năng vươn tới một “niềm tin” dựa trên chứng minh triết học và chỉ có họ mới có khả năng sử dụng “khoa khải thích phúng dụ”. Đức tin của “các tín hữu vô học không dựa vào chứng minh” và họ chỉ có khả năng hiểu bình diện nghĩa đen của Kinh Kôrăng.

Cách các người Hồi Giáo hiểu khác nhau về đời sau là bức tranh minh họa rất tốt cho thấy các khác biệt trên về việc giải thích trong Hồi Giáo. Như chính ibn Rushd vốn nhận định “Mọi tôn giáo đều đồng ý sự kiện này: sau khi chết, linh hồn sẽ trải nghiệm trạng thái hạnh phúc hay trạng thái khốn khổ, nhưng họ bất đồng với nhau trong cách biểu tượng hóa các tình trạng này và giải thích sự hiện hữu của chúng cho người ta”. Ông phân biệt “ba giáo phái liên quan tới việc hiểu cách biểu tượng vốn được sử dụng trong tôn giáo của ta để chỉ các trạng thái của đời sau”. Một nhóm, tức đa số các tín hữu vô học, “cho rằng hiện sinh hoàn toàn đồng nhất với việc hiện hữu ở đây về phương diện vui sướng và khoái lạc nghĩa là đối với họ, hai hiện hữu đều như nhau, chỉ khác nhau về tính vĩnh viễn và giới hạn thời gian”’. Hai nhóm kia chủ trương rằng “có sự khác nhau trong lối hiện hữu”. Một nhóm tin rằng "hiện hữu được biểu tượng hóa bằng các hình ảnh khả giác này có tính thiêng liêng”; nhóm kia cho rằng “nó có tính thể xác, nhưng nghĩ rằng tính thể xác của đời sau khác với tính thể xác của đời này ở điểm tính thể xác sau có thể hủy hoại trong khi tính thể xác trước thì bất tử”.

Ibn Rushd hình như đồng ý với nhóm cuối cùng trên đây, và ông chủ trương như thế dựa trên các cơ sở thuần lý mà chỉ “người ưu tú” mới có thể thảo luận và hiểu được mà thôi. Như thế, ông khác với Ghazali là người tin rằng linh hồn người chính trực sẽ tái hợp với cùng một thân xác họ vốn có lúc ở dưới trần gian. Trước nhất, ibn Rushd tin rằng “linh hồn bất tử”. Thứ hai, ông nghĩ rằng “ (sau khi chết) linh hồn trở về với thân xác khác cũng không phi lý như việc nó trở về với cùng một thân xác (trần thế)”. Lý do là: “vật chất của thân xác đang hiện hữu ở đây liên tiếp biến đổi từ thân xác này qua thân xác nọ”. Vì chúng cùng chia sẻ một chất thể, nên các thân xác này không thể cùng hiện hữu một lúc. Và ibn Rushd kết luận: “điều sống lại từ cõi chết chỉ là hình bóng (simulacra) của thân xác trần thế, chứ không phải chính thân xác trần thế, vì điều đã hư hủy không trở lại theo cá thể nữa và một sự vật chỉ có thể trở lại như hình bóng của sự vật đã hư hủy, chứ không hoàn toàn đồng nhất với sự vật đã hư hủy”.

Ibn Al-`Arabi

Hồi Giáo Tây Ban Nha cũng sản xuất ra nhà văn vĩ đại nhất của Sufi trung cổ, ibn Al-`Arabi (1165-1240). Là con trai của một viên chức cao cấp của nhà nước, Al-`Arabi học Kinh Kôrăng, các truyền thống của đấng tiên tri, văn phạm Ả Rập và luật lệ Hồi Giáo. Từ thiếu thời, ông đã tiếp xúc với phái Sufi và được khai tâm làm một người Sufi lúc 20 tuổi. Lúc còn thiếu niên, ông từng gặp ibn Rushd và tường thuật của ông về buổi gặp gỡ này phản ảnh cả lòng tự tin tối cao của một nhà huyền nhiệm trẻ tuổi lẫn các dị biệt giữa cách tiếp cận Thiên Chúa của triết gia và đường lối huyền nhiệm học.

Tôi sống cả một ngày tại Cordoba ở nhà Abu al-Walid ibn Rushd [Averroes]. Ông tỏ ý muốn đích thân gặp tôi, vì ông nghe nói một số mạc khải tôi từng nhận được trong lúc tĩnh tâm, và tỏ ra hết sức ngạc nhiên đối với chúng. Thành thử, cha tôi, người vốn là một trong các bạn thân của ông, dẫn tôi theo ngừơi, lấy cớ là đi vì công việc làm ăn, để có thể dành cho ibn Rushd một cơ hội làm quen với tôi. Lúc ấy, tôi là một thiếu niên chưa để râu. Khi tôi bước vào nhà, triết gia đứng lên để chào hỏi tôi với tất cả mọi dấu hiệu của tình bằng hữu và âu yếm, rồi ôm hôn tôi. Rồi ông nói với tôi “Đúng!” và tỏ ra khoái chí khi thấy tôi vốn đã hiểu ông. Mặt khác, tôi, vì biết rõ động lực khiến ông khoái chí, nên thưa lại “Không!”. Nghe thấy thế, ibn Rushd giật lùi lại, sắc mặt thay đổi hẳn và tỏ ra hoài nghi điều ông vốn nghĩ về tôi. Ông bèn đặt cho tôi câu hỏi sau đây “Anh tìm được giải pháp nào như là kết quả của sự soi sáng huyền nhiệm và linh hứng của Thiên Chúa? Điều ấy có phù hợp với điều đạt được bằng tư duy suy đoán không?” Tôi trả lời “có và không. Giữa có và không này, các tinh thần bay lên quá vật thể, và các cổ tách ra khỏi thân xác chúng”. Nghe thấy thế, ibn Rushd thất sắc, và tôi thấy ông run rẩy khi thốt ra những lời này “Không có quyền năng nào ngoại trừ từ Thiên Chúa”. Sở dĩ thế vì ông hiểu ám chỉ của tôi. (R.W.J. Austin dịch trong Ibn Al-`Arabi, The Bezels of Wisdom [Paulist Press, 1980] 2-3).

Đầu đời trưởng thành, Arabi sống tại Tây Ban Nha và Bắc Phi, nhưng đến năm 1200, ông qua Ai Cập, rồi đi hành hương Mecca. Sau một thời gian du hành dài tại Cận Đông, năm 1223, ông định cư tại Damascus nơi ông tiếp tục ở cho tới khi qua đời năm 1240.

Ibn Al-`Arabi là một nhà văn viết rất nhiều. Ông cho ra đời hơn 2 trăm cuốn sách, và nổi nhất là cuốn The Bezels of Divine Wisdom (Khung Ghép Khôn Ngoan Thiên Chúa), một thứ tóm lược tư tưởng của ông, và bộ Meccan Revelations (Các Mạc Khải Mecca), hiện vẫn còn dưới thể tự truyện gồm 37 cuốn. Nhờ những cuộc du hành rộng rãi của ông ở cả hai thế giới Hồi Giáo tây và đông, Arabi có một ảnh hưởng lâu dài trên tư tưởng Sufi của cả hai vùng. Tư tưởng của ông cũng gây ảnh hưởng đối với nền huyền nhiệm học Kitô Giáo trung cổ và cả bộ Commedia của Dante nữa. Chính ông cũng đã tổng hợp được các yếu tố của triết học Tân Platông, nền huyền nhiệm học của Kitô Giáo và Kabbalistic, thậm chí cả nền huyền nhiệm học Ấn Giáo và Phật Giáo.

Cuốn The Bezels of Divine Wisdom, theo lời nói đầu của chính ông, được soạn thảo năm 1230 sau khi ông đã định cư tại Damascus. Theo lời nói đầu này, ông được một thị kiến trong đó, Muhammad hiện ra với ông, tay cầm một cuốn sách và nói với ông “đây là cuốn sách chứa các khung ghép Khôn Ngoan; hãy cầm lấy nó và đem nó tới những người có thể hưởng ơn ích của nó”. Arabi viết tiếp: “Tôi được quá ước muốn, thanh lọc ý hướng của mình, và đặt mục tiêu phát hành cuốn sách này, y hệt như Vị Tông Đồ đã xếp đặt, không thêm không bớt”. Cuốn sách lấy hình thức trình bày từng khía cạnh của sự khôn ngoan Thiên Chúa như đã được tỏ hiện trong cuộc đời của 27 tiên tri được truyền thống Hồi Giáo tôn kính. Các tiên tri này bao gồm nhiều nhân vật trong Thánh Kinh Do Thái: Ađam, Sét, Nôê, Ênốc, Ápraham, Ixaác, Ismael, Giacóp, Giuse, Lót, Étra, Salômôn, Đavít, Giôna, Gióp, Êlia, Aaron, và Môsê; từ truyền thống Kitô Giáo, có Chúa Giêsu, Thánh Gioan, Giacaria; và từ truyền thống Ả Rập có Hud, Salih, Shu’aib, Luqman, Khalid, và Muhammad. Mặc dù công trình này bắt đầu với Ađam và kết thúc với Muhammad, nhưng các chương không được xếp theo thời gian cũng như theo hệ thống. Đôi khi tư liệu liên quan tới cuộc đời đấng tiên tri như đã được ghi trong Kinh Kôrăng, nhưng có lúc, tư liệu không hề ăn nhập gì với đời sống đấng tiên tri.

Đối với Ibn Al-`Arabi, vì là hữu thể vô hạn, cái đẹp và cái khôn có khuynh hướng tự tỏ mình ra. Trong chương đầu tiên, `Arabi diễn giảng lời Thiên Chúa phán rất nổi tiếng trong tư tưởng Sufi: “Ta là kho tàng dấu kín rất mong được biết đến; cho nên, Ta đã dựng nên thế giới”. Trong lời diễn giảng của `Arabi, “Thực Tại muốn thấy các yếu tính của Các Tên Đẹp Đẽ Nhất của Người… muốn thấy Yếu Tính của chính Người, trong một đối tượng bao gồm tất cả, gồm trọn bộ Lệnh Truyền (của Thiên Chúa), một lệnh truyền, do chính hiện hữu, sẽ mạc khải cho Người chính mầu nhiệm riêng của Người”. Trước khi tạo dựng, Thực Tại hay Hữu Thể chỉ là một. Nó chỉ đa cực hóa thành Thiên Chúa và Vũ Trụ sau khi và vì ước muốn của Thực Tại muốn cảm nghiệm Người trong một thể khác. Như thế, tạo thế là tấm gương trong đó Thực Tại chiêm ngưỡng chính vẻ đẹp và sự khôn ngoan của Người. Mỗi tạo vật là lời của Đấng Tuyệt Đối nói với chính Người; trong mỗi lời, một khía cạnh đặc thù của vẻ đẹp và sự khôn ngoan vô hạn của Thực Tại được đối tượng hóa và được phát biểu ra.

Không có việc tạo ra Ađam, nguyên mẫu của nhân loại, thế giới sẽ không có linh hồn và tấm gương tạo thế “không được đánh bóng”. Mỗi con người nhân bản đều có khả năng trở nên “một tiểu vũ trụ” trong vũ trụ nhờ phản ảnh và suy niệm tính đơn nhất của Thiên Chúa vốn nằm bên dưới toàn thể tạo thế. Theo nghĩa này, Ađam cao hơn các thiên thần, những vị “chỉ là một số khả năng của hình thể kia tức hình thể Vũ Trụ, nói theo từ ngữ học của Bình Dân, là Người Vĩ Đại”. Các thiên thần là “các khả năng tâm lý và thể lý trong việc hình thành con người”. Các thiên thần tách rời lẫn nhau và không có bất cứ điều gì như trong khả năng của con người để có thể tổng hợp và phản ảnh được tính viên mãn của việc Thiên Chúa tự tỏ mình ra.

Al-`Arabi sử dụng một loạt các phúng dụ để diễn tả mầu nhiệm Ađam cả như tấm gương được tạo dựng của Thiên Chúa lẫn như việc Thiên Chúa tự ý thức về mình trong tạo thế. Theo Kinh Kôrăng và các trình thuật tạo thế trong Thánh Kinh, con người là hình ảnh hay phó nhiếp chính (khalifa) của Thiên Chúa. Tên dành cho con người trong tiếng Ả Rập là insan, cũng là chữ dùng cho “con ngươi” của mắt. Bởi thế, Ađam, đối với Thiên Chúa, là “như con ngươi đối với mắt” (insan al-`ayn), và “qua ông, Thực Tại ngắm nhìn tạo thế của Người và ban Nhân Từ (cho hiện hữu) trên chúng”. Ađam là sự kết hợp đầy nghịch lý của vĩnh cửu và tạo vật.
Nó là Người, nhất thời (trong hình thể của nó), vĩnh cửu (trong yếu tính của nó); nó là trường cửu, là muôn đời, (vừa) là Lời phân biệt (vừa) là lời hợp nhất.

Một hình ảnh ưa thích khác của nhân loại là hình ảnh từ đó cuốn sách lấy tựa đề: Ađam là khung ghép bằng đá hay “dấu ấn” của chiếc nhẫn ký (signet ring) trên đó có ghi dấu hiệu “nhờ đó Vua ấn ký kho tàng của Người”. Khung ghép là khung trên đó viên ngọc có khắc tên được ghép vào để làm thành chiếc nhẫn ký. Như thế, Ađam là hữu thể biết tiếp nhận, có thể tiếp nhận dấu ấn của Thiên Chúa dùng để “đóng dấu kho tàng của Người”. Ông là “Phó Nhiếp Chính “ của Thiên Chúa vì ông mang dấu ấn của Thiên Chúa và trông nom “kho tàng” tạo thế của Người. Tư tưởng của Al-`Arabi có những tương đồng trong truyền thống Augustinô-Phanxicô của Thánh Bonaventura, vị thánh vốn sử dụng hình ảnh tấm gương và nói tới vết chân Thiên Chúa trong tạo thế, và trong tư tưởng nhất nguyên của Meister Eckhart, người tìm thấy Thiên Chúa trong tạo vật.

Trong chương nói về “Sự Khôn Ngoan Tiên Tri trong Lời Đức Giêsu”, Ibn Al-`Arabi suy niệm truyền thống Kinh Kôrăng nói về Đức Giêsu, nhất là đoạn nói về việc Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria và đoạn nói về khả năng trỗi dậy từ cõi chết của Đức Giêsu. `Arabi chấp nhận việc thụ thai đồng trinh Đức Giêsu và nhấn mạnh rằng Người là khải hiện độc nhất của Thiên Chúa trong lịch sử con người. Đức Giêsu cùng một lúc là “Lời của Thiên Chúa, Thần Khí của Thiên Chúa, và nô lệ của Thiên Chúa, và việc khải hiện [3 chiều kích] này dưới hình thức khả giác không thuộc bất cứ người nào khác”. Mọi tạo vật đều là những lời của Thiên Chúa và do đó, đều là những khải hiện tiềm tàng của Người, nhưng Đức Giêsu, nhờ việc thụ thai độc đáo của Người, nên có khả năng thông truyền Thần Khí Thiên Chúa dưới cả hình thức thuần lý (lời) lẫn hình thức thực tại (ban sự sống). Đức Giêsu là điều con người nhân bảo nào cũng có thể là trong tiềm năng: Thần Khí ban sự sống của Thiên Chúa. Có điều, tương quan chính xác giữa thể thần linh và thể nhân bản nơi Đức Giêsu, và do đó, nơi mọi con người nhân bản, là điều mà `Arabi chưa bao giờ có thể nói lên được một cách thỏa đáng vì giới hạn của ngôn ngữ.
 
Văn Hóa
Năm Mùi vui chuyện Dê trong kinh thánh
Hoàng Đức Trinh
22:37 11/02/2015
Giống như mục tử phân ra,
Chiên bên tay phải, dê qua trái người. (x. Mt 25, 33).


NĂM MÙI VUI CHUYỆN DÊ VỀ KINH THÁNH

Tôi còn nhớ mãi hình ảnh con dê trong cuốn sách giáo lý mà thời tôi còn bé, bố tôi thường mở ra chỉ dạy cho tôi. Cuốn sách có khổ lớn, mở ra to bằng trang nhật báo, cứ một trang in chữ, một trang in hình. Tôi không còn nhớ tên cuốn sách, nhưng nhớ mãi những trang hình, đặc biệt là cảnh hoả ngục.

Hoả ngục được vẽ trong tranh ấy có bẩy cửa, tượng trưng bẩy mối tội đầu. Mỗi cửa có vẽ một con vật làm biểu tượng cho một tội. Con heo cho tội mê ăn uống, con rùa cho tội làm biếng, con dê canh cửa thứ ba “giữ mình sạch sẽ chớ mê dâm dục”.

Năm Mùi, nhớ lại con dê trong cảnh hoả ngục, tôi liền mở Kinh Thánh tìm xem Sách thánh nói đến con dê như thế nào?

Ngay cuốn sách đầu tiên là Sáng thế ký đã nhắc đến con dê, và rải rác các sách khác cũng có nói về dê, kể cả trong Tân Ước. Tuy dê không được Kinh Thánh coi trọng bằng bò tơ, cừu đực, nhưng cũng nói đến nhiều. Chúng tôi bắt đầu chuyện dê đầu tiên trong Sáng thế ký.

Thịt dê thế thịt rừng

Ông Ixaac và bà Rêbêca có hai người con trai là Exau và Giacop, ông thích thịt rừng nên ưa cậu cả Exau, bà lại thương con út Giacop hơn. Một hôm bà nghe được ông sai Exau đi săn lấy thú rừng về nấu cho ông món thịt rừng ông vẫn ưa thích, rồi ông chúc lành cho trước khi ông nhắm mắt về với tổ tiên. Bà liền vội vàng sai Giacop ra chuồng gia súc bắt hai con dê non mập mạp đem cho bà. Hai con dê bị bà lóc da, xẻ thịt, nấu món ăn theo đúng sở thích của ông Ixaac. Khi đã xong, bà cho Giacop đóng vai Exau bưng cỗ lên mời bố để nhận lãnh lời chúc phúc, trong khi Exau còn đang mải săn thú rừng. Giacop đắn đo: “Mẹ à, anh Exau người rậm lông, nhỡ ba con cầm tay con, biết là con xí gạt thì phúc chả thấy, thấy tội”… Bà Rebeca lấy da dê non bọc tay và cổ cho Giacop, bà còn dùng áo của Exau mặc cho Giacop… Ông Ixaac tuy loà không thấy, lại nghe giọng nói khác Exau, ông cũng bán tín bán nghi… Nhưng khi sờ thấy tay bọc da dê đầy lông, ông nghĩ đúng là Exau, nên đã chúc phúc cho Giacop!

Chính vì mâm cỗ lấy thịt dê thế thịt rừng ấy mà anh em hiềm thù nhau. Giacop phải trốn đi ở chăn dê cho cậu, ở mãi tận Khaban. (xem St 27, 1- 46).

Dê, của lễ đền tội

Dê được dùng làm tế phẩm dâng tiến Yavê, nhưng chỉ được dùng để làm của lễ đền tội, không như các con bò tơ hay chiên béo được dùng làm lễ vật tôn kính Chúa. Ngoại trừ trường hợp đặc biệt người ta có thể dùng con dê cái non để giết ăn mừng lễ. (x.Đnl 15,22).

Theo sách Dân số, ông Môisen đã được Đức Yavê truyền dạy về những con vật được giết làm của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa như sau:

Trong các dịp lễ: lễ bánh không men, lễ các tuần, lễ lều, ngày sóc, ngày hò la, ngày xá tội…ngoài các tế phẩm như bò tơ, chiên con, cừu đực… còn phải có một con dê đực làm lễ đền tội (x. Ds 18). Một lễ đền tội điển hình được mô tả như sau: Vua Êxach tế lễ Chúa có dùng bẩy con dê đực làm lễ đền tội cho quốc gia. Bẩy con dê đực được dẫn đến trước mặt vua, rồi dân chúng đặt tay trên những con dê đó. Sau đó giết các con sinh tế ấy, lấy huyết rảy trên bàn thờ. (x.2Sk 29,20-24). Thông thường người ta dùng một con là đủ. Nhưng lễ đền tội cho một tập thể lớn, mới cần đến nhiều con dê đực, như trong lễ chuộc sau:

Ngày mồng ba tháng Ađa, năm thứ sáu triều vua Đariô (mồng 1 tháng 4 năm 515 trước công nguyên). Dân Itraen, các tư tế, các Thầy Lêvi và các dân lưu đày trở về, đã tổ chức lễ khánh thành Nhà Thiên Chúa, được xây trên nền cũ, tại Giêrusalem, sau kỳ lưu đày tại Babylon về. Họ đã dâng 100 con bò, 200 con cừu đực, 400 con chiên. Để làm lễ chuộc tội cho toàn thể dân Ítraen trong dịp này, họ bắt 12 con dê đực làm con sinh tế, đền thay cho số 12 chi tộc Ítraen. (x. Er 6, 15-17).

Đàn dê của ông Giacóp

Sau nhiều năm ở rể tại nhà ông Laban, Giacóp xin trở về quê hương cũ. Ông Laban nói với Giacóp: “Tôi biết, Đức Yavê đã vì anh mà chúc phúc cho tôi, tôi biết lấy gì mà trả công cho anh đây?”

Giacóp thưa lại: “Cậu đừng trả gì cho cháu cả, cháu chỉ xin cậu những con dê khoang lốm dốm thôi. Nếu mai này cháu xa cậu mà trong đàn dê của cháu có những con không khoang lốm đốm là không thuộc về cháu.”

Ngay hôm ấy, ông Laban cho lựa hết những con dê khoang lốm đốm dành cho Giacóp, lùa riêng đi cách xa đàn dê của ông tới ba ngày đường, giao cho các con ông chăm sóc, còn Giacóp vẫn phải chăn dê cho bố vợ như cũ. Giacóp muốn lợi dụng cơ hội này làm tăng thêm cho đàn dê khoang của mình. Ông chặt những cành cây bạch dương, cành hạnh đào, cành tiêu huyền còn tươi, bóc đi một phần vỏ cho lộ ra những sọc trắng. Ông cắm những cành cây đó cạnh máng nước, trước mặt những con dê đang uống nước, dê đực và dê cái khoẻ mạnh truyền giống bên máng nước ấy, sinh ra những con dê con mạnh khoẻ. Bằng cách ấy, Giacóp đã tạo cho mình thêm rất nhiều dê khoang đốm, đến nỗi Sứ thần Chúa cũng phải thốt lên: “Hãy ngước mắt lên mà coi, tất cả những dê đực dê cái phối giống bên máng nước đều sinh ra dê có khoang rằn ri lốm đốm… Bây giờ hãy chỗi dậy, ra khỏi đất này mà về bản quán của mình”. Lúc lên đường về quê, Giacóp đã giầu có lắm, với vô số cừu dê, tớ trai hầu gái đông đúc và từng bầy lạc đà, lừa vận tải…(xem. St 31, 24-43).

Dê, lễ vật ra mắt

Đọc Kinh Thánh, chúng ta đã biết Esau và Giacóp là anh em sinh đôi, Esau ra trước làm anh, nhưng vì đi săn về đói mệt đã bán chức trưởng nam cho Giacóp để lấy một bát cháo ăn đỡ lòng. Giacóp lại được mẹ hướng dẫn để dành được lời chúc phúc của cha. Chính vì thế, Esau tức giận đòi lấy mạng Giacóp, khiến bà mẹ phải để cho Giacóp trốn đi xa cưới vợ. Trở lại quê hương lần này, Giacóp vẫn sợ anh mình còn giận, nên đã bố trí cho cuộc anh em hội ngộ rất cẩn thận. Ông cho người ăn kẻ làm lùa những đàn vật đi trước để làm lễ vật ra mắt anh. Trong số những đàn vật ấy có một đàn dê đông đúc gồm hai trăm dê cái và hai mươi dê đực. Giacóp nghĩ thầm rằng, ta cho mang tặng phẩm này ra mắt anh trước để anh nguôi giận, sau ta mới đến giáp mặt anh ấy và may ra anh ấy sẽ nể ta.

Ông Esau được tin em về, cũng mang bốn trăm gia nhân đi đón Giacóp. Gặp nhau anh em ôm cổ nhau mà hôn, cả hai cùng đẫm ướt lệ mừng. Giacóp phải nài nỉ anh mãi, Esau mới nhận những món quà lòng thành Giacóp hiến tặng, trong đó có đàn dê là lễ vật cầu phúc. (x. St 32 và 33).

Con dê của bà Tôbit

Ông bà Tôbit là người kính sợ Chúa, ông thực hành đức bác ái bằng việc chôn xác những đồng hương bị giết rồi ném ra ngoài thành, dù ông bị ngăn cấm. Ông bà có một con trai tên là Tôbia.

Một hôm ông Tobit nằm ngủ ngoài hiên nhà, ông bị phân chim rơi trúng mặt, khiến hai mắt ông không còn thấy đường. Từ ngày ông bị mù, bà Anna vợ ông phải lo quán xuyến hết mọi việc nhà, lo bươn chải từ việc nặng nhọc đến những việc nhẹ, để bảo đảm cuộc sống gia đình. Tuy vậy, bà cũng không sao lãng bổn phận của phụ nữ: “Gái thì giữ việc trong nhà, Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa.”

Canh cửi không quá nặng nhọc, nhưng tốn nhiều thời gian, phải thức khuya dậy sớm làm việc thì mới dệt được nhiều vải. Bà cứ dệt, cứ dệt… được kha khá lại cắt vải đem đi giao hàng. Hôm ấy, nếu tính theo lịch Makêđônia là ngày mồng bảy tháng Đystro, tương đương với tháng Ađar của lịch Do thái, tức khoảng tháng hai tháng ba theo lịch ngày nay, bà xén vải đem đi giao. Họ đã trả đủ tiền vải cho bà, rồi còn tặng bà một con dê con, để bà có thể làm một bữa ăn thịnh soạn đãi cả nhà.

Con dê đã được cột một sợi dây vào cổ để bà có thể dắt nó đi dễ dàng. Khi bà dắt dê về đến nhà, con dê không chịu vào, bà lôi mạnh, con dê kêu lên be be… Ông Tôbit nghe tiếng dê kêu, liền hỏi bà:

- Ở đâu mà bà có được con dê đấy? Hay là bà bắt được của ai, hãy mau đem trả cho chủ nó! Vì ta không được phép dùng những của không phải là của mình.

Bà Anna vui vẻ, hãnh diện khoe với chồng:

- Con dê này là quà người ta tặng cho tôi, sau khi họ đã trả đầy đủ tiền vải.

Ông Tôbit vẫn không tin, có ai lại tốt bụng quá vậy. Ông cứ nằng nặc đòi bà phải đem dê đi trả, vì ông cảm thấy xấu hổ khi có bà vợ đi bắt dê của người ta về...

Thế là ông bất bình vì không đồng ý kiến, nhưng với tài thuyết phục và sự ngay thẳng của bà Anna, thế nào ông Tôbit cũng hiểu. (x. Tb 2,19-23).

Dê cừu song đấu

Đọc sách tiên tri Đanien, ta thấy ngôn sứ này được thấy nhiều thị kiến. Bằng giọng văn khải huyền, ông đã thuật lại những thị khiến ấy để tuyên sấm về những việc sẽ xảy ra, hầu cảnh cáo người đương thời. Một trong những thị kiến ấy là cuộc song đấu giữa một con cừu đực và một con dê đực.

Năm thứ ba triều vua Bantasa, vua nước Babylon, lần thứ hai Đanien được thị kiến. Khung cảnh của thị kiến được xảy ra ở thành Susa, trong địa hạt Êlam, đế đô của triều đại Akêđêmit, trên bờ sông Ulai. Khi ngôn sứ ngước mắt lên nhìn thì thấy một con cừu đực đứng đối diện với bờ sông. Bằng một sức mạnh kinh hồn, con cừu húc tới phía Tây, lao lên phía Bắc, rồi nhào xuống phía Nam mà không ai có thể cản nổi nó.

Ngay lúc ấy, xuất hiện một con dê đực từ hướng mặt trời lặn xông tới, nó rảo khắp thiên hạ mà chân không chạm đất. Dê xồm ấy có một cái sừng lồ lộ ngay giữa hai con mắt. Nó hùng hổ xông tới chỗ con cừu đực, con dê nổi giận đùng đùng, lấy đầu phang cho con cừu một phát, làm gẫy luôn cặp sừng của con cừu. Cừu đực lảo đảo, không còn sức chống cự. Được đà, con dê tông thêm một phát nữa làm con cừu lăn chiêng xuống đất. Rồi cứ thế, con dê dùng chân đạp túi bụi vào con cừu… Dê tưởng mình còn sung sức, không ngờ cũng choáng váng, vì cái sừng duy nhất đã bị gẫy sau khi triệt hạ đối phương. Nhưng ngay sau đó bốn sừng khác mọc lên, theo bốn hướng gió trời, thay thế cho cái sừng dê bị gẫy đó.

Thị kiến trên của ngôn sứ Đanien là một lời sấm tiên báo những việc xảy ra sau đó giữa các vua trong các xứ Mêđi, Ba tư và Hy lạp. Ai muốn biết rõ hơn về thị kiến trên, xin mở sách Đanien đọc tiếp. (x. Đn 8, 1-27).

Dê trong thi ca Kinh Thánh

Các tổ phụ dân Do thái xưa đều thuộc dân du mục, công việc chăn nuôi vì thế đã đi vào Kinh Thánh, nên sách Thánh đã ghi lại những kinh nghiệm trong cuộc sống, giống như ca dao, tục ngữ nước ta, nhờ đó hậu sinh nương đà mà phát triển:

Khi cỏ khô đã cắt và cỏ non lại mọc,

cỏ xanh trên đồi núi cũng được gom về,

thì con có tiền tậu ruộng nhờ dê,

sữa dê con uống thỏa thuê,

cả nhà no đủ, nữ tì cũng vui.(Cn 27, 25-27).

Dê giúp phát triển kinh tế, tăng nhanh tài sản như thế, nên không những được các chàng trai chăn dắt mà các thiếu nữ cũng góp phần. Cô thiếu nữ Gialiêm xưa khi đi chăn dê, muốn biết người tình đang nghỉ ở đâu, nàng đã được hướng dẫn:

Này hỡi trang tuyệt thế giai nhân,

nếu quả nàng không biết,

thì hãy ra đi theo vết chân đàn cừu,

mà dẫn dê con của nàng đi ăn

quanh các lều mục tử… (Dc 1,8)

Khi đã đến lều người yêu, nàng ngủ một giấc đầy mộng mơ, khiến chàng không dám cho ai làm nàng dở dang giấc điệp:

Nhân danh dê cái nhân vì linh dương,

Chớ làm kinh động cô nương.(Dc 2, 7).

Nàng đã say sưa ngủ, một giấc ngủ đầy mộng mơ. Mơ nàng xinh mái tóc, mơ chàng bảnh trai cường tráng:

Tóc nàng gợn sóng như đàn sơn dương từ trên ngàn Galat tủa xuống. (Dc 4, 1) và nàng muốn nói cùng chàng:

Hãy làm linh dương, làm nai nhỏ của lòng em. (Dc 8, 14).

Nhưng có lúc dê núi cũng gặp tai ách:

Sẽ như linh dương hoảng chạy, như cừu dê không người thâu họp. (Is 13, 14).

Không có người chăn quy tụ, bầy chiên dê biến mất khỏi ràn, (Kb 3, 17). Quả thật, cả chiên dê nhỏ nhất cũng bị lôi đi. (Gr 49, 20). Đúng như lời nguyền rủa: Chớ gì lều và chiên dê của chúng bị người ta lấy đi. (Gr 49, 29).

Để dựng lại cơ nghiệp, phải nhớ lời khuyên: Hãy trốn khỏi Babylon, ra khỏi đất Canđê và nên như những con dê đầu đàn,(Gr 50, 8) đợi khi chúng sẽ dẫn chiên dê đến đó. (Xp 2, 7).

Được kỳ bình an, người ta lo tìm của lễ tạ ơn:

Phải chăng Đức Chúa thích từng ngàn dê đực, hàng vạn suối dầu ? (Mk 6,7). Chúa không ưa của lễ dê bò, của lễ mà Chúa yêu thích chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm cung trước Chúa.

Vua Đavit tuy là người chăn dê, nhưng biết thực hành các đức tính ấy. Ông đã lãnh nhận sức mạnh từ nơi Đức Chúa, dùng trành ném đá hạ sát Goliat, Đavit được ca tụng như giết được mười ngàn tên giặc, cho nên:

Ông chơi với sư tử như giỡn với dê tơ,

Đùa với gấu như vờn vờ chiên nhỏ. (Hc 47, 3).

Dê còn được dùng trong nghi lễ tế tự, xông lên Giavê Thiên Chúa hương thơm, xin ơn xá tội:

Con tiến dâng Ngài bò chiên dê béo tốt,

Làm lễ toàn thiêu nghi ngút bay lên. (Tv 66, 15).

Dê trong ngày chung thẩm

Trong mắt các ngôn sứ, dê thường đại diện cho những kẻ phản nghịch với Thiên Chúa, mang ý nghĩa trái ngược với con chiên. Vì thế các tiên tri thường mô tả dê trú ngụ tại những nơi nhơ nhớp, gai góc rậm rạp…Isaia đã chúc dữ cho thành Babylon, một thành biểu tượng cho nơi điếm đàng:

Tại đó dã thú đến nằm nghỉ,

Cú vọ ở đầy nhà, đà điểu tới trú ngụ,

Và bầy dê ma quái nhảy nhót tung tăng,(Is 13, 21).

Quả thật, những nơi Đức Chúa chúc dữ thì chỉ còn các thú hoang hung ác ẩn nấp, ở đó chúng tha hồ quẩng dỡn, kết bầy phá phách:

Mèo hoang lại gặp chó rừng,

Loài dê ma quái hú mừng gọi nhau.(Is 35, 14).

Dê bị chúc dữ thì sống chui lủi, có khi còn phải tán loạn lìa đàn, bấy giờ như sơn dương bị săn đuổi (Is 13,14). Con người ta thì trái lại, sống trên trần thế không thiếu chi những cảnh người lương thiện thường gặp tai ách đủ điều, còn kẻ gian manh lại thấy lắm sang giầu quyền thế. Tuy nhiên, niềm tin vào Chân lý cho chúng ta biết sẽ có ngày chung thẩm, dù chiên, dù dê cũng đều tập trung: mọi chiên dê của Kêda sẽ được tập trung tại nơi ngươi, (Is 58, 14) lúc ấy mọi người đều được xét xử công minh: Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê. (Ed 34, 17).

Cuộc thẩm xét cuối cùng được Thánh sử Matthêu mô tả:

Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái…(Mt 25, 31-33).

Ngày chung thẩm sẽ không còn phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ có quyền thế hay người vô danh tiểu tốt mà chỉ còn công hay tội, thiện và ác. Đừng tưởng làm lớn là không bị kết án, ngôn sứ Dacaria đã khẳng định:

Trên các mục tử, cơn giận của Ta bừng bừng,

Ta sẽ hỏi tội các dê đầu đàn.(Dcr 10, 3).

Tiên tri Giêrêmia đã cho biết sau khi xét xử, kẻ gian ác sẽ bị đưa đến chỗ trừng phạt đời đời kiếp kiếp:

Ta sẽ đẩy chúng xuống lò sát sinh như chiên con, như cừu và dê đực. (Gr 51, 40).

Cũng theo Giêrêmia, những người lành thánh được đem đến cõi trường sinh no đầy ơn phúc:

Chúng sẽ đến reo vui trên đỉnh đồi Sion,

Chúng sẽ cuộn chảy về với phúc lành Giavê

với lúa miến, rượu mới, dầu tươi, với dê cừu, bò bê.

Sinh mạng chúng sẽ như thửa vườn nước nhuận

và chúng sẽ không còn phải ủ ê tiêu điều. (Gr 31, 12).

Quý vị nào muốn đọc thêm những câu Kinh Thánh nói đến dê, xin tiếp tục mở thêm vì còn rải rác rất nhiều. Nhân ngày Đầu năm Mùi, kính chúc quý vị Năm Mới đầy tràn Thánh Đức, hầu ngày cánh chung được chọn sang đứng phía bên phải Con Người, để khỏi trở thành những con dê lặng lẽ lầm lũi cúi đầu bước đi sang phía bên trái Chúa.[]
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Cầu Khấn
Tấn Đạt
22:15 11/02/2015
CẦU KHẤN
Ảnh của Tấn Đạt
Cuối năm áo đẹp lên chùa
Cầu hên cầu lợi cầu bùa tình duyên.
(nđc)
 
VietCatholic TV
Suy niệm cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô: 05/02-11/02/2015: Câu chuyện dụ ngôn người gieo giống
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
21:36 11/02/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Tử đạo không chỉ là chuyện của quá khứ

Trong thánh lễ hôm thứ Sáu 6 tháng 2 tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên tiếng kêu gọi mọi người hãy nhớ đến các vị tử đạo của năm 2015, những người nam nữ, và trẻ em bị tàn sát ngay bây giờ vì hận thù đức tin. Ngài nói rằng các cuộc tử đạo của các tín hữu Kitô không phải chỉ là chuyện của quá khứ, nhưng là chuyện của cả hôm nay, với rất nhiều nạn nhân của "những người thù ghét Chúa Giêsu Kitô".

Đức Giáo Hoàng đã trình bày những suy tư của ngài về cuộc đời và cái chết của Thánh Gioan Tiền Hô, theo Tin Mừng Thánh Marcô. Nhắc đến vị "Đại Gioan" này, Đức Giáo Hoàng nói rằng cuộc sống của ngài là một thí dụ cho nhiều người, nhiều Kitô hữu mà máu của họ đang đổ ra ngày hôm nay vì họ tuyên xưng một Thiên Chúa mà nhiều người thù ghét.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã lưu ý rằng Thánh Gioan Tiền Hô "không bao giờ phản bội ơn gọi của mình", thánh nhân "ý thức rằng nhiệm vụ của mình chỉ là để công bố" rằng Đấng Cứu Thế "đã gần đến". Thánh Gioan Tiền Hô đã nhận thức được rằng ngài "chỉ là một tiếng nói," bởi vì "Ngôi Lời là người khác" và ông "kết thúc cuộc sống của mình như Chúa, nghĩa là chết vì đạo".

Thánh Gioan là nạn nhân của một vị vua tham nhũng

Đức Thánh Cha Phanxicô nói tiếp rằng khi bị giam giữ trong nhà tù của Herôđê Antipas, thánh Gioan, là "người đàn ông vĩ đại nhất do người phụ nữ sinh ra" đã trở nên "nhỏ bé, rất bé nhỏ". Trước hết, ngài bị chới với bởi một khoảng tối trong tâm hồn khi ngài nghi ngờ không biết Chúa Giêsu có phải chính là Đấng mà ngài đã dọn đường hay không. Thánh nhân lại bị chới với một lần nữa khi ngài đứng trước cái chết của mình theo lệnh của một vị vua vừa ngưỡng mộ, vừa bối rối trước Gioan. Đó là một kết cục đã làm cho Đức Giáo Hoàng phải dừng lại để suy tư:

"Cuối cùng, sau sự thanh tẩy này, sau khi liên tục chìm vào hư không, vào con đường hướng đến cái chung kết của Chúa Giêsu, cuộc sống của ngài đã kết thúc. Vị vua bối rối đã có khả năng đưa ra một quyết định, nhưng không phải vì con tim nhà vua đã thay đổi, nhưng vì rượu cho ông cái can đảm đó. Vì thế, Thánh Gioan đã kết thúc cuộc đời mình dưới thẩm quyền của một vị vua tầm thường, say rượu, băng hoại, chiều theo sở thích của một vũ nữ và sự thù hận thù của một phụ nữ ngoại tình. Đó là cách người đàn ông vĩ đại nhất được sinh ra bởi người phụ nữ kết thúc đời mình".

Kitô hữu bị thù ghét ngày nay

Đức Giáo Hoàng nói: "Khi tôi đọc đoạn này tôi thú nhận tôi rất xúc động" và tôi luôn nghĩ về "hai điều": "Đầu tiên, tôi nghĩ đến các vị tử đạo của chúng ta, các vị tử đạo của thời đại chúng ta, những người nam nữ, và trẻ em đang bị bách hại, thù ghét, bị đuổi ra khỏi nhà của họ, bị tra tấn, tàn sát Và đây không phải là một điều của quá khứ: Chuyện này đang xảy ra ngay bây giờ. Các vị tử đạo của chúng ta, những người đang đối diện với kết cục của họ dưới thẩm quyền của những kẻ băng hoại, những kẻ căm ghét Chúa Giêsu Kitô. Thật tốt cho chúng ta khi nghĩ đến các vị tử đạo. Hôm nay chúng ta nhớ đến thánh Phaolô Miki tử đạo nhưng điều này đã xảy ra vào năm 1600. Hãy suy nghĩ về những vị tử đạo ngày nay của chúng ta! vào năm 2015 này".

Không ai có thể "mua" cuộc sống của mình

Đức Giáo Hoàng nói "sự hạ mình này của Thánh Gioan, sự liên tục chìm vào hư không làm tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đang trên con đường này và chúng tôi đang đi về miền đất, nơi chúng ta tất cả sẽ kết thúc đời mình. Điều này làm cho tôi nghĩ về bản thân mình: Tôi cũng sẽ gặp cái kết thúc của đời mình. Tất cả chúng ta rồi cũng sẽ đến hồi kết thúc. Không ai có thể "mua" cuộc sống của mình. Tất cả chúng ta, dù muốn hay không, đang đi trên con đường hướng đến cái chung kết hiện sinh đời mình, và điều này khiến cho tôi cầu nguyện để xin cái chung kết này tương tự đến mức có thể với chung kết của Chúa Giêsu Kitô".

2. Những đầy tớ của Nước Trời

Giáo Hội phải loan báo Tin Mừng "trong khó nghèo" và những người công bố Tin Mừng phải có mục đích duy nhất là làm giảm những khốn khổ của người nghèo, và không bao giờ được quên rằng sứ vụ này là công trình của Chúa Thánh Thần, không phải của bàn tay con người.

Đức Thánh Cha đã nói như trên trong thánh lễ sáng thứ Năm 5 tháng 2 tại nhà nguyện Santa Marta khi ngài trở lại một trong những hình ảnh yêu thích của mình về Giáo Hội - một bệnh viện trên chiến trường - lấy cảm hứng từ Tin Mừng trong ngày, trong đó Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi, từng hai người một, đến các làng để rao giảng, chữa lành bệnh và xua đuổi "tà ma".

Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng có rất nhiều “người bị thương” đang chờ đợi trong các hành lang của Giáo Hội để được một thừa tác viên của Chúa Kitô chữa bệnh, nâng dậy và giải phóng họ khỏi ma quỷ đang hoành hành họ như một bệnh dịch. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha nói thêm rằng các thừa tác viên của Chúa Kitô phải luôn luôn ghi nhớ họ đơn giản chỉ là "những đầy tớ của Nước Trời".

Chữa lành những con tim đầy thương tích

Đức Giáo Hoàng đã suy tư về thái độ mà Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Ngài phải có khi Ngài sai họ đến với dân chúng. Họ phải là những người không vướng bận với những ràng buộc như “lương thực, túi xách, tiền lận lưng quần” vì Tin Mừng “phải được công bố trong sự khó nghèo”, vì “ơn cứu độ không phải là thứ thần học về sự giầu có”. Tin mừng cốt yếu là “tin vui” về sự giải phóng được mang đến cho mọi người bị áp bức:

“Đây là sứ mạng của Giáo Hội: Giáo Hội chữa lành, chăm sóc cho con người. Đôi khi tôi mô tả Giáo Hội như một bệnh viện trên chiến trường. Đúng vậy, nơi đó có bao nhiêu người bị thương! Có bao nhiêu người cần được chữa lành những thương tích của họ! Đây là sứ mệnh của Giáo Hội: chữa lành những tâm hồn bị thương tích, mở tung cửa để giải phóng con người, để nói rằng Thiên Chúa là Đấng nhân lành, Thiên Chúa tha thứ cho tất cả chúng ta, Thiên Chúa là Cha chúng ta, Người luôn dịu dàng và luôn chờ đợi chúng ta …”

Lòng nhiệt thành tông đồ, chứ không phải chủ nghĩa hoạt động Phi Chính Phủ

Đức Thánh Cha cảnh báo rằng khi không đặt trọng tâm vào bản chất thiết yếu của việc công bố Tin Mừng, người ta có nguy cơ tạo ra sự diễn dịch sai lạc về sứ mạng của Giáo Hội và không còn nhìn thấy điều duy nhất đáng kể là: đem Chúa Kitô đến với người nghèo, người mù, và những tù nhân:

“Đúng là chúng ta phải trợ giúp và tạo nên những tổ chức để nâng đỡ sứ vụ này. Vâng, vì Thiên Chúa ban cho chúng ta những ân sủng cho sứ vụ đó. Nhưng khi chúng ta quên mất sứ vụ, quên đi tinh thần khó nghèo, quên đi lòng nhiệt thành tông đồ và thay vào đó đặt niềm hy vọng của chúng ta nơi những phương tiện của nhân loại, thì Giáo Hội trượt dài thành một cơ cấu Phi Chính Phủ, Giáo Hội trở thành một tổ chức rất đẹp: đầy quyền thế, nhưng không phải là một Giáo Hội truyền giáo, bởi vì Giáo Hội đã đánh mất đi tinh thần này, mất đi tinh thần khó nghèo và không còn quyền năng chữa lành”.

Các môn đệ là những “đầy tớ Nước Trời”

Đức Thánh Cha kết luận bài giảng rằng sau đó các môn đệ kết thúc sứ vụ mình và trở về rất “hạnh phúc” và Chúa Giêsu đưa họ đi “nghỉ ngơi” với Ngài một thời gian. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha nhấn mạnh …

“… Chúa Giêsu không nói với các môn đệ: “Các con thật tuyệt vời, bây giờ nhiệm vụ tiếp theo của các con phải là làm sao tổ chức sao cho tốt hơn nữa… Nhưng Chúa Giêsu chỉ nói, khi các con đã làm xong tất cả những điều đó hãy nói với chính mình: “Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng”. Đây chính là người môn đệ. Và lời khen tặng đẹp nhất dành cho một môn đệ là gì? Thưa: Anh là đầy tớ của Nước Trời. Đó là lời khen tặng tuyệt vời nhất, vì nó có nghĩa là người đó đã chọn con đường của Chúa Giêsu là công bố Tin Mừng. Người đó chữa lành, bảo vệ, công bố tin mừng và năm hồng ân của Chúa. Nhờ đó mọi người tái khám phá về Chúa Cha, và dưỡng nuôi hoà bình an trong tâm hồn mình”.

3. Câu chuyện dụ ngôn người gieo giống

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Tuyệt đại đa số các thính giả, những người tuốn đến với Chúa đều là những người bình dân, ít học, nên Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn cho người ta dễ hiểu những Chân Lý cao siêu của Nước Trời.

Dụ Ngôn là kiểu giảng dạy rất thông-dụng tại các nước Cận-Đông thời Chúa Giêsu. Ngài thường lấy những ví dụ, những hình ảnh cụ thể, thường thấy trước mắt, những điều thuộc phương diện trần thế, để diễn-tả các Mầu Nhiệm siêu-nhiên.

Hôm ấy, Ðức Giêsu từ trong nhà đi ra ngồi ở ven Biển Hồ. Có đám đông lớn tụ họp bên Người, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn toàn thể đám đông thì đứng trên bờ. Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.

Người nói: "Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. Ai có tai thì nghe".

Các môn đệ đến gần hỏi Ðức Giêsu rằng: "Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp: "Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất.

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Hạt rơi bên vệ đường: Là Lời Chúa không được các linh hồn yêu mến, trân-quý mà chỉ nghe xuông, không suy niệm để đem ra thực hành, thì dễ dàng bị chim trời là ma quỷ lấy mất đi... Đó là những người không đáp ứng chút nào trước lời mời gọi của Chúa, họ cũng nghe, nhưng chỉ như nước đổ lá môn, không quan tâm và đem ra thực hành, nên chẳng ích lợi chi cho tâm hồn.

Hạt rơi vào đất sỏi đá: Tuy có mọc lên, nhưng rễ không bâm sâu được vì quá ít đất! Là những linh hồn khô khan, nông cạn, nguội lạnh, những người thiên về thỏa mãn tính xác thịt, không đoạn tuyệt với quá khứ đam mê, tội lỗi, nên không còn chỗ cho Lời Chúa phát- huy được Sức Sống Mới trong linh hồn... Trong trường hợp này, Lời Chúa không thể bâm rễ sâu, nên khi nghịch cảnh, những khó khăn đến,đó là sức nóng thiêu đốt của mặt trời... làm cho họ chán nản và bị thiêu rụi, chẳng đem lại hoa trái!

Còn hạt rơi vào bụi gai: Nơi đất không được cầy sâu, cuốc bẫm, bụi gai lấn át, che phủ um-tùm... là Lời Chúa được gieo vào các linh hồn quá bận rộn lo lắng việc đời, nên không còn chỗ cho Lời Chúa phát triển. Những tâm hồn quá quyến-luyến những sự trần thế, chóan hết thời giờ, khả năng, thì không còn chỗ cho Lời Chúa triển nở và sinh hoa kết trái Thánh Thiện. Nếu thản hoặc hạt giống Lời Chúa có nẩy mầm, thì cũng èo-uột và úa tàn!... Cây nhân đức có mọc lên thì cũng thiếu sức sống và sớm muộn cũng bị chết đi!

Hạt rơi vào chỗ đất tốt: Đất tốt là thửa đất đã được nhổ sạch cỏ, được cầy sâu, cuốc bẫm, bón phân thích hợp, chỉ còn chờ hạt lúa được gieo xuống, thì mau chóng đâm chồi, mọc rễ, trổ sinh bông hạt... Đó là những linh hồn yêu mến, quý trọng Lời Chúa, đã chuẩn bị, nghiền gẫm Lời Chúa đêm ngày, thì Lời Chúa đâm chồi nẩy lộc, lớn mạnh và trổ sinh bông hạt man vàn.

Trong phần tiếp sau đây Thảo Ly và Kim Thúy sẽ giới thiệu với quý vị và anh chị em cách thức suy gẫm Lời Chúa do Đức Thánh Cha Phanxicô đề nghị trong tuần qua.

4. Cách thức Suy gẫm Tin Mừng hàng ngày

Suy gẫm Tin Mừng hàng ngày giúp chúng ta có niềm hy vọng thực sự. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng Thứ Ba ngày 03 tháng 02 tại nhà nguyện Santa Marta.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã tái kêu gọi các tín hữu hãy dành 10 phút mỗi ngày để suy gẫm Tin Mừng và thân thưa với Chúa, chứ đừng quá lãng phí thời giờ vào những phim truyện truyền hình hay ngồi lê đôi mách.

Đặt trọng tâm vào đoạn trích Thư gửi tín hữu Do Thái nói về niềm hy vọng, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng “hãy dán mắt vào Chúa Giêsu” là cốt lõi của niềm hy vọng. Ngài nhấn mạnh rằng, nếu chúng ta không biết lắng nghe Lời Chúa, chúng ta có thể là những người “lạc quan yêu đời” nhưng không có được niềm hy vọng mà chúng ta chỉ có được từ việc “chiêm ngắm Đức Kitô”.

Điều này đưa Đức Thánh Cha đến đề tài “chiêm ngắm cầu nguyện”. Đức Thánh Cha nói rằng “thật tốt nếu chúng ta biết cầu nguyện hàng ngày bằng kinh Mân Côi để thân thưa với Chúa, với Đức Trinh Nữ Maria hay với các Thánh, khi chúng ta gặp vấn đề nào đó”. Nhưng “chiêm ngắm cầu nguyện” là quan trọng và điều này chỉ có thể thực hiện được “với sách Phúc Âm trong tay”.

Ngài nói:

“Tôi suy gẫm như thế nào về đoạn Tin Mừng hôm nay? Tôi thấy Chúa Giêsu đang ở giữa mọi người, Ngài bị đám đông vây quanh. Năm lần đoạn Tin Mừng này sử dụng từ ‘đám đông’. Chúa Giêsu có nghỉ ngơi không? Điều này đưa tôi đến suy nghĩ về chuyện “luôn luôn ở giữa đám đông …” Hầu hết cuộc đời của Chúa Giêsu là trên các đường phố, với những đám đông. Vậy Chúa Giêsu có nghỉ ngơi không? Có chứ, Tin Mừng có lần nói là Ngài ngủ trên thuyền nhưng cơn bão đến và các môn đệ đánh thức Ngài dậy. Chúa Giêsu thường xuyên ở giữa mọi người. Và đây là cách chúng ta hướng nhìn Chúa Giêsu, suy gẫm về Chúa Giêsu, tưởng tượng về Chúa Giêsu. Nhờ đó, tôi thưa với Chúa Giêsu về những gì ập đến với tâm trí tôi”.

Tiếp tục suy tư về Tin Mừng trong ngày, Đức Thánh Cha Phanxicô nói về cách thức Chúa Giêsu nhận ra có một người phụ nữ bị bệnh trong đám đông chạm vào Ngài. Đức Thánh Cha nhận xét là Chúa Giêsu, “không chỉ hiểu về đám đông, Ngài còn cảm nhận được đám đông”, “Ngài cảm nhận được nhịp tim của mỗi người trong chúng ta, từng người một. Ngài chăm sóc cho mỗi một người trong chúng ta, luôn luôn là thế!”

Trường hợp của ông trưởng hội đường, là người đã đến gặp Chúa Giêsu “để thưa với Ngài về trường hợp con gái ông đang mang trọng bệnh” cũng tương tự như thế: Chúa bỏ lại mọi thứ để lo chuyện này. Đức Thánh Cha đã mô tả lại quang cảnh đó như sau: Đức Giêsu vào nhà ông, những người phụ nữ đang than khóc vì cô bé đã chết, nhưng Chúa nói với họ hãy bình tĩnh và họ dè bĩu Ngài. Đức Thánh Cha nói: ở đây chúng ta thấy “sự kiên nhẫn của Chúa Giêsu.”

Và khi đã làm con gái của ông trưởng hội đường sống lại, thay vì nói “Ngợi khen Chúa!”, Chúa Giêsu nói với họ: “Hãy cho cô ấy chút gì để ăn”. Đức Thánh Cha Phanxicô ghi nhận “Chúa Giêsu luôn nghĩ đến cả những điều nhỏ nhặt.”

Đức Thánh Cha chỉ ra rằng “Điều tôi mới vừa thực hiện với đoạn Tin Mừng này là một lời cầu nguyện trong chiêm ngắm: cầm lấy sách Phúc Âm, đọc và hình dung ra bối cảnh, tưởng tượng những gì xảy ra và thân thưa với Chúa Giêsu từ đáy lòng mình”:

“Bằng cách này chúng ta làm cho niềm hy vọng lớn dần lên, vì chúng ta dán mắt vào Chúa Giêsu. Tất cả chúng ta nên thực hành lối cầu nguyện chiêm ngắm này. Nhưng có người lại nói “Thưa cha, con còn bao nhiêu việc phải làm!” Lúc ở nhà, hãy dành 15 phút cầm lấy sách Phúc Âm, đọc và hình dung ra bối cảnh, tưởng tượng những gì xảy ra và thân thưa với Chúa Giêsu về đoạn sách ấy. Như thế, ánh mắt của anh chị em sẽ dán chặt vào Chúa Giêsu chứ không phải vào những phim truyện truyền hình. Đôi tai của anh chị em sẽ hướng về những lời của Chúa Giêsu chứ không còn lắng nghe quá nhiều tin nhảm nhí của chòm xóm nữa”.

“Đây là cách thế mà việc chiêm ngắm Lời Chúa sẽ giúp chúng ta lớn lên trong niềm hy vọng khi chúng ta sống bằng chất Tin Mừng! Hãy luôn luôn cầu nguyện”.

Đức Thánh Cha Phanxicô mời mọi người hãy “cầu nguyện, cầu nguyện với kinh Mân Côi, nói chuyện với Chúa, nhưng cũng thực hành việc suy gẫm Lời Chúa để dán ánh mắt chúng ta vào Chúa Giêsu”. Hy vọng sẽ đến từ cách cầu nguyện này, “đời sống Kitô hữu của chúng ta nở rộ trong bối cảnh đó, giữa ký ức và niềm hy vọng”.

“Ký ức về hành trình trong quá khứ, ký ức về những ân sủng nhận được từ Thiên Chúa. Và hy vọng, trong khi hướng về Chúa, là Đấng duy nhất có thể mang lại cho tôi niềm hy vọng. Và để có thể dán mắt vào Chúa, để biết Chúa, chúng ta hãy cầm lấy sách Phúc Âm hàng ngày và suy gẫm cầu nguyện. Ngày hôm nay, chẳng hạn, tôi dành ra 10-15 phút, không hơn, để đọc Tin Mừng, hình dung ra và thưa với Chúa đôi điều. Và không cần gì hơn. Như thế những hiểu biết của anh chị em về Chúa sẽ lớn lên và niềm hy vọng của anh chị em sẽ tăng trưởng. Đừng quên, dán ánh mắt của chúng ta vào Chúa Giêsu. Và để làm được điều này hãy suy gẫm cầu nguyện”.

5. Người cha phải luôn luôn hiện diện trong gia đình, trợ giúp vợ, và gần gũi với con cái

Điều cần thiết đầu tiên là người cha phải luôn luôn hiện diện trong gia đình. Ước chi ông gần gũi vợ để chia sẻ mọi sự vui buồn, mệt nhọc và hy vọng. Ước chi ông gần con cái trong sự lớn lên của chúng: khi chúng chơi đùa và khi chúng dấn thân, khi chúng vô tư và khi chúng lo lắng, khi chúng tự diễn tả và khi chúng nín lặng, khi chúng dám liều lĩnh và khi chúng sợ hãi, khi chúng đi sai một bước và khi chúng tìm lại đường đi

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong buổi tiếp kiến chung các tín hữu và du khách hành hương sáng thứ Tư 4 tháng 2 trong đại thánh đường Phaolô Đệ Lục.

Ngài đã tiếp tục trình bầy phần hai gương mặt của người cha trong gia đình. Lần trước ngài đã nói tới các người cha vắng mặt, lần này Đức Thánh Cha nhìn khía cạnh tích cực. Cả thánh Giuse cũng đã bị cám dỗ bỏ rơi Đức Maria, khi khám phá ra là Mẹ đã mang thai, Nhưng thiên thần Chúa can thiệp và vén mở cho thánh nhân biết chương trình của Thiên Chúa và sứ mệnh là cha nuôi. Và thánh Giuse, người công chính, “đã đón vợ về nhà mình” (Mt 1,24) và trở thành cha của gia đình Nagiarét.

Đức Thánh Cha nói:

Mỗi gia đình cần có người cha. Hôm nay chúng ta dừng lại trên giá trị vai trò của người cha, và tôi muốn khởi hành từ vài kiểu diễn tả trong sách Châm Ngôn, các lời mà một người cha nói với con mình: “Hỡi con, tâm trí con khôn ngoan, thì lòng dạ cha cũng vui sướng. Môi miệng con nói những lời chân thật, thì tâm hồn cha sẽ mừng rỡ hân hoan” (Cn 23,15-16). Không thể diễn tả tốt hơn sự hãnh diện và cảm động của một người cha thừa nhận đã thông truyền cho con trai điều thực sự quan trọng trong cuộc sống, hay một trái tim can đảm. Người cha này không nói: “Cha hãnh diện vì con, bởi con hoàn toàn giống cha, bởi vì con lập lại những điều cha nói và cha làm”. Không, ông không chỉ nói với con một điều gì thôi. Ông còn nói với con một cái gì quan trọng hơn nhiều, mà chúng ta có thể giải thích như sau: “Cha sẽ hạnh phúc, mỗi lần thấy con hành động khôn ngoan, và cha sẽ cảm động, mỗi khi nghe con nói với sự thẳng thắn. Đó là điều cha đã muốn để lại cho con , để nó trở thành của con: đó là thái độ cảm nhận và hành động, ăn nói và phán xử khôn ngoan và ngay thẳng. Và để cho con được như vậy cha đã dậy con những điều con không biết, cha dã sửa chữa các lầm lỗi mà con không thấy. Cha đã làm cho con cảm nhận được lòng trìu mến sâu thẳm và kín đáo, mà có lẽ con đã không hoàn toàn thừa nhận khi con còn trẻ và không chắc chắn. Cha đã cho con một chứng tá của sự nghiêm ngặt và cứng rắn mà có lẽ con đã không hiểu, khi con đã chỉ muốn sự đồng loã và che chở. Chính cha đã là người đầu tiên phải thử thách sự khôn ngoan của mình và canh chừng trên các thái qủa của tình cảm và oán hờn, để mang gánh nặng của các hiểu lầm không thể tránh được và tìm ra các lời nói đúng đắn để làm cho mình được hiểu. Giờ đây cha cảm động, khi cha thấy con tìm sống như vậy với các con của con và với tất cả mọi người. Cha hạnh phúc và thỏa mãn”. Đó là điều mà một người cha khôn ngoan và trưởng thành nói với con mình.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Một người cha biết rõ việc thông truyền gia tài này cho con mắc mỏ chừng nào: biết bao nhiêu sự gần gũi, biết bao nhiêu dịu hiền và biết bao nhiêu cứng rắn! Tuy nhiên ông nhận được biết bao an ủi và phần thưởng, khi các con vinh danh gia tài đó. Thật là một niềm vui chuộc lại mọi mệt nhọc, cao vượt hơn mọi hiểu lầm và chữa lành mọi vết thương. Tiếp đến Đức Thánh Cha nhấn mạnh sự hiện diện của người cha trong gia đình như sau:

Như thế, sự cần thiết đầu tiên là điều này: đó là người cha hãy luôn luôn hiện diện trong gia đình. Ước chi ông gần gũi vợ để chia sẻ mọi sự vui buồn, mệt nhọc và hy vọng. Ước chi ông gần con cái trong sự lớn lên của chúng: khi chúng chơi đùa và khi chúng dấn thân, khi chúng vô tư và khi chúng lo lắng, khi chúng tự diễn tả và khi chúng nín lặng, khi chúng dám liều lĩnh và khi chúng sợ hãi, khi chúng đi sai một bước và khi chúng tìm lại đường đi. Người cha hiện diện, luôn luôn hiện diện.

Nói hiện diện không giống như nói kiểm soát. Bởi vì các người cha kiểm soát quá thì huỷ diệt con cái, không để cho chúng lớn lên.

Phúc Âm nói với chúng ta mẫu gương của Người Cha ở trên Trời, Chúa Giêsu nói là Cha duy nhất, có thể gọi được là “Người Cha nhân hậu” (x. Mc 10,18). Tất cả đều biết dụ ngôn ngoại thường gọi là dụ ngôn “người con hoang đàng” hay đúng hơn “người cha thương xót” trong chương 15 Phúc Âm thánh Luca (x. 15,12-32). Biết bao nhiêu phẩm giá và hiền dịu trong việc chờ đợi của người cha đứng ở cửa nhà để chờ đứa con trở về! Các người cha phải kiên nhẫn. Biết bao lần có việc khác phải làm đang chờ; cầu nguyện, và chờ đợi với lòng kiên nhẫn, sự dịu hiền, độ lượng và thương xót.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Một người cha tốt biết chờ đợi và tha thứ, từ tận cùng thẳm con tim. Chắc chắn rồi, ông cũng biết sửa dậy con với sự cứng rắn: ông không phải là người mềm yếu, hay đầu hàng và tình cảm, Người cha biết sửa dậy không làm mất phẩm giá cũng là người cha biết che chở không tiết kiệm sức lực của mình.

Có một lần trong một cuộc họp hôn nhân tôi đã nghe một người cha nói: “Đôi khi con cũng phải đánh các con con một chút, nhưng không bao giờ đánh trên mặt để không làm mất phẩm giá của chúng. Thật đẹp biết bao. Ông ta có ý thức về phẩm giá. Ông phải phạt con, nhưng làm một cách đúng đắn và tiếp tục tiến bước.

Như vậy, nếu có người nào đó có thể giải thích tường tận kinh “Lậy Cha chúng con”, Chúa Giêsu đã dậy, thì đó chính là người đã sống chức làm cha. Nếu không có ơn thánh đến từ Cha trên trời, thì các người cha sẽ mất can đảm và bỏ cuộc. Nhưng con cái cần tìm thấy một người cha chờ đợi chúng, khi chúng trở về từ các thất bại của chúng. Chúng sẽ làm tất cả để không thừa nhận cha và để đừng thấy ông, nhưng chúng cần ông, và sự kiện không tìm thấy cha mở ra trong chúng các vết thương khó mà chữa lành.

Giáo Hội là mẹ chúng ta dấn thân nâng đỡ với tất cả sức lực của mình sự hiện diện nhân hậu quảng đại của các người cha trong các gia đình, bởi vì đối với các thế hệ mới họ là những người giữ gìn và trung gian không thể thay thế được của niềm tin nơi lòng tốt, công lý và sự chở che của Thiên Chúa, như thánh Giuse vậy.

6. Hãy chăm sóc người đau yếu vì họ chính là thân mình Đức Kitô

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Ngày thứ Tư 11 tháng 2 là lễ Đức Mẹ Lộ Đức. Giáo Hội Công Giáo long trọng cử hành Ngày thế giới các bệnh nhân lần thứ 23. Để chuẩn bị cho biến cố này trưa Chúa Nhật 08 tháng 02, trong buổi đọc kinh Truyền Tin trước sự hiện diện của hàng chục ngàn khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ mọi người hãy quan tâm chăm sóc những ai yếu đau bệnh tật vì họ chính là thân mình của Đức Ki-tô.

Đức Thánh Cha nói:

“Tin Mừng ngày hôm nay (Mc 1, 29 -39) giới thiệu cho chúng ta việc Đức Giêsu đã chữa lành tất cả những ai bệnh tật, sau khi đã giảng dạy trong hội đường ngày Sa-bát. Giảng dạy và chữa lành là những hoạt động chính yếu trong đời sống công khai của Đức Giêsu. Với việc rao giảng Ngài loan báo về Nước Thiên Chúa, và với việc chữa lành Ngài cho thấy rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần và đang ở giữa chúng ta.”

Nhắc đến sự quan tâm của Đức Giêsu đối với người bệnh tật, Đức Thánh Cha nói:

“Ngự đến trần gian để loan báo và hiện thực hóa sự cứu độ cho tất cả mọi người, Đức Giêsu đã bày tỏ một sự ưu ái đặc biệt đối với những ai đang bị tổn thương nơi thể xác cũng như tinh thần: những người nghèo khổ, các tội nhân, những người bị quỷ ám, những ai yếu đau, và cả những ai bị gạt ra ngoài lề xã hội. Như thế, Ngài tự mạc khải chính mình như lương y của tất cả các linh hồn và mọi thể xác, như người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu vậy.”

Mời gọi phản tỉnh về ý nghĩa của việc chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu, Đức Thánh Cha nói:

“Thực tại của việc chữa lành các bệnh tật của Đức Giêsu mời gọi chúng ta phản tỉnh về ý nghĩa và giá trị của bệnh tật. Đây cũng là điều mà Ngày Quốc tế bệnh nhật - vốn sẽ được cử hành vào ngày thứ Tư tuần tới 11 tháng 02, dịp lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria Lộ Đức - cũng tái kêu gọi chúng ta.”

Nhắc đến vai trò của Giáo Hội với người đau bệnh, Đức Thánh Cha nói:

“Hoạt động cứu độ của Đức Ki-tô không chỉ diễn ra cùng với con người và cuộc sống tại thế của Ngài nhưng vẫn còn tiếp diễn thông qua Giáo Hội, bí tích của tình yêu và sự âu yếm của Thiên Chúa dành cho con người. Sai phái những môn đệ của mình trong các sứ mạng, Đức Giêsu ban cho họ một sự ủy thác kép: loan báo Tin Mừng cứu độ và chữa lành những bệnh tật (Mt 10, 7-8). Tin vào giáo huấn này, Giáo Hội đã luôn dành sự quan tâm hỗ trợ hết mình đối với những ai bệnh tật trong sứ mạng của mình.

“Những người nghèo khó và những người đau khổ lúc nào cũng ở bên cạnh các ngươi”, Đức Giêsu cảnh báo như thế (Mt 26,11), và Giáo Hội tiếp tục tìm kiếm họ trên các ngả đường, quan tâm đến những ai yếu đau như một phương thế đặc quyền để gặp gỡ Đức Ki-tô, để đón nhận Ngài và phục vụ Ngài. Quan tâm đến một người yếu đau, đón nhận người đó, phục vụ người đó là phục vụ Đức Ki-tô: người yếu đau là thịt của Đức Ki-tô.

Điều này cũng diễn ra trong thời đại của chúng ta, khi, mặc dù có những thành tựu của khoa học, sự đau khổ nội tâm và thể xác của con người vẫn gợi lên những vấn nạn trầm trọng về ý nghĩa của bệnh tật và đau khổ và cả nguyên do của cái chết. Đó là những câu hỏi mang tính hiện sinh để những hoạt động mục vụ của Giáo Hội phải trả lời trong ánh sáng của đức tin, khi đối diện với Thánh giá trước mắt mình, rằng đó là tất cả những gì xuất hiện trong mầu nhiệm cứu chuộc của Thiên Chúa Cha, Đấng vì tình yêu đối với con người, đã không tiếc xót trao ban Người Con Một (Rm 8, 32).”

Kêu gọi mọi người hãy quan tâm đến người đau bệnh, Đức Thánh Cha nói:

“Bởi thế, mỗi người chúng ta được kêu gọi để mang ánh sáng của Lời Chúa và uy lực của ân sủng cho những ai đang đau khổ và những ai đang nâng đỡ họ, như những người thân trong gia đình, các bác sĩ, y tá, bởi vì phục vụ người yếu đau chỉ có thể được thực hiện cùng với lòng nhân đạo, cùng với sự dấn thân quảng đại, cùng với tình yêu của tin mừng, và cùng với sự âu yếm. Mẹ Giáo Hội, thông qua những cánh tay nối dài của chúng ta, ôm ấp những người đau khổ và quan tâm những ai bệnh tật với tình mẫu tử âu yếm.”

Cuối bài giảng, Đức Thánh Cha kêu gọi: “Chúng ta hãy nài xin Đức Maria, Sức mạnh của những người đau ốm, chuyển cầu để mỗi người khi đau bệnh có thể cảm thấy sự nâng đỡ từ sự chăm sóc của những người ở bên cạnh, cũng như sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa và sự an ủi vì tình mẫu tử âu yếm của Mẹ.”