Ngày 05-04-2019
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:15 05/04/2019
130. Tôi càng hiểu sự cao quý của tôi thì càng làm cho tôi cảm thấy kinh hoàng và hổ nhục, bởi vì cho đến nay cuộc sống của tôi không giống như thế. (Thánh Bernardus)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


---------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:18 05/04/2019
78. LẤY LỪA ĐỔI NGỰA

Có người nọ cưỡi con lừa ốm ra khỏi nhà, trên đường đi gặp một người cưỡi con tuấn mã, bèn vội vàng xuống khỏi con lừa, khách sáo nói:

- “Tôi bằng lòng đem con lừa này đổi lấy con ngựa của anh.”

Người cưỡi ngựa cảm thấy có hào khí, bèn nói:

- “Anh không đần độn chứ ?”

Người cưỡi lừa nói:

- “Tôi coi anh là người chậm chạp không dứt khoát, tôi đang muốn nói anh là người đần độn đấy mà !”

(Tiếu phủ)

Suy tư 78:

“Cả vú lấp miệng em” là như thế, không thấy việc mình làm điều mình nói là chướng mắt chướng tai mọi người, cũng không khiêm tốn chấp nhận cái sai của mình.

Có những người thích nạt nộ người khác mà không thích người khác “nạt nộ” mình, đó là một bất công; có những người thích chỉ trích người khác mà không thích người khác góp ý cho mình, đó là một thiếu sót to lớn; có những người thích nói sau lưng người khác, nhưng nếu có ai nói sau lưng họ thì họ la toáng chửi lên ầm ỉ, đó là một cái xấu của tiểu nhân.

Người Ki-tô hữu thì không la toáng lên để lấp cái sai của mình, nhưng họ thành thật chấp nhận cái sai của mình, đó là sự công bằng; người Ki-tô hữu thì không thích chỉ trích người khác, nhưng biết nhận ra lời chỉ trích của người khác đối với mình là yêu thương mình; người Ki-tô hữu thì không nói sau lưng người khác, nhưng chân thành góp ý cho anh em vì tinh thần bác ái của Phúc Âm.

Tại sao người ngoại giáo chưa nhận ra Chúa là Thiên Chúa ? Thưa, bởi vì có nhiều người Ki-tô hữu luôn lấy Lời Chúa biện minh cho hành vi sai trái của mình, và chưa thực hành Lời Chúa trong cuộc sống.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:52 05/04/2019

131. Địa vị rất cao mà tâm chí hèn hạ, ăn ở cao sang mà cuộc sống ti tiện, miệng nói lời hay mà không muốn làm, nói lời rỗng tuếch quá nhiều mà không thực hành, mặt mày uy trọng mà hành vi cợt nhã, quyền thế hiển hách mà trong lòng hay thay đổi, những việc đó chính là bẩn xấu xa thỉu.

(Thánh Bernardus)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


-----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:54 05/04/2019
79. NHẬN GIÀY BẮT GIAN DÂM

Có một phụ nữ ban đêm tư thông với người hàng xóm, chồng trở về bắt gặp, người hàng xóm nhảy qua cửa sổ chạy mất, ông chồng nhặt được chiếc giày của người hàng xóm, nộ khí xung thiên chửi mắng bà vợ một trận, nói:

- “Đợi trời sáng, coi chiếc giày này của ai rồi ta sẽ tính sổ với mụ !”

Sau đó gối trên chiếc giày mà ngủ, bà vợ nhân lúc chồng đang ngủ say bèn lấy giày của chồng mang đi, ông chồng ngủ say nên không biết.

Trời sáng, ông ta vừa thức dậy thì liền chửi vợ, vợ bèn hỏi ông:

- “Ông nhìn chiếc giày này coi”.

Chồng liếc mắt nhìn thì đúng là chiếc giày của mình thì rất hối hận nói:

- “Tôi trách nhầm bà rồi, té ra người nhảy cửa sổ tối hôm qua lại là tôi.”

(Tiếu phủ)


Suy tư 79:

Thời nay có những ông chồng vì ghen mà giết vợ, có những bà vợ vì “chạy theo cái mã bên ngoài” mà quên mất đạo lý phu phụ của mình.

Thời nay cũng có những ông chồng vì không kiếm ra việc làm nên để vợ ngoại tình mà ngồi bất lực ấm ức trong tâm, và có những bà vợ suốt ngày chửi mắng xỏ xiên chồng con mà không biết an ủi chồng khi họ thất thế sa cơ...

Nhưng thời nay vẫn còn đó những ông chồng hết lòng yêu thương vợ con cho dù họ rất giàu có, vẫn còn có những bà vợ hết mực yêu kính chồng và nuôi dạy tốt con cái dù gia cảnh có nghèo hèn...

Đừng kiếm cớ để xua đuổi hạnh phúc gia đình, nhưng hãy tìm kiếm lý do chính đáng để xua đuổi ý tưởng không tốt trong đời sống hôn nhân của chúng ta, nhưng xét cho cùng thì không có lý do chính đáng nào cả, bởi vì bí tích hôn phối đã gắn kết họ đời đời với nhau rồi.

Chỉ có một lý do duy nhất bởi ma quỷ đem đến làm cho hạnh phúc gia đình tan vỡ là: ích kỷ.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


-------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Tuần SỐNG Một Câu Lời Chúa (CN 5 MC)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:55 05/04/2019
Chúa Nhật 5 MÙA CHAY

Tin mừng: Ga 8, 1-11

“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.”


Bạn thân mến,

Có một câu chuyện ngụ ngôn như sau:

“Mọi người nhao nhao chế nhạo con giun đất:

- Mày không có mắt, không thể thấy.

- Mày không có tai, không thể nghe.

- Mày không có chân, không thể đi.

- Mày không có cánh, không thể bay.

- Mày là một phế vật cái gì cũng không có...!

Giun đất khóc lớn tố khổ với Đấng Tạo Hóa:

- “Tại sao Ngài dựng nên con thấp kém hèn mọn không có gì là có lợi...”

- “Này con, bản thân của sinh mệnh là không phân biệt cao thấp quý tiện”- Đấng Tạo Hóa buồn thương nói tiếp: “Ta không coi thường con, tại sao con lại tự coi thường mình chứ ?...”


Trong cuộc sống hàng ngày,

- Có những lúc chúng ta chế nhạo người tội lỗi: Mày là đứa tội lỗi không xứng đáng đến nhà thờ.

- Có những lúc chúng ta cười nhạo người mới theo đạo: Mày là đứa đạo theo, biết gì giáo lý mà nói.

- Có những lúc chúng ta cười nhạo người anh em nghèo khó: Mày là đứa nghèo mạt rệp không xứng đáng làm bạn với tao.

- Có những lúc chúng ta cười chế nhạo người dốt nát: Mày một chữ cắn đôi cũng không biết không được tham gia vào công tác nhà xứ.

- Có những lúc chúng ta cười chế nhạo người tàn tật: Mày là thứ đui què không làm được gì cho ai.

- Có những lúc chúng ta cười khinh chê cô gái đứng đường: Đồ thứ đĩ điếm dơ bẩn...


Bạn thân mến,

Chúng ta kết án tha nhân như những người Pha-ri-siêu và biệt phái kết án người phụ nữ ngoại tình, trong khi đó chúng ta là những tội nhân trước mặt Thiên Chúa. Mỗi một người là một tạo vật có giá trị như nhau trước mặt Thiên Chúa, cho nên dù họ có xấu xí, thất học, nghèo nàn hay tội lỗi hoặc là người mới theo đạo, thì thái độ mà chúng ta nên có đối với họ chính là tôn trọng, cảm thông và cầu nguyện...

“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Vâng, nếu ai trong chúng ta tự cho mình là vô tội thì hãy lên án tha nhân trước đi !

Đúng là lời cảnh cáo nghiêm khắc với chúng ta là những người thích lên án tha nhân và anh chị em mình.

Xin Chúa chúc lành cho chúng ta.

---------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tờ Avvnire: Sau 15 tháng sống tại Medjugorje, Đặc sứ của Đức Thánh Cha nói gì?
Đặng Tự Do
00:02 05/04/2019
Tờ Avvnire, nghĩa là Tương lai, là nhật báo của Hội Đồng Giám Mục Ý, đặt trụ sở ở thành phố Milan, với số phát hành lên đến hơn 100,000 ấn bản mỗi ngày. Trong số ra ngày thứ Năm 4 tháng Tư ký giả Vincenzo Varagona đã có cuộc phỏng vấn với Đức Tổng Giám Mục Henryk Hoser là Đặc sứ của Đức Thánh Cha tại Medjugorje mà người Việt thường gọi là Mễ Du.

Nguyên bản tiếng Ý “Inviato di papa Francesco. Parla monsignor Hoser: Medjugorje segno di una Chiesa viva”, có thể xem ở đây. Dưới đây là bản dịch sang Việt ngữ:

Được Đức Thánh Cha Phanxicô gởi đến, Đức Cha Hoser nói: Medjugorje là dấu chỉ của một Giáo hội sống động.
Vincenzo Varagona

“Medjugorje là dấu chỉ của một Giáo hội sống động,” Đức Tổng Giám Mục Henryk Hoser, người Ba Lan, cho tờ Avvnire biết như trên sau 15 tháng thay mặt cho Đức Thánh Cha tại đây. Ngài từng được bổ nhiệm tại Phi châu, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Ba Lan, trước khi được Đức Thánh Cha Phanxicô gởi đến Medjugorje, một giáo xứ trong vùng Balkan được toàn thế giới biết đến sau các báo cáo cho rằng Đức Mẹ đã hiện ra bắt đầu từ ngày 26 tháng 6 năm 1981. Một số trong sáu người được tin là đã thấy Đức Mẹ hiện ra cho rằng Đức Mẹ vẫn tiếp tục hiện ra.

Đức Tổng Giám Mục Hoser đã dành cho tờ Avvnire cuộc phỏng vấn sau đây khi ngài vừa chấm dứt một bài giáo lý cho một nhóm rất đông những người hành hương Ý, trong “căn phòng màu vàng” rất rộng lớn, là nơi cũng được sử dụng để các tín hữu có thể theo dõi các nghi thức Phụng Vụ qua các màn ảnh truyền hình được đặt nơi đây, vì ngôi nhà thờ lớn đã trở nên không đủ chỗ.

Vincenzo Varagona: Khung cảnh trước mắt chúng ta là một ngôi “nhà thờ chính tòa” được mọc lên không thể giải thích được trong một vùng nông thôn không có người ở.

Đức Tổng Giám Mục Hoser: Đó là một dấu chỉ tiên tri. Ngày nay khách hành hương đến từ khắp nơi trên thế giới, từ 80 quốc gia. Mỗi năm chúng tôi tiếp gần ba triệu người.

Vincenzo Varagona: Đức Cha đánh giá thế nào về thực tại này?

Đức Tổng Giám Mục Hoser: Tôi đánh giá trên ba bình diện. Thứ nhất là trên bình diện địa phương, giáo xứ; thứ hai là trên bình diện quốc tế, được nối kết với lịch sử của miền đất này, nơi có những người Croatia, Bosnia, Công Giáo, Hồi giáo, Chính thống; và thứ ba là bình diện toàn cầu, với các tín hữu đến từ mọi lục địa, đặc biệt là người trẻ.

Vincenzo Varagona: Trước những hiện tượng như thế này, luôn luôn có những ý kiến trái ngược được thảo luận một cách thẳng thắn, Đức Cha có ý kiến gì không?

Đức Tổng Giám Mục Hoser: Medjugorje không còn là một nơi bị “nghi ngờ”. Tôi được Đức Giáo Hoàng phái đến để đánh giá hoạt động mục vụ tại giáo xứ này, nơi lòng đạo đức bình dân rất mãnh liệt, được hình thành một mặt từ những hoạt động phụng tự truyền thống như đọc Kinh Mân Côi, chầu Thánh Thể, các cuộc hành hương, Đàng Thánh Giá; và mặt khác là các hoạt động đâm rễ trong các bí tích, ví dụ như bí tích Hòa giải.

Vincenzo Varagona: So với các kinh nghiệm Đức Cha đã trải qua ở các nơi khác, điều gì đánh động Đức Cha nhất ở đây?

Đức Tổng Giám Mục Hoser: Đây là một môi trường thích hợp cho im lặng và chiêm niệm. Bầu khí cầu nguyện lan tỏa không chỉ dọc theo Đàng Thánh Giá, mà còn trong “tam giác” được vẽ từ nhà thờ San Giacomo, đến ngọn đồi hiện ra và chấm dứt ở núi Krizevac. Trên đỉnh núi này từ năm 1933 đã có một cây thánh giá lớn màu trắng, được dựng lên nửa thế kỷ trước khi có các cuộc hiện ra, nghĩa là vào năm thứ 1,900 năm sau cái chết của Chúa Giêsu. Những điểm này là yếu tố cấu thành cuộc hành hương đến Medjugorje. Phần đông các tín hữu không đến đây vì các cuộc hiện ra. Bầu khí thinh lặng cầu nguyện với những giai điệu nhẹ nhàng của âm nhạc hài hòa là một phần của văn hóa này, trầm buồn, sâu lắng, nhưng đầy sự dịu dàng. Nhiều bản nhạc của cộng đoàn Taizé được dùng, tạo nên bầu khí thích hợp để suy gẫm, chiêm niệm, phân tích đời sống của mình và cuối cùng đối với nhiều người là hoán cải. Nhiều người chọn những giờ vào ban đêm để đi lên các đồi hiện ra và lên cả núi Thánh giá Krizevac.

Vincenzo Varagona: Mối quan hệ của Đức Cha với các “thị nhân” như thế nào, thưa Đức Cha?

Đức Tổng Giám Mục Hoser: Tôi đã gặp tất cả. Lúc đầu tôi gặp bốn người, rồi hai người kia nữa. Mỗi người trong số họ có câu chuyện riêng, một gia đình riêng. Tuy nhiên, điều quan trọng là họ phải tham gia vào cuộc sống của giáo xứ.

Vincenzo Varagona: Công việc của Đức Cha tại đây như thế nào?

Đức Tổng Giám Mục Hoser: Tôi chú trọng đặc biệt đến vấn đề củng cố đời sống tâm linh. Tất nhiên, không dễ để nói về điều đó với những người, mà lúc này lúc khác bằng các phương pháp khác nhau, tuyên bố rằng mình đã nhận được thông điệp của Đức Mẹ trong gần 40 năm qua. Tất cả chúng ta đều biết rằng tất cả mọi người, kể cả các giám mục, đều cần phải được liên tục củng cố đời sống tâm linh, trong bối cảnh cộng đồng thậm chí điều này còn cần hơn thế nữa. Đời sống tâm linh là một chiều kích cần phải được củng cố, với lòng kiên nhẫn.

Vincenzo Varagona: Đức Cha có thấy nguy cơ tập chú quá mức vào việc tôn sùng Đức Mẹ không?

Đức Tổng Giám Mục Hoser: Chắc chắn không. Lòng đạo đức bình dân nơi đây tập trung vào Mẹ Maria, Nữ Vương hòa bình, nhưng đó vẫn là việc phụng tự có tính “Christocentric”, nghĩa là quy hướng về Chúa Kitô.

Vincenzo Varagona: Các căng thẳng với Giáo phận Mostar có giảm bớt không, thưa Đức Cha?

Đức Tổng Giám Mục Hoser: Đã có những hiểu lầm về chủ đề của các cuộc hiện ra, chúng tôi đã đặt ở trung tâm các mối quan hệ và trên hết là sự hợp tác trong lãnh vực mục vụ, kể từ đó các mối quan hệ đã phát triển không có nghi ngại nào nữa.

Vincenzo Varagona: Đức Cha nghĩ tương lai của Medjugorje sẽ như thế nào?

Đức Tổng Giám Mục Hoser: Thật không dễ để trả lời câu hỏi này. Nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Nhưng tôi có thể nói về những gì đã đạt được và đạt được ra sao. Đó là một kinh nghiệm sâu sắc với 700 ơn gọi đời sống thánh hiến và linh mục, điều đó chắc chắn chỉ có thể có được khi bản sắc Kitô được củng cố, trong đó con người, qua Đức Maria, quay về với Chúa Kitô phục sinh. Đối với bất kỳ ai đến với nơi này, Medjugorje đưa ra hình ảnh của một Giáo hội vẫn sống động và đặc biệt là trẻ trung.

Vincenzo Varagona: Thưa Đức Cha, đâu là điều đánh động ngài nhất trong những tháng ngày sống ở đây?

Đức Tổng Giám Mục Hoser: Giáo xứ này là một giáo xứ nghèo, với một vài linh mục được làm giàu về mặt tâm linh nhờ có nhiều linh mục nước ngoài đi cùng với những người hành hương. Không chỉ có thế, chúng tôi còn có thêm nhân sự. Có một anh chàng người Úc, một người nghiện rượu, và nghiện cả ma túy. Tại đây, anh ta đã hoán cải và quyết định trở thành một linh mục. Tôi rất cảm động trước hàng dài những người đến với bí tích hòa giải. Có những người đến đây chỉ để xưng tội. Tôi có ấn tượng sâu sắc trước hàng ngàn gương hoán cải.

Vincenzo Varagona: Đức Cha có nghĩ là sự đột phá này cũng có thể đến từ sự công nhận Medjugorje như một giáo xứ trực thuộc Tòa Thánh?

Đức Tổng Giám Mục Hoser: Tôi không loại trừ điều này. Việc có một đặc sứ của Đức Thánh Cha tại đây đã được hoan nghênh, như một dấu chỉ của sự cởi mở đối với một biến cố tôn giáo có tầm mức quan trọng đến mức nơi đây đã trở thành một điểm tham chiếu quốc tế.
Source:Avvnire
 
Nữ tu Eugenia Bonetti sẽ biên soạn các bài suy niệm Đàng Thánh Giá ngày Thứ Sáu Tuần Thánh 2019 tại Colôsêô
Đặng Tự Do
06:18 05/04/2019
Hôm thứ Sáu 5 tháng Tư, Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết:

“Năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ủy thác việc biên soạn các bài suy niệm các chặng Đàng Thánh Giá Thứ Sáu Tuần Thánh tại Đấu trường Colôsêô cho nữ tu Eugenia Bonetti, thuộc dòng thừa sai Consolata [Yên Ủi], và là Chủ tịch Hiệp hội ‘Slaves no More’ [‘Không còn nô lệ nữa’].

Sự đau khổ của nhiều người là nạn nhân của nạn buôn người sẽ là chủ đề chính của các bài suy niệm.”

Sơ Eugenia Bonetti có bằng Thạc sĩ về Tư Vấn và là thành viên của Liên hiệp các Bề trên Thượng cấp của Italia, phụ trách lãnh đạo công tác chống buôn người. Trong vai trò này, Sơ Bonetti phụ trách 250 nữ tu trên khắp thế giới, là những người làm việc để giúp các cô gái trẻ và các phụ nữ thoát khỏi những mạng lưới mại dâm.

Sơ Bonetti đã xuất hiện trong bộ phim tài liệu “Not My Life”, trong đó sơ nói về công việc của mình ở Ý. Năm 2005, Sơ Bonetti tham gia một hội nghị do Tòa Thánh tài trợ để tìm hiểu cách thế Giáo Hội Công Giáo có thể chăm sóc mục vụ tốt hơn cho những phụ nữ bị ép làm gái mại dâm.

Sơ Bonetti được đưa vào danh sách mười người hàng đầu thế giới năm 2007 do tờ Inside the Vatican bình chọn.

Sơ Bonetti đã giành được Giải thưởng Phụ nữ Can đảm Quốc tế năm 2007 và giải thưởng Công dân Châu Âu năm 2013.

Theo chương trình, lúc 9 giờ 15 phút tối thứ Sáu Tuần thánh, 19 tháng Tư, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hý trường Colosseo ở Roma.

Nghi thức này được hàng chục đài truyền hình trên thế giới truyền đi trên hệ thống Mondovisione. Có khoảng 20 ngàn tín hữu đã đến tham dự nghi thức này.

Truyền thống đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hý trường Colosseo đã được người Công Giáo Rôma thực hành trong nhiều thế kỷ bắt đầu từ thế kỷ 18 dưới thời Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 14, và được hồi sinh vào năm 1964 bởi Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục.

Từ thời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hý trường Colosseo cũng trở thành một sự kiện được truyền hình trên toàn thế giới.

Ban đầu, chính Đức Giáo Hoàng tự mình vác thập tự giá từ chặng này sang chặng khác, nhưng trong những năm cuối đời ngài, khi tuổi tác và bệnh tật hạn chế sức khoẻ của ngài, Đức Gioan Phaolô II đã chủ sự buổi lễ từ một khán đài trên đồi Palatine. Chỉ vài ngày trước khi qua đời vào năm 2005, Đức Gioan Phaolô II đã theo dõi buổi đi đàng Thánh Giá từ nhà nguyện riêng của ngài trong khi Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin chủ sự toàn bộ buổi lễ.

Truyền thống viết các bài Suy Niệm 14 chặng Đàng Thánh Giá tại Colosseum khác với những bài nguyện ngắm như trong các kinh bổn thường đọc đã được bắt đầu với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào năm 1991. Văn bản các chặng Đàng Thánh Giá ngày Thứ Sáu Tuần Thánh tại Colosseum phản ảnh cái nhìn của Giáo Hội Công Giáo trước thực trạng văn hóa, xã hội và luân lý trong xã hội đương đại. Nó cũng nêu bật tình trạng bị bách hại của các Kitô hữu trên toàn thế giới, tình trạng bất công, những khổ đau của người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Nhiều bài suy niệm đã đi vào lịch sử như những áng văn chương tuyệt tác như bài Suy Niệm 14 chặng Đàng Thánh Giá tại Colosseum vào năm 2007 của Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Di Sản Văn Hoá của Giáo Hội.
Source:Holy See Press Office
 
ĐGH Phanxicô tông du Mozambique, Madagascar và Mauritius tháng 9 năm nay.
Nguyễn Long Thao
10:15 05/04/2019
Vatican: Ngày 27 tháng 3 năm 2019, Tòa Thánh đã công bố chuyến tông du của ĐGH Phanxicô đến Mozambique, Madagascar và Mauritius.

Chuyến tông du sẽ diễn ra từ ngày 4 tháng 9 đến ngày 8 tháng 9 năm 2019.

Theo dự trù, Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm các thành phố Maputo ở Mozambique, Antananarivo ở Madagascar và cảng Louis ở Mauritius.

Tổng thống Andry Rajoelina cùng với giới chức cao cấp của Giáo Hội Công Giáo đã họp tại Soamandrakizay, Androhibe đê hoạch định chương trình nghênh đón ĐGH.

Tại đây, Tổng thống Andry Rajoelina cho biết, trong vài ngày tới, chính quyền sẽ cho xây cất một kiến trúc để ĐGH cử hành thánh lễ cho công chúng vào ngày lễ Sinh Nhật Đức Mẹ là ngày 8 tháng 9.

Giáo dân Madagascar vui mừng được tin ĐGH Phanxicô sẽ viếng thăm quốc gia của họ.

Chuyến viếng của ĐGH Phanxicô đến đảo quốc miền nam châu Phi lần này là lần thứ hai. ĐGH Gioan Phaolô II đã viếng thăm vùng đảo quốc này vào năm 1989

Nguyễn Long Thao
 
Toàn văn Tông Huấn ''Christus vivit'' của Đức Phanxicô, chương ba
Vũ Văn An
22:57 05/04/2019
CHƯƠNG BA: Các bạn là “lúc bây giờ” của Chúa

64. Sau khi ngắn gọn xem xét lời Chúa, chúng ta không thể chỉ nói rằng người trẻ là tương lai của thế giới chúng ta. Họ là hiện tại của nó; ngay cả bây giờ, họ đang giúp làm giàu nó. Người trẻ không còn là trẻ con. Họ đang ở thời điểm của cuộc sống lúc họ bắt đầu đảm nhận một số trách nhiệm, tham dự cùng với người lớn vào sự phát triển gia đình, xã hội và Giáo hội. Tuy nhiên, thời thế đang thay đổi, khiến chúng ta phải đặt câu hỏi: Người trẻ ngày nay thực sự là thế nào? Điều gì đang diễn ra trong cuộc sống của họ?



Trong các điều tích cực

65. Thượng hội đồng nhìn nhận rằng các thành viên của Giáo hội không phải lúc nào cũng tiếp nhận cách tiếp cận của Chúa Giêsu. Thay vì lắng nghe các người trẻ một cách chăm chú, thì quá thường xuyên, có xu hướng cung cấp các câu trả lời đóng gói sẵn và các giải pháp làm sẵn, mà không cho phép các câu hỏi thực sự của họ được nêu ra và đối đầu với các thách thức mà họ đặt ra. [24] Tuy nhiên, một khi Giáo hội gạt bỏ các định kiến hẹp hòi và lắng nghe giới trẻ một cách cẩn thận, sự đồng cảm (empathy) này làm phong phú thêm cho Giáo hội, vì “nó cho phép người trẻ đóng góp cho cộng đồng, giúp họ đánh giá cao các nhạy cảm mới và xem xét các câu hỏi mới” [25 ].

66. Người lớn chúng ta thường bị cám dỗ muốn liệt kê mọi nan đề và sai sót của người trẻ ngày nay. Có lẽ một số người còn thấy đáng khen khi chúng ta dường như rất có chuyên môn trong việc biện phân các khó khăn và nguy hiểm. Nhưng kết quả của một thái độ như vậy là chi? Khoảng cách lớn hơn, ít gần gũi hơn, ít hỗ trợ lẫn nhau hơn.

67. Bất cứ ai được kêu gọi làm cha, mục tử và người hướng dẫn tuổi trẻ phải có tầm nhìn xa để đánh giá cao ngọn lửa nho nhỏ tiếp tục bùng cháy, cây sậy mỏng manh bị lúc lắc nhưng không bị đập gẫy (xem Is 42:3). Khả năng biện phân được đường đi ở chỗ các người khác chỉ nhìn thấy các bức tường, nhận ra tiềm năng ở chỗ các người khác chỉ nhìn thấy hiểm họa. Đó là cách Thiên Chúa Cha nhìn sự vật; Người biết cách trân trọng và nuôi dưỡng các hạt giống của lòng tốt gieo trong lòng người trẻ. Do đó, cõi lòng mỗi người trẻ nên được coi là “mảnh đất thánh thiêng, mang hạt giống sự sống thần thiêng, mà trước nó, chúng ta phải cởi giày của mình ra mới có thể đến gần và bước vào Mầu Nhiệm sâu hơn.

Nhiều cách để trẻ trung

68. Chúng ta dám cố gắng vẽ ra một bức tranh của người trẻ ngày nay, nhưng trước tiên, tôi muốn nhắc lại lời các nghị phụ; các ngài từng lưu ý rằng “thành phần Thượng Hội Đồng mang lại sự hiện diện và đóng góp của nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, và làm nổi bật vẻ đẹp của việc chúng ta là một Giáo hội hoàn vũ. Trong bối cảnh hoàn cầu hóa ngày càng gia tăng, các nghị phụ Thượng Hội Đồng muốn thấy nhiều sự khác biệt về bối cảnh và văn hóa, cả trong các quốc gia cá thể, được nhấn mạnh một cách thích đáng. Các thế giới ‘tuổi trẻ’ ngày nay nhiều đến nỗi ở một số quốc gia, người ta có xu hướng nói đến ‘các người trẻ’ ở số nhiều. Nhóm tuổi (16-29 tuổi) được Thượng hội đồng xem xét không đại diện cho một thể loại đồng nhất, nhưng bao gồm các nhóm khác biệt, mỗi nhóm có trải nghiệm cuộc sống riêng của mình [26].

69. Lại nữa, do quan điểm nhân khẩu học, một số quốc gia có nhiều người trẻ tuổi, trong khi các nước khác có tỷ lệ sinh rất thấp. Một nhân tố dị biệt hóa nữa có tính lịch sử: có các quốc gia và lục địa thuộc truyền thống Kitô giáo cổ xưa, với một nền văn hóa được đánh dấu hết sức sâu đậm bởi một ký ức không dễ dàng bị gạt bỏ, trong khi các quốc gia và lục địa khác được đặc trưng bởi các truyền thống tôn giáo khác, trong đó Kitô giáo chỉ là một hiện diện thiểu số - và đôi khi mới có đây. Lại ở các nơi khác, các cộng đồng Kitô giáo và các người trẻ thuộc các cộng đồng này, đang kinh qua cuộc bách hại [27]. Cũng cần phải phân biệt các người trẻ “được tiếp cận với các cơ hội ngày càng tăng do hoàn cầu hóa mang lại với các người trẻ sống ở rìa xã hội hoặc ở các khu vực nông thôn, và thấy mình bị loại trừ hoặc bị vứt bỏ” [28].

70. Có nhiều sự khác biệt hơn nữa, các khác biệt khó khảo sát ở đây. Dù sao, tôi thấy không cần phải phân tích chi tiết về người trẻ ngày nay, cuộc sống và kinh nghiệm của họ. Đồng thời, vì tôi không muốn bỏ qua thực tại đó, tôi sẽ tóm tắt ngắn gọn một số đóng góp nhận được trước Thượng hội đồng và các nơi khác tôi đã nghe được trong diễn trình hội họp.

Một số kinh nghiệm của người trẻ

71. Tuổi trẻ không phải là một điều để phân tích một cách trừu tượng. Thật vậy, ‘tuổi trẻ’ không hiện hữu: chỉ hiện hữu các người trẻ tuổi, mỗi người với thực tại cuộc sống của chính họ. Trong thế giới thay đổi nhanh chóng ngày nay, nhiều cuộc đời này phải giáp mặt với đau khổ và thao túng.

Sống trong một thế giới khủng hoảng

72. Các nghị phụ Thượng hội đồng thừa nhận với nỗi buồn rằng nhiều người trẻ ngày nay đang sống trong các vùng chiến tranh và kinh qua bạo lực dưới man vàn hình thức khác nhau: bắt cóc, tống tiền, tội phạm có tổ chức, buôn bán người, nô lệ và bóc lột tình dục, hiếp dâm thời chiến, v.v. Các người trẻ khác, vì đức tin của họ, đang phải đấu tranh để tìm được chỗ đứng trong xã hội và chịu đựng nhiều loại bách hại, thậm chí bị giết. Nhiều người trẻ, bất kể bằng vũ lực hay vì thiếu các phương thức thay thế, đang sống bằng cách phạm tội ác và các hành vi bạo lực: lính trẻ em, băng đảng tội phạm có vũ trang, buôn bán ma túy, khủng bố, vân vân. Bạo lực này phá hủy nhiều cuộc sống trẻ. Lạm dụng và nghiện ngập, cùng với bạo lực và hành vi sai trái, là một số lý do khiến người trẻ vào tù, với tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở một số nhóm sắc tộc và xã hội nhất định [29].

73. Nhiều người trẻ tuổi bị cuốn theo ý thức hệ, được sử dụng và khai thác làm bia đỡ đạn hoặc lực lượng xung kích nhằm tiêu diệt, khủng bố hoặc chế giễu người khác. Tệ hơn nữa, nhiều người trong số họ kết cục thành các người theo chủ nghĩa cá nhân, thù địch và không tin tưởng vào người khác; bằng cách này, họ trở thành một mục tiêu dễ dàng cho các chiến lược tàn bạo và phá hoại của các nhóm chính trị hoặc các thế lực kinh tế.

74. “Lại còn nhiều người hơn nữa trên thế giới là các người trẻ chịu các hình thức bị đẩy ra bên lề và loại trừ về phương diện xã hội, vì các lý do tôn giáo, sắc tộc hoặc kinh tế. Ta hãy nhớ đến hoàn cảnh khó khăn của các thiếu nữ và thiếu phụ mang thai, đại họa phá thai, cũng như sự lây lan của HIV, các hình thức nghiện ngập khác nhau (ma túy, trò chơi may rủi, văn hóa khiêu dâm, v.v.) và tình trạng các trẻ em và thanh thiếu niên đường phố không nhà, không gia đình, không tài nguyên kinh tế” [30]. Trong trường hợp phụ nữ, các tình huống này càng đau đớn và khó khăn gấp đôi.

75. Là một Giáo hội, ước chi chúng ta đừng bao giờ không khóc trước các bi kịch này của tuổi trẻ. Ước chi chúng ta không bao giờ trở nên vô cảm (inured) đối với chúng, vì bất cứ ai không có khả năng rơi nước mắt đều không thể làm mẹ. Chúng ta muốn khóc để xã hội có thể trở thành một người mẹ, để thay vì sát hại, nó có thể học cách sinh con, trở thành một lời hứa ban sự sống. Chúng ta khóc khi nghĩ đến tất cả các người trẻ đã mất mạng vì nghèo đói và bạo lực, và chúng ta yêu cầu xã hội học cách trở thành một người mẹ biết chăm sóc. Không nỗi đau nào này biến mất; nó ở lại với chúng ta, vì thực tại khắc nghiệt không còn có thể được che giấu mãi nữa. Điều tồi tệ nhất chúng ta có thể làm là tiếp nhận tinh thần thế gian mà giải pháp đơn giản là gây mê cho các người trẻ bằng các thông điệp khác, các tiêu khiển khác, các mưu cầu tầm thường.



76. Có lẽ “nhiều người trong chúng ta có một cuộc sống khá thoải mái nên không biết cách khóc. Một số thực tại trong cuộc sống chỉ được nhìn thấy bằng đôi mắt được rửa sạch bằng nước mắt. Tôi muốn mỗi bạn tự hỏi mình câu hỏi này: Tôi có thể khóc không? Tôi có thể khóc khi nhìn thấy một đứa trẻ đói lả, dùng ma túy hoặc ở đường phố, vô gia cư, bị bỏ rơi, bị ngược đãi hoặc bị bóc lột như một nô lệ của xã hội không? Hay là cái khóc của tôi chỉ là cái khóc rên rỉ vị kỷ của các người khóc vì họ muốn một điều gì khác?”[31]. Các bạn hãy cố gắng học cách khóc cho tất cả người trẻ kém may mắn hơn các bạn. Khóc cũng là một biểu hiệu của lòng thương xót và cảm thương. Nếu nước mắt không đến, các bạn hãy cầu xin Chúa ban cho các bạn ơn có thể khóc cho các đau khổ của người khác. Một khi các bạn có thể khóc, thì các bạn sẽ có thể giúp đỡ người khác từ tận đáy lòng.

77. Đôi khi, nỗi đau của một số bạn trẻ có tính xé lòng, một nỗi đau quá sâu vượt quá lời nói. Họ chỉ có thể nói với Thiên Chúa họ đau khổ đến mức nào, và đi tiếp là điều khó khăn xiết bao đối với họ, vì họ không còn tin vào bất cứ ai nữa. Tuy nhiên, trong lời cầu than thở đau buồn đó, lời lẽ của Chúa Giêsu vang lên rõ rệt: “Phúc thay các người than khóc, vì họ sẽ được an ủi” (Mt 5: 4). Một số người trẻ nam nữ đã có thể tiến về phía trước vì họ nghe thấy lời hứa thần thiêng này. Ước chi mọi người trẻ nào đang đau khổ cảm thấy sự gần gũi của một cộng đồng Kitô giáo có thể phản ánh các lời nói đó bằng hành động, bằng ôm ấp và giúp đỡ cụ thể của họ.

78. Đúng là các người nắm quyền có cung cấp một số trợ giúp, nhưng thường thì sự trợ giúp này phải trả giá cao. Ở nhiều nước nghèo, viện trợ kinh tế do một số nước giàu hơn hoặc các cơ quan quốc tế cung cấp thường gắn liền với việc phải chấp nhận các quan điểm của phương Tây về tình dục, hôn nhân, sự sống hoặc công bằng xã hội. Chính sách thực dân ý thức hệ này đặc biệt có hại cho người trẻ. Chúng ta cũng thấy một loại quảng cáo nào đó đang dạy cho người trẻ vĩnh viễn không hài lòng và đóng góp vào nền văn hóa vứt bỏ, trong đó chính các người trẻ kết cục bị loại bỏ.

79. Nền văn hóa ngày nay của chúng ta khai thác hình ảnh người trẻ. Vẻ đẹp được liên kết với vẻ trẻ trung bề ngoài, phương pháp điều trị thẩm mỹ che giấu các vết nhăn thời gian. Các thân thể trẻ liên tục được quảng cáo như phương tiện bán sản phẩm. Lý tưởng của cái đẹp là tuổi trẻ, nhưng chúng ta cần hiểu ra rằng điều này có rất ít liên quan đến các người trẻ. Nó chỉ có nghĩa là người lớn muốn cướp tuổi trẻ cho chính họ, chứ họ không tôn trọng, yêu thương và chăm sóc người trẻ.

80. Một số người trẻ “thấy các truyền thống gia đình có tính áp bức và họ chạy trốn chúng dưới sự thúc đẩy của một nền văn hóa hoàn cầu hóa mà đôi khi khiến họ không còn điểm tham chiếu nào. Ở các nơi khác trên thế giới, thậm chí còn hơn cả xung đột thế hệ giữa người trẻ và người trưởng thành, có sự ghẻ lạnh lẫn nhau. Đôi khi người lớn quên, hoặc thậm chí không cố gắng, trao lại các giá trị căn bản của cuộc sống hoặc họ cố gắng bắt chước người trẻ, do đó đảo ngược mối liên hệ giữa các thế hệ. Do đó, mối liên hệ giữa người trẻ và người trưởng thành có nguy cơ nằm lại ở bình diện xúc cảm, khiến các khía cạnh giáo dục và văn hóa của nó không được bàn luận” [32]. Điều này gây hại cho người trẻ, mặc dù một số không lưu ý đến nó! Chính các người trẻ đã nhận xét rằng điều này khiến việc truyền tải đức tin trở nên vô cùng khó khăn như thế nào “tại một số quốc gia không có tự do ngôn luận, nơi người trẻ bị ngăn chặn, không được tham dự Giáo Hội” [33].

Thèm muốn, mếch lòng và hoài mong

81. Người trẻ ý thức được rằng cơ thể và tính dục có một tầm quan trọng thiết yếu đối với cuộc sống của họ và cho diễn trình tăng trưởng bản sắc của họ. Tuy nhiên, trong một thế giới liên tục đề cao tính dục, việc duy trì mối liên hệ lành mạnh với cơ thể một người và một cuộc sống xúc cảm thanh thản là điều không dễ dàng. Vì lý do này và các lý do khác, luân lý tính dục thường có xu hướng trở thành nguồn gốc của “việc không hiểu và xa lánh Giáo hội, bao lâu Giáo hội bị coi như một nơi phán xét và lên án”. Tuy nhiên, người trẻ cũng bày tỏ “mong muốn minh nhiên được thảo luận các câu hỏi liên quan đến sự khác biệt giữa bản sắc nam và nữ, tính tương hỗ giữa nam và nữ và đồng tính luyến ái”[34].

82. Trong thời đại chúng ta, “các tiến bộ trong khoa học và trong các kỹ thuật y sinh đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tri nhận về cơ thể, dẫn tới ý tưởng cho rằng nó bỏ ngỏ cho việc sửa đổi không giới hạn. Khả năng can thiệp vào DNA, khả năng chèn các yếu tố nhân tạo vào các sinh vật (cyborg) và việc phát triển của khoa học thần kinh đại diện cho một nguồn tài nguyên lớn lao, nhưng đồng thời chúng cũng đặt ra các câu hỏi nghiêm trọng về nhân học và đạo đức [35]. Chúng có thể khiến chúng ta quên rằng sự sống là một quà phúc và chúng ta là các sinh vật có giới hạn bẩm sinh, thường bị khai thác bởi các người nắm giữ sức mạnh kỹ thuật [36]. Hơn nữa, trong một số giới trẻ, niềm đam mê ngày càng gia tăng đối với hành vi mạo hiểm như một phương tiện để tự khám phá, tìm kiếm các cảm xúc mạnh mẽ và thu hút chú ý... Các thực tại mà tuổi trẻ thường phải giáp mặt này, là các trở ngại đối với sự tăng trưởng thanh thản để trưởng thành” [37].

83. Người trẻ cũng đang kinh qua nhiều đình đốn, thất vọng và các ký ức đau đớn sâu xa. Thường thì họ cảm thấy "các tổn thương của thất bại quá khứ, các ham muốn không được thỏa mãn, các trải nghiệm kỳ thị và bất công, cảm thấy không được yêu thương và không được chấp nhận”. Rồi, có quá nhiều “các vết thương luân lý, gánh nặng của các sai lầm trong quá khứ, cảm giác tội lỗi vì đã phạm sai lầm” [38]. Chúa Giêsu làm cho sự hiện diện của Người được cảm nhận giữa các cây thánh giá được các người trẻ vác; Người ban cho họ tình bạn, sự an ủi và tình đồng hành đầy chữa lành của Người. Giáo hội muốn trở thành công cụ của Người trên nẻo đường dẫn tới chữa lành và bình an nội tâm này.

84. Ở một số người trẻ, chúng ta có thể thấy một niềm khao khát về Thiên Chúa, mặc dù vẫn còn mơ hồ và còn cách xa kiến thức về Thiên Chúa của mặc khải. Ở các người khác, chúng ta có thể thoáng thấy một lý tưởng về tình huynh đệ nhân bản, vốn là điều không nhỏ. Nhiều người có một nguyện ước chân chính muốn phát triển các tài năng của họ để cung ứng một điều gì đó cho thế giới của chúng ta. Ở một số người khác, chúng ta thấy một sự nhạy cảm nghệ thuật đặc biệt, hoặc khao khát được hòa hợp với thiên nhiên. Ở các người khác, có lẽ, một nhu cầu lớn muốn thông đạt. Nơi nhiều người trong số họ, chúng ta gặp một mong ước sâu sắc muốn sống một cuộc sống khác biệt. Trong tất cả các điều này, chúng ta có thể tìm thấy các khởi điểm thực sự, nguồn lực bên trong sẵn sàng đón nhận một lời kích thích, khôn ngoan và khuyến khích.

85. Thượng hội đồng đã xử lý cách riêng ba lĩnh vực cực kỳ quan trọng. Ở đây, tôi muốn trích dẫn các kết luận của Thượng Hội Đồng, đồng thời nhìn nhận rằng chúng kêu gọi một cuộc phân tích lớn hơn và phát triển khả năng đáp ứng thỏa đáng và hữu hiệu hơn.

Môi trường kỹ thuật số

86. “Thế giới kỹ thuật số là đặc điểm của thế giới đương thời. Nhiều thành phần rộng lớn của nhân loại đắm chìm trong đó một cách bình thường và liên tục. Đây không chỉ là vấn đề ‘sử dụng’ các phương tiện truyền thông, mà là sống trong một nền văn hóa phần lớn được kỹ thuật số hóa, một nền văn hóa ảnh hưởng sâu sắc đến các ý niệm thời gian và không gian, nhận thức bản thân, người khác và thế giới, cách thế truyền thông, học hỏi, tự thông tri và bước vào tương quan với người khác. Cách tiếp cận thực tại có xu hướng dành ưu tiên cho hình ảnh hơn là việc nghe và đọc có tác động đến cách học và phát triển ý thức phê phán” [39].

87. Liên Mạng và các mạng lưới xã hội đã tạo ra một cách truyền đạt và kết nối mới. Chúng là “các quảng trường công cộng nơi người trẻ sống nhiều thì giờ và gặp nhau dễ dàng, cho dù mọi người không được truy cập như nhau, đặc biệt ở một số nơi trên thế giới. Chúng cung cấp một cơ hội phi thường để đối thoại, gặp gỡ và trao đổi giữa nhiều người và cung cấp sự truy cập thông tin và kiến thức. Ngoài ra, thế giới kỹ thuật số là thế giới để tham gia chính trị xã hội và quyền công dân tích cực và nó có thể tạo điều kiện cho việc lưu hành luồng thông tin độc lập có khả năng bảo vệ hữu hiệu nhất các người dễ bị tổn thương nhất bằng cách tiết lộ giữa thanh thiên bạch nhật các vi phạm quyền lợi của họ. Ở nhiều quốc gia, liên mạng và các mạng xã hội còn đại diện cho một diễn đàn vững vàng để vươn tới và làm cho giới trẻ tham gia, đặc biệt là vào các sáng kiến và hoạt động mục vụ” [40].

88. Tuy nhiên, để hiểu toàn bộ hiện tượng này, chúng ta cần nhận ra rằng, giống như mọi thực tại của con người, nó có một số hạn chế và thiếu sót. Sẽ không có lợi khi nhầm lẫn giữa truyền thông và các tiếp xúc ảo. Thật vậy “Thế giới kỹ thuật số cũng là nơi cô đơn, thao túng, bóc lột và bạo lực, đến chỗ cực đoan là ‘các mạng đen tối’ (dark web). Phương tiện truyền thông kỹ thuật số có thể dẫn người ta đến chỗ nguy cơ nghiện ngập, cô lập và dần dần mất giao tiếp với thực tại cụ thể, cản trở việc phát triển các mối liên hệ liên ngã chân thực. Các hình thức bạo lực mới đang lan tràn qua các phương tiện truyền thông xã hội, chẳng hạn bắt nạt trực tuyến (cyber-byllying). Liên mạng cũng là một máng phân phối văn hóa khiêu dâm và khai thác con người cho các mục đích tình dục hoặc qua cờ bạc” [41].

89. Không nên quên rằng “các quyền lợi kinh tế to lớn cũng đang hoạt động trong thế giới kỹ thuật số, với khả năng thực hành các hình thức kiểm soát vừa tinh vi vừa xâm lấn, tạo ra các cơ chế để thao túng lương tâm và các diễn trình dân chủ. Việc vận hành của nhiều hệ điều hành thường kết thúc bằng việc khuyến khích sự gặp gỡ giữa các người có suy nghĩ như nhau, ngăn chặn họ tranh luận. Các mạch khép kín này tạo điều kiện cho việc phổ biến thông tin sai lệch và tin tức sai lệch, xúi giục định kiến và thù hận. Việc phổ biến các tin tức giả nói lên một nền văn hóa đã đánh mất ý thức về sự thật và bắt các sự kiện lệ thuộc các quyền lợi riêng. Danh tiếng của người ta bị đe dọa bởi các bản tóm lược vụ kiện trên trực tuyến. Giáo hội và các mục tử của Giáo Hội cũng không được miễn trừ hiện tượng này” [42].



90. Một tài liệu được chuẩn bị vào trước ngày Thượng hội đồng bởi ba trăm người trẻ trên toàn thế giới đã chỉ ra rằng “các mối liên hệ trực tuyến có thể trở thành vô nhân đạo”. Các không gian kỹ thuật số làm chúng ta đui mù trước sự dễ bị tổn thương của một con người nhân bản khác và ngăn chúng ta tự phản tỉnh. Các vấn đề như văn hóa khiêu dâm làm méo mó tri nhận của người trẻ về tính dục của con người. Kỹ thuật được sử dụng theo cách này tạo ra một thực tại ảo tưởng song song mà bỏ qua phẩm giá con người. [43] Đối với nhiều người, việc chìm đắm trong thế giới ảo đã tạo điều kiện cho một loại “di cư kỹ thuật số”, liên quan đến việc rút khỏi gia đình của họ và các giá trị văn hóa và tôn giáo của họ, và bước vào một thế giới cô đơn và tự phát minh, với kết quả là họ cảm thấy mất gốc ngay trong khi vẫn còn ở một nơi về phương diện thể lý. Cuộc sống tươi mới và vui vẻ của những người trẻ muốn khẳng định nhân cách của họ ngày nay đang phải đương đầu với một thách thức mới: đó là thách thức tương tác với một thế giới thực và ảo mà họ bước vào một mình, như thể đặt chân lên một lục địa hoàn cầu chưa được khám phá. Giới trẻ ngày nay là các người đầu tiên phải thực hiện việc tổng hợp này giữa điều gì là bản thân, điều gì là khác biệt với nền văn hóa liên hệ của họ và điều gì có tính hoàn cầu. Việc này có nghĩa là họ phải tìm ra cách vượt từ một tiếp xúc ảo qua một truyền thông tốt đẹp và lành mạnh.

Di dân như điển hình thời ta

91. Làm thế nào chúng ta có thể không nghĩ đến tất cả những người trẻ đang bị ảnh hưởng bởi các phong trào di cư? “Xét về bình diện hoàn cầu, di dân là một hiện tượng có tính cơ cấu chứ không phải một trường hợp khẩn cấp có tính tạm thời. Nó có thể xảy ra trong một quốc gia hoặc giữa các quốc gia khác nhau. Mối quan tâm của Giáo hội đặc biệt liên quan tới các người chạy trốn chiến tranh, bạo lực, bách hại chính trị hoặc tôn giáo, các thiên tai do biến đổi khí hậu và nghèo đói cùng cực. Nhiều người trong số họ là người trẻ. Nói chung, họ đang tìm kiếm cơ hội cho bản thân và cho gia đình họ. Họ mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn và muốn tạo điều kiện để đạt được nó” (44). Di dân “nhắc nhở chúng ta khía cạnh nền tảng của đức tin, tức viêc chúng ta là "khách lạ và khách du trên trái đất" (Dt 11:13) (45).

92. Các di dân khác bị “thu hút bởi nền văn hóa phương Tây, đôi khi nuôi dưỡng các kỳ vọng không thực tế khiến họ thất vọng nặng nề. Các tay buôn người vô lương tâm, thường nối kết với các băng đảng ma túy và vũ khí, khai thác điểm yếu của các di dân, các người, trong suốt hành trình của họ, thường xuyên phải chịu thương tổn vì bạo lực, vì nạn buôn người, vì bị lạm dụng tâm lý và thậm chí cả thể lý nữa, và các đau khổ không kể xiết. Cũng không thể bỏ qua tính dễ bị tổn thương đặc biệt của các di dân không có người đi cùng và tình huống của các người bị buộc phải sống nhiều năm trong các trại tị nạn hoặc đã bị nhốt một thời gian dài tại các quốc gia quá cảnh, mà không thể tiếp tục theo đuổi việc học, hoặc sử dụng tài năng của họ. Ở một số quốc gia tiếp đón, hiện tượng di dân làm phát sinh sợ hãi và báo động, thường được xúi giục và khai thác cho các mục tiêu chính trị. Việc này có thể dẫn đến não trạng bài ngoại, vì người ta tự khép kín vào chính mình và chúng ta phải kiên quyết giải quyết điều này” (46).

93. “Người di dân trẻ cảm nghiệm cảnh cách ly với nơi nguyên quán của họ và thường cả việc mất gốc về văn hóa và tôn giáo. Sự phân mảnh cũng được cảm nhận nơi các cộng đồng họ bỏ lại sau lưng; các cộng đồng này mất đi các thành phần mạnh mẽ và năng nổ nhất của họ, và nơi các gia đình, đặc biệt khi một trong hai cha mẹ di cư, hoặc cả hai, để con cái họ ở lại quê nhà. Giáo hội có vai trò quan trọng làm điểm tham chiếu cho các người trẻ của các gia đình tan vỡ này. Nhưng các câu chuyện về di dân cũng là các câu chuyện về gặp gỡ giữa các con người và nền văn hóa: đối với cộng đồng và các xã hội chủ nhà, họ tượng trưng một cơ hội làm phong phú và phát triển con người toàn diện cho mọi người. Các sáng kiến tiếp đón có liên hệ với Giáo hội có một vai trò quan trọng trong quan điểm này và có thể mang lại sức sống mới để các cộng đồng này có năng lực đảm nhiệm chúng” (47).

94. “Vì các bối cảnh đa dạng của các nghị phụ Thượng hội đồng, cuộc thảo luận về người di cư được hưởng lợi từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, đặc biệt là từ các quốc gia đi và các quốc gia đến. Quan tâm nghiêm trọng cũng đã được phát biểu bởi các Giáo hội mà các thành viên cảm thấy buộc phải trốn thoát khỏi chiến tranh và bách hại và bởi các người khác, những người thấy mình bị đe doạ mạng sống nên buộc phải di dân. Chính sự kiện Giáo hội có thể chấp nhận tất cả các quan điểm đa dạng này cho phép Giáo hội đóng vai trò tiên tri trong xã hội liên quan đến vấn đề di dân”. [48] Một cách đặc biệt, tôi kêu gọi người trẻ đừng rơi vào tay các người nhắm đặt họ chống lại người trẻ khác, những người mới đến đất nước của họ, và là các người khuyến khích họ coi lớp người sau như một mối đe dọa và không sở đắc cùng một phẩm giá bất khả xâm phạm giống như mọi con người nhân bản khác.

Chấm dứt mọi hình thức lạm dụng

95. Gần đây, các lời kêu gọi khẩn cấp đã được đưa ra để chúng ta nghe tiếng khóc của các nạn nhân thuộc các loại lạm dụng khác nhau do một số giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân vi phạm. Các tội lỗi này khiến nạn nhân của họ “đau khổ có thể kéo dài suốt đời và không có sự ăn năn nào có thể chữa lành. Hiện tượng này phổ biến trong xã hội và nó cũng ảnh hưởng đến Giáo hội và đại diện cho một trở ngại nghiêm trọng đối với sứ mệnh của Giáo hội” [49].

96. Đúng là, “đại họa lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên là, và trong lịch sử đã là, một hiện tượng phổ biến trong mọi nền văn hóa và xã hội”, đặc biệt là trong các gia đình và trong các định chế khác nhau; phạm vi của nó đã trở nên nổi tiếng chủ yếu “nhờ vào các thay đổi trong công luận”. Dù thế, vấn đề này, trong khi có tính phổ quát và “ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội của chúng ta như một toàn bộ... vẫn không có gì kém ghê gớm hơn khi nó diễn ra trong Giáo hội”. Thật vậy, “trong sự giận dữ chính đáng của người ta, Giáo hội thấy sự phản chiếu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, bị phản bội và xúc phạm” [50].

97. “Thượng Hội đồng tái khẳng định cam kết đưa ra đối với việc việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt nhằm tránh tái diễn [các tội ác này], bắt đầu với việc lựa chọn và đào tạo các người được giao phó các bổn phận có trách nhiệm và giáo dục [51]. Đồng thời, cần nhắc lại quyết tâm áp dụng các “hành động và chế tài rất cần thiết” [52]. Và tất cả các điều này với ơn thánh của Chúa Kitô. Không thể có đường trở lui.

98. Lạm dụng có thể hiện hữu dưới nhiều hình thức: lạm dụng quyền lực, lạm dụng lương tâm, lạm dụng tình dục và tài chính. Rõ ràng, phải xóa bỏ các cách thức thực thi thẩm quyền khiến tất cả các điều này có thể diễn ra, và phải thách thức việc thiếu trách nhiệm và thiếu minh bạch đã diễn ra trong rất nhiều trường hợp xử lý. Mong muốn thống trị, thiếu đối thoại và minh bạch, các hình thức sống hai mặt, sự trống rỗng thiêng liêng, cũng như các điểm yếu về tâm lý, là mảnh đất để thối nát phát triển mạnh mẽ [53]. Chủ nghĩa giáo sĩ trị là một cám dỗ liên tục về phía các linh mục, những người coi “thừa tác vụ mà họ đã nhận được như một quyền lực phải thi hành, thay vì một phục vụ tự do và quảng đại phải cung ứng. Nó khiến chúng ta nghĩ rằng chúng ta thuộc về một nhóm người có mọi câu trả lời và không cần phải lắng nghe hoặc có bất cứ điều gì phải học hỏi [54]. Không nghi ngờ gì, chủ nghĩa giáo sĩ trị như vậy có thể làm cho các người thánh hiến mất đi lòng kính trọng đối với giá trị thánh thiêng và bất khả nhượng của mỗi con người và quyền tự do của họ.

99. Cùng với các nghị phụ Thượng hội đồng, tôi muốn cảm ơn, với lòng biết ơn và âu yếm, “những người có can đảm báo cáo sự ác mà họ đã phải kinh qua: họ giúp Giáo hội thừa nhận điều đã xảy ra và cần giải đáp dứt khoát” [55]. Lòng biết ơn đặc biệt cũng phải ngỏ cùng “cam kết quảng đại của vô số giáo dân, linh mục, các người thánh hiến nam nữ, và các giám mục, những người hàng ngày cống hiến hết mình và tận tụy phục vụ giới trẻ. Các nỗ lực của họ giống như một khu rừng lớn đang lặng lẽ phát triển. Nhiều người trẻ có mặt tại Thượng hội đồng cũng bày tỏ lòng biết ơn đến những ai đã đồng hành cùng họ và họ nhấn mạnh nhu cầu lớn cần có những người trưởng thành có thể đóng vai trò làm điểm tham chiếu” [56].

100. Tạ ơn Chúa, những người gây ra các tội ác khủng khiếp này không phải là đa số các linh mục, là những người thi hành thừa tác vụ của họ với lòng trung thành và rộng lượng. Tôi yêu cầu các người trẻ hãy để mình được gợi hứng bởi đại đa số này. Và nếu các bạn thấy một linh mục gặp nguy hiểm, vì ngài đã mất niềm vui trong thừa tác vụ của mình, hoặc tìm kiếm sự đền bù xúc cảm, hoặc đang đi sai đường, hãy nhắc nhở ngài nhớ đến cam kết của mình với Thiên Chúa và dân của Người, nhắc nhở ngài nhớ Tin Mừng và thúc giục ngài giữ vững đường đi của mình. Nhờ cách này, các bạn sẽ đóng góp rất lớn lao vào một điều căn bản: ngăn chặn các hành động gây họa này khỏi bị lặp lại. Đám mây đen này cũng thách thức mọi người trẻ yêu mến Chúa Kitô và Giáo hội của Người: họ có thể là một nguồn chữa lành lớn lao nếu họ sử dụng khả năng lớn lao của họ để mang lại sự đổi mới, thúc giục và đòi hỏi chứng tá nhất quán, tiếp tục mơ ước và đưa ra các ý tưởng mới mẻ.

101. Đây cũng không phải là tội lỗi duy nhất của các thành viên Giáo hội; lịch sử lâu dài của Giáo hội không phải là không có bóng râm của nó. Tội lỗi của chúng ta hiện ở trước mắt mọi người; chúng xuất hiện quá rõ ràng trên các đường nhăn của khuôn mặt lâu đời của Giáo hội, Mẹ và Thầy của chúng ta. Trong hai ngàn năm, Giáo hội đã tiến bước trên đường lữ hành của mình, chia sẻ các niềm vui và hy vọng, nỗi đau và nỗi thống khổ” [57] của toàn nhân loại. Có thế nào, Giáo hội thực hành cuộc hành trình này như thế, không cần phẫu thuật thẩm mỹ dưới bất cứ hình thức nào. Giáo hội không ngại tiết lộ tội lỗi của các thành viên của mình, điều mà một số người cố gắng che giấu, trước ánh sáng rực rỡ của lời Tin Mừng, giúp tẩy rửa và thanh tẩy. Giáo hội cũng không ngừng đọc mỗi ngày, trong sự hối hận: "Lạy Chúa, xin thương xót con trong lòng nhân từ của Chúa... tội lỗi của con luôn ở trước mặt con” (Tv 51: 3.5). Tuy nhiên, chúng ta đừng bao giờ quên rằng chúng ta không được bỏ rơi Mẹ của chúng ta khi Mẹ bị thương, nhưng hãy đứng bên cạnh Mẹ, để Mẹ có thể thu góp mọi sức mạnh và mọi khả năng của mình để bắt đầu lại.

102. Giữa thảm kịch này, thảm kịch làm chúng ta đau đớn một cách chính đáng, “Chúa Giêsu, Đấng không bao giờ bỏ rơi Giáo hội của mình, mang đến cho Giáo hội sức mạnh và phương thế để bước lên một nẻo đường mới” [58]. Khoảnh khắc đen tối này, “với sự giúp đỡ quý giá của giới trẻ, thực sự có thể là cơ hội cho một cuộc cải cách tạo thời đại”, [59] mở cửa cho chúng ta tiến vào một Lễ Ngũ Tuần mới và khai mở một giai đoạn thanh tẩy và thay đổi mới có khả năng đổi mới tuổi trẻ của Giáo hội. Người trẻ sẽ càng hữu ích hơn nếu họ cảm thấy hoàn toàn là một phần của “Dân thánh thiện kiên nhẫn và trung thành của Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần nâng đỡ và làm cho sinh động”, vì “nó sẽ chính là Dân thánh của Thiên Chúa để giải phóng chúng ta khỏi đại dịch giáo sĩ trị, vốn là mảnh đất màu mỡ cho mọi sự thất sủng này” [60].

Một lối thoát



103. Trong chương này, tôi đã dành giờ để xem xét thực tại của người trẻ trong thế giới ngày nay. Một số khía cạnh khác sẽ được bàn đến trong các chương sau. Như tôi đã nói, tôi không cho là mình thấu đáo trong cuộc phân tích này. Tôi khuyến khích các cộng đồng khảo sát, một cách tôn trọng và nghiêm túc, tình hình của người trẻ của họ, để tìm ra các cách thích đáng nhất để cung cấp cho họ sự chăm sóc mục vụ. Đồng thời, tôi không muốn kết thúc chương này mà không ngỏ vài lời cho mỗi người các bạn.

104. Tôi nhắc các bạn nhớ tin mừng chúng ta đã nhận được như một hồng phúc vào buổi sáng phục sinh: rằng trong mọi tình huống đen tối hoặc đau đớn mà chúng ta đã đề cập, có một lối thoát. Ví dụ, quả thật, thế giới kỹ thuật số có thể khiến các bạn có nguy cơ quá loay hoay với chính mình, cô lập và khoái cảm trống rỗng. Nhưng đừng quên rằng có các người trẻ ngay ở kia vẫn đang biểu lộ óc sáng tạo và thậm chí thiên tài. Đó là trường hợp của người tôi tớ trẻ tuổi của Thiên Chúa là Carlo Acutis.

105. Carlo ý thức rõ rằng toàn bộ bộ máy truyền thông, quảng cáo và kết mạng xã hội có thể được sử dụng để ru ngủ chúng ta, khiến chúng ta ghiền chủ nghĩa tiêu thụ và mua các thứ mới nhất trên thị trường, bị ám ảnh với thời gian rảnh rỗi, bị cuốn vào sự tiêu cực. Tuy nhiên, ngài biết cách sử dụng kỹ thuật truyền thông mới để truyền tải Tin Mừng, để truyền đạt các giá trị và vẻ đẹp.

106. Carlo không rơi vào bẫy. Ngài thấy nhiều người trẻ, vì muốn trở nên khác biệt, thực sự kết cục đã nên giống như mọi người khác, chạy theo bất cứ thứ gì kẻ quyền thế đặt trước mặt họ bằng các cơ chế tiêu dùng và phân tâm. Theo cách này, họ không sản sinh các năng khiếu mà Chúa đã ban cho họ; họ không cống hiến cho thế giới các tài năng bản thân độc đáo mà Chúa đã ban cho mỗi chúng ta. Kết quả, Carlo cho biết, “mọi người đều được sinh ra như một nguyên bản, nhưng nhiều người kết cục đã chết như những bản sao. Đừng để điều đó xảy ra với các bạn!"

107. Các bạn đừng để họ cướp đi hy vọng và niềm vui của các bạn, hoặc chuốc ma túy để các bạn trở thành nô lệ cho lợi ích của họ. Các bạn hãy dám trở thành nhiều hơn, bởi vì việc các bạn là ai quan trọng hơn bất cứ sở hữu nào. Điều gì tốt, sở hữu hay dáng vẻ bề ngoài? Các bạn có thể trở thành điều Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của Các bạn biết các bạn là, chỉ khi nào các bạn nhận ra rằng các bạn được kêu gọi đến một điều lớn hơn. Hãy cầu xin sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần và tin tưởng nhắm đạt mục tiêu cao cả là sự thánh thiện. Bằng cách này, các bạn sẽ không phải là một bản sao. Các bạn sẽ là chính mình.

108. Muốn điều trên xảy ra, bạn cần nhận ra một sự thật căn bản: trẻ trung không chỉ là theo đuổi các thú vui thoáng qua và các thành tựu hời hợt. Nếu các năm tháng tuổi trẻ của các bạn là để phục vụ mục đích của chúng trong cuộc sống, thì chúng phải là một thời gian cam kết quảng đại, cống hiến hết lòng và hy sinh vốn khó khăn nhưng cuối cùng sẽ sinh hoa trái. Như một nhà thơ vĩ đại đã viết:

“Nếu để lấy lại điều tôi đã lấy lại,
Trước tiên tôi phải mất điều tôi đã mất;
Nếu để đạt được điều tôi đã đạt được,
Tôi đã phải chịu đựng điều tôi chịu đựng;
Nếu được yêu bây giờ
Đầu tiên tôi phải chịu thương tổn,
Tôi xem xét điều tôi đã chịu đựng giỏi,
Tôi xem xét điều tôi đã khóc cũng như đã khóc cho.
Bởi vì cuối cùng tôi đã tiến tới chỗ thấy
Rằng chúng ta không thực sự thưởng ngoạn điều chúng ta đã thưởng ngoạn
Trừ khi chúng ta đã chịu đau vì nó.
Vì cuối cùng tôi đã nhận ra
Rằng các bông hoa nở rộ trên cây
Hút sự sống từ những gì nằm chôn vùi bên dưới"
[61].

109. Nếu các bạn vốn trẻ trung lâu nay, nhưng cảm thấy yếu đuối, mệt mỏi hoặc vỡ mộng, hãy xin Chúa Giêsu đổi mới bạn. Với Người, hy vọng không bao giờ thất bại. Các bạn cũng có thể làm thế nếu các bạn cảm thấy bị choáng ngợp bởi tệ nạn, thói quen xấu, ích kỷ hoặc trò tiêu khiển không lành mạnh. Chúa Giêsu, tràn đầy sức sống, muốn giúp các bạn làm cho tuổi trẻ các bạn trở nên đáng giá. Bằng cách này, các bạn sẽ không tước đi khỏi thế giới sự đóng góp mà chỉ một mình các bạn có thể thực hiện, trong tất cả tính duy nhất và độc đáo của các bạn.

110. Thế nhưng, hãy để tôi cũng nhắc nhở các bạn rằng “khi chúng ta sống xa cách người khác, sẽ rất khó chiến đấu chống tư dục, cạm bẫy và cám dỗ của ma qủy, và tính ích kỷ của thế gian. Bị bắn phá như chúng ta bởi rất nhiều dụ dỗ, chúng ta có thể trở nên quá cô lập, mất cảm thức về thực tại và sự rõ ràng bên trong, và dễ dàng sa ngã” (62). Điều này đặc biệt đúng với các người trẻ, vì bất cứ khi nào các bạn đoàn kết, các bạn có sức mạnh kỳ diệu. Bất cứ khi nào các bạn say mê cuộc sống chung, các bạn có khả năng hy sinh lớn lao cho người khác và cho cộng đồng. Mặt khác, sự cô lập làm suy yếu sức mạnh của chúng ta và phơi bày chúng ta cho các tội ác tồi tệ nhất của thời đại chúng ta.

Còn tiếp
 
Bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay thứ Tư trước giáo triều Rôma ngày 5/4/2019 của cha Cantalamessa
J.B. Đặng Minh An dịch
23:33 05/04/2019


Lúc 9 giờ sáng thứ Sáu 5 tháng Tư, 2019, tại nhà nguyện Redeemoris Mater, trước sự hiện diện của Đức Thánh Cha Phanxicô, và đông đảo các vị trong giáo triều Rôma, Cha Raniero Cantalamessa, dòng Phanxicô Capuchin, giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng đã trình bày bài giảng thứ Tư trong chương trình tĩnh tâm Mùa Chay của giáo triều Rôma.

Chủ đề của bài thuyết giảng tuần này là “Ngươi phải thờ phượng Chúa, là Thiên Chúa ngươi”.

Bản tiếng Anh có thể xem ở đây. Dưới đây là bản dịch sang Việt ngữ:
“Ngươi phải thờ phượng Chúa, là Thiên Chúa ngươi”
Lm. Raniero Cantalamessa, dòng Phanxicô Capuchin, giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng
Bản dịch sang Việt ngữ: J.B. Đặng Minh An


Năm nay là tám trăm năm sau cuộc gặp gỡ giữa Thánh Phanxicô thành Assisi và Quốc vương Ai Cập al-Kamil vào năm 1219. Tôi đề cập đến biến cố đó trong bối cảnh này vì một chi tiết liên quan đến chủ đề suy niệm của chúng ta về Thiên Chúa hằng sống. Sau khi trở về từ chuyến đi sang Trung Đông năm 1219, Thánh Phanxicô đã viết một bức thư gửi cho “Các Nhà Cầm quyền của người dân”. Trong đó, giữa những điều khác, ngài nói:

“Hãy nhận ra rằng Thiên Chúa được thần dân của các ngài long trọng kính ngưỡng; mỗi buổi tối, theo hiệu lệnh của một tuần canh hoặc theo một cách nào đó, những lời ca khen và cảm tạ được toàn dân dâng lên Chúa. Nếu ngài từ chối nhận ra điều này, ngài có thể chắc chắn rằng ngài sẽ phải chịu trách nhiệm về điều đó vào ngày phán xét trước Chúa Giêsu Kitô, là Chúa và Thiên Chúa của ngài.” [1]

Người ta cho rằng thánh nhân đã rút ra ý tưởng cho lời hô hào này từ những gì ngài đã quan sát được trong cuộc hành trình của mình sang Trung Đông, nơi ngài đã nghe thấy tiếng gọi cầu nguyện buổi tối của các muezzins [người kêu gọi người Hồi Giáo cầu nguyện] từ những ngọn tháp. Đây là một ví dụ tốt không chỉ về phương diện đối thoại giữa các tôn giáo khác nhau mà còn về khả thể làm giàu lẫn nhau. Tương tự như thế, một nhà truyền giáo đã làm việc nhiều năm ở một quốc gia Phi châu đã viết điều này: “Chúng ta được mời gọi để đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người, đáp ứng nhu cầu sâu sắc của họ đối với Thiên Chúa, lòng khao khát Đấng Tuyệt đối của họ, và dạy họ những đường lối của Thiên Chúa, và dạy họ cách cầu nguyện. Đây là lý do tại sao người Hồi giáo ở đây cải đạo được nhiều người: họ ngay lập tức dạy dân chúng một cách đơn giản để thờ phượng Chúa.”

Các Kitô hữu chúng ta có một bức tranh khác về Thiên Chúa, một Thiên Chúa với tình yêu vô hạn hơn là một Thiên Chúa với sức mạnh vô biên, nhưng điều này không thể làm cho chúng ta quên đi bổn phận chính là thờ phượng. Đối với thách thức của người phụ nữ Samaritanô là người nói rằng, “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng Thiên Chúa” (Ga 4:20), Chúa Giêsu trả lời với những lời tạo thành hiến chương cho sự thờ phượng Kitô giáo:

“Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng ta thờ Đấng chúng ta biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do thái. Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4: 21-24)

Tân Ước là người đầu tiên nâng việc “thờ phượng” lên một thế giá trước đây chưa từng có. Trong Cựu Ước, sự thờ phượng, ngoài Thiên Chúa, đôi khi được hướng đến một thiên thần (xem Ds 22:31) hoặc đến một vị vua (xem 1 Sam 24: 8). Trong Tân Ước, ngược lại, mỗi khi ai đó bị cám dỗ thờ phượng ngoài Thiên Chúa và nhân vị của Chúa Kitô, dù cho là thiên thần đi nữa, thì phản ứng ngay lập tức là “Ngươi không được làm thế! Ngươi phải thờ phượng Chúa.” Đây là những gì, trong sa mạc, Chúa Giêsu đã nhắc nhở với một giọng khinh miệt satan sau khi nó yêu cầu ngài thờ phượng nó: “đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” (Mt 4:10).

Giáo hội đã đón nhận giáo huấn này và đặt hành động tôn thờ Thiên Chúa ở mức tối thượng - latria, phân biệt với mức dulia, dành riêng cho các vị thánh, và mức hyperdulia, được dành riêng cho Đức Trinh Nữ Maria. Do đó, thờ phượng là hành động tôn giáo độc đáo không thể được dành cho bất kỳ ai khác trong vũ trụ này, ngay cả đối với Đức Mẹ, thờ phượng chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi. Đây là thế giá và sức mạnh độc đáo của nó.

Ngay buổi đầu, từ thờ phượng (proskunesis) được dùng để chỉ cử chỉ thể lý của việc phủ phục mình sấp mặt xuống trước ai đó như một dấu chỉ của sự tôn kính và quy phục. Biểu hiện thể lý này vẫn được đề cập đến trong Tin Mừng và trong sách Khải huyền. Trong những trình thuật này, Đấng mà ta phủ phục dưới thế này là Chúa Giêsu Kitô và trong phụng vụ trên trời là Chiên Con hy sinh hay Đấng Toàn năng. Chỉ trong cuộc đối thoại với người phụ nữ xứ Samaritanô và trong thư Thứ Nhất gởi dân thành Côrinhtô (1 Cô 14:25), từ ngữ “thờ phượng” mới có vẻ tách rời khỏi ý nghĩa bên ngoài của nó, và nó cho thấy một sự dành chỗ bên trong linh hồn cho Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa mà chúng ta nói về Chúa Thánh Thần trong kinh Tin Kính rằng Ngài “được phụng thờ và tôn vinh”, cùng với Chúa Cha và Chúa Con. [2]

Để chỉ ra tư thế bên ngoài tương ứng với sự thờ phượng, chúng ta thích cử chỉ uốn cong đầu gối, tức là bái quỳ. Cử chỉ này cũng chỉ dành riêng cho Thiên Chúa và Chúa Kitô. Chúng ta có thể quỳ gối trước một hình ảnh của Đức Trinh Nữ, nhưng chúng ta không bái quỳ trước Đức Mẹ như chúng ta làm trước Thánh Thể hay Thánh giá Chúa Kitô.

“Thờ phượng” nghĩa là gì?

Tuy nhiên, chúng ta ít quan tâm đến ý nghĩa và sự phát triển của từ này cho bằng muốn biết việc thờ phượng bao gồm những gì và làm thế nào chúng ta có thể thực hành điều đó. Tâm tình tôn thờ có thể phải được chuẩn bị thông qua chuỗi dài suy tư, nhưng nó đạt đến đỉnh cao nơi một ấn tượng sống động, và giống như mọi ấn tượng, nó không tồn tại lâu. Nó giống như một tia sáng trong đêm, nhưng nó là một thứ ánh sáng đặc biệt: không hẳn là ánh sáng của sự thật cho bằng ánh sáng của thực tại. Đó là sự cảm nhận về sự cao cả, uy nghi và vẻ đẹp của Thiên Chúa cùng với lòng tốt và sự hiện diện của Người, tất cả những điều này đã lấy đi hơi thở của chúng ta. Đó như thể là đang chìm vào một đại dương không đáy và không giới hạn trong sự hùng vĩ của Thiên Chúa. Thờ phượng, theo câu nói của Thánh Angela thành Foligno, là “thu lại chính mình trong sự hiệp nhất và [lao] toàn bộ linh hồn của chúng ta vào sự vô tận thần thánh.” [3]

Một biểu hiện của sự thờ phượng có hiệu quả hơn bất kỳ lời nào là sự im lặng. Chính im lặng chỉ ra một thực tế vượt xa bất kỳ từ ngữ nào. Thông điệp này vang lên mạnh mẽ trong Kinh thánh: “Toàn thể cõi đất, hãy thinh lặng trước nhan Người!”( Kb 2:20), và “Hãy lặng thinh trước nhan ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng” (Xp 1: 7). Theo một trong những vị ẩn tu trong sa mạc, khi “các giác quan được bao bọc trong sự im lặng vô tận và với sự giúp đỡ của sự im lặng, ký ức của chúng ta mờ dần,” khi đó tất cả những gì còn lại là thờ phượng.

Ông Gióp thực hiện một hành vi thờ phượng khi thấy mình phải đối mặt với Đấng toàn năng ở cuối thử thách của ông, ông kêu lên, “Vâng, con đây tầm thường bé nhỏ, biết nói chi để trả lời Ngài? Con sẽ đưa tay lên che miệng.” (Gióp 40: 4). Chính trong ý nghĩa này mà một câu từ một bài thánh vịnh sau đó đã được vào phụng vụ. Theo bản văn tiếng Do Thái, câu đó là “Trước nhan Ngài, im lặng là lời khen ngợi”, “Tibi silentium laus !” (xem Ps 65: 2, bản văn Masora). Theo cách diễn đạt tuyệt đẹp của Thánh Grêgôriô Nazianzus, thờ phượng có nghĩa là nâng hồn lên với Chúa trong “một bài thánh ca thinh lặng.” [4] Giống như khi một người leo lên một ngọn núi cao, không khí dần dần trở nên ít hơn, cũng vậy khi ta đến gần Chúa hơn, lời nói trở nên ít dần cho đến khi cuối cùng ta trở nên hoàn toàn câm nín và kết hợp chính mình trong thinh lặng với Đấng không thể diễn tả bằng lời.

Nếu bạn thực sự muốn nói điều gì đó để làm “yên tĩnh” tâm trí và ngăn không cho nó đi lang thang vào các chủ đề khác, bạn nên làm điều đó với biểu hiện ngắn nhất là “Amen, thưa vâng.” Thờ phượng, trên thực tế, là đồng thuận, là để cho Chúa là Chúa của ta. Đó là nói tiếng xin vâng với Thiên Chúa là Thiên Chúa và với chính ta như một thụ tạo của Thiên Chúa. Đây là cách Chúa Giêsu được định nghĩa trong sách Khải Huyền, là “Đấng Amen”, là tiếng xin vâng được nhân cách hóa (xem Kh 3:14), hay ta có thể lặp lại không ngừng với Thiên thần Sốt Mến – Seraphim – “Qadosh, qadosh, qadosh”, “Thánh, thánh, thánh.”

Do đó, thờ phượng đòi hỏi mọi người phải cúi đầu và im lặng. Nhưng một hành động như vậy có xứng đáng với con người không? Chẳng phải như thế là làm nhục họ, làm mất phẩm giá của họ sao? Trong thực tế, [chúng ta phải hỏi rằng] điều đó có thực sự xứng đáng với Thiên Chúa không? Thiên Chúa có thực sự cần các tạo vật của mình phủ phục xuống đất và giữ im lặng không? Có phải Thiên Chúa cũng giống như một trong những vua chúa phương Đông, là những người mưu tìm sự thờ phượng chính mình? Chúng ta không thể phủ nhận điều này: sự thờ phượng đòi hỏi nơi con người một khía cạnh của sự tự hạ mình triệt để, làm cho bản thân trở nên nhỏ bé, đầu hàng và thần phục. Thờ phượng luôn liên quan đến một khía cạnh của sự hy sinh, dâng hiến một cái gì đó. Chính điều này chứng thực rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa và không có gì và không ai có quyền tồn tại trước nhan Ngài nếu không được ân sủng của Ngài. Trong thờ phượng, chúng ta dâng lên và hy sinh cái “tôi” của chúng ta, vinh quang của chính chúng ta, và sự tự mãn của chúng ta. Nhưng vinh quang của chúng ta là thứ vinh quang giả trá và không nhất quán, vì vậy nó được giải phóng để ta có thể thoát khỏi nó.

Khi thờ phượng, ta “giải thoát sự thật khỏi việc trở thành tù nhân của sự bất công” (xem Rô-ma 1:18), ta trở nên “chân thực” theo đúng ý nghĩa sâu sắc nhất của từ này. Trong thờ phượng ta thấy trước sự trả lại tất cả mọi thứ cho Thiên Chúa. Ta buông bỏ chính mình cho ý nghĩa và dòng chảy của hiện sinh. Giống như nước tìm thấy dòng chảy yên bình của nó khi chảy ra biển và con chim tìm thấy niềm vui của mình khi được gió mang đi, người thờ phượng cũng tìm thấy sự bình yên và niềm vui khi tôn thờ [5]. Việc thờ phượng Chúa không phải là một nghĩa vụ, một bổn phận, nhưng đó là một đặc quyền và thậm chí là một nhu cầu. Con người cần một cái gì đó hùng vĩ để yêu thương và tôn thờ! Chúng ta đã được tạo thành như vậy.

Do đó, không phải Thiên Chúa có nhu cầu được tôn thờ mà là con người có nhu cầu thờ phượng. Một trong những Kinh Tiền Tụng trong Thánh lễ nói rằng: “Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.” [6] Friedrich Nietzsche đã hoàn toàn sai lầm khi ông ta định nghĩa Thiên Chúa trong Kinh thánh là “vua phương Đông khao khát danh dự trên thiên đàng.” [7]

Tất nhiên việc thờ phượng phải được tự do. Điều làm cho việc tôn thờ xứng đáng với Thiên Chúa và đồng thời xứng đáng với con người là tự do, được hiểu không chỉ một cách tiêu cực là không có sự bó buộc mà còn một cách tích cực như một động lực của niềm vui, như một ân sủng tự phát của các sinh vật qua đó thể hiện niềm vui của họ rằng mình không phải là Thiên Chúa và vui mừng vì có thể có một Thiên Chúa ở trên họ để thờ phượng, chiêm ngưỡng và cử mừng.

Tôn thờ Thánh Thể

Giáo Hội Công Giáo có một hình thức thờ phượng đặc biệt gọi là tôn thờ Thánh Thể. Mỗi nhánh tâm linh lớn của Kitô giáo đều có đặc sủng riêng hình thành nên sự đóng góp của nhánh ấy cho sự phong phú của toàn Giáo hội. Đối với những người theo đạo Tin lành, đó là sự tôn kính Lời Chúa; đối với Chính thống giáo, đó là việc tôn kính ảnh tượng; đối với người Công Giáo, đó là sự tôn thờ Thánh Thể. Mỗi một cách trong ba cách này đều đạt được cùng một mục đích chung là chiêm ngưỡng Chúa Kitô trong mầu nhiệm của Ngài.

Sự tôn kính và chầu Thánh Thể ngoài Thánh Lễ là một thành quả tương đối gần đây của lòng đạo đức Kitô giáo. Nó bắt đầu phát triển ở phương Tây từ thế kỷ thứ Mười Một như là một phản ứng chống lại dị giáo Berengar thành Tours, là người đã từ chối sự hiện diện “thật sự” của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể và chỉ coi đó như một sự hiện diện mang tính biểu tượng. Kể từ ngày đó, chúng ta có thể nói rằng lòng tôn sùng Thánh Thể có những ảnh hưởng quyết định lên cuộc sống của mọi vị thánh. Đó là nguồn năng lượng tâm linh to lớn, một loại lò sưởi luôn được thắp sáng giữa nhà của Thiên Chúa, qua đó tất cả các con cái thánh thiện của Giáo hội đã sưởi ấm bản thân. Hết thế hệ này sang thế hệ khác các tín hữu Công Giáo đã cảm nhận được sự run rẩy trước sự hiện diện của Thiên Chúa khi họ hát bài “Adoro te devote” – “Con thờ lạy hết tình” - trước Mình Thánh Chúa.

Những gì tôi nói về việc chầu và chiêm niệm Thánh Thể có thể được áp dụng gần như hoàn toàn trong việc chiêm niệm các ảnh tượng. Sự khác biệt là trong trường hợp đầu tiên chúng ta có sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô và trong trường hợp thứ hai chỉ có sự hiện diện trong ý tưởng. Cả hai đều dựa trên sự chắc chắn rằng Chúa Kitô phục sinh vẫn sống và vẫn hiện diện qua các dấu chỉ bí tích và nhờ đức tin.

Khi lắng đọng và im lặng trước Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Thể, bao lâu có thể, chúng ta có thể nhận thấy những ao ước của Người dành cho chúng ta. Chúng ta gạt các dự án của chúng ta sang một bên để nhường chỗ cho những dự án của Chúa Kitô; khi đó ánh sáng của Thiên Chúa thâm nhập vào trái tim chúng ta từng chút một và chữa lành nó. Một cái gì đó ập đến nhắc nhở chúng ta về những gì xảy ra với những cây cối vào mùa xuân. Lá xanh mọc lên từ cành cây; chúng hấp thụ một số thành phần nhất định từ bầu khí quyển, do tác động của ánh sáng mặt trời, trở thành “gắn bó” và biến thành chất dinh dưỡng cho cây. Không có những chiếc lá xanh như vậy, cây không thể phát triển và sinh hoa trái và sẽ không góp phần tạo ra dưỡng khí mà chính chúng ta thở.

Chúng ta cần phải giống như những chiếc lá xanh! Chúng là biểu tượng của các linh hồn Thánh Thể, những người khi chiêm ngưỡng “Mặt trời công lý”, là Chúa Kitô, “gắn” chính mình vào chất dinh dưỡng là chính Chúa Thánh Thần để mang lại lợi ích cho toàn bộ cây vĩ đại, là Giáo hội. Tông đồ Phaolô nói về điều này bằng những từ khác khi ngài viết: “Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, do bởi tác động của Chúa là Thần Khí.” (2 Cô 3:18).

Nhà thơ Giuseppe Ungaretti, khi đang chiêm ngưỡng mặt trời mọc vào một buổi sáng sau một đêm dài tăm tối, đã viết một bài thơ gồm hai câu thơ rất ngắn gọn: “M’illumino / d’immenso”: “Tôi tự soi sáng mình / với sự bao la” [8]. Những lời này có thể được lặp đi lặp lại bởi những ai đang chiêm ngắm trước Thánh Thể. Chỉ có Chúa mới biết có bao nhiêu ân sủng đã lặng lẽ đến với Giáo hội qua những người thờ phượng này.

Tôn sùng Thánh Thể cũng là một hình thức truyền giáo, và là một trong số những cách hiệu quả nhất. Nhiều giáo xứ và cộng đồng đã thêm việc tôn thờ Thánh Thể vào các chương trình hàng ngày hoặc hàng tuần của họ, và đã trải nghiệm điều đó. Khi nhìn thấy một nhà thờ ở trung tâm thành phố vào ban đêm mở cửa và thắp sáng cho mọi người thờ phượng trong sự im lặng trước Mình Thánh Chúa, nhiều người qua đường đã dừng lại, nhìn xung quanh và thốt lên “Chúa đang ở đây!” – hệt như những người ngoại đạo đã làm khi họ đặt chân vào một trong những buổi nhóm họp các tín hữu Kitô thời sơ khai (xem 1 Cô 14:25).

Chiêm niệm Kitô giáo không bao giờ là con đường một chiều. Điều đó không có nghĩa là nhìn chằm chằm vào rốn của mình, như người ta thường nói, để tìm kiếm bản thể sâu sắc nhất của mình. Nó luôn liên quan đến hai ánh mắt chạm trán nhau. Một người nông dân ở giáo xứ Ars đã tham dự vào một hình thái tôn sùng Thánh Thể tốt nhất khi anh dành hàng giờ trong nhà thờ với ánh mắt chăm chú nhìn vào nhà tạm. Khi thánh Curé thành Ars hỏi anh ta đang làm gì trong nhà thờ, anh ta trả lời: “Không có gì. Tôi nhìn Ngài và Ngài nhìn tôi!”

Nếu đôi khi chúng ta nhìn xuống hoặc rút lại cái nhìn của mình, Thiên Chúa không bao giờ nhìn xuống hoặc rút lại cái nhìn của Người. Đôi khi chiêm niệm Thánh Thể chỉ đơn giản là ở cùng Chúa Giêsu, ngồi dưới ánh mắt của Người, cho Người niềm vui nhìn ngắm chúng ta. Cho dù chúng ta chỉ là những tạo vật, không đáng chi và chỉ là những người tội lỗi, chúng ta dẫu sao cũng vẫn là hoa trái của cuộc thương khó Chúa, là những người mà Ngài hiến mạng sống mình: “Ngài nhìn tôi!” Điều đó có nghĩa là chấp nhận lời mời của Chúa Giêsu đưa ra với các tông đồ trong vườn Giệtsimani “Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” (Mt 26:38).

Do đó, việc tôn thờ Thánh Thể không bị cản trở bởi sự khô khan mà đôi khi chúng ta có thể trải nghiệm, cho dù đó là do những lối sống bê tha của chúng ta hay vì Chúa cho phép điều đó xảy ra để thanh tẩy chúng ta. Sự khô khan đó thực sự có thể có ý nghĩa nếu chúng ta từ bỏ ước muốn riêng để làm hài lòng Ngài và nói, như Chân Phước Charles de Foucauld thường nói với Chúa Giêsu “Hạnh phúc của Chúa là quá đủ cho con”, nghĩa là con thấy Chúa vui là con mãn nguyện.[9] Chúa Giêsu có tất cả sự vĩnh cửu để làm cho chúng ta hạnh phúc; chúng ta chỉ có khoảng thời gian ngắn ngủi này để làm cho Người vui, vậy làm thế nào chúng ta lại có thể để trôi mất đi cơ hội này, một cơ hội sẽ không bao giờ trở lại trong cõi vĩnh hằng?

Khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong Bí tích trên bàn thờ, chúng ta thực hiện lời tiên tri được loan báo vào lúc Chúa Giêsu chết trên thập tự giá: “Họ sẽ nhìn vào Đấng mà họ đã đâm xuyên qua” (Ga 19,37). Việc chiêm ngưỡng như vậy tự nó cũng là tiên tri bởi vì nó tiên báo những gì chúng ta sẽ làm mãi mãi ở Giêrusalem trên trời. Đó là hoạt động cánh chung và tiên tri nhất mà chúng ta có thể thực hiện trong Giáo hội. Khi thời giờ đã tận, Chiên Con sẽ không còn bị hy sinh và thịt Người sẽ không còn tiếp tục bị ăn nữa. Sự thánh hiến và hiệp thông sẽ chấm dứt, nhưng sự chiêm ngưỡng Chiên Con bị giết vì chúng ta sẽ không bao giờ chấm dứt. Thực tế đây là những gì các thánh hiện đang làm trên thiên đàng (xem Rev 5: 1ff). Khi chúng ta ở trước nhà tạm, chúng ta tạo thành một ca đoàn duy nhất với Giáo hội trên Thiên Quốc: họ đứng trước bàn thờ, còn chúng ta đứng phía sau bàn thờ, có thể nói như vậy; họ trải nghiệm thiên nhan Chiên Con trong khi chúng ta cảm nhận qua đức tin.

Năm 1967 khi phong trào Canh Tân Đặc Sủng bắt đầu mà trong năm mươi năm đã chạm đến và canh tân hàng triệu cuộc sống và làm phát sinh vô số những điều mới trong Giáo hội, cả cá nhân và cộng đồng. Chúng ta không nhấn mạnh đủ rằng đó không phải là một “phong trào giáo hội” theo nghĩa thông thường của từ này; đó là một dòng ân sủng được ban cho toàn thể Giáo hội, một “mũi tiêm của Chúa Thánh Thần” rất cần thiết. Nó giống như một cú điện giựt được nhắm vào đám đông là Giáo hội, và một khi mục tiêu này đã đạt được, thì sẵn sàng biến mất.

Tôi đề cập đến điều đó ở đây bởi vì nó bắt đầu chính xác với một kinh nghiệm phi thường trong việc tôn thờ Thiên Chúa hằng sống vốn là chủ đề của bài tĩnh tâm này. Nhóm sinh viên tại Đại học Duquesne ở vùng Pittsburg, những người đang tham gia vào một khóa tĩnh tâm, vào một buổi tối thấy mình trong nhà nguyện trước Thánh Thể thì bất ngờ có một điều bất thường xảy ra mà một phụ nữ trong số họ sau đó đã mô tả như sau:

“Nỗi sợ hãi Chúa tràn ngập trong chúng tôi; một nỗi sợ hãi khiến chúng tôi không dám nhìn lên. Ngài hiện diện một cách thực sự cá nhân và chúng tôi sợ Ngài quá yêu chúng tôi. Chúng tôi tôn thờ Ngài, và lần đầu tiên biết ý nghĩa của việc thờ phượng. Chúng tôi nhận ra một kinh nghiệm cháy bỏng về một thực tại quá choáng ngợp, và sự hiện diện của Chúa mà từ đó đã khiến chúng tôi hiểu được những hình ảnh về Giavê trên Núi Sinai khi nó rung chuyển và bùng nổ trước ngọn lửa là sự Hiện Hữu của Ngài, và kinh nghiệm của tiên tri Isaia (Is 6: 1-5), cũng như lời công bố rằng Thiên Chúa của chúng ta như một ngọn lửa đang tiêu đốt. Nỗi sợ thánh này cách nào đó giống như tình yêu hay một tình yêu gợi lên khi chúng ta thực sự nhìn thấy Ngài. Ngài thực sự đáng yêu và xinh đẹp, nhưng chúng tôi không thấy hình ảnh nào. Như thể trong ánh quang huy hoàng, rực rỡ chính Chúa đã đi vào phòng và lấp đầy cả căn phòng lẫn chúng tôi.” [10]

Sự hiện diện đồng thời cả sự uy nghi lẫn sự tốt lành nơi Thiên Chúa, cũng như nỗi sợ hãi và lòng yêu mến nơi tạo vật là một “mầu nhiệm đầy cảm hứng và hấp dẫn”, như các học giả tôn giáo mô tả [11]. Người phụ nữ đã mô tả thời điểm đó như thế không biết rằng đây là một bản tóm tắt hoàn hảo về những đặc điểm của Thiên Chúa hằng sống trong Kinh thánh.

Chúng ta hãy kết thúc bằng một câu của Thánh vịnh 95 mà Lời mời gọi trong Các Giờ Kinh Phụng vụ cho chúng ta bắt đầu mỗi ngày mới:

Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục,
quỳ trước tôn nhan CHÚA là Đấng dựng nên ta.
Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ,
còn ta là dân Người lãnh đạo,
là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.


1. Thánh Phanxicô thành Assisi, “Thư gửi cho những người cai trị dân,” trong cuốn Thánh Phanxicô Assisi: Các tác phẩm và các tiểu sử sơ khởi, tái bản lần thứ 4, ed. Marion H. Habig (Quincy, IL: Franciscan Press, 1991), tr. 115.

2. Khải huyền 19:10; 22: 9; xem Công vụ Tông đồ 10: 25-26; 14:13 ff).

3.Xem Thánh Angela thành Foligno, Sách về Chân Phước Angela (Các Hướng dẫn), Phần 3, trong cuốn Angela of Foligno: The Complete Works, trans. Paul Lachance (Mahwah, NJ: Paulist, 1993), tr. 243.

4. Thánh Grêgôriô Nazianzus, Carmi, 29 (PG 37, trang 507).

5. Xem Pseudo-Dionysius the Areopagite, “Mystical Theology,” 3, in On the Divine Names and Mystical Theology, ed. Clarence E. Rolt (London: SPCK, 1920), pp. 197-198; see PG 3, 1033.

6. Sách Lễ Rôma, Kinh Tiền Tụng Chung thứ IV.

7. Friedrich Nietzsche, The Gay Science (The Joyful Wisdom), trans. Thomas Common (Mineola, NY: Dover, 2006), p. 94.

8.Giuseppe Ungaretti, Vita d’un uomo: 106 poesie (Milan: Mondadori, 1988), p. 72.

9.Charles de Foucauld, Easter, 1891, Charles de Foucauld: Writings (Maryknoll, NY: Orbis Books, 1999), p. 111.

10. In Patti Gallagher Mansfield, As by a New Pentecost. Beginning of the Catholic Charismatic Renewal, Amor Deus Publishing, Phoenix, AZ, 2016, p. 131.

11. Xem, chẳng hạn, Rudolf Otto, The Idea of the Holy, trans. John Harvey (London: Oxford University Press), 1967, esp. chapters 4 and 6.


Source:Cantalamessa
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo Phận Hà Tĩnh Hội Nghị Thành Lập Ban Bác Ái Xã Hội – Caritas
Đa minh Nguyễn Tiến Khởi
08:42 05/04/2019
Với tinh thần Liên đới – Thăng tiến để phục vụ cách tốt hơn, sáng ngày 4/4/2019, tại Tòa Giám mục giáo phận Hà Tĩnh (xã Thạch Trung, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh) đã diễn ra Hội nghị thành lập Ban Bác ái xã hội - Caritas giáo phận Hà Tĩnh.

Về dự Hội nghị có hiện diện của Đức Cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp, Giám mục tiên khởi giáo phận Hà Tĩnh; Cha An tôn Nguyễn Thanh Tịnh, Chánh văn phòng TGM; Cha Giu se Phan Đình Trung, Quản lý TGM; Cha Giu se Trần Văn Học, Đặc trách ban Truyền thông giáo phận; Cha GB.Nguyễn Huy Tuấn, Giám đốc Caritas giáo phận; Quý Cha trong ban Caritas giáo phận; Quý Cha đặc trách Caritas của 10 giáo hạt; Quý Cha Trưởng và Phó các Tiểu ban; Quý Sour Văn phòng, chuyên trách, chuyên viên của Caritas giáo phận cùng một số Cộng tác viên của các Tiểu ban Caritas trong toàn giáo phận.

Hội nghị đã diễn ra trong một bầu khí hết sức sôi nổi, khẩn trương dưới sự chủ trì của Cha GB Nguyễn Huy Tuấn, người đã được Đức Giám Mục giáo phận bổ nhiệm làm Giám đốc Caritas của giáo phận Hà Tĩnh. Với sự nhạy bén, sáng tạo, cách làm việc khoa học, bài bản và những kinh nhiệm tích lũy sau những năm làm Giám đốc Caritas giáo phận Vinh Ngài đã chủ trì điều khiển Hội nghị một cách hết sức tốt đẹp với sự thảo luận sôi nổi của các thành phần trong Hội nghị. Qua các phần được tiến hành theo từng nội dung, Hội nghị đã thu hút được nhiều những ý kiến chia sẻ, góp ý hết sức quý giá đến từ các Cha, các thành phần như Cha Hoàng Anh Ngợi, cha Nguyễn Văn Hoan, cha Nguyễn Đình Phú, cha Nguyễn Văn Tâm, cha Kiều Ngọc Linh, cha Nguyễn Hồng Lĩnh, cha Nguyễn Xuân Bá…và những chia sẻ hết sức quý giá của ông Nguyễn Văn Chiều về việc thành lập Caritas giáo hạt, ý kiến của ông Nguyễn Văn Nguyên về công tác phát triển Nhóm Bảo vệ sự sống. Tại Hội nghị, Đức Cha Phao lô và Cha GB Nguyễn Huy Tuấn đã giải đáp một số thắc mắc trong cuốn điều lệ Caritas Việt Nam cũng như những việc làm thực tiến của các Tiểu ban để rồi đi đến những kết luận hết sức tốt đẹp hứa hẹn sẽ là những thành công đang chờ đợi của Ban Caritas giáo phận.

Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Đức Cha Phao lô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục giáo phận đã có những phân tích hết sức tỉ mỉ, sâu sắc trong công tác Caritas như việc chọn lựa nhân sự, lựa chọn con người, sự phối hợp chặt chẽ giữa TGM và Ban Caritas trong công việc, trong những dự án hoạt động. Ngài đặc biệt đề cao đến vấn đề “Từ bi bác ái” trong Cairtas, Ngài nói; “Chúng ta đừng nghĩ Bác ái xã hội là chỉ đi ban phát, đi cứu trợ, đi cho tiền mà Bác ái xã hội còn phải giúp cho con người sống tình yêu thương, sống ngay thẳng, công bình, sống bằng cái Tâm, Thiện, Đức… Trong việc chọn lựa nhân sự, chúng ta không chỉ dựa vào chuyên môn, dựa vào năng lực mà điều cốt yêu là con người phải có lòng Từ bi bác ái. Người làm Caritas cần phải phục vụ một cách vô tư, phục vụ bằng tình thương. Chúng ta phải lấy năng lực chuyên môn để phục vụ cho tình thương yêu và lòng Từ bi bác ái…”. Ngài cũng đặc biệt nhấn mạnh việc phát triển Hội viên ở các giáo xứ, xây dựng đội ngũ cộng tác viên, xây dựng hệ thống Caritas từ cấp Giáo phận đến các giáo hạt và các giáo xứ. Ngài còn quan tâm đến việc xây dựng Văn phòng Caritas giáo phận, việc chọn nhân sự, năng lực của các chuyên viên, nhất là thư ký Văn phòng Caritas.

Với sự chuẩn bị chu đáo, khoa học, bài bản Cha Giám đốc đã chủ trì nghị đi từng bước một cách tốt đẹp qua từng nội dung từ cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân sự, khái quát về các lĩnh vực hoạt động của Caritas đến chọn Thánh quan thầy đều được diễn ra một cách tốt đẹp và được sự góp ý, chia sẻ một cách tích cực từ Hội nghị.

Sau một buổi sáng làm việc tích cực, khẩn trương, sôi nổi Hội Nghị đã bầu ra Ban Caritas giáo phận với người đứng đầu là Cha GB Nguyễn Huy Tuấn làm Giám đốc, Sour Anna Nguyễn Thị Thắm làm thư ký, Sour Maria Đặng Thị Tươi làm kế toán, Sour Anna Đinh Thị Xoan làm thủ quỹ cùng một số ban viên khác. Hội nghị cũng đã thành lập ra 7 Tiểu ban gồm; Ban Phát triển Hội viên do Cha do cha Phaolo Nguyễn Đình Phú làm trưởng ban; Ban Cứu trợ do Cha An tôn Nguyễn Xuân Bá làm trưởng ban; Ban Bảo vệ sự sống do Cha Pet Nguyễn Văn Tâm làm trưởng ban; Ban Hỗ trợ người khuyết tật do Cha Martinô Nguyễn Văn Bé làm trưởng ban; Ban Khuyến học do Cha Gioan Nguyễn Văn Hoan làm trưởng ban; Ban Mục vụ bệnh nhân do Cha Pet Nguyễn Huy Hiền làm trưởng ban và Ban truyền thông do anh GB Nguyễn Văn Việt làm trưởng ban. Hội nghị cũng đã thống nhất chọn Thánh nữ Têrêsa Calcutta làm quan thầy của Caritas giáo phận.

Đây là Hội nghị đầu tiên của Caritas giáo phận Hà Tĩnh sau khi giáo phận được chính thức thành lập và sau lễ công bố quyết định ngày 11/2/2019 nên Ban Caritas của giáo phận Hà Tĩnh bắt đầu được hình thành và phát triển từ đây. Hi vọng rằng nơi mảnh đất Miền trung đầy nắng và gió, đầy gian khó và đau thường này được sự chia sẻ trong tình yêu thương của Cariats. Đặc biệt 2 tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình, một dải đất được coi là “Chó ăn đá, gà ăn sỏi” này nhận được sự quan tâm từ những tấm lòng Từ bi bác ái, con người nơi đây sống trong tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau để quê hương cũng như con người thêm no ấm, hạnh phúc, Giáo hội nơi đây hoa trái trổ sinh.

Đa minh Nguyễn Tiến Khởi
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Theo dòng lũ đỏ.
Bảo Giang
22:43 05/04/2019
Theo dòng lũ đỏ.

Có một điều mà ai cũng biết là: một khi dòng nước đã chảy tràn qua bờ, làm vỡ đê, nước sẽ không tự ngừng lại để chờ người ta làm bờ đê khác. Trái lại, nó sẽ tiếp tục cuốn trôi đi những gì nằm trên dòng lũ.

Chuyện là thế, tuy nhiên, con người nhiều khi lại phạm một lỗi lầm lớn là không cùng nhau giữ cho đê khỏi vỡ. Hoặc gỉa, khi một mảng đê bị vỡ thì tất cả không cùng ra công ra sức. Trái lại, vẫn sống theo cảnh đèn nhà ai, nhà nấy rạng. Đến khi mở mắt ra, căn nhà của mình đã ngập nước đỏ rồi. Khi ấy, chạy đi đâu? Dầu có cả vợ chồng con cái thi nhau gào thét, khóc than, ai sẽ cứu đây? Đây là một câu hỏi không vui và câu trả lời trong hoàn cảnh này là một nỗi đau thấm thía. Bởi lẽ, ai gào thì cứ gào, kẻ vui chơi, cười đùa vẫn không thay đổi. Kết qủa, tất cả đều trắng mắt ra mà nhìn dòng nước đỏ nghiến nát đời dân tộc mình.

Đây là một câu chuyện buồn, thật buồn. Và còn buồn hơn thế nữa, nó là câu chuyện của người Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua! Tất cả chúng ta đều chìm trong một dòng chảy, nhưng người Việt lại mỗi người một phách, không biết nắm lấy tay nhau để cứu mình, cứu lấy gia đình và cứu lấy đất nước của mình. Cuối cùng, trơ ra trên cánh đồng trong cuộc bể dâu ấy là những thân cò mỏi cánh, rũ liệt và trên mảnh đất bùn lầy ấy là dăm ba cái cọc trơ thân, tróc vỏ. Bên cạnh đó là một vài con lang sói no cành bụng.

Hẳn nhiên đây là những hình ảnh không đem lại cho chúng ta niềm vui và không ai muốn nhìn thấy. Tiếc rằng, nó không phải là hình ảnh xuông, nhưng lại là cảnh sống của người Việt Nam hôm nay. Ơ đó, cái dòng nước đục đỏ hôi tanh kia vẫn cuồn cuộn trên đất nước này. Nó không chỉ phá nát căn nhà luân lý đạo đức của Việt Nam, nhưng còn là cuộc chia cắt đất đai của nhà Việt Nam ra từng mảnh để hiến dâng cho Tàu cộng phương bắc. Hỏi xem, rồi ra người dân Việt sẽ trôi dạt về đâu?

a. Tang thương, ly tán?

Ai cũng biết Việt Nam trải dài theo dòng sử hơn bốn ngàn năm, có lúc thịnh khi suy, nhưng xem ra chưa bao giờ gặp cảnh tang thương, ly tán và khốn cùng như thời Việt cộng. Bởi lẽ, từ xưa trong lịch sử nước ta chưa bao giờ có ghi chép về chuyện nhà nước giết người, đoạt của cải của người dân. Nhưng thời Việt cộng xem ra đây là một sách lược trường kỳ và chính yếu của chúng.

Khởi đầu, ngay từ những năm đầu của thập niên 1930, khi người dân chưa hề biết Việt Minh là cái gì thì họ đã bị khốn đốn vì chúng. Thời đó, với danh nghĩa “ủng hộ việt minh” những vùng thôn quê bị tạm chiếm, không có được một ngày yên. Nay chúng kéo về tra khảo của. Mai chúng bắt, lôi đi vài ba người có tên tuổi, có danh phận trong làng. Sáng hôm sau, cả làng, cả tổng đều vỡ mật khi thấy xác người thân quen trong làng bị chúng giết, và treo đầu lên trên cái cọc cắm giữa đường. Hoặc gỉa, giữa sân đình, miếu, trước của chợ hay nơi có nhiều người qua lại, với nét chữ nguyệch ngoạc “mặt trận Việt Minh sử tử tên ác ôn”.

Từ đấy, cuộc sống của người dân nơi vùng thôn quê đã thực sự bị đẫy vào hoang mang, hoảng sợ. Ngày sợ quan về tuần tra. Đêm mất ngủ, mất mạng vì cái mã tấu của Hồ chí Minh. Sự việc này đả đẩy người dân quê vào một trong hai bước đường bó buộc phải làm:

- Một là bỏ lại nhà cửa, tài sản, làng mạc và lặng lẽ đưa gia đình ra đi, đến nơi khác yên bình trong cuộc sống mới có tình người. Cuộc di cư vĩ đại của người dân miền bắc vào nam năm 1954 và sau cuộc bỏ nước ra đi sau 1975 phải được kể vào diện này.

- Hai là vì hoàn cảnh không thể rời bỏ làng quê thì đành cúi đầu vâng phục theo lệnh của cái mã tấu trong tay Việt cộng. Tự gom góp tài sản, tự bắt gà vịt và tích cóp gạo thóc dâng cho chúng để sống qua ngày.

Kịp đến những năm 1953-56, việc cướp của giết người của Hồ chí Minh thêm nở rộ. Hơn thế, nó trở thành một chính sách lớn của nhà nước Việt cộng. Từ đây không một làng, xã, huyện, phủ hay thành thị nào trên đất bắc mà không bị Hồ chí Minh chỉ tên, đấu tố. Kết qủa, chỉ trong vòng gần 4 năm (1953-56), hơn 172000 ngàn người chủ nhà Việt Nam đã bị Hồ chí Minh sát hại và tịch thu toàn bộ tài sản của gia đình họ. Tính theo tỷ lệ dân số lúc bấy giờ thì theo báo cáo chính thức của chúng: “các vùng đều đạt chỉ tiêu từ 5 đến 7% dân số” bị giết chết và bị tịch thu tài sản. Tuy nhiên, có nhiều vùng còn vượt xa chỉ tiêu này.

Bạn hỏi Hồ chí Minh là ai mà độc ác, tàn bạo như thế ư? Cho đến nay, ngoại trừ tập đoàn Việt cộng cho Y là người Việt, là lãnh đạo và còn nâng Y lên hàng cha gìa của chúng. Trong khi đó, sách vở của người Việt lại có cái nhìn khác về hắn. Trước hết, bản thân Y có thể không phải là người Việt Nam. Lý do, lý lịch của Hồ có nhiều điểm dối trá, đã thế, có những điểm không thể chứng minh. Ngay trong cách ăn mặc của Y đã là một khác biệt. Cả đời Y chỉ khoác trên người những bộ quần áo đại cán của CS Trung cộng. Y không hề biết đến Y phục Việt Nam. Đây là một điểm hoàn toàn khác biệt với cung cách của Nguyễn tất Thành, một người chỉ thích ăn mặc theo âu tây.

Dĩ nhiên, đây chỉ là một khác biệt bề ngoài, không đáng quan tâm. Nhưng trong lịch sử hơn 4000 của Việt Nam, hầu như không có ghi lại một trang, một hình ảnh nào vô đạo, ác độc, dã nhân như Hồ chí Minh. Nói thế, không có nghĩa là vua quan của Việt Nam từ xưa chưa từng giết người, hại dân. Trái lại, có nhiều. Nhiều vua quan vì quyền lợi cá nhân, phe đảng, họ cũng từng giết người đối kháng, hoặc gỉa, giết cả người theo đạo Giatô mặc dù họ chẳng phạm vào một loại tội đại ác nào. Tuy thế, không có một vua quan nào dựa vào thế lực của Tàu phương bắc để giết người và cướp đoạt tài sản của người dân như Hồ chí Minh.

Trước hết, ngoài việc đưa ra khảu lệnh “trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, Hồ chí Minh còn trổi vượt hơn tất cả mọi kẻ độc ác khác qua bài viết hướng dẫn cho cuộc đấu tố với tựa đề “ địa chủ ác ghê”. Ở đó, Y đã khởi công, kể tội bằng cách vu khống, gía họa cho một người đàn bà là Nguyễn thị Năm với những dòng chữ mà khi đọc qua, ai cũng phải rùng mình và kinh tởm vì cái man rợ của nó. Tuy nhiên, Hồ rất hãnh diện vì bản văn, nên ngay khi viết song Y đã trao tay cho hầu cận đem ra pháp trường đọc, kể tội, lên án bà thay cho lời luận tội của án quan. Phần cá nhân Hồ chí Minh và viên phụ tá là Đặng xuân Khu thì “kẻ bịt râu người đeo kính râm đến dự một buổi”. (Trần Đĩnh, Đèn Cù).

Thú thật, khi đọc đến đoạn viết này, tôi thấy rợn cả người. Từ đó, tôi có thêm lý do để cho rằng, dẫu Y là ai đi chăng nữa, chỉ cần một bài viết này và cung cách lén lút đi theo giám định cuộc đấu tố bà Nguyễn thị Năm thì đủ biết Y là kẻ tồi bại, bất lương, đáng khinh bỉ như thế nào. Bởi lẽ, nó không chỉ là một hành động vô đạo, nhưng còn là sự bất gíao tự tâm nữa. Tuy thế, tập đoàn cộng sản lại hãnh diện, học tập theo gương của Y. Từ đó nhà Việt Nam phải nhận tai họa cũng không có gì lạ.

Nhắc về chuyện này, tôi đã viết nhiều lần, nhưng sẽ còn tiếp tục viết nữa. Bởi lẽ, không cần biêt Y là ai. Nhưng một khi đã xác định được Y là kẻ đã đẩy Việt Nam vào con đường vô đạo bằng cách cổ võ, hoặc gỉa, cưỡng bức xã hội thực hiện chủ trương con cái đấu tố cha mẹ, vợ chồng, anh em họ hàng thân tộc đấu tố nhau để triệt hạ, xóa bỏ nhân bản, luân lý của Việt Nam thì tôi phải viết. Lý do đơn giản là, bất cứ kẻ nào phá hoại nền luân lý, đạo đức của gia đình và xã hội Việt Nam thì đều phải bị lên án. Hơn thế, phải để cho người ngoài cuộc thấy rằng chúng ta, người Việt Nam có một cội nguồn thủy chung với Nhân Lễ Nghĩa, Trí, Tín… Chúng ta không có cùng chung nguồn gốc bất lương, bất giáo như CS.

Có thể, bạn không đồng thuận về điều tôi vừa viết. Hơn thế, còn phản kháng vì cho rằng nhờ Y mà Việt Nam mới đuổi Pháp, đuổi Mỹ ra khỏi nơi đây, nên Y có toàn quyền thực thi sách lược của CS trên đất nước này?

Nếu nghĩ như thế thì bạn là kẻ ấu trĩ lắm, bởi chính vua Bảo Đại đã công bố Việt Nam hòan toàn độc Lập vào ngày 11/3/1945. Sử Việt còn đây, vua Bảo Đại ký đạo dụ: Tuyên cáo Việt Nam Độc Lập, “Tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884 cùng các hiệp ước nhận bảo hộ và từ bỏ chủ quyền khác, khôi phục nền độc lập của đất nước, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ”. Cùng với đạo Dụ này là sự ra đời của chính phủ Trần trọng Kim với những con số của lịch sử ghi rõ nét đây:

1. Ngày 9-3-1945, Nhật chấm dứt 80 năm đô hộ của giặc Pháp trên toàn cõi Ðông Dương.

2. Ngày 25-8-1945 Nhật cáo chung quyền lực tại đây. Nhưng ngay khi việc nước chưa yên, Việt Minh đã nhảy vào cướp chính quyền nhân việc quân dân Hà Nội xuống đường tuần hành ủng hộ chính phủ Trần trọng Kim vào ngày 17-8-1945.

Sử và thực tế là thế, tuy nhiên, lúc gần đây cơ quan truyền thông VC và nhiều “láo thành cách mạng” của chúng lại nêu ý kiến là không nên dùng cụm từ "cướp chính quyền" nữa. Báo tuổi trẻ online 08/10/2005 TTCN cho rằng: “Từ trước đến nay trên sách báo cũng như một số kênh thông tin đại chúng khi nói về cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1945 giành chính quyền về tay nhân dân, chúng ta thường dùng cụm từ: “tham gia cướp chính quyền”. Cụm từ “cướp chính quyền” này theo tôi không ổn. Bởi lẽ, Hằng ngày ta thường nghe nói tới từ “cướp” như “kẻ cướp”, “quân ăn cướp”, “bọn cướp nước”... Với cụm từ có dùng từ “cướp” bao hàm cử chỉ, hành động phi nghĩa, vô nhân đạo. Động từ “cướp” chỉ hành động xấu xa. Theo đó tại sao sách sử của ta mãi dùng cụm từ “ tham gia cướp chính quyền”.? Phải chăng CS đã biêt sấu hổ vì chữ cướp?

Hỏi vậy thôi, thực tế ai cũng biết, gắn liền với việc cướp chính quyền ở miền bắc là vụ đấu tố được cài cắm với cái tên như mơ là “ cải cách ruộng đất”. Ở đó, nông dân miền bắc có ruộng đất thì bị vu khống là cường hào rồi bị bày trò đấu tố để VC giết họ một cách man rợ. Người thì bị chôn sống, kẻ bị treo lên xà nhà, bị đánh để tra khảo của. Kẽ bị chúng giam nơi hầm phân cho tới chết... Rồi nhờ sự tàn bạo này mà toàn bộ ruộng đất của họ và của người dân miền miền bắc bị Hồ chí Minh cướp đoạt. Hỏi xem cái giải phóng ấy có là văn minh chưa nhỉ?

Có lẽ là chưa đủ văn minh nên gần đây họ đã biến thể từ “cải cách ruộng đất” sang một cụm từ mới là “cưỡng chế, quy hoạch”. Chữ thì hơi khác xưa, cơ bản vẫn chỉ là cướp, cướp gọn nhẹ hoặc là cướp có tổ chức, võ trang. Ngày nay, từ vùng nông thôn nghèo khó đến thành thị, mỗi khi nghe vang lên từ “cưỡng chế” và nhìn đoàn lục lâm VC là người dân rùng mình. Tiếp theo là tiếng la hét, nguyền rủa, thậm chí chủi bới đoàn “cưỡng chế, quy hoạch” đến thấu trời xanh. Mặc, cái mặt bọn cướp cứ trơ ra như mặt Hồ chí Minh khi tố giác bà Nguyễn thị Năm xưa.

b. Cơ hàn, nghèo đói.

Ai cũng biết, sau những năm 1954, khi dân đã bước vào đoạn đường cùng của nghèo đói. Ngửa lên, chỉ một mặt trời máu, cúi xuống là những dấu lệ rơi. Cộng sản hiểu rằng, cuộc nổi loạn có thể bùng phát bất cứ lúc nào trên đất bắc. Nhưng thay vì tháo bỏ xiếng xích cho người dân, hoặc xin lỗi dân, cộng sản lại đẩy người dân đất bắc vào cuộc chiến tranh tương tàn với miền nam. Kết qủa, có đến trên 3 triệu người dân mất mạng trong cuộc chiến phi lý này. Gọi là phi nghĩa lý là bởi vì sau hơn 20 năm nội chiến, người Việt Nam càng lúc càng cùng khổ trong cảnh mất đất, mất nhà, mất cả Độc Lập, Tự Do và Hạnh Phúc. Trong khi đó, ngày nay, không một tên cán bộ viên chức nào của cộng sản thờ Tầu mà không giàu có gấp hàng trăm, thậm chí hàng ngàn, hàng vạn lần nếu đem xo sánh với những người giầu có đã bị chúng đấu tố, chém đầu năm xưa!

Để chứng minh cho những điều tôi vừa viết, bạn hãy nhìn thử xem: Căn nhà to lớn nhất làng và ruộng đồng thẳng cánh cò bay ở thôn quê ta hôm nay là của ai đó? Rồi căn nhà kín cổng, cao tường giữa phố xá kia là của ai? Những dãy dinh thự mà người dân khi đi qua chẳng dám đứng lại nhìn một lần kia là của ai? Của dân đen hay của cán bộ đỏ?

Rồi bạn hãy hỏi xem, có còn ngôn từ nào đểu cáng, bất lương hơn cái bản văn chúng gọi là hiến pháp trong đó có câu “đất đai thuộc về sở hữu toàn dân và do nhà nước quản lý” không? Và hãy hỏi xem, Nam Quan, Bản Giốc, Lão Sơn… cho đến rừng đầu nguồn, Bauxite Tây Nguyên, đến Formosa… rồi Hải Đảo, Bắc Vân Phong, Vân Đồn, Phú Quốc… ra sao? Có nằm trong mục “đất đai thuộc sở hữu tòan dân và do nhà nước… Trung cộng quản lý chăng? Xa hơn, hãy nhìn xem, trên quê hương ấy có còn một nơi nào thiếu bóng dáng bước chân Trung cộng nghênh ngang không?! Hãy nhìn đi để chúng ta có câu trả lời.

3. Tương lai về đâu?!

Người dân đã cùng khổ như thế, tập đoàn Hồ phỉ vẫn chưa vừa bụng. Mới hôm nào đây, chúng vung mã tấu lên ở phố Nhà Chung Hà Nội để đánh cướp Tòa khâm Sứ, rồi tiến chiếm Đồng Chiêm, Tam Tòa, Loan Lý, Cồn Dầu, Văn Giảng, Tiên Lãng... nay lại đến Lộc Hưng, Thủ Thiêm! Mai sẽ là đâu? Liệu có thể là ông Tạ, Gò Vấp, Tân sơn Nhì….? Hoặc gỉa, bất cứ một nơi nào đó mà chúng tìm được lợi nhuận thì đều có thể bị giải tỏa với đủ những lý do như lập vùng an toàn, phi trường, bến cảng… khi đó, thẩy đều có chung một số phận như Lộc Hưng, Tiên Lãng! Bởi lẽ, “đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng do nhà nước quản lý”. Nó hoàn toàn đúng quy trình như trong hiến pháp của chúng đã quy định.

Hỏi xem, người dân còn gì để bám? Chúng ta đã bị chúng xô đẩy vào bước đường cùng chưa? Nhớ lại, vào thời Việt Nam Cộng Hòa, Tổng Thống Ngô đình Diệm đã công bố những biện pháp để bảo vệ người dân của mình như sau:

1. Công bố hàng loạt ngành nghề kinh doanh chỉ dành cho người Việt Nam; người nước ngoài không được hành nghề.

2. Ngày 22-10-1956, Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN “Thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam”.

Theo Sắc lệnh này, Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Từ đây, tên gọi “Chợ Lớn” không còn được dùng chính thức trong các văn kiện hành chính nữa. Có chăng chỉ được dùng trong câu chuyện của người dân để chỉ một khu trong quận 5, quận 6, quận 11 và một phần quận 8 10 của đô thành Sài Gòn mà thôi. Phần dân quê thì có ruộng để cày bừa sinh sống.

Như thế, chính ông là người đã biến những ngôn từ thành chương trình cứu quốc và kiến quốc. Trong khi đó, Việt cộng dưới lớp áo của Hồ chí Minh thì ngay từ năm 1958 đã trao tay hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cho Tàu cộng bằng một lý lẽ của phường đá cá: "Mấy cái đảo hoang ngoài khơi đó của ai thì tôi không rõ lắm, nhưng cũng chỉ là mấy cồn đá hoang toàn phân chim ỉa. Nếu các đồng chí Trung Quốc muốn thì cứ cho họ đi. (Hồ Chí Minh, trong HCM toàn tập). Với lời công bố này, Việt Nam sẽ đi về đâu? Hỏi xem Y là ai đây? Nguyễn tất Thành hay Hồ tập Chương?

Để kết, tôi tin rằng những bài học từ TKS, Thái Hà rồi Tam Tòa , Đồng Chiêm, Cồn Dầu, Mỹ Yên, Văn Giảng, Tiên Lãng và nay là Thủ Thiêm, Lộc Hưng… không là vô ích. Trái lại, đó là những bài học bằng máu và nước mắt của ngưòi Việt Nam học đươc dưới ách cộng sản. Tuy thế, máu và nước mắt ấy chì là những đau thương, nhưng không là những hận thù. Trái lại, sẽ là một sức sống mãnh liệt đầy bao dung, nhân ái, có khả năng giúp dân tộc ta trưởng thành và vững mạnh trong việc quyết xây dựng lại đất nước và con người trong yêu thương, tự chủ, không cộng sản.

Bảo Giang

5-4-2019
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Thập gía che khăn
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
08:49 05/04/2019
Trong nếp sống phụng vụ Công Giáo có tập tục từ Chúa Nhật thứ năm mùa chay thập giá Chúa Giêsu, ít là trong các thánh đường, được che phủ kín bằng một tấm màn.

Đâu là ý nghĩa của tập tục này?

Tập tục che phủ thập giá Chúa Giesu có nguồn gốc trong Giáo Hội từ thế kỷ thứ 12.

Vào cuối thế kỷ 13. Đức Giám Mục Wilhelm Durandus , giáo phận Mende ở miền nam nước Pháp đã có suy tư về ý nghĩa tập tục này: Chúa Giêsu Kitô trong thời gian chịu thương khó đau khổ đã che dấu bản tính Thiên Chúa của mình.

Đặc biệt trong phúc âm theo Thánh Gioan có đoạn tường thuật lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các nhà thông luật thời lúc đó, Chúa Giêsu đã nói với họ: Trước khi có tổ phụ Abraham đã có tôi. Nghe thế họ lấy đá ném người. Nhưng Chúa Giêsu tránh đi , và rời khỏi đền thờ.( Ga 8,58).

Bài phúc âm này trước thời cải tổ phụng vụ năm 1969 được đọc trong thánh lễ ngày Chúa Nhật thứ năm mùa chay. Và từ khi có cải tổ phụng vụ đoạn phúc âm này không còn được đọc trong ngày này nữa. Nhưng thập giá vẫn còn được che phủ kín từ ngày này. Chiều ngày thứ Sáu tuần thánh có nghi thức phụng vụ mở khăn để mọi người tôn kính thập giá Chúa Giêsu.

Tấm Khăn che phủ thập gía thường mầu tím, nhưng cũng có nơi dùng tấm khăn mầu trắng.

Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập gía, và ngài đã chết trên đó. Đây là hình ảnh đau thương. Nhưng sự hy sinh đau thương của Chúa Giêsu chết trên thập gía lại là nguồn ơn cứu độ cho tội lỗi nhân loại. Vì thế thập gía chúa Giêsu được che phủ kín muốn nói lên khía cạnh hình ảnh chết hy sinh đau khổ của Chúa Giêsu cần được khắc ghi sâu vào trong trái tim tâm hồn người tín hữu Chúa Kitô.

Khi thập giá chúa Giêsu không còn được nhìn với tầm con mắt về khía cạnh lịch sử, thì ý nghĩa sự dấn thân hy sinh chịu chết của Chúa Giêsu trên thập giá được khám phá sâu xa hơn cho chính bản thân đời sống con người.

Thập gía trong đời sống ai cũng có, cũng phải mang vác chịu đựng. Đó là những đau khổ trong đời sống dưới nhiều dạng thức khác nhau trong các chặng đường lịch sử đời sống .

Không ai có thể bỏ đẩy thập giá ra khỏi đời sống mình được. Với người tín hữu Chúa Kitô nhìn lên thập giá Chúa Giêsu nhắc nhớ đến lời Chúa Guêsu trong cơn khốn cùng đã kêu than thở : Lạy Thiên Chúa, sao Chúa bỏ con. Xin Chúa đến giúp con!

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
 
Văn Hóa
Ngước mắt
Lê Đình Thông
08:47 05/04/2019

Ngước mắt mà xem những cánh đào
Vui tươi cành lá cũng lao xao
Trước mắt con đường đầy hoa lá
Có thấy chim muông cũng vẫy chào.

Ngước mắt mây trời vẫn mãi xanh
Màu xanh Lộ Đức giãi ơn lành
Mẹ dẫn con đi trên khắp nẻo
Mai mốt học hành cất bước nhanh.

Ngước mắt mà xem phước Chúa Trởi
Đồng xanh suối mát phước cao vời (1),
Dìu bước con đi ơn phước lạ
Chắp tay cảm tạ mãi không ngơi.

Có thấy quanh đây những tấm lòng :
Nào cha nào mẹ vẫn trông mong
Cùng cô cùng bác luôn cầu nguyện
Cháu là thiên thần rất trinh trong.

Lê Đình Thông
(1) Tv 230
 
Viết trên đất
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
08:50 05/04/2019
Viết trên đất

Trên bước đường rao giảng tình yêu nước Thiên Chúa ba năm ở trần gian nước Do Thái, Chúa Giêsu đã thể hiện nhiều phép lạ, đưa ra nhiều dụ ngôn, cùng nhiều cung cách xử sự với con người.

Những cung cách cùng lời nói của Chúa Giêsu đã đánh động tâm hồn người trong cuộc, người nghe thời lúc đó và cả người đọc kinh thánh tường thuật lại sau này. Một cung cách xử sự của Chúa Giêsu gây cảm động ngạc nhiên cùng lòng cảm phục như khuôn vàng thước ngọc là cách thế Chúa Giêsu đối xử với người phụ nữ bị tố cáo phạm tội.

Các nhà theo phái Phariseo mang đến cho Chúa Giêsu người phụ nữ bị tố cáo phạm tội, để xem Chúa Giêsu đối xử ra sao. ( Lc 7,53- 8,11)

Theo luật Do Thái thời lúc Chúa Giêsu, người phụ nữ nào bị tố cáo phạm tội sẽ bị lên án tử hình ném đá. Nhưng Chúa Giêsu không để bị vướng vào bẫy của họ bày ra. Vì nếu theo cách thế kết án ném đá tử hình, thì bị cho là vô nhân đạo. Còn nếu đứng về phía người phụ nữ, tức là không theo lề luật ấn định, thì bị cho là chống lại lề luật. Và nếu Chúa Giêsu thuận theo luật kết án ném đá cho chết, tức là chống lại người phụ nữ, thì liền bị cho là người bất nhất với sứ điệp tin mừng do chính Ngài rao giảng: tha thứ.

Chúa Giêsu không để mình vướng vào ngõ bí hẹp không lối thoát đó. Ngài xử sự tự trong thâm tâm theo cung cách tự do cùng có đường lối nguồn gốc rõ ràng. Các người tố cáo và chị phụ nữ nạn nhân bị tố cáo đứng đó, Chúa Giêsu yên lặng cúi xuống đất lấy ngón tay viết vẽ trên nền đất.

Người viết gì? Không ai biết cùng không có chứng tích gì để lại. Nhưng việc Ngài viết trên nền đất như thế có diễn tả nói lên điều gì không?

Các nhà khảo cứu Kinh Thánh xưa nay đưa ra nhiều giả thuyết suy diễn về điều này.

Giả thuyết nghĩ rằng Chúa Giêsu trong thâm tâm, trong tâm hồn nghĩ đến lịch sử nguồn nước đời sống của dân Do Thái thời xưa và nguồn nước ơn cứu độ cho tâm hồn hồn con người. Nên Ngài dùng ngón tay mình viết vẽ vạch trên nền đất theo ý nghĩa câu Kinh Thánh của Ngôn sứ Gieremia: „ Những ai lìa bỏ Chúa sẽ phải xấu hổ, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ thành bụi đất,

vì họ đã lìa bỏ Thiên Chúa là mạch nước trường sinh. ( Geremia 17,13).

Nghĩ đến câu Kinh Thánh đó đang khi viết vẽ nền trên đất. Vì các người phái Phariseo đã quên Giave Thiên Chúa, Đấng là nguồn nước tuôn chảy sự sống động tình yêu thương, mà chỉ còn biết dựa vào những câu chữ của lề luật khô cứng.

Và lời Kinh Thánh này hợp với sứ mạng của Chúa Giêsu. Vì chính Người qủa quết, tự nơi Người chảy vọt tuôn trào nguồn nước sự sống cho những ai tin vào người.

Ai không tin Chúa Giesu sẽ bị khô hạn, trở nên cứng nhắc thiếu tình yêu thương, thiếu vắng sự sống. Và một khi như thế họ dễ dàng lên án, kết án người khác.

Chúa Giêsu là nguồn nước sự sống. Từ nơi nguồn nước đó sự sống phát sinh trở lại, khi vì tội lỗi làm xa cách ra khỏi dòng suối nguồn nước sự sống đó.

Rồi có một giả thuyết suy nghĩ nữa Chúa Giêsu viết trên nền đất dòng chữ „ Terra terram accusat - Đất kiện tố cáo đất“. Vì các thầy phái Phariseo và các thầy luật sĩ là con người từ đất được tạo thành cùng sống trên mặt đất, bây giờ đi tố cáo luận kết người phụ nữ cũng từ đất mà ra đang sống trên mặt đất. Như thế kẻ tố cáo kết án cùng người bị tố cáo bị kết án cũng là do từ đất mà ra và sau cùng trở về thành bụi đất thôi.

Ngay từ thế kỷ 9. sau Chúa giáng sinh suy diễn này đã có: „Digito scribebat in terra terram accusatur- Bằng ngón tay Người ( Chúa Giesu) đã viết trên nền đất: Qua đất, đất bị tố tụng kiện cáo.“.

Sau cùng chỉ còn lại Chúa Giêsu và chị phụ nữ bị tố cáo. Theo Thánh giáo phụ Augustino đó là“ người có lòng thương xót và lòng thương xót - Người đau khổ và người có lòng từ bi nhân hậu với người đau khổ.“.

Câu trả lời của chị phụ nữ cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “ Họ đâu cả rồi? Không ai kết án chị sao?. „ Thưa Ngài, không ai!“.

Câu trả lời“ Thưa Ngài, không ai!“ của chị phụ nữ nghe như một tiếng thở phào nhẹ nhàng thoát ra, nó tựa giống như một cục đá đè nặng tâm hồn chị ta giờ rơi ra khỏi trái tim tâm hồn và cảm thấy được khoan khoái nhẹ nhàng!

Thánh Giáo phụ Augustinus có suy tư: Chúa Giêsu dùng ngón tay viết trên nền đất cũng là hình ảnh ngày xưa trên núi Sinai Thiên Chúa Giave đã viết 10 điều răn lề luật trao cho Ông Mose bằng ngón tay của Ngài trên tấm bia đá. ( Xh 31,18).

Chúa Giêsu không tra khảo hay biện hộ xin lỗi cho hành động thiếu đúng đắn không tốt của chị ta. Nhưng tha thứ cho chị ta cùng hướng về tương lai: "Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.“

Chúa Giêsu đã gỡ giải thoát tâm hồn cho chị chuyển đổi sang một đời sống mới đưa dẫn đến nguồn ơn tha thứ bình an.

Ơn tha thứ bình an rất cần thiết cho đời sống con người tomng mọi giai đoạn hoàn cảnh đời sống hôm nay và ngày mai.

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long