Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: "Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi". Họ thưa lại Người: "Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói 'Các ngươi sẽ được tự do'?". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi". Họ đáp lại: "Cha chúng tôi chính là Abraham!" Chúa Giêsu nói: "Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Điều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!" Họ lại nói: "Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!" Chúa Giêsu nói: "Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến".
Đó là lời Chúa
2. Các thiên thần mỗi ngày đều đem lời cầu nguyện của các giáo hữu dâng lên Thiên Chúa.
(Thánh Silary)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Có một người lấy bà vợ tuổi đã lớn, khi ngồi trên giường nhìn trên mặt bà ta có nhiều nốt tàn nhang, bèn hỏi:
- “Thiệt tình bà mấy tuổi rồi?”
Bà ta trả lời:
- “Khoảng bốn lăm, bốn sáu tuổi”.
Chồng nói:
- “Nhưng bà viết trên giấy kết hôn rõ ràng là ba mươi tám, theo ta nhìn thì bà chưa đến bốn lăm bốn sáu tuổi, bà phải nói sự thực với ta”.
Vợ đáp:
- “Thực ra đã năm mươi bốn tuổi rồi”.
Ông chồng lại hỏi đến lần thứ ba, bà vợ nói gằn từng chữ là năm mươi bốn tuổi. Sau khi hai người lên giường, ông chồng càng không yên lòng, đột nhiên trong bụng nảy ra một kế, nói:
- “Ta phải dậy đậy bát muối, nếu không thì lũ chuột ăn vụng hết”.
Bà vợ cười nói:
- “Đúng là hoang đường, tôi sống đã sáu mươi tám tuổi rồi mà chưa nghe ai nói lũ chuột ăn vụng muối bao giờ !”
(Tiếu lâm quảng ký)
Suy tư 41:
Cái kỵ nhất của đàn bà con gái là hỏi họ bao nhiêu tuổi, cái khuyết điểm lớn nhất của đàn bà con gái là nhẹ dạ, dễ bị mắc lừa, do đó mà có nhiều tiểu thơ, con gái nhà lành cũng như con gái nhà không lành bị mắc lừa và ôm hận suốt đời.
Cái khuyết điểm lớn của đàn ông con trai là thích nghe lời nói “ngọt”, nhất là cái ngọt này từ miệng miệng đàn bà con gái nói ra, thế là có nhiều ông quan thân bại danh liệt, có nhiều ông chồng bỏ vợ bỏ con để theo bồ nhí, vợ bé...
Cái nhẹ dạ của người Ki-tô hữu ít học giáo lý là: hể ai nói đến chuyện phép lạ có liên quan đến Chúa Mẹ thì tin răm rắp, đồn ầm cả lên; có một vài người Ki-tô hữu nhẹ dạ đến nỗi tin vào ông đồng bà bóng làm phương hại đến đức tin của mình và trở nên gương mù cho tha nhân.
Nhẹ dạ cả tin là những vũ khí mà ma quỷ dùng để chia rẽ những người trong cộng đoàn, công phá các dòng tu, phê bình người khác, và cuối cùng thì họ trở nên một “mụ già” cằn cỗi vì sự nhẹ dạ cả tin của mình.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
CHÚA NHẬT LỄ LÁ C
Lc 19,28-40; Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Lc 22,14-23,56
CÙNG CHÚA QUA ĐAU KHỔ VÀO TRONG VINH QUANG
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc 19,28-40
(28) Đức Giê-su nói những lời ấy xong, Người đi đầu, tiến lên Giê-ru-sa-lem. (29) Khi đến gần làng Bết-pha-ghê và làng Bê-ta-ni-a, bên triền núi gọi là núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo : (30) “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh tháo dây ra và dắt nó đi. (31) Và nếu có ai hỏi : “Tại sao các anh tháo lừa người ta ra”, thì cứ nói : “Chúa cần đến nó”. (32) Hai người được sai ấy ra đi và thấy y như Người đã nói. (33) Các ông đang tháo dây lừa, thì những người chủ con lừa nói với các ông : “Tại sao các anh lại tháo con lừa ra?” (34) Hai ông đáp: “Chúa cần đến nó”. (35) Các ông dắt lừa về cho Đức Giê-su, rồi lấy áo choàng của mình phủ lên lưng lừa, và đặt Đức Giê-su lên. (36) Người tới đâu, người ta cũng lấy áo mình trải xuống đường. (37) Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. (38) Họ hô lên : “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa ! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời !”(39) Trong đám đông có vài người thuộc nhóm Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, Thầy quở trách môn đệ Thầy đi chứ !” (40) Người đáp : “Tôi bảo các ông : Họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên !”.
2. Ý CHÍNH :
Hai bài Tin mừng Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay gồm hai phần :
- Phần thứ nhất (Lc 19,28-40) : Tường thuật việc Đức Giê-su khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem để làm vua Thiên Sai.
- Phần thứ hai (Lc 22,14-23,56) : Tường thuật việc Đức Giê-su thi hành sứ vụ Thiên Sai bằng con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang”. Bài Thương Khó quá dài nên sẽ đọc trong sách Tân Ước hay trong Bài Tin Mừng CN Lễ Lá năm C.
3. CHÚ THÍCH :
- C 28-34 : + Người đi đầu : Với tư cách là Vua Mê-si-a, Đức Giê-su can đảm đi đầu như một mục tử đi trước dẫn đường cho đoàn chiên theo sau (x. Ga 10,4). + Tiến lên Giê-ru-sa-lem : Đức Giê-su từ thành Giê-ri-cô tiến lên thủ đô Giê-ru-sa-lem. Giê-ru-sa-lem nằm trên đỉnh núi cao hơn mặt biển 700 mét, nơi Đức Giê-su sẽ hoàn tất sứ vụ cứu độ bằng việc chịu chết và sống lại. + Làng Bê-ta-ni-a : Tên một ngôi làng nhỏ nằm trên triền núi Ô-liu về hướng Đông, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 5 cây số. Làng này có nhà của ba chị em là Mát-ta, Ma-ri-a và La-da-rô. Đức Giê-su và các môn đệ thường nghỉ lại đây mỗi lần hành hương về Giê-ru-sa-lem (x. Mt 21,17). + Con lừa : Theo quan niệm của Cựu ước, lừa là một con vật giống như con ngựa, dành cho đức vua và các nhà quý tộc cưỡi. Áp-sa-lôm là con trai vua Đa-vít cũng đã cưỡi lừa trong cuộc nổi loạn chống lại vua cha Đa-vít (x. 2 Sm 18,9). + Chưa ai cưỡi bao giờ : Nghĩa là đang còn tinh tuyền chưa bị mang ách trên cổ (x. Ds 19,2), nên xứng đáng dành cho Vua Thiên Sai sử dụng (x.1 Sm 6,7). + Vì “Chúa” cần đến nó : Dưới ánh sáng mầu nhiệm Phục Sinh, Đức Giê-su được môn đệ gọi là “Chúa” hay “Chủ”. Đây là tước hiệu được gán cho Đức Giê-su từ thời Giáo hội Sơ khai. Từ ngữ này diễn tả mầu nhiệm Đức Giê-su vừa là Con Người vừa là Con Thiên Chúa (x. Rm 10,9; Pl 2,10-11).
- C 35-38 : + Các ông dắt lừa về, lấy áo choàng của mình phủ lên lưng lừa, và đặt Đức Giê-su lên: Những chi tiết này gợi lại cuộc đăng quang lên làm vua của nhà vua Sa-lô-môn do vua cha là Đa-vít đã chuẩn bị trước (x. 1V 1,33.38.40). Việc Đức Giê-su ngồi trên mình lừa thay vì ngựa chiến nhằm diễn tả sứ vụ của Người là vua Thiên Sai hòa bình, chinh phục lòng người bằng tình yêu thương thay vì bằng bạo lực chiến tranh. + “Chúc tụng Đức Vua.”.. : là lời Thánh vịnh 117,25-26 được hát ca tụng Đức Chúa trong các buổi lễ long trọng khi đòan rước tiến vào Đền thờ.
- C 39-40 : + Thưa Thầy, Thầy quở mắng môn đệ Thầy đi chứ : những người Pha-ri-sêu nhắc Đức Giê-su cấm môn đệ hò hét tôn vinh Người, vì họ không tin Người là Vua Thiên Sai. + “Họ mà làm thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên” : Không gì có thể ngăn cản thành Giê-ru-sa-lem nghênh đón Đức Giê-su vào Thành đăng quang như một Đấng Thiên Sai. Số phận của Thành Giê-ru-sa-lem là sẽ bị tàn phá bình địa vì tội đã từ chối đón nhận Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai (x. Lc 19,44).
4. MẤY GỢI Ý SUY NIỆM :
TIN MỪNG TRƯỚC KHI RƯỚC LÁ (Lc 19,28-40) :
Hôm nay, Chúa Giê-su cưỡi trên lưng một con lừa để tiến vào thành Giê-ru-sa-lem giữa những tiếng tung hô vạn tuế của dân chúng.
- Vua Mục Tử Giê-su khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem : Vào thời Đức Giê-su, mọi người Do thái đều quan niệm về sứ mạng của Đấng Thiên Sai đến nhằm đánh đuổi quân Rô-ma ra khỏi bờ cõi và thiết lập một triều đại huy hoàng giống như triều đại vua Đa-vít và vua Sa-lô-môn. Thế nhưng, khi cưỡi trên lưng con lừa hiền lành tiến vào thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su lại muốn cho thấy điều ngược lại : Đấng Thiên Sai không phải là một ông vua của chiến tranh, nhằm tiêu diệt kẻ thù và bắt chúng làm nô lệ. Người là Vua nhưng là Vua Mục Tử. Người đến không đòi con chiên hầu hạ nhưng để hầu hạ và sẵn sàng chết thay cho đoàn chiên. Người không ngồi trên mình ngựa để đi giao chiến với các dân khác, nhưng ngồi trên mình lừa như ông Vua Hòa Bình với sứ mạng giải thoát nhân loại khỏi đau khổ, bệnh tật, sự chết và mọi bất công là hậu quả của tội lỗi do ma quỷ xúi giục.
- Ngài đến để mở ra một con đường sống cho loài người : Người đến để xây dựng một “Trời Mới Đất Mới”, kêu gọi mọi người hãy “bỏ mình” nghĩa là bỏ đi cái tôi ích kỷ tự mãn, bỏ đi tội lỗi và các thói hư và “vác thập giá mình hằng ngày” là chu toàn bổn phận đối với với bản thân, gia đình và xã hội mà “đi theo Người”. Con đường Chúa đi tuy là đường đau khổ thập giá nhưng lại dẫn đến vinh quang phục sinh và hạnh phúc Thiên Đàng đời sau. Đó là đường Mến Chúa yêu người.
II.SỐNG LỜI CHÚA
1.LỜI CHÚA : “Sau khi ăn miếng bánh, Giu-đa liền đi ra. Lúc đó trời đã tối”(Ga 13,30).
2. CÂU CHUYỆN :
1) GIÁ TRỊ CỦA CHÚ LỪA :
Đối với nhiều người, hình ảnh con lừa không mấy hấp dẫn, vì lừa là một con vật đần độn và ưa nặng. Tuy nhiên, trong một bài thơ, CHES-TER-TON đã nói về một chú lừa ý thức thân phận của mình và đã tự nhủ như sau :
"Chắc hẳn tôi đã được sinh ra khi mảnh trăng nhuốm máu, khi cá lượn trên không, lúc cây rừng im lặng và cây vả trổ gai. Ôi chiếc đầu kỳ quái, tiếng kêu ghê tởm, đôi tai khác nào cặp cánh lạc loài và dáng đi kỳ cục nhất trong các loài động vật bốn chân. Thế nhưng, tôi cũng có giờ của tôi chứ. Một giờ thật oanh liệt và êm dịu, khi bên tai văng vẳng tiếng reo và ngành thiên tuế chập chờn dưới bước chân tôi đấy". Và chú lừa đã thốt lên : "Quí vị cứ cười nhạo tôi đi, nhưng nên nhớ rằng tôi đã được chọn trong tất cả thú vật trần gian, để cõng trên mình Đấng Cứu Độ nhân loại".
Mặc dù chúng ta thường nhạo báng con lừa, nhưng Kinh Thánh lại nhiều lần ngợi khen chúng : Lừa là một giống vật hiền hoà, khác hẳn với loài ngựa háo thắng và chuyên dùng để đi chinh chiến. Ngôn sứ Gia-ca-ri-a đã tiên báo về Đấng Mê-si-a (Thiên Sai) sẽ cưỡi trên lưng lừa khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem. Trong Lễ Lá hôm nay Đức Giê-su đã thực hiện lời tiên báo ấy để chứng minh Người chính là Đấng Thiên Sai với sứ mạng cứu độ nhân loại.
2) DƯỚI CHÂN THẬP GIÁ CỦA CHÚA GIÊ-SU :
Một trong những nhà danh họa nổi tiếng nhất người Hoà Lan là REM-BRANDT, sống vào thế kỷ 17, đã vẽ bức tranh "ba thập giá" diễn tả về cuộc thương khó của Chúa Giê-su.
Nhìn vào tác phẩm, mọi người đêu bị thu hút chú ý vào trung tâm bức tranh: giữa thập giá của hai tên bất lương, nổi bật lên thập giá của Chúa Giê-su. Dưới chân thập giá Chúa là cả một đám đông mà gương mặt người nào cũng đằng đằng sát khí... Qua đó Rem-brandt muốn khẳng định rằng : Tất cả mọi người đều hiện diện góp phần vào tội đã đóng đinh Chúa Giê-su vào thập giá.
Nhìn kỹ vào đám đông này, người ta thấy nổi lên một gương mặt mà các nhà chuyên môn đều khẳng định đó là khuôn mặt của nhà danh hoạ Rem-brandt, tác giả của bức tranh.
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí, Rem-brandt lại cố tình vẽ chen vào khuôn mặt của mình? Lời giải thích hợp lý duy nhất đó là ý thức về tội lỗi. Rem-brandt muốn thú nhận rằng : chính tội lỗi của ông hôm nay đã góp phần vào việc đóng đinh Chúa Giê-su lên cây thập giá xưa kia. Qua đó, tác giả muốn nhắn nhủ : mọi người đều phải hồi tâm sám hối tội lỗi...
3) MỘT CUỘC SĂN ĐÊM :
Tuần báo THIS WEEK đã đăng bài giới thiệu với độc giả một vườn bách thú nổi tiếng tên là Nai Hăng Tinh (Night Hunting)- “Cuộc săn đêm”. Đây là một vườn bách thú duy nhất trên thế giới mở cửa vào mỗi buổi tối từ 19g30 đến 24g00. Vườn tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 40 mẫu tây. Vườn bách thú này hiện có trên 1000 con thú thuộc 100 chủng loại khác nhau,. Chúng đến từ khắp các quốc gia trên thế giới. Trong số này có khoảng 40 con thuộc lọai thú quý hiếm. Mỗi đêm có khỏang 3000 du khách đến tham quan cảnh sống của các thú vật về đêm. Dưới ánh sáng mờ ảo, thú vật xem ra đang chìm đắm trong giấc ngủ thư thái và bình an.
Tuy nhiên ông giám đốc vườn bách thú lại cho biết suy nghĩ của ông như sau : “Một trong những điều đáng lo ngại của chúng tôi là hành động nghịch phá của một số du khách. Chẳng hạn : Một số người thì đập mạnh vào chuồng của thú dữ, số khác thì la lối om sòm phá tan sự thinh lặng cần cho việc thưởng lãm vẻ đẹp tự nhiên”. Và tờ báo bình luận bằng một câu đáng cho chúng ta suy nghĩ, và cũng phù hợp với tâm tình người tín hữu phải có trong Tuần Thánh này : “Bóng đêm làm cho nhiều loài thú hoang thiếp ngủ, nhưng lại làm cho thú tính trong lòng một số người thức dậy !”.
4) GIỚI HẠN CỦA TÌNH CẢM NGƯỜI ĐỜI :
Một anh học trò đến gặp vị đạo sĩ ngỏ ý muốn đi tu, nhưng lại không nỡ rời xa những người thân trong gia đình. Anh nói với vị đạo sĩ : “Vợ con tôi rất thương yêu tôi và không thể sống thiếu tôi, nên chắc họ sẽ không cho tôi thoát tục đâu”.
Vị đạo sĩ muốn anh học trò biết sự thật tình yêu của người đời, nên dạy anh kỹ thuật giả chết và bảo anh hãy áp dụng khi về nhà. Anh đã giả chết nằm trong quan tài, nhưng vẫn nghe được tiếng khóc thương của vợ con. Hôm sau, vị đạo sĩ đến nhà phân ưu. Ông nghiêm nghị bảo vợ con anh học trò : “Tôi có bí quyết cứu sống được anh ta, với điều kiện có ai trong gia đình sẵn sàng hy sinh chịu chết thay anh”.
Anh chàng giả chết rất ngạc nhiên khi nghe các người thân đều lần lượt từ chối. Cuối cùng bà vợ nghĩa thiết của anh đã tóm kết ý chung của gia đình như sau : “Tôi nghĩ không ai trong gia đình chúng tôi bằng lòng chết thay cho chồng tôi đâu. Hãy cứ để cho ông ta chết luôn đi. Không có ông ta, chúng tôi vẫn sống được mà !”.
Tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Cho dù có những người yêu thương nhau và từng thề thốt sẵn sàng chịu chết cho nhau. Nhưng khi đối diện cái chết, họ lại tìm đủ lý do để hủy bỏ lời đã thề hứa trước đó.
3. THẢO LUẬN :
Trong những ngày mùa Chay này, mỗi người chúng ta nên làm những việc cụ thể nào để xua trừ bóng tối tội lỗi ra khỏi con người chúng ta?
4. SUY NIỆM :
Khi suy niệm cuộc khổ nạn, mỗi người chúng ta sẽ nhận ra con người thật của mình qua từng nhân vật then chốt để quyết tâm đổi mới đời sống như sau :
1) XÉT MÌNH QUA CÁC NHÂN VẬT TRONG CUỘC KHỔ NẠN ĐỨC GIÊ-SU :
- Si-mon phê-rô : môn đệ hèn yếu :
PHÊ-RÔ, một người luôn tự hào về tình yêu mãnh liệt dành cho Thầy, nhưng rồi lại tỏ ra hèn nhát khi chối Thầy trước các tôi tớ giúp việc cho thượng tế (x. Lc 22,56-60). Nhưng chính ánh mắt yêu thương của Đức Giê-su nhìn ông sau tiếng gà gáy khiến ông nhớ lại lời Thầy tiên báo trước đó: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần”, và ông đã ra ngoài khóc lóc thảm thiết (Lc 22,61-62).
Ngày hôm nay vẫn không thiếu những tiếng gà cảnh báo và ánh mắt yêu thương của Chúa trong cuộc đời chúng ta. Nhưng liệu chúng ta có tỉnh ngộ và cấp thời hồi tâm sám hối như ông Phê-rô hay không?
- Giu-đa : môn đồ phản bội :
GIU-ĐA, một người được Chúa chọn vào Nhóm 12, được yêu thương và trao nhiệm vụ quản lý tiền bạc để phục vụ cộng đoàn. Ông luôn được theo sát bên Thầy, được chứng kiến bao phép lạ Thầy làm, nghe bao lời Thầy giảng dạy. Nhưng tất cả những điều tốt đẹp này đã vỡ tan như bèo bọt khi Giu-đa chọn đi theo thế gian và tiền tài vật chất, nên đã bán nộp Thầy với giá bán một người nô lệ. Ông ta còn tình nguyện dẫn dân quân Đền Thờ đi để chỉ điểm cho chúng bắt Thầy bằng cái hôn yêu thương.
Chúng ta hôm nay cũng đã hành xử như Giu-đa khi vẫn giữ đạo hình thức kinh lễ, vẫn làm việc tông đồ bề ngoài… nhưng lại có lối sống dễ dãi, sa đà vào các thói hư như ăn nhậu say sỉn, quậy làng phá xóm, cờ bạc đỏ đen hoặc buôn gian bán lận !
- Phi-la-tô : quan tổng trấn vô trách nhiệm :
Tuy nắm quyền lực trong tay, nhưng quan PHI-LA-TÔ vẫn bị sự sợ hãi làm lu mờ lương tri khi xét xử một người vô tội là Đức Giê-su: Nỗi lo bị dân chúng nổi loạn, sợ bị mất chức mất quyền đang chiếm hữu, nên không làm chủ được quyết định của mình trước áp lực của đám đông đang gào thét. Phi-la-tô không đủ bản lãnh để quyết định theo lương tâm là tha cho Đức Giê-su mà ông biết rõ là người vô tội.
Ngày hôm nay có lẽ mỗi người chúng ta nhiều lần cũng đã hành xử hèn nhát và vô trách nhiệm giống như Phi-la-tô khi chúng ta không dám lên tiếng bênh vực công lý, không dám đứng ra che chở cho người thân cô thế cô, đang bị những thế lực gian ác hè nhau hãm hại …
- Hê-rô-đê : ông vua xảo quyệt :
Có lẽ chúng ta cũng nhiều lần đã hành xử giống vua HÊ-RÔ-ĐÊ xưa, đã bị Đức Giê-su gọi là “tên cáo già”, do có lối hành xử quỷ quyệt gian ác và bất công của ông (x. Lc 13,31-33). Trong cuộc xử án Đức Giê-su, vua Hê-rô-đê cũng về Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Bấy giờ quan Phi-la-tô đang xử án Đức Giê-su, nghe biết Người thuộc xứ Ga-li-lê của vua Hê-rô-đê, nên quan cho điệu Người tới dinh vua Hê-rô-đê để nhờ ông này xét xử. Hê-rô-đê rất háo hức muốn gặp được Đức Giê-su để xem Người thi thố tài năng giống như xem trò ảo thuật (x. Lc 23,8-9). Nhưng Đức Giê-su đã giữ im lặng không trả lời các câu hỏi khiến vua Hê-rô-đê tức giận truyền mặc áo trắng cho Người, coi Người như một kẻ khờ dại mất trí, rồi trả Người lại cho quan Phi-la-tô tiếp tục xử án (x. Lc 23,9-11).
Ngày hôm nay có lẽ nhiều lần chúng ta đi theo Chúa để được Người thỏa mãn các yêu cầu theo sở thích của ta. Khi không được như ý, nhiều người trong chúng ta cũng bị mất đức tin và chạy theo trò bói toán đồng cốt và các hành vi mê tín khác… Hãy xin Chúa ban cho chúng ta bỏ con đường gian ác tội lỗi theo thói thế gian, khi chiều theo sự yếu đuối xác thịt và các cám dỗ của ma quỷ. Xin cho chúng ta luôn theo con đường hẹp, leo dốc là đường mến Chúa yêu người, khiêm tốn phục vụ của Đức Giê-su, Đấng “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Đây là con đường duy nhất dẫn đưa chúng ta lên trời gặp được Thiên Chúa là Cha.
2) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?
- Năng tỉnh thức và cầu nguyện :
Chúa Giê-su đã kêu gọi các môn đệ “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mt 26,41). Tỉnh thức và cầu nguyện đồng nghĩa với bước đi trong ánh sáng của Chúa Giê-su như Mặt Trời Công Chính. Ánh sáng đó chính là Lời Chúa. Chỉ có Chúa Giê-su mới “là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Bước đi trong ánh sáng của Người, vâng nghe Lời Người, chắc chắn chúng ta sẽ không bị lạc đường, sẽ chiến thắng được các cơn cám dỗ của ma quỷ và đạt tới quê trời đời sau.
- Kết hiệp với Chúa Giê-su tử nạn và phục sinh :
Chấp nhận đi theo Chúa Giê-su trên đường thánh giá là chúng ta sẵn sàng đón nhận mọi nỗi đau khổ do bệnh tật cũng như các tai nạn và những điều trái ý gặp phải trong cuộc sống, liên kết với sự đau khổ của Chúa Giê-su trong cuộc khổ nạn. Hãy năng cầu nguyện với Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su trước cuộc khổ nạn đã thưa với Cha : "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Nếu chúng ta cùng chết với Đức Giê-su, chúng ta sẽ cùng được sống lại với Người.
- Ăn năn sám hối các tội phạm đến Chúa và tha nhân :
Trước bao lăng nhục, nhạo cười, phỉ nhổ trút lên mình Chúa Giê-su, chúng ta là con cái Thiên Chúa, là môn đệ Chúa Giê-su, có an ủi Người không, hay lại đồng lõa vào hùa với đám đông vô tín để lăng nhục và đòi đóng đinh Người?
Biết bao lần chúng ta đã vô tình hùa theo người vô tín để phỉ nhổ Chúa Giê-su qua hành động những điều xấu xa ô nhục khiến khuôn mặt của Giáo Hội Chúa Giê-su trở nên lem luốc thảm hại.
Biết bao lần chúng ta đã quất những lằn roi đau đớn vào thân mình Chúa Giê-su khi chúng ta vô tình hay cố ý gây đau khổ thương tích cho người khác.
Biết bao lần chúng ta đã thọc lưỡi đòng vào cạnh sườn Chưa khi đua đòi chạy theo lối sống xa hoa, ăn nhậu say sưa, bỏ rơi bao bệnh nhân đau khổ ở gần ngay bên.
- Quyết tâm sống giới răn yêu thương cụ thể :
Trong những ngày này, chúng ta hãy sẵn sàng giúp đỡ một người gặp hoàn cảnh khó khăn hoặc đang bị đau khổ để họ lấy lại niềm vui và hy vọng. Hãy nhìn những người đau khổ bệnh tật không người chăm sóc như hình ảnh của Chúa Giê-su xưa đã bị bỏ rơi trên cây thập gía, và hãy nhiệt tình phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó chúng ta cũng sẽ được tham phần hạnh phúc với Người trên Nước Trời đời sau (x Mt 25,40).
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU,
Vì Chúa đã lập phép Thánh Thể để làm của ăn nuôi dưỡng chúng con, xin cho những người nghèo luôn có cơm ăn áo mặc hằng ngày.
Vì Chúa đã chịu xao xuyến trong vườn Cây Dầu, xin cho chúng con đủ sức đương đầu với những đau khổ khó khăn gặp phải trong cuộc sống.
Vì Chúa đã bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm để sẵn sàng lên tiếng bênh vực công lý.
Vì Chúa đã bị kẻ gian ác xỉ nhục nhạo cười, xin cho chúng con sẵn lòng chịu mọi sự xỉ nhục vì đức tin.
Vì Chúa đã chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những ai đang bị đau khổ trên giường bệnh, cũng nhận được ơn nâng đỡ ủi an của Chúa.
Vì Chúa đã bị lột áo và bị đóng đinh vào thập giá, xin cho sự hiền hòa nhân ái luôn chiến thắng bạo lực hung tàn.
Vì Chúa đã giang tay chịu chết trên thập giá, xin cho các đôi vợ chồng đang xa lìa nhau được nối lại tình yêu ban đầu.
Vì Chúa đã phục sinh vinh quang, xin cho chúng con cũng được cùng Chúa qua đau khổ thập giá vào trong vinh quang phục sinh.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
“VỤ ÁN GIÊSU”
Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Lc 22,14-23,56
Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không phải là một biến cố ngẫu nhiên xảy ra. Nhưng là điểm tới và tột đỉnh của một quá trình đối kháng giữa Chúa Giêsu với những người Do Thái và giới lãnh đạo tôn giáo, xã hội thời đó. Đây là sự kiện lịch sử được các Tin Mừng tường thuật. Theo đó, Chúa Giêsu bị kết án tử hình vì những lý do sau đây:
1- Vi phạm lề luật Môsê
Đối với người Do Thái, lề luật nắm giữ vai trò quan trọng trong đời sống của họ. Lề luật là do Thiên Chúa ban. Vì thế, lề luật có một vị trí thượng tôn, phải được tuân giữ một cách cẩn thận và đầy đủ.
Chúa Giêsu bị nhóm Pharisêu và các kinh sư kết án vì tội đã vi phạm luật Môsê khi các môn đệ Người dùng bữa mà không rửa tay và khi Chúa Giêsu trừ quỷ trong ngày Sabát (x. Mc 3,1-6 và 7,1-7).
Thực ra, Chúa Giêsu không chống lại Luật Môsê. Trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các Ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).
Tuy nhiên, Chúa Giêsu bị vu cáo vì đã vi phạm luật Môsê, bởi vì Người đã chỉ trích các luật sỹ và các kinh sư về cung cách giữ luật của họ quá câu nệ và vụ hình thức. Họ quá chăm chú tuân giữ những điều luật do truyền thống đặt ra mà lãng quên điều chính yếu và ý nghĩa của lề luật. Đến nỗi những truyền thống này đi ngược lại với điều răn của Thiên Chúa (x. Mc 7,1-23). Đây là sự đối kháng thứ nhất mà Chúa Giêsu phải đối diện.
2- Xúc phạm đến Đền Thờ
Đền Thờ là trung tâm đời sống tôn giáo của người Do Thái. Vì thế, ai xúc phạm đến Đền Thờ thì bị kết án tử hình.
Chúa Giêsu cũng dành cho Đền Thờ Giêrusalem sự tôn kính đặc biệt. Nơi đó, Người đã được cha mẹ hiến dâng cho Thiên Chúa (x. Lc 2,22-31). Hằng năm Người đã đến hành hương lên Đền Thờ khi sống tại Nadarét (x. Lc 2,31). Sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu cũng gắn liền với những lần hành hương về Đền Thánh.
Vì thế, trong dịp lễ Vượt Qua vào năm 27, Chúa Giêsu lên Giêrusalem mừng lễ. Người cảm thấy khó chịu khi thấy người ta buôn bán chiên bò, bồ câu và đổi tiền trong Đền Thờ. Người đã lấy dây làm roi xua đuổi tất cả ra khỏi Đền Thờ (Ga 2,16). Khi người Do Thái hỏi Người lấy quyền nào để làm như thế, Chúa Giêsu đã trả lời: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,21-22). Qua câu nói này, Chúa Giêsu muốn báo trước về cuộc thương khó của Người. Đền Thờ ở đây ám chỉ thân thể Người.
Chúa Giêsu đã loan báo sự tàn phá ngôi Đền Thờ tráng lệ này, sẽ không còn viên đá nào trên viên đá nào (x. Mt 24,1-2). Những lời tiên tri của Người bị bóp méo bởi những chứng gian, khi Người bị các Thượng Tế chất vấn. Dựa vào đó, người ta cáo buộc Người vì tội đã xúc phạm Đền Thờ (Mt 26,61).
3- Tội phạm thượng
Đức Giêsu bị vu cáo vì tội phạm thượng khi xưng mình là Con Thiên Chúa (Ga 10,33) và tự cho mình có quyền tha tội (Mc 2,7).
Đức Giêsu mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong đó, tương quan giữa Người với Thiên Chúa là tương quan Cha và Con. Thiên Chúa là Cha của Người và Người là Con Thiên Chúa. Chính sự mới mẻ này trở thành sự đối kháng về niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất của người Do Thái. Đối với họ, Thiên Chúa là Đấng độc nhất; không người nào ngang hàng với Thiên Chúa; chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội.
Mặc dù chứng kiến rất nhiều phép lạ Chúa đã làm, nhưng giới lãnh đạo Do Thái vẫn không tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Ga 12,37). Do đó, trước phiên tòa Thượng Hội Đồng, họ đã đồng thanh kết án Chúa Giêsu đáng chết vì tội phạm thượng (Mt 26,63-66).
4- Lý do chính trị
Công Nghị Do Thái họp và tuyên bố Chúa Giêsu “đáng phải chết” (Mt 26,66) vì những lý do nói trên. Nhưng thời đó, nước Do Thái đang bị thống trị bởi đế quốc La Mã, họ không có quyền xử án chết một người, thế nên, họ nộp Chúa Giêsu cho Philatô và đưa ông vào cuộc. Khi xét hỏi, Philatô không thấy Chúa Giêsu có tội nào đáng phải chết. Ông tìm cách tha cho Chúa Giêsu. Nhưng dân Do Thái tìm cách lèo lái vụ án tôn giáo sang vụ án chính trị và nhấn mạnh đến chiều kích này để Philatô có cơ sở pháp lý kết án tử hình Chúa Giêsu (x. Lc 23,2). Họ cáo buộc rằng Chúa Giêsu tự xưng mình là vua và ngăn cản dân nộp thuế cho người La Mã. Ai xưng mình là vua thì cũng có nghĩa là người nổi dậy lật đổ đế quốc La Mã và như thế sẽ ảnh hưởng đến nền hòa bình của đế quốc này.
Kết luận
Như thế, từ những đối kháng mang tính tôn giáo, những người Do Thái đã khoác cho vụ án của Chúa Giêsu một màu sắc chính trị. Cũng nên nhớ rằng: thời bấy giờ tôn giáo và chính trị không bao giờ tách rời nhau. Một thứ chính trị “đơn thuần” cũng như tôn giáo “đơn thuần” không thể tồn tại đối với người Do Thái. Vì thế, các lý do tôn giáo là bệ phóng cho lý do chính trị trong việc tố cáo Chúa Giêsu.
“Vụ án Giêsu” là kết quả của một quá trình hận thù, ghen ghét và gian dối của con người đương thời. Nơi đó, Đức Giêsu trở thành hiện thân của những ai bị ngược đãi, vu cáo và kết án một cách oan khiên trong lịch sử loài người hôm qua cũng như hôm nay.
Vụ án này đã xảy ra hơn hai ngàn năm nhưng vẫn luôn được lịch sử nhắc đi nhắc lại để suy niệm, soi chiếu cho mọi oan khiên và sai lạc của loài người. Bởi lẽ, nơi đó sự giả dối, lật lọng và độc ác được phơi bày rõ mặt nhất. Nó đại diện cho mọi nỗi đau, bất công của loài người.
Bước vào Tuần Thánh, xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu để cố gắng khước từ những sự giả dối, lật lọng và độc ác có thể xuất hiện nơi lòng chúng ta. Đồng thời, khi suy ngắm cuộc khổ nạn Chúa Giêsu, chúng ta cảm nghiệm Chúa yêu thương loài người thế nào khi chấp nhận cái chết oan khiên, để từ đó chúng ta biết yêu mến Chúa nhiều hơn và biết sống khoan dung với mọi người. Amen!
ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
Bên cạnh rất nhiều tai ương mà đại dịch Covid đang gây ra cho nhân loại, từ quan điểm của đức tin đã có ít nhất một tác động tích cực. Đại dịch làm cho chúng ta ý thức được nhu cầu của chúng ta đối với Bí tích Thánh Thể và sự trống rỗng mà sự thiếu vắng Bí tích Thánh Thể tạo ra; đại dịch đã giúp chúng ta không coi Bí Tích Thánh Thể là điều hiển nhiên.
Một số Giáo Hội địa phương và quốc gia đã quyết định dành năm hiện tại cho một bài giáo lý đặc biệt về Bí tích Thánh Thể, vì mong muốn có một sự phục hưng về Bí tích Thánh Thể trong Giáo Hội Công Giáo. Theo Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, đó là một quyết định đúng lúc và là một tấm gương để noi theo, khi đề cập đến một số khía cạnh có lẽ ít được xem xét về Bí Tích Thánh Thể. Do đó, ngài dành những suy tư của Mùa Chay 2022 để trình bày về mầu nhiệm Thánh Thể để nhấn mạnh rằng Bí tích Thánh Thể bảo đảm với chúng ta rằng Chúa Giêsu ở với chúng ta, không chỉ về mặt ý định mà thôi, nhưng là “thực sự” trong cái thế giới dường như có thể tuột khỏi tay chúng ta bất cứ lúc nào.
Trong ba bài tĩnh tâm trước, Đức Hồng Y đã trình bày phần thứ nhất Phụng vụ Lời Chúa, phần thứ Hai là Phụng Vụ Thánh Thể, và phần thứ Ba là Hiệp Thông Thánh Thể.
Lúc 9g sáng ngày thứ Sáu 31 tháng Ba, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, đã có bài thuyết giảng thứ tư cho Mùa Chay năm 2022 tại Đại Thính Đường Phaolô Đệ Lục ở Vatican. Chủ đề của bài giảng này là “Sự Hiện Diện Thực Sự Của Chúa Kitô Trong Bí Tích Thánh Thể”
Mở đầu bài suy niệm, Đức Hồng Y nói:
Làm thế nào chúng ta có thể đối diện với một mầu nhiệm sâu sắc và khó hiểu như vậy? Những ký ức về vô số lý thuyết và những cuộc thảo luận về mầu nhiệm này, sự bất đồng giữa Công Giáo và Tin lành, giữa Giáo hội Latinh và Chính thống giáo, đã có thời chứa đầy các cuốn sách thần học của chúng ta, đã tấn công chúng ta. Tất cả những điều đó khiến chúng ta dường như không thể thêm bất cứ điều gì vào mầu nhiệm này nhằm gây dựng niềm tin và sưởi ấm trái tim chúng ta, mà không tránh khỏi việc sa vào các cuộc luận chiến giữa các hệ phái.
Tuy nhiên, đây là điều kỳ diệu đang được Chúa Thánh Thần tác động ngày nay trong tất cả các tín hữu Kitô. Ngài thúc giục chúng ta thừa nhận mức độ mà những tranh cãi liên quan đến Bí tích Thánh Thể của chúng ta dựa trên giả định của con người rằng mầu nhiệm này có thể được gói gọn trong một lý thuyết, hoặc thậm chí trong một lời nói, và mức độ háo thắng kẻ thù của chúng ta. Ngài đang thúc giục chúng ta ăn năn vì đã giản lược cam kết tối cao về tình yêu thương và sự hiệp nhất mà Chúa để lại cho chúng ta thành chủ đề thảo luận yêu thích của mình.
Con đường dẫn đến đại kết Thánh Thể là con đường dẫn đến sự thừa nhận lẫn nhau, con đường Kitô của đức ái, của chia sẻ. Chúng ta không được yêu cầu bỏ qua những khác biệt thực sự tồn tại và cũng chẳng bị buộc phải đoạn tuyệt đức tin với bất kỳ quan điểm nào của giáo lý Công Giáo đích thực. Vấn đề là tập hợp các khía cạnh tích cực và các giá trị đích thực trong mọi truyền thống ngõ hầu tạo thành một “khối lượng” chân lý chung sẽ dần dần dẫn chúng ta đến sự hiệp nhất.
Thật không thể tin được bằng cách nào mà một số quan điểm của Công Giáo, Chính thống và Tin lành về sự hiện diện đích thực [của Chúa Giêsu trong Thánh Thể] lại khác biệt và phá hoại đến vậy bất cứ khi nào chúng được nhìn thấy như những quan điểm đối kháng hoặc như những lựa chọn thay thế, và làm thế nào chúng lại xem ra hội tụ một cách tuyệt vời khi được kết hợp cẩn thận lại với nhau. Do đó, chúng ta phải bắt đầu thực hiện một sự tổng hợp. Như vậy, chúng ta phải sàng lọc những truyền thống lớn của Kitô Giáo để loại bỏ những gì không tốt và như Thánh Phaolô khuyến khích chúng ta, hãy “điều gì tốt thì giữ” (xem 1 Thess 5:21).
Truyền thống Công Giáo: một sự hiện diện thực sự nhưng ẩn giấu
Theo tinh thần này, bây giờ chúng ta hãy xem xét kỹ ba truyền thống Thánh Thể chính - Công Giáo, Chính thống và Tin lành - được gây dựng bởi những kho tàng mà chúng chứa đựng và hợp nhất chúng trong kho tàng chung của Giáo hội. Kết quả là chúng ta sẽ thấy rằng sự hiểu biết của chúng ta về mầu nhiệm của sự hiện diện thực sự phong phú hơn và sống động hơn.
Trong thần học và phụng vụ Công Giáo, sự thánh hiến là trọng tâm không thể chối cãi của Bí tích Thánh Thể, từ đó chúng ta có sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô. Khi truyền phép, chính Chúa Giêsu hành động và nói. Thánh Ambrôsiô đã viết:
Bánh chỉ là bánh trước khi các lời bí tích được phát âm... Những lời nào làm cho việc truyền phép có hiệu quả và đó là lời của ai? Thưa: Những lời ấy thuộc về Chúa Giêsu! Tất cả những gì được nói trước thời điểm đó được nói bởi vị linh mục, người ca ngợi Thiên Chúa, cầu nguyện cho dân chúng, cho nhà vua và những người khác, nhưng khi đến thời điểm truyền phép Thánh Thể, thì vị linh mục không còn dùng lời của mình nữa, mà dùng lời của chính Đức Kitô. Do đó, chính những lời của Chúa Kitô đã làm cấu thành (conficit) bí tích này... Hãy xem những lời truyền phép của Chúa Giêsu Kitô có hiệu quả (operatorius) biết bao. Trước khi truyền phép Mình Chúa Kitô chưa hiện diện, nhưng từ sau khi truyền phép, đó chính là Mình Chúa Kitô. Vì Người đã phán, và bí tích xảy ra (Tv 33:9)”
Từ quan điểm Công Giáo phương Tây, chúng ta có thể nói về một thuyết hiện thực Kitô học. “Kitô học” bởi vì sự chú ý tập trung vào Chúa Kitô được nhìn thấy cả trong tình trạng lịch sử và nhập thể của Người và với tư cách là Đấng Phục sinh. Chúa Kitô vừa là đối tượng vừa là chủ thể của Bí tích Thánh Thể, nghĩa là Người được hoàn thành trong Bí tích Thánh Thể và Người hoàn thành Bí tích Thánh Thể. “Hiện thực” bởi vì Chúa Giêsu không được nhìn thấy hiện diện trên bàn thờ đơn thuần như một dấu chỉ hoặc biểu tượng mà là sự thật và trong thực tế của Ngài. Chủ nghĩa hiện thực Kitô học này rất rõ ràng, chẳng hạn, trong bài thánh ca “Ave Verum,” được sáng tác để tôn vinh Mình Thánh. Bài thánh ca ấy thế này:
Kính Lạy Chúa! cơ thể thật, nảy ra từ cung lòng Mẹ Đồng trinh Maria!
Cùng cơ thể trên thập tự giá đã được treo,
Để tránh cho con người họa diệt vong cay đắng.
Cạnh sườn Chúa bị đâm thủng và chảy ra
Cả nước cùng với máu....
Sau đó, Công Đồng Trent đã đưa ra lời giải thích chính xác hơn về cách tiếp cận này đối với sự hiện diện thực sự. Ba trạng từ đã được sử dụng: vere – một cách thực sự, realiter – một cách thực tế, substantialiter – một cách cơ bản. Chúa Giêsu hiện diện thực sự chứ không chỉ đơn giản qua hình ảnh hay hình thức, Người thực sự hiện diện, và không chỉ chủ quan qua đức tin của các tín hữu; Ngài hiện diện một cách căn bản, nghĩa là trong thực tại sâu xa của Ngài, không thể nhìn thấy bằng các giác quan, chứ không phải trong những hình tượng chỉ còn là bánh và rượu.
Đúng là có nguy cơ rơi vào chủ nghĩa hiện thực “thô thiển” hoặc phóng đại. Phương pháp khắc phục nguy cơ này phải được tìm thấy trong chính truyền thống. Thánh Augustinô đã nói rõ, một lần và mãi mãi, rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể là “trong bí tích”. Nói cách khác, đó là một sự hiện diện mang tính bí tích chứ không phải vật chất, thông qua các dấu chỉ, và chính xác là, qua bánh và rượu. Tuy nhiên, trong trường hợp này, dấu chỉ không loại trừ thực tại nhưng làm cho nó hiện diện với chúng ta, theo cách duy nhất mà Đức Kitô Phục sinh, đang sống “trong Thánh Thần,” có thể hiện diện với chúng ta chừng nào chúng ta còn ở trên đất này.
Một bậc thầy vĩ đại khác của linh đạo Thánh Thể Tây phương, Thánh Thomas Aquinas, cũng nói như vậy khi ngài bàn về sự hiện diện của Chúa Kitô “về bản thể” dưới hình bánh và rượu. Thật vậy, nói rằng Chúa Giêsu hiện diện về cơ bản trong Bí tích Thánh Thể, là nói rằng Người hiện diện trong thực tại đích thực của Người, là điều nuôi dưỡng chúng ta chỉ qua đức tin. Trong bài thánh ca Adoro te devote, được cho cũng thuộc về Thánh Thomas, chúng ta hát:
Thị giác, xúc giác và vị giác của bạn, cái nào cũng đánh lừa bạn;
Chỉ có đôi tai là an toàn nhất để tin tưởng.
Do đó, Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể một cách hoàn toàn độc đáo. Không một từ nào có thể mô tả sự hiện diện này một cách thích hợp, ngay cả tính từ “thực”. Chữ real có nguồn gốc từ chữ res (đồ vật) và có nghĩa như là một đồ vật hay một vật thể. Nhưng Chúa Giêsu không hiện diện trong Bí tích Thánh Thể như một “vật” hay một vật thể, mà là một con người. Nếu chúng ta thực sự muốn đặt tên cho sự hiện diện này, thì tốt hơn là chỉ nên nói sự hiện diện “Thánh Thể”, bởi vì nó chỉ xảy ra trong Bí tích Thánh Thể.
Truyền thống Chính thống giáo: hành động của Chúa Thánh Thần.
Thần học phương Tây rất phong phú nhưng không đầy đủ, và cũng không thể đầy đủ. Trước đây, ít nhất là tầm quan trọng dành cho Chúa Thánh Thần và cần thiết để hiểu về Bí tích Thánh Thể đã bị lơ là. Và vì vậy chúng ta quay sang phương Đông để xem truyền thống Chính thống giáo có gì để cung cấp cho chúng ta. Thái độ của chúng ta ngày nay đã khác; chúng ta không còn lo lắng về sự khác biệt mà biết ơn những gì được cung cấp để giúp hoàn thiện quan điểm của chúng tôi.
Trên thực tế, truyền thống Chính thống giáo luôn coi trọng tác động của Chúa Thánh Thần trong việc cử hành Thánh Thể. Kể từ Công đồng Vatican II, sự chia sẻ này đã cho thấy kết quả. Cho đến nay, Sách Lễ Rôma chỉ đề cập đến Chúa Thánh Thần một cách thoáng qua trong tụng thức cuối cùng: “Nhờ Người, với Người, trong Người… trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần....” Giờ đây, trái lại, tất cả các sách lễ mới đều có một lời khẩn cầu kép đối với Chúa Thánh Thần: một là trên các lễ vật trước khi truyền phép và hai là về Giáo hội sau khi truyền phép.
Các phụng vụ Đông phương luôn quy sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trên bàn thờ là do tác động cụ thể của Chúa Thánh Thần. Trong “Kinh Nguyện Thánh Thể của Thánh Giacôbê,” được sử dụng trong Giáo Hội tại Antiôkia, Chúa Thánh Thần được cầu khẩn với những từ sau:
Lạy Chúa là Đấng Ban Sự Sống, xin hãy sai Thánh Thần Chúa đến trên chúng con và trên những lễ vật này, Ngài là Đấng trị vì cùng Chúa Cha và cùng Con Một của Chúa. Ngài cùng trị vì thực sự và vĩnh viễn; Ngài phán qua luật pháp và các tiên tri và Tân Ước; Ngài đã giáng xuống dưới hình dạng chim bồ câu trên Chúa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô ở sông Giôđan, Ngài giáng xuống trên các Tông đồ vào ngày Lễ Ngũ Tuần, dưới hình dạng lưỡi lửa. Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến ba lần trên chúng con và trên những lễ vật này, để nhờ sự thánh khiết, nhân từ và vinh hiển của Ngài, Ngài có thể thánh hóa bánh này và biến nó thành Mình Thánh Chúa Kitô (Amen), và thánh hóa chén thánh này và làm cho nó thành Máu Châu báu của Chúa Kitô (Amen).
Đây không chỉ là một sự bổ sung đơn giản cho việc cầu khẩn Chúa Thánh Thần. Đó là một cái nhìn bao quát và xuyên suốt về lịch sử cứu độ đã mở ra một chiều kích mới về mầu nhiệm Thánh Thể. Bắt đầu với những lời trong Kinh Tin Kính Nicê Constantinople xác định Chúa Thánh Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống... Đấng đã nói qua các vị tiên tri,” viễn cảnh sau đó được mở rộng để phác thảo một “lịch sử” thực sự về hoạt động của Chúa Thánh Thần.
Bí tích Thánh Thể đưa chuỗi sự kiện tuyệt vời này đến sự viên mãn. Chúa Thánh Thần, Đấng trong lễ Phục sinh xông vào trong mộ, chạm vào Thân thể Chúa Kitô và ban sự sống cho Người, lặp lại điều kỳ diệu này trong Bí tích Thánh Thể. Ngài đến trên những phần tử chết của bánh và rượu và ban sự sống cho chúng; Ngài biến chúng thành Mình và Máu của Đấng Cứu Chuộc. Quả thật, như chính Chúa Giêsu đã nói về Bí tích Thánh Thể, “chính Thần Khí ban sự sống” (Gioan 6:63). Theodore thành Mopsuestia, một bậc thầy về truyền thống Thánh Thể Đông phương, đã viết:
Nhờ hành động phụng vụ, như thể Chúa của chúng ta đã sống lại từ cõi chết và tuôn đổ ân sủng của Người trên tất cả chúng ta, nhờ Chúa Thánh Thần.... Khi vị linh mục tuyên bố rằng bánh và rượu là Mình và Máu Chúa Kitô, ngài khẳng định rằng điều này đã xảy ra nhờ Chúa Thánh Thần. Điều này cũng giống như những gì đã xảy ra với thân thể tự nhiên của Chúa Kitô khi nhận được Đức Thánh Linh và sự xức dầu của Ngài. Vào lúc Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta tin rằng bánh và rượu nhận được một sự xức dầu ân sủng đặc biệt. Và từ đó trở đi, chúng ta tin rằng chúng là Mình và Máu của Chúa Kitô, bất tử, không nhiễm bệnh, không thể bị tổn thương và bất biến về bản chất, giống như Mình của Chúa Kitô lúc sống lại.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên một thực tế cho thấy rằng truyền thống Công Giáo cũng có điều gì đó để cung cấp cho anh em Chính thống giáo. Chúa Thánh Thần không hành động độc lập với Chúa Giêsu; nhưng hành động theo lời Người. Chúa Giêsu nói về Thánh Linh như sau: “Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại.. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16: 13-14). Đó là lý do tại sao chúng ta không được tách những lời của Chúa Giêsu (“Này là Mình Thầy”) khỏi những lời nguyện xin cùng Chúa Thánh Thần trong Kinh Nguyện Thánh Thể (“Nguyện xin Chúa Thánh Thần làm cho bánh này trở nên Mình Chúa Kitô”).
Lời kêu gọi hiệp nhất, đối với cả tín hữu Công Giáo và Chính thống, phát xuất từ chính tâm điểm của mầu nhiệm Thánh Thể. Ngay cả khi, vì những lý do hiển nhiên, việc tưởng niệm việc thiết lậ[ bí tích Thánh Thể và việc cầu khẩn Chúa Thánh Thần diễn ra vào hai thời điểm khác nhau (người phàm không thể diễn tả mầu nhiệm trong cùng một khoảnh khắc), thì hành động của họ vẫn diễn ra đồng thời. Hiệu quả của nó chắc chắn đến từ Thánh Linh (chứ không phải từ linh mục hay Giáo hội), nhưng nó hoạt động bên trong và qua lời của Chúa Kitô.
Tôi đã nói rằng hiệu quả khiến Chúa Giêsu hiện diện trên bàn thờ không bắt nguồn từ Giáo hội nhưng cũng không xảy ra nếu không có Giáo hội. Giáo hội là kênh sống động qua đó và nhờ đó Chúa Thánh Thần tác động. Chúa Giêsu ngự đến trên bàn thờ cũng giống như Ngài lại đến trong vinh quang cuối cùng: Thánh Linh và Hiền Thê (Hội Thánh) nói với Chúa Giêsu: Lạy Chúa xin hãy đến! (xem Kh 22:17). Và Ngài đến.
Linh đạo Tin lành: tầm quan trọng của đức tin.
Truyền thống Rôma nhấn mạnh “ai” hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, đó là Chúa Kitô; truyền thống Chính thống giáo nhấn mạnh “bởi ai” sự hiện diện này được thực hiện, đó là Chúa Thánh Thần; Thần học Tin lành nhấn mạnh “đối với ai” sự hiện diện này có hiệu quả; nói cách khác, họ nhấn mạnh đến những điều kiện làm cho bí tích thực sự hữu hiệu nơi những người lãnh nhận bí tích. Các điều kiện có rất nhiều nhưng chúng có thể được tóm gọn trong một tiêu đề: đức tin.
Chúng ta đừng quan tâm ngay lập tức và hoàn toàn đến những khía cạnh tiêu cực đã bị chỉ trích vào một số thời điểm nhất định trong nguyên tắc Tin lành rằng các bí tích chỉ là “dấu chỉ của đức tin”. Chúng ta hãy quên đi những hiểu lầm và tranh cãi và chúng ta sẽ thấy rằng việc nhớ lại đức tin tràn đầy năng lượng này có lợi cho việc cứu bí tích này và ngăn nó trở thành một “việc lành phúc đức” khác, hoặc một thứ hoạt động một cách máy móc hoặc ma thuật mà con người hầu như không biết. Cuối cùng, đó là vấn đề khám phá ý nghĩa sâu xa của câu cảm thán vang vọng lại trong phụng vụ ở cuối lời truyền phép và từng được đặt ở trung tâm của công thức truyền phép, như để nhấn mạnh rằng đức tin là tính chất nội tại của mầu nhiệm này: “Mysterium fidei”, mầu nhiệm đức tin!
Đức tin không “làm nên” bí tích nhưng “lãnh nhận” bí tích. Chỉ những lời của Chúa Kitô được Hội thánh lặp lại và được Chúa Thánh Thần làm cho có hiệu lực mới “làm nên” bí tích. Nhưng một bí tích “được thực hiện” mà không được lãnh nhận thì sẽ như thế nào? Liên quan đến việc nhập thể, những người như Origen, Thánh Augustinô và Thánh Bernard nói: “Tôi có lợi gì khi Chúa Kitô được sinh ra bởi Đức Maria ở Bethlehem nếu Người cũng không được sinh ra bởi đức tin trong lòng tôi?” Chúng ta có thể nói như vậy về Bí tích Thánh Thể; Tôi có lợi gì khi Chúa Kitô thực sự hiện diện trên bàn thờ, mà đối với tôi, Ngài không hiện diện? Đức tin là cần thiết ngay cả khi Chúa Giêsu hiện diện thể lý trên trái đất này; nếu không - như chính Ngài đã lặp lại nhiều lần trong phúc âm - sự hiện diện của Ngài chẳng ích gì, nếu không muốn nói rằng đó chỉ là một sự lên án: “Khốn cho ngươi hỡi Khôradin, khốn cho ngươi hỡi Caphácnaum!” (Mt 11: 21f.).
Đức tin là điều cần thiết để làm cho sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể không chỉ là “thực sự” mà còn là “cá vị”, một sự hiện diện một đối một. “Ở đó” là một chuyện, “hiện diện” là một chuyện khác. Sự hiện diện giả định một người nào đó có mặt vì người khác; nó giả định sự giao tiếp qua lại, một cuộc trao đổi giữa hai người tự do, những người nhận thức được và cởi mở với nhau. Do đó, có nhiều liên quan hơn là chỉ ở một nơi nhất định.
Chiều kích chủ quan và hiện sinh như vậy của sự hiện diện Thánh Thể không hủy bỏ sự hiện diện khách quan có trước đức tin của con người, nhưng thực sự nó đã giả định trước và mang lại giá trị cho nó. Luther, người đã nâng vai trò của đức tin lên tầm cao như vậy, cũng là một trong những người bảo vệ trung thành nhất giáo lý về sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Trong quá trình tranh luận về chủ đề này với các nhà Cải cách khác, ông đã tuyên bố:
Tôi không thể giải thích những từ 'Này là Mình Thầy' khác với cách chúng được phát âm. Do đó, ai muốn chứng minh rằng, nơi những từ 'Này là Mình Thầy ' được nói ra, Thân thể của Chúa Kitô không hiện diện thì mặc kệ họ. Tôi không muốn nghe những lời giải thích dựa trên lý trí. Trước những lời lẽ rõ ràng như vậy, không thể có thắc mắc nào cả; Tôi từ chối lý luận logic và lý lẽ thông thường. Tôi hoàn toàn bác bỏ các minh chứng thực tế và tranh luận phân tích. Thiên Chúa đứng trên tất cả các loại chắc chắn toán học và chúng ta phải ngạc nhiên tôn thờ Lời Chúa.
Nhìn sơ qua sự phong phú chứa đựng trong các truyền thống Kitô giáo khác nhau là đủ để thấy món quà to lớn mở ra cho Giáo hội khi các giáo phái Kitô khác nhau chấp nhận hợp nhất tài sản tinh thần của họ, như những Kitô hữu đầu tiên đã làm, những người “có tất cả mọi thứ làm của chung “(Cv 2:44). Đây là đức ái đích thực, bao trùm toàn thể Giáo Hội, mà Chúa khiến chúng ta muốn thấy để nhận ra, vì vinh quang của Cha chung của chúng ta và lợi ích của Giáo hội của Người.
Cảm tình đối với sự hiện diện
Bây giờ đến lúc chúng ta chấm dứt cuộc hành hương Thánh Thể nhỏ bé của chúng ta thông qua các giáo phái Kitô giáo khác nhau. Chúng ta đã thu thập được một vài giỏ bánh vụn từ việc nhân rộng tấm bánh trong Giáo Hội. Nhưng chúng ta không thể kết luận ở đây những suy tư của chúng ta về mầu nhiệm của sự hiện diện thực sự. Nó sẽ giống như thu thập các mảnh vụn mà không ăn chúng. Niềm tin vào sự hiện diện thực sự là một điều tuyệt vời, nhưng vẫn chưa đủ; ít nhất, niềm tin theo một cách nào đó là không đủ. Ý tưởng chính xác và hoàn hảo về mặt thần học về sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể là chưa đủ. Nhiều nhà thần học biết tất cả về mầu nhiệm này, nhưng họ không biết sự hiện diện thực sự. Theo thuật ngữ Kinh thánh, bạn chỉ “biết” điều gì đó khi bạn đã trải nghiệm nó. Để biết lửa, bạn phải ít nhất một lần đến gần ngọn lửa, gần đến mức có nguy cơ bị cháy.
Thánh Grêgôriô thành Nyssa đã để lại cho chúng ta một biểu hiện sâu sắc đáng kinh ngạc về loại đức tin sâu sắc hơn này; ngài nói về một “cảm tình đối với sự hiện diện” (aesthesis parousias). Điều này xảy ra khi một người bị thu hút bởi sự hiện diện của Thiên Chúa và có một cảm thức nhất định (không chỉ là một ý tưởng) rằng Thiên Chúa ở đó. Nó không phải là một cảm thức tự nhiên; nó là hoa trái của ân sủng. Có một sự tương đồng mạnh mẽ giữa điều này và những gì đã xảy ra khi sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với một người nào đó. Đó là một điều gì đó đột ngột thay đổi hoàn toàn và bất ngờ trong tâm trí của người đó.
Một ngày sau khi phục sinh, khi các tông đồ đang đánh cá trong hồ; một người đàn ông đứng trên bãi biển. Người bắt đầu nói chuyện từ xa: “Các con ơi, các con có con cá nào không?” và họ trả lời Ngài, “Không!” Nhưng sau đó, một nhận thức loé lên trong đầu, Thánh Gioan đã kêu lên: “Chúa đó!” Mọi thứ đã khác sau sự công nhận này và mọi người vội vã lên bờ (xem Ga 21: 4f.). Điều tương tự cũng đã xảy ra, ngay cả khi theo một cách nhẹ nhàng hơn, đối với các môn đệ trên đường Emmau. Chúa Giêsu đang đi với họ, “nhưng mắt họ không nhận ra Ngài”; cuối cùng, khi Người bẻ bánh, “mắt họ mở ra và nhận ra Người” (Luca 24: 13ff.). Điều tương tự cũng xảy ra khi một Kitô hữu, người đã tiếp nhận Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể nhiều lần, cuối cùng, một ngày nào đó, nhờ ân sủng, “nhận ra” Người.
Từ đức tin và “cảm tình” đối với sự hiện diện thực sự, lòng tôn kính phải tự phát xuất hiện, và thực sự, một cảm giác dịu dàng đối với Chúa Giêsu trong Bí tích. Đây là một tình cảm cá vị và tế nhị đến mức lời nói thậm chí có thể phá hủy nó. Thánh Phanxicô Assisi có điều gì đó muốn nói với chúng ta vào thời điểm này. Trái tim ngài tràn ngập những tình cảm tôn kính và dịu dàng. Ngài đã cảm động trước Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, cũng như ngài đã xúc động trước Hài Nhi ở Bethlehem. Thánh nhân thấy Chúa thật bất lực, thật phó thác cho nhân loại, thật khiêm tốn. Trong Thư gửi tất cả các anh em, ngài viết những lời đầy lửa mà chúng ta muốn nghe bây giờ khi chúng ta khi kết thúc bài suy niệm về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể:
Hãy xem xét phẩm giá của anh em, các thầy, và các linh mục, và hãy thánh thiện vì chính Ngài là thánh… Thật là một sự khốn khổ và yếu đuối đáng trách khi anh em có Ngài hiện diện như thế mà lại lo toan cho bất cứ điều gì khác trên thế gian này. Hãy để cho toàn bộ nhân loại co rúm vì sợ hãi; cả thế giới run sợ; hãy để thiên đàng hân hoan khi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, ngự trên bàn thờ trong tay của thầy cả tế lễ. Ôi cao vời đáng ngưỡng mộ và uy phong tuyệt vời! Ôi khiêm nhường siêu phàm! Ôi khiêm nhường cao cả! Chúa của vũ trụ, Thiên Chúa và là Con Chúa Cha, tự hạ mình đến mức để cứu rỗi chúng ta, Ngài đã ẩn mình dưới một tấm bánh. Hỡi anh em, hãy xem xét sự khiêm nhường của Thiên Chúa và “hãy đổ hết lòng mình ra trước mặt Ngài, và hãy hạ mình để được Ngài tôn cao. Vì vậy, đừng giữ lại bất cứ điều gì cho riêng mình để Ngài, Đấng tự hiến hoàn toàn cho anh em, có thể tiếp nhận anh em một cách trọn vẹn.
1.De sacramentis, IV, 14-16 (PL 16, 439 ss).
2. xem THOMAS AQUINAS, Summa theologiae III, q. 75, a. 4.
3.THANH SÁCH CỦA MOPSUESTIA, Bài giảng Giáo lý, XVI, 11 s.
4.Cf Acts of the colloquy of Marburg of 1529 (Weimar Ed., 30, 3, p. 110 ss).
5.GREGORY OF NYSSA, On the Canticle, XI, 5, 2 (PG 44, 1001).
Source:Cantalamessa
Cha Pedro Pedraza, Giám đốc Đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức ở Santiago, Chí Lợi, đã báo cáo rằng hai bình đựng Mình Thánh đã bị đánh cắp khỏi nhà tạm của đền thánh vào ngày 28 tháng Ba.
Các nữ tu thuộc dòng Nữ Tử Thánh Ann, sống trong khu vực, đã được “cảnh báo bởi một cuộc gọi từ một phụ huynh từ Trường Thánh Ann”. Họ nói với các nữ tu rằng có “những bánh thánh nằm trên đường phố.”
Khoảng 4:30 chiều, bề trên nhà dòng nhặt được “một số bánh thánh và sau đó những bánh thánh khác cũng được tìm thấy, dọc theo con phố.”
Một chiếc bình đựng Mình Thánh Chúa được mạ bạc, và chiếc còn lại được mạ vàng.
Trong tuyên bố của mình, Cha Giám đốc Đền thánh đã than thở về “tin buồn và đau đớn” và yêu cầu các tín hữu tham gia cầu nguyện để phạt tạ.
“Lạy Chúa, xin tha thứ tội lỗi vì Chúa đã bị vứt bỏ như rác và những gì chúng con dám làm với Chúa!” tuyên bố kết luận.
Cộng đoàn đã tổ chức một hành động phạt tạ vào ngày 30 tháng Ba, bắt đầu bằng kinh Mân Côi, sau đó là Thánh lễ.
Source:Catholic News Agency
Tướng Ukraine Vyacheslav Abroskin đã đưa ra một đề nghị bất thường đối với những người Nga đang vây hãm Mariupol.
Trung tướng cảnh sát Ukraine Vyacheslav Abroskin sẵn sàng đầu hàng làm tù binh để đổi lấy sự di tản của trẻ em trong thành phố. Ngay sau khi ông đưa ra tuyên bố của mình, nhà chức trách Ukraine đã công bố số người chết trong vụ đánh bom Nhà hát kịch Mariupol.
Abroskin đã viết trên tài khoản Facebook của mình: “Hôm nay có rất nhiều trẻ em bị bỏ lại trong thành phố bị phá hủy hoàn toàn, nếu không được cứu ngay bây giờ, sẽ chết trong vài ngày tới, thời gian không còn nhiều. Tôi kêu gọi những người chiếm đóng Nga - hãy cho cơ hội để đưa những đứa trẻ ra khỏi Mariupol để những đứa trẻ vẫn còn sống, tôi tự hiến dâng mình. Vâng, tôi yêu cầu cho chúng tôi ở Mariupol cơ hội để tìm kiếm các trẻ em và tổ chức đưa chúng ra ngoài. Tôi cần ba ngày trong thành phố. Tại trạm kiểm soát cuối cùng khi đưa lũ trẻ ra ngoài, tôi đầu hàng và chấp nhận tình trạng bị giam cầm. Cuộc sống của tôi chỉ thuộc về một mình tôi, và tôi cống hiến nó để đổi lấy mạng sống của những đứa trẻ vẫn còn bị kẹt Mariupol. “
Đề xuất này càng bất thường hơn vì vị tướng này đã phục vụ trong 4 năm ở chiến tuyến sau khi chiến tranh bùng nổ ở Donbas vào năm 2014. Do đó, ông dường như nằm trong danh sách mục tiêu bị “trừ khử” của người Nga. Qua sự thừa nhận của chính vị tướng này, ta có thể thấy các lực lượng xâm lược đã thực hiện các nỗ lực tìm giết ông.
Kể từ khi Tướng Abroskin đăng lời kêu gọi của mình vào ngày 24 tháng 3, những người Ukraine khác đang phục vụ trong quân đội và cảnh sát đã tiến lên, sẵn sàng xả thân để giải cứu cuộc sống của những đứa trẻ ở Mariupol. Đề xuất của vị tướng được đưa ra vài giờ trước khi chính quyền thành phố công bố số người chết vì vụ đánh bom tuần trước nhằm vào Nhà hát Kịch địa phương, nơi đã được chuyển thành hầm trú bom; cuộc không kích đã cướp đi sinh mạng của khoảng 300 thường dân.
Theo số liệu chưa đầy đủ của Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, gọi tắt là UNHCR, cuộc xâm lược của Nga đã cướp đi sinh mạng của 1,035 dân thường; và làm bị thương 1,650 người khác. Con số trước đây, tính đến ngày 24 tháng 3, bao gồm ít nhất 90 trẻ em. Tuy nhiên, phía Ukraine tuyên bố rằng chỉ riêng ở Mariupol đã có hơn 3,000 người thiệt mạng trong đó không dưới 135 người.
Mariupol, đã bị bao vây hơn một tháng, bị cắt nguồn cung cấp nước, điện, khí đốt, thuốc men và thực phẩm. Các cuộc pháo kích và bắn phá các tòa nhà dân cư cũng như các hành lang và các đoàn xe nhân đạo vẫn tiếp diễn. Khoảng 90% các tòa nhà của thành phố đã bị hư hại, 30% trong số đó đã bị phá hủy hoàn toàn. Thông tin về số lượng thường dân bị mắc kẹt ở Mariupol dao động trong khoảng 100,000 đến thậm chí 400,000. Cho đến nay, chỉ có khoảng 75,000 cư dân được di tản. Trong những ngày gần đây đã có báo cáo về những người chết trong thành phố do đói và mất nước.
Ngày 16 tháng 3, Tòa án Công lý Quốc tế ở The Hague tuyên bố hành động gây hấn của Nga đối với Ukraine là bất hợp pháp và yêu cầu chấm dứt hành động này ngay lập tức. Tuyên bố về tội ác chiến tranh của Nga đang chờ Tòa án Hình sự Quốc tế xét xử. Tính đến ngày 24 tháng 3, Nga bị nghi ngờ đã thực hiện 2,427 tội ác như vậy kể từ khi cuộc xâm lược bắt đầu. Các đại diện của Nga cho đến nay đã không xuất hiện trong phiên điều trần của các bên trước Tòa án.
Source:Aleteia
Cuộc chiến ở Ukraine là một lời nhắc nhở về cuộc chiến tâm linh vô hình mà các Kitô hữu chiến đấu mỗi ngày để chống lại cám dỗ phạm tội, nhà lãnh đạo của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương nhận định như trên.
“Cuộc chiến này ngày càng nhắc nhở chúng ta về những quy luật của cuộc chiến vô hình, là cuộc đấu tranh tinh thần mà mọi Kitô hữu phải chiến đấu với ma quỷ, với cái ác và những tay sai của hắn,” Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk cho biết trong một thông điệp video được công bố hôm 30 tháng Ba.
“Hôm nay tôi muốn nhắc lại một quy luật khác của cuộc đấu tranh tinh thần này. Cái ác luôn ẩn mình trong bóng tối. Nếu ma quỷ và những việc làm xấu xa được đưa ra ánh sáng, nếu chúng bị vạch trần, thì ngay lập tức ma quỷ mất đi sức mạnh. Nó bị tiêu diệt trong ánh sáng “.
Đức Tổng Giám Mục Shevchuk, có trụ sở tại thủ đô Kiev của Ukraine, nói rằng ánh sáng chân lý của Chúa làm suy yếu và giải trừ ma quỷ.
“Vì vậy, nếu chúng ta phủ nhận hoặc che giấu tội lỗi, khuyết điểm của mình, chúng trở nên mạnh mẽ hơn, chúng thống trị chúng ta. Nhưng khi chúng ta đưa những tội lỗi ấy ra ánh sáng, đi xưng tội, nói thật về họ với chính mình, và mở lòng với một linh mục, thì giống như thể chúng ta đưa ma quỷ ra ánh sáng và lấy đi quyền năng của nó”.
Vị tổng giám mục 51 tuổi cảm ơn những người làm việc trong lĩnh vực truyền thông “những người nói ra sự thật bằng chính mạng sống của mình”.
Ngài nói: “Họ nói sự thật về nỗi thống khổ và nỗi đau của Ukraine, và lưu ý rằng ở Nga những từ như ‘chiến tranh’ bị cấm trên các phương tiện truyền thông.
“Tôi cảm ơn tất cả những ai có can đảm nói ra sự thật, những người không chỉ nghe sự thật về Ukraine, mà còn mang nó ra thế giới và qua đó vạch mặt, đưa ác quỷ ra ánh sáng, tước vũ khí của hắn. Và nó cho chúng tôi sức mạnh để chiến thắng”, Đức Cha Shevchuk nói.
Nhà lãnh đạo Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương cho biết người ta có thể trở thành đồng lõa với tội lỗi của người khác bằng cách im lặng về tội lỗi hoặc bằng cách ca ngợi tội lỗi.
“Hôm nay tôi muốn kêu gọi tất cả các bạn đừng nhúng tay vào tội lỗi của người khác. Đừng trở thành đồng lõa với những tội ác đang diễn ra ở Ukraine thông qua sự im lặng của chính bạn hoặc sợ hãi nói ra sự thật”
“Hãy đưa ma quỷ ra ánh sáng và chúng ta sẽ vượt qua. Chúng ta cảm thấy rằng ánh sáng của Chúa soi sáng trái tim của người Ukraine ngày nay. Và sự thật mà chúng ta sống và chết là nội dung của sức mạnh, sự kiên cường của chúng ta, và sẽ là chìa khóa cho chiến thắng của Ukraine”.
Trong thông điệp video của mình vào ngày 31 tháng 3, Đức Tổng Giám Mục Shevchuk phản ánh về sự kiên cường của người dân Ukraine, khi cuộc xung đột bước sang tuần thứ sáu.
Ngài nói rằng khả năng sinh tồn của con người có một mức độ tinh thần được đặc trưng bởi sự đấu tranh đạo đức.
Ngài nói: “Chúng ta biết rất rõ rằng mọi Kitô hữu, nhờ quyền năng của mầu nhiệm thánh của phép Rửa Tội, đã được kêu gọi để chiến đấu, chống lại sự dữ”.
Trích dẫn thư Thánh Phaolô gởi các tín hữu thành Êphêsô (6:12), ngài nói thêm: “Tông đồ Phaolô nói rằng “chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao”
Shevchuk lưu ý rằng trong truyền thống Kitô giáo phương Đông, có những ví dụ về thái độ khổ hạnh này giữa các tu sĩ, cũng như những người ẩn dật, những người sống trên chòi cao, những người sống trong túp lều trong các vùng hẻo lánh.
Source:Catholic News Agency
Đức Thánh Cha Phanxicô công bố ý cầu nguyện tháng 4, cầu nguyện cho các nhân viên chăm sóc sức khỏe và thúc đẩy chính phủ lưu tâm ưu tiên cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt cho mọi người.
(Vatican - Benedict Mayaki, SJ)
“Đại dịch đã dậy cho chúng ta thấy sự dấn thân quảng đại của các nhân viên chăm sóc sức khỏe, tình nguyện viên, nhân viên hỗ trợ, linh mục và những tu sĩ nam nữ,” như Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ trong ý cầu nguyện tháng 4, được Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Thánh Cha công bố hôm thứ Ba (5/4/2022).
ĐTC tha thiết xin cầu nguyện cho các nhân viên y tế trong tháng này, Đức Thánh Cha đề cập đến hệ thống chăm sóc sức khỏe ở các quốc gia khác nhau, đã được đưa vào thử nghiệm bởi tình trạng khẩn cấp về sức khỏe.
Sự căng thẳng đại dịch
Đức Thánh Cha lưu ý: Đại dịch Covid-19 đã “phơi bày một thực tế là không phải ai cũng được tiếp cận với một hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng tốt.”
Theo bá cáo của tổ chức “Health at a Glance 2021” - một nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) - thì tình trạng chăm sóc sức khỏe không đầy đủ đã có tác động đến việc chăm sóc người bệnh, đặc biệt là việc thiếu nhân viên y tế, thiếu giường bệnh hoặc thiếu các thiết bị kỹ thuật.
Đức Thánh Cha cho hay: Tại các quốc gia nghèo, dân chúng “không thể tiếp cận các phương tiện điều trị cần thiết để chữa trị nhiều căn bệnh mà họ mắc phải, thường vì “do sự quản lý tài nguyên yếu kém và thiếu những dấn thân, cam kết của chính phủ.”
Do đó, Đức Thánh Cha kêu gọi chính phủ của tất cả các quốc gia trên thế giới “đừng quên rằng việc chăm sóc sức khỏe tốt, có thể tiếp cận được với tất cả mọi người, phải là ưu tiên hàng đầu”.
Những hy sinh của các nhân viên y tế
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở việc chăm sóc sức khỏe “không phải là công việc của một tổ chức”, mà nó phụ thuộc vào “những người nam nữ cống hiến cuộc đời họ để chăm sóc sức khỏe cho người khác”.
Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, nhiều nhân viên y tế “đã hy sinh mạng sống trong trận chiến chống với đại dịch để cứu giúp rất nhiều người bệnh được chữa lành”.
Sau đó, Đức Thánh Cha kêu gọi các tín hữu hãy cầu nguyện cho các nhân viên y tế chăm sóc sức khỏe phục vụ người bệnh và người già, đặc biệt là tại các nước nghèo.
ĐTC kêu gọi: “Ước mong những người nghèo được chính phủ và cộng đồng địa phương hỗ trợ đầy đủ.
ĐTC chia sẻ và cam kết gần gũi với các bệnh nhân và những người chăm sóc họ
Trong một thông cáo báo chí đi kèm với video của Đức Thánh Cha, linh mục Frederic Fornos SJ, giám đốc quốc tế Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Thánh Cha lưu ý rằng ý định của tháng này là cầu nguyện cho các nhân viên chăm sóc sức khỏe, những người chăm sóc bệnh nhân, người già và những người dễ bị tổn thương nhất - những người mà Đức Thánh Cha rất lưu tâm đến.
Cha Fornos nhấn mạnh rằng đại dịch đã giúp chúng ta ý thức về hệ thống chăm sóc sức khỏe và các nhân viên y tế là những nhu cầu thiết yếu cho xã hội.
Cha Fornos nhấn mạnh rằng: “Đức Thánh Cha yêu cầu các nhân viên y tế phải được hỗ trợ các thiết bị đầy đủ hơn, đặc biệt tại các quốc gia có hệ thống chăm sóc sức khỏe còn thô sơ; nếu không, chúng ta sẽ lại trải qua ‘những trận đại dịch khác!’ Chúng ta hãy phó thác ý cầu nguyện này cho Chúa và ra tay hành động bao có thể..."
Hãng tin CNA vừa cho phổ biến toàn văn cuộc phỏng vấn Đức Giáo Hoàng Phanxicô trên chuyến bay từ Malta trở lại Vatican ngày 3 tháng 4, 2020. Cuộc phỏng vấn này bị giới hạn thời gian vì thời gian bay từ Malta trở lại Vatican không lâu. Chúng tôi xin chuyển dịch các câu hỏi chính:
Andrea Rossitto, Đài truyền hình Malta: Cảm ơn Đức Thánh Cha đã có mặt tại Malta. Câu hỏi của con là về sự ngạc nhiên sáng nay, trong nhà nguyện nơi Thánh George Preca được chôn cất: động lực nào khiến Đức Thánh Cha tạo ra bất ngờ này cho người Malta. Đức Thánh Cha sẽ nhớ gì về chuyến thăm Malta này? Rồi, sức khỏe của Đức Thánh Cha. Nó đang diễn tiến ra sao? Chúng con thấy rằng chuyến đi rất căng thẳng này đã diễn ra tốt đẹp. Cảm ơn Đức Thánh Cha nhiều.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Sức khỏe của tôi hơi thay đổi, tôi có vấn đề về đầu gối khiến việc đi lại trở nên khó khăn. Cũng hơi khó chịu nhưng cũng đỡ hơn, ít ra thì tôi cũng đi lại được, một tuần trước tôi còn không đi lại được. Mọi sự xem ra chậm chạp vào mùa đông này... ở độ tuổi của tôi, bạn không biết trận đấu sẽ kết thúc như thế nào. Chúng ta hãy hy vọng nó diễn ra tốt đẹp.
Về Malta, tôi rất vui với chuyến thăm. Tôi đã nhìn thấy thực tế của Malta, sự nhiệt tình tuyệt vời của người dân cả ở Gozo lẫn ở Malta. Một sự nhiệt tình tuyệt vời trên đường phố. Tôi đã rất ngạc nhiên. [Chuyến đi] hơi ngắn. Tôi đã thấy vấn đề, một trong những vấn đề đối với các bạn. Vấn đề người di cư rất nghiêm trọng, bởi vì Hy Lạp, Síp, Malta, Tây Ban Nha, Ý là những quốc gia gần châu Phi và Trung Đông nhất, những người di cư đến đây luôn được chào đón. Vấn đề là mỗi chính phủ nên nói rõ thông thường họ có thể tiếp nhận bao nhiêu người di cư để sống xứng đáng, điều này đòi hỏi phải thông cảm với các quốc gia châu Âu, và ít chính phủ sẵn sàng chấp nhận người di cư. Chúng ta đừng quên rằng châu Âu được tạo ra bởi những người di cư, nhưng ít nhất đừng để trọn gánh nặng cho các quốc gia láng giềng này. Điều quan trọng là không để các quốc gia này một mình.
Hôm nay tôi đã có mặt tại trung tâm tiếp nhận người di cư. Những điều tôi nghe thấy ở đó, chúng thật khủng khiếp, sự đau khổ của những người đến đó, và sau đó là các trại di cư, có những trại di cư trên bờ biển Libya, “Con đường Thập giá” của những người này dường như đầy tính tội phạm. Tôi đã nghe các chứng từ đầy đau khổ. Đây là một vấn đề đụng đến tất cả chúng ta. Cách mà châu Âu đang dành chỗ, một cách hào phóng, cho người Ukraine, mở cửa cho người Ukraine, họ cũng nên làm cho cả những người đến từ Địa Trung Hải. Đây là một điểm khiến tôi rất xúc động lúc kết thúc chuyến viếng thăm. Tôi đã cảm nhận được nỗi đau khổ của họ, nỗi đau khổ ít nhiều tôi đã nói với các bạn trong cuốn sách nhỏ xuất bản, “Hermanito,” bằng tiếng Tây Ban Nha, “em trai tôi”, nỗi đau khổ của những người này. Một người lên tiếng hôm nay phải trả gấp bốn lần. Tôi yêu cầu các bạn suy nghĩ về điều này.
Jordi Barcelò, Đài phát thanh Nacional de España: Chào Đức Thánh Cha buổi tối. Con sẽ đọc [câu hỏi] vì tiếng Ý của con vẫn chưa tốt lắm. Trên chuyến bay đưa chúng ta đến Malta, Đức Thánh Cha đã nói rằng một chuyến thăm Kyiv đã được dự kiến. Và một lần nữa ở Malta, Đức Thánh Cha đã nhiều lần nhắc đến sự gần gũi của Đức Thánh Cha với người dân Ukraine. Vào ngày thứ Sáu tại Rome, tổng thống Ba Lan đã để ngỏ cho chuyến thăm biên giới Ba Lan. Hôm nay, chúng ta bị xúc động rất nhiều bởi những hình ảnh đến từ Bucha, một thị trấn gần Kyiv, được quân đội Nga bỏ đi, nơi người Ukraine tìm thấy hàng chục tử thi vứt trên mặt đất, một số nắm tay nhau, như thể họ bị hành quyết. Có vẻ như ngày nay, sự hiện diện của Đức Thánh Cha trong khu vực đó luôn cần thiết hơn. Đức Thánh Cha có nghĩ rằng một chuyến đi như thế là khả thi và đâu là những điều kiện cần có để Đức Thánh Cha đến đó? Cảm ơn Đức Thánh Cha.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Cảm ơn bạn đã cho tôi biết tin tức này từ hôm nay mà tôi không biết. Chiến tranh luôn là một sự tàn ác, một điều phi nhân tính đi ngược lại tinh thần nhân bản - tôi không nói Kitô giáo, mà là nhân bản. Đó là tinh thần của Cain được cho là đã đi đến đó. Tôi sẵn sàng làm tất cả những gì có thể làm được, và Tòa Thánh, đặc biệt là phần ngoại giao - Đức Hồng Y Parolin, Đức Tổng Giám Mục Gallagher - đang làm mọi sự, mọi sự. Bạn không thể công bố mọi điều các ngài đang làm, vì thận trọng, vượt ra ngoài bí mật, nhưng chúng tôi đang ở giới hạn cuối cùng của công việc. Một chuyến đi là một trong những khả thể. Có thể có hai chuyến thăm: một chuyến như tổng thống Ba Lan yêu cầu, cử Hồng Y Krajewski đến thăm những người Ukraine được tiếp nhận ở Ba Lan. Ngài đã đi hai lần để mang theo hai chiếc xe cấp cứu, và ngài vẫn đang ở đó với họ, nhưng ngài sẽ làm điều đó một lần nữa, ngài sẵn sàng làm điều đó. Chuyến đi khác mà có người hỏi tôi, nhiều hơn một người, tôi nói thật lòng, liệu tôi có dự định đến đó hay không, thì tôi xin nói rằng việc luôn sẵn sàng có đó, không có, "không", trước tiên, tôi sẵn sàng...Và [tôi] nghĩ gì về một chuyến đi... câu hỏi diễn ra như thế này: chúng tôi nghe nói rằng các bạn đang nghĩ về một chuyến thăm Ukraine? Và tôi nói: Nó đang nằm ở trên bàn. Đó là một trong những đề xuất đã được đưa ra, nhưng tôi không biết liệu nó có thể thực hiện được hay không, liệu có đáng để làm hay không và nếu làm nó có là điều tốt nhất, hoặc nó có hữu ích hay không và tôi nên làm nó. Tất cả vẫn còn lơ lửng trong không khí, phải không? Rồi, từ lâu, người ta vốn nghĩ đến một cuộc gặp gỡ với Thượng phụ Kirill. Điều này đang được sắp xếp, Trung Đông đang được coi là [địa điểm]. Đây là những điều hiện đang được dự kiến.
Gerry O’Connell, Tạp chí America: Thưa Đức Thánh Cha, trong suốt chuyến đi này, Đức Thánh Cha đã nhiều lần nói tới chiến tranh [ở Ukraine]. Câu hỏi nhiều người có là, kể từ khi bắt đầu chiến tranh, Đức Thánh Cha đã nói chuyện với Tổng thống Putin và nếu không, Đức Thánh Cha sẽ nói gì với ông ấy hôm nay?
Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Những điều tôi đã nói với chính quyền của mỗi bên đều được công khai. Không có điều gì tôi đã nói là bí mật đối với tôi. Khi tôi nói chuyện với Thượng phụ [Kirill], sau đó ngài đã tuyên bố đúng những gì chúng tôi đã nói với nhau. Tôi đã nói chuyện với Tổng thống Nga hồi cuối năm, khi ông ấy gọi điện chúc mừng sinh nhật tôi. Chúng tôi đã nói. Tôi đã nói chuyện với tổng thống Ukraine hai lần. Sau đó, vào ngày đầu tiên của cuộc chiến, tôi nghĩ rằng tôi nên đến đại sứ quán Nga [tại Tòa thánh] để nói chuyện với đại sứ, người đại diện cho người dân, đặt câu hỏi và chia sẻ cảm xúc của tôi về tình hình. Đây là những thông tin liên lạc chính thức mà tôi có. Với Nga, tôi đã làm điều đó thông qua đại sứ. Tôi cũng đã nói chuyện với tổng giám mục chính của Kyiv, Đức Cha Shevchuck. Cứ đều đặn hai hoặc ba ngày, tôi nói chuyện với một người trong số các bạn, Elisabetta Piqué [nhà báo tại Vatican của tờ La Nación], hiện đang ở Odesa, nhưng đã ở Lviv khi chúng tôi nói chuyện. Cô ấy cho tôi biết mọi điều đang diễn biến như thế nào. Tôi cũng đã nói chuyện thường xuyên với bề trên của chủng viện. Nhưng như tôi đã nói, tôi cũng đang liên lạc với một trong số các bạn. Nói đến đây, tôi muốn gửi lời chia buồn cùng các bạn vì những người đồng nghiệp của các bạn đã ngã xuống. Dù họ đứng về phía nào, điều đó không quan trọng. Nhưng công việc của các bạn là công việc vì lợi ích chung. Và những [nhà báo] này đã phục vụ lợi ích chung, phục vụ thông tin. Chúng ta đừng quên họ. Họ rất dũng cảm và tôi cầu nguyện cho họ xin Chúa ban thưởng công việc họ làm. Đó là những thông tin liên lạc mà chúng tôi đã có cho đến nay.
O’Connell: Nhưng thông điệp của Đức Thánh Cha dành cho Putin là gì nếu Đức Thánh Cha có khả thể [nói chuyện với ông ấy]?
Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Những thông điệp mà tôi đã gửi cho tất cả các cơ quan chức năng là những thông điệp mà tôi đã công khai. Tôi không nói nước đôi. Tôi luôn nói những điều như nhau. Tôi nghĩ trong câu hỏi của bạn cũng có sự nghi ngờ về những cuộc chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa. Mọi cuộc chiến tranh đều bắt nguồn từ sự bất công, luôn luôn như vậy. Bởi vì đó là phương pháp của chiến tranh, không có chiến thuật hòa bình. Thí dụ, đầu tư mua vũ khí. Họ nói: nhưng chúng tôi cần phải tự vệ. Đó là chiến lược của chiến tranh. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, mọi người đều thở phào, “không bao giờ có chiến tranh nữa” chỉ có hòa bình. Một làn sóng hoạt động vì hòa bình đã bắt đầu, ngay cả với thiện chí không trao vũ khí, vũ khí nguyên tử trong thời điểm đó, vì hòa bình, sau Hiroshima và Nagasaki. Có thiện chí lớn. 70 năm sau, chúng ta đã quên tất cả những điều này. Chiến lược mà chiến tranh áp đặt là như vậy. Thời đó, có rất nhiều hy vọng vào công việc của Liên Hợp Quốc. Nhưng chiến thuật chiến tranh đã tự áp đặt trở lại. Chúng ta không thể nghĩ ra một chiến lược khác, chúng ta không quen nghĩ đến chiến lược hòa bình. Có những người vĩ đại như Gandhi và những người khác mà tôi đề cập ở cuối thông điệp Fratelli tutti, những người đã chiến đấu cho chiến lược hòa bình. Nhưng chúng ta là loài người ngoan cố. Chúng ta yêu những cuộc chiến tranh, với tinh thần Cain. Không phải ngẫu nhiên, ở phần đầu của Kinh thánh có vấn đề này: tinh thần "Cain" giết người thay vì tinh thần hòa bình. "Thưa cha, tôi không thể".
Tôi sẽ nói với bạn một điều có tính tư riêng: Vào năm 2014, khi [ở nghĩa trang quân đội] tại Redipuglia, nhìn thấy tên của những cậu bé [đã chết] đó, tôi đã khóc. Thực sự tôi đã khóc vì cay đắng. Sau đó, một hoặc hai năm sau, vào Ngày lễ các linh hồn, tôi đã đến cử hành [Thánh lễ] ở Anzio và tôi thấy tên của những [binh lính] trẻ đã ngã xuống ở đó. Tất cả những người đàn ông trẻ tuổi, và tôi cũng đã khóc ở đó. Thật thế. Khóc trên những ngôi mộ là cần thiết.
Có một điều mà tôi tôn trọng, bởi vì nó là một vấn đề chính trị. Khi có một lễ kỷ niệm về việc đổ bộ lên Normandy, những người đứng đầu chính phủ cùng nhau tụ họp để tưởng nhớ nó. Nhưng tôi không nhớ có ai đã nói về 30,000 thanh niên ngã xuống trên bãi biển. Tuổi trẻ không đáng kể. Điều này khiến tôi suy nghĩ. Tôi đau buồn. Chúng ta không học được gì. Xin Chúa thương xót chúng ta, tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta đều có lỗi.
Sau một công bố của Tổng thống Lebanon, ông Michel Aoun trên tweet, Giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa thánh cho biết khả năng về một chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Xứ sở cây Thông Bá Dương Cedars đang được nghiên cứu.
(Tin Vatican)
Giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa thánh, ông Matteo Bruni, cho biết có thể có một chuyến tông du của Đức Thánh Cha tới Lebanon. Tổng thống Aoun hôm thứ Ba đã đăng tải một lời mời ĐTC thăm viếng đất nước của những cây Thông Bá Dương Cedars tại Lebanon.
Văn phòng tổng thống Lebanon cho hay: “Người dân Lebanon đã và đang chờ đợi chuyến thăm này để bày tỏ lòng biết ơn trước sự hỗ trợ của Đức Thánh Cha, và cảm ơn ngài vì những sáng kiến mà ngài đã thực hiện cho đất nước cũng như những tâm tình cầu nguyện của ngài cho hòa bình và sự ổn định của đất nước.”
Đức Thánh Cha đã tiếp tổng thống Lebanon tại Vatican vào ngày 22 tháng 3 năm nay. Sau cuộc tiếp kiến với Đức Thánh Cha, Ông Aoun đã gặp gỡ Đức Hồng Y Ngoại trưởng Pietro Parolin, cùng với Đức Tổng Giám Mục Paul Richard Gallagher, trưởng thánh bộ Quan hệ với các Quốc gia để bàn về chuyến tông du này.
“Trong các cuộc thảo luận thân mật tại Quốc vụ khanh, tầm quan trọng của mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp giữa Tòa thánh và Lebanon, nhân dịp kỷ niệm lần thứ bảy mươi lăm trong năm nay, đã được nhấn mạnh tới,” như một tuyên bố của Văn phòng Báo chí Tòa thánh cho biết sau những cuộc gặp gỡ. “Sau đó, sự chú ý chuyển sang các vấn đề kinh tế xã hội nghiêm trọng mà đất nước Lebanon đang trải qua, và tình hình của người tị nạn, với hy vọng nhận được trợ giúp của cộng đồng quốc tế, cuộc bầu cử lập pháp sắp tới và những cải cách cần thiết có thể góp phần tăng cường sự chung sống hòa bình giữa các tín hữu của nhiều tôn giáo khác nhau trong xứ sở của cây Thông Bá Dương Cedars. " Cuối cùng, tuyên bố cho biết, "hậu quả thảm khốc của vụ nổ ở cảng Beirut vào ngày 4 tháng 8 năm 2020 đã được đề cập, liên quan đến nhu cầu công lý và sự đền bù dành cho các gia đình nạn nhân."
Mong muốn của Đức Thánh Cha đến thăm Libanon
ĐTC đã nhiều lần bày tỏ ngài mong muốn đến thăm Lebanon. Một năm sau vụ nổ ở cảng Beirut, trong buổi Tiếp kiến chung vào ngày 4 tháng 8, Đức Thánh Cha đã phát biểu: “Các bạn Lebanon thân mến, tôi rất muốn đến thăm các bạn và tôi tiếp tục cầu nguyện cho các bạn, để đất nước Lebanon được vãn hồi hòa bình và chan chứa tình huynh đệ cho toàn bộ vùng Trung Đông”.
Trong năm 2021, vào ngày 1 tháng 7, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tổ chức một Ngày Suy niệm và Cầu nguyện chung với các Đại giáo trưởng nước Lebanon. Rồi trên đường trở về sau chuyến tông du Iraq, trong cuộc họp báo trên máy bay với các nhà báo năm ngoái vào ngày 8 tháng 3, Đức Thánh Cha Phanxicô tiết lộ rằng ngài đã hứa, trong một bức thư gửi cho Đức Hồng Y Bechara Raï, là ngài sẽ thực hiện một chuyến tông du đến Lebanon.
Các Đức Thánh Cha đã đến thăm Lebanon
Một số Đức Thánh Cha đã đến Lebanon trong quá khứ. Thánh Giáo hoàng John Paul II đã đến thăm xứ cây Thông Bá Dương Cedars vào năm 1997; và được tiếp nối bởi Đức Bênêđíctô XVI vào năm 2012.
Nhưng đáng nhớ là Đức Thánh Giáo Hoàng Paul VI đã dừng chân tại Lebanon vào năm 1964, và ngài là Giáo hoàng đầu tiên đặt chân lên đất Libanon. Thánh Giáo Hoàng Paul VI đã dừng chân một giờ tại phi trường Beirut trên đường bay đến Đại hội Thánh Thể ở Bombay, Ấn Độ. Ngài được Tổng thống Charles Hélou và các nhà chức trách chính trị và tôn giáo chào đón, Đức Phaolô VI đã có một bài diễn văn ngắn bằng tiếng Pháp: “Lebanon - chúng tôi rất hân hạnh được nói điều này ở nơi này – quí quốc giữ vị trí quan yếu trong sự hài hòa giữa nhiều quốc gia,” Đức Thánh Cha nói trong bài phát biểu tại sân bay. “Có thể nói, lịch sử, văn hóa, tính hài hòa an bình của quốc dân quí vị với lòng quý trọng và tình bạn thân thiết dành cho mọi người. Trên tất cả, các truyền thống tôn giáo cổ xưa và đáng kính của quí quốc, đối với chúng tôi, làm cho chúng tôi ngưỡng mộ và biết ơn...” Và Đức Paul VI nói thêm, “Đặc biệt, chúng tôi không thể quên những gì mà đức tin của các cộng đồng Công Giáo ở Li-băng đại diện cho Giáo hội, được thể hiện trong sự đa dạng hài hòa qua các Nghi lễ, trong sự phong phú và đa dạng của các cộng đồng tôn giáo, trong các hoạt động có tính cách tông đồ, giáo dục, văn hóa và từ thiện. ”
Hôm nay, ngày 05/4/2022, Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội tổ chức kỳ thi tuyển sinh khóa học XXVIII (2022-2030) với ước mong đào tạo những linh mục quản xứ (hay còn gọi là linh mục triều). Kỳ thi được tổ chức trong cùng một ngày tại 6 giáo phận. Số thí sinh dự thi năm nay là 65 anh em ứng sinh.
Xem Hình
Kỳ thi năm nay, Tổng Giáo Phận Hà Nội có 21 thí sinh; Hưng Hóa: 12; Phát Diệm: 12; Bắc Ninh: 6; Hải Phòng: 6; và giáo phận Lạng Sơn: 5 thí sinh. Cũng như các kỳ tuyển sinh trước, các thí sinh dự thi 3 môn: Giáo lý, Anh ngữ và Việt văn. Thời gian dự thi được bắt đầu từ lúc 8h00 đến 16h30 cùng ngày, cụ thể như sau:
Môn Giáo Lý: 08h00 – 10h00
Môn Anh ngữ: 10h15 – 11h45
Môn Việt văn: 14h30 – 16h30
Tại Tổng Giáo Phận Hà Nội, kỳ thi được tổ chức tại Tòa Tổng Giám Mục dưới sự hướng dẫn của Cha giáo Đaminh Nguyễn Văn Công, với vai trò là Giám thị. Trước khi vào giờ thi, Cha cũng đã dành những lời động viên và khích lệ anh em ứng sinh. Do đó, tất cả các thí sinh đều trải qua ngày thi cách nghiêm túc và đã hoàn thành bài thi của mình.
Trong tâm tình phó thác nơi Chúa và với sự nỗ lực của bản thân, ước mong tất cả anh em ứng sinh đều đạt được những kết quả tốt đẹp qua kỳ thi, cũng như đáp ứng đủ các điều kiện để tham dự học tập tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội.
Thiết kế của Maurice Blondel
Dù một số người cho là thế, nhưng không phải ý định hộ giáo, cũng không phải mối quan tâm của một nhà đạo đức, cũng không phải mong muốn cải cách hoặc sự mới lạ đã hướng dẫn tôi trong suốt hành trình dài của cuộc phiêu lưu trí thức của tôi; và những cuộc phiêu lưu này không phải không có nguy hiểm và đau khổ. Một cách chủ yếu, tôi luôn muốn thực hiện công trình kỹ thuật và độc lập của triết gia, trong tính liên tục với nỗ lực tập thể và ý nghĩa truyền thống, không có tham vọng nào khác ngoài việc kiên nhẫn khám phá toàn bộ lãnh vực mà lý trí có thể tiếp cận được trong các vấn đề hỗn hợp, làm chính xác và mở rộng năng lực triết học trong các giới hạn tận cùng của nó, nhắc nhớ hoặc trình bầy với cử toạ tất cả các tinh thần phê phán biết các vấn đề đầu tiên hoặc cuối cùng mà họ đã thoái lui hoặc vì thiếu một phương pháp thích hợp, họ đã không minh nhiên nêu ra trong lãnh vực thuần lý. Đến nỗi, một công trình đuợc quan niệm như thế chỉ có thể thành công bằng cách đạt tới một học thuyết toàn vẹn về Tư tưởng, Hữu thể và Hành động, tới một nền Triết học không "tách biệt" cũng không "lệ thuộc" vào khoa học cũng như vào tôn giáo thực chứng, và là một nền triết học - có tính tôn giáo trong yếu tính, chứ không phải tình cờ, thiên vị hay thêm thắt [surcroît] - chung sống một cách tự phát, trong nhận thức của chúng ta cũng như trong cuộc sống của chúng ta, với khoa Phê phán dũng cảm nhất và với đạo Công Giáo chân chính nhất. Người ta có thấy kế sách này, được xác định như thế, có những khó khăn chưa được thăm dò, nhưng cũng có sự thống nhất nhất quán và hoàn toàn không? Người ta có thấy tại sao mọi điều tôi thấy nơi các bậc thầy của tôi, cả nơi Thánh Augustinô, mà cuối cùng tôi đã khám phá ra, cả nơi Spinoza, trong ông Delbos đã như dẫn tôi lên một sân thượng bí mật trên mái nhà của tôi, cả nơi Pascal thân yêu của tôi, người mà tôi không thể tha thứ vì đã không tìm kiếm lý do tại sao chúng ta "xuống thuyền" mà phải chấp nhận như các sự kiện khó khăn điều đi vào như các sự thật ngọt ngào trong những phát minh hài hòa của đức ái, vâng, tất cả những điều này, tôi phải chuyển vị sang một tầm nhìn mà đối với tôi dường như không hề có điều gì được đặt ra và duy trì một cách có phương pháp? (Itinéraire philosophique, tr. 44-46).
Sự ra đời của luận án về Hành động
Hành động một cách chân thực há không luôn dẫn khởi điều mới mẻ hay sao? Cũng thế, nghiên cứu hành động, với tinh thần hành động, là không ngừng tự tôi luyện trong suối nguồn của tuổi trẻ. Vì vậy, đối với tôi dường như là ngày hôm qua, Ngày 5 tháng 11 năm 1882, vào đầu năm thứ hai của tôi tại Cao đẳng Sư phạm, tôi đã sửa lại tựa đề này mà các bạn muốn được thông báo. Tôi vẫn thấy vị trí trong phòng học, tôi vẫn còn giữ tờ giấy mà tôi đã phác họa dự án của tôi cho chính tôi. Người hàng xóm thân yêu của tôi, Gabriel Audiat, với cái nhìn thấu suốt, đọc qua vai tôi và đi quảng bá bí mật của tôi. “Một luận án về hành động, Thiên Chúa cao cả ơi! Điều này có thể là gì đây? Chữ Hành động thậm chí không xuất hiện trong cả cuốn Từ điển Khoa Triết học của Adolphe Franck", từ điển duy nhất chúng ta có lúc đó.
Thực thế, tại Sorbonne, khi tôi xin đăng ký chủ đề của tôi, chủ đề đối với tôi dường như hợp lý đến không thể khích động một loại ngạc nhiên đến như thế, cô thư ký dễ thương Lantoine đã trả lời tôi trước, theo các ý kiến có thẩm quyền, rằng người ta không hề thấy ở đấy có chất liệu gì cho một luận án triết học. Thích thú với chuyện kỳ quặc này, các đồng bạn của tôi đã trêu chọc tôi một cách nhẹ nhàng, bằng cách thỉnh thoảng lại đưa tin tức về cuộc phiêu lưu kỳ lạ này.
Một thời gian sau, Lucien Herr, người quan tâm nghiêm túc hơn đến nó qua giọng điệu chế giễu của một người bảo vệ khổng lồ tốt lành, đã khuyên tôi, tuy anh ta lúc đó vốn là một nhà thư mục học uyên bác: "Blondel bé bỏng của tôi, bạn không nên biến một cái tên riêng duy nhất trong luận án này thành một biểu tượng, vì nó xứng đáng được xử lý trong tính toàn bộ của nó; đây là một điều mới mẻ!” Đó quả thực là quyết tâm của tôi.
Điều tôi muốn là tự giải phóng bản thân, bằng cách sử dụng nó, sử dụng môi trường, mới mẻ đối với tôi, bao quanh tôi ở bên phải cũng như ở bên trái và tạo cho tôi ấn tượng không còn thở một cách thoải mái nữa; một môi trường nơi các thái cực trái ngược nhau tự khiêu khích lẫn nhau và không chịu bù đắp cho nhau; một môi trường nơi người ta dao động từ chủ nghĩa tài tử [dilettantisme] sang chủ nghĩa khoa học; nơi tân Kitô giáo theo kiểu Nga tương phản với sự kỳ tài cứng cỏi của chủ nghĩa duy tâm [idéalisme] triệt để kiểu Đức; nơi, trong nghệ thuật và văn chương cũng như trong triết học, nếu không muốn nói trong chính khoa sư phạm tôn giáo, đối với tôi điều khái niệm, điều hình thức, cả điều phi thực dường như đã chiến thắng; nơi cả các cố gắng người ta làm để khơi lại cội nguồn của một đời sống sâu sắc và một nghệ thuật tươi mát chỉ dẫn đến chủ nghĩa biểu tượng, mà không tiến tới chỗ khôi phục lại điều cụ thể, điều trực tiếp, điều đặc thù, điều nhập thân, ngôn từ sống động vốn mang theo toàn bộ phức thể con người, thực hành bí tích, vốn gieo vào huyết quản chúng ta một tinh thần thiêng liêng hơn tinh thần của chúng ta, một ý nghĩa bình dân và một chủ nghĩa hiện thực Công Giáo.
Người ta tin có thể tự làm cho mình phong phú bằng cách thổi phồng mọi ý thức hệ ủy thác (idéologie fiduciaire); như thể các giải thích tượng hình và các suy đoán cao ngạo của những tay thông thái nửa mùa đã đưa người ta tiến xa và đáng giá hơn những thực tại khiêm tốn và cao siêu của những người đơn sơ và hiền giả! Tuy nhiên, đối với tôi, hành động dường như là "sợi dây liên kết chủ yếu” tạo nên tính thống nhất cụ thể của mọi hữu thể bằng cách bảo đảm sự hiệp thông của nó với mọi hữu thể. Thực vậy, há nó không phải là sự hợp lưu trong chúng ta của tư tưởng và sự sống, của tính độc đáo cá nhân và trật tự xã hội, thậm chí toàn diện, của khoa học và đức tin đó sao? Bằng cách diễn dịch điều có tính độc đáo, chưa ai nói tới, khởi tạo trong mỗi con người, nó cũng chịu ảnh hưởng không kém của thế giới bên dưới, của thế giới bên trong, của thế giới bên trên: nó phát xuất từ thể phổ quát, nó sẽ quay trở lại đó, nhưng bằng cách dẫn về điều có tính quyết định; nó là qũy tích trong đó, thể tự nhiên, thể nhân bản, thể thần linh gặp nhau (Itinéraire philosophique, trang 63-67).
Ý nghĩa thực sự của "Hành động"
Gửi Georges Perrot {1}.
Ngày 20 tháng 10 năm 1893.
Thưa Ông Giám đốc, Ông đã tỏ ý muốn với tôi mong được minh xác bằng một tuyên bố ngắn về ý nghĩa luận án của tôi và về những ý định mà tôi có trong việc bàn tới hành động. Tôi càng xin cảm ơn ông một cách chân thành hơn khi lòng nhân từ đầy trìu mến của ông quý giá hơn đối với tôi và làm tôi dễ dàng giải thích sự khó khăn trong việc biện phân rõ định hướng đích thực của một công trình rộng lớn và phức tạp, mà các chi tiết chỉ hoàn toàn khả niệm khi có cái nhìn tổng thể. Tôi xin nói thêm rằng sau khi cố gắng khảo sát một cách có phê phán các câu hỏi, mà ít nhất ở Pháp, những tinh thần cao thượng thường hay quá làm ngơ, tôi càng cảm thấy các ý định của tôi bị hiểu lầm. Việc không phát biểu ý kiến, mà nước Anh và nhất là nước Đức còn lâu mới bắt chước, đối với tôi dường như đầy nguy hiểm, bởi vì, trong trường hợp không có bất cứ cuộc thảo luận thuần lý nào về những vấn đề không thể bị dẹp bỏ, nó bỏ ngỏ lĩnh vực cho cuộc xung đột bạo lực đầy đam mê: ngoài ra, trước nguy cơ bị tấn công của bên này hay bên kia, tôi muốn khắc phục việc tự ý cắt xén tư tưởng Pháp. Những vấn đề này - mà nơi chúng ta, người ta đã quen với việc không coi chúng có tính triết học bởi vì, trước sự hỗn loạn về quyền lợi hoặc tham vọng hòa lẫn với nhau trong đó, các tâm hồn hào phóng nhất và các tinh thần ôn hòa nhất quay lưng bỏ đi một cách buồn bã hoặc khinh bỉ - tôi đã cố gắng bàn tới chúng với sự vô tư của một tinh thần mới. Tôi biết vì các hình thức tư tưởng tôn giáo từng thịnh hành ở Pháp, công việc chắc chắn là tế nhị; nhưng đối với tôi dường như điều đó không phải là bất khả, đối với tôi nó dường như còn là điều cần thiết và cấp bách. Do đó, vì lý trí, tôi nhận trách nhiệm phần đã bị bỏ ngỏ; tôi đã làm việc này để không một thẩm quyền đã được qui định nào có thể khiếu nại về các hành vi bị coi là lấn lướt, để không một suy nghĩ thực sự tự do nào có thể buộc tội tôi đã kéo nó ra khỏi lối lập luận thuần lý. Tôi tự đặt mình vào chỗ, nơi các cuộc thảo luận, bất luận sống động bao nhiêu, có thể trở thành và mãi thanh thản và hòa bình. Tôi cố gắng làm cho hình thức Công Giáo của tư tưởng tôn giáo điều mà nước Đức đã làm từ lâu và vẫn luôn làm, cho hình thức Thệ phản mà triết học, thật sự như thế, dễ dàng thoát ra hơn.
Như thế, trong công việc của mình, tôi mang đến một kế sách hòa bình và chinh phục – một chinh phục, không chống lại lý trí, mà vì lý trí, vì tôi cố gắng khôi phục cho nó điều, theo hướng ngược lại, sự cuồng tín đã lầm lẫn tương tự khi loại bỏ khỏi nó; một kế sách hòa bình, vì các cuộc tranh luận khoa học có hiệu quả bổ ích là thay đổi kẻ thù thành đối thủ, vì chúng biến đổi các đam mê mù quáng thành các ý tưởng, những ý tưởng, nhờ soi sáng lẫn nhau, sẽ hòa hợp với nhau, bất chấp các phản bác được công nhận. Mong muốn của tôi là thừa nhận mọi đa dạng của lương tâm con người, không làm nản lòng bất cứ thiện chí nào, không nghi ngờ bất cứ lòng chân thành nào. Và nếu đôi khi xem ra tôi quở trách các tâm trí có định kiến quá sớm hoặc các lương tâm ì ạch và nhát gan, chính là để dẫn họ đến nơi mà đối với tôi dường như ý chí bí mật của họ muốn đi tới, là để cung cấp cho họ một điều gì đó hơn điều tối thiểu mà họ đang tìm cách để tự hài lòng. Nhưng khi cảnh cáo họ chống lại việc không bày tỏ ý kiến một cách liều lĩnh, không bao giờ tôi chỉ cân nhắc điều hơn có thể miễn chước điều ít.
Do đó, về ý định và phương pháp, việc làm của tôi hoàn toàn có tính triết học. Đối với tôi, dường như nó càng là như thế do bản chất của học thuyết cũng như do các kết luận của tôi. Nhưng chính ở đây hơn cả, người ta dễ dàng hiểu lầm; vì mối tương quan giữa trật tự nhận thức và điều vượt quá nó chưa bao giờ được xác định như tôi đã cố gắng làm. Ngày nay, những bộ óc đa dạng nhất đồng ý với nhau đủ để nhìn nhận rằng đời sống con người không hoàn toàn bị giới hạn trong điều khoa học thực chứng hay suy đoán thuần lý có thể xác định một cách chính xác: một điều không biết, có lẽ không thể biết, dường như bao phủ chúng ta và vào tận sâu trong chúng ta. Thế mà, mối liên hệ này của điều đã biết với điều sau đã được quan niệm nhiều cách khác nhau, và một cách đại khái, đây là cách các khái niệm này đã diễn biến. Đối với phái kinh viện, hai trật tự phụ thuộc nhau trong một phẩm trật đi lên chồng chéo lên nhau bằng cách chạm vào nhau và thông đạt với nhau, nhưng vẫn như ở bên ngoài lẫn nhau. Thệ phản, khi bác bỏ ý niệm về bất cứ sự chuẩn bị thuần lý nào cho đức tin, đã bắt đầu bằng cách san bằng toàn bộ tòa nhà lý trí và tự do, ngoại trừ sau đó nâng nó trở lại với tính độc lập và toàn vẹn của nó, mà từ nay, người ta không thấy trong đó nền tảng của một phương thức cao hơn. Như thế, trong mắt họ, có thể nói hai trật tự chỉ đứng bên cạnh nhau, trong khi chờ đợi nhân danh trật tự đầu, người ta ráng loại trừ trật tự sau. Nhưng không thể duy trì sự phủ nhận hoàn toàn này. Chính trong trật tự duy nhất được bảo tồn, mà kể từ đó người ta đã phát hiện lại nhu cầu cần trật tự kia. Và thế là, vào lúc này, một xu hướng nổi bật: đó là coi cuộc sống và tư tưởng, niềm tin và khoa học diễn biến song song thành hai loại không thể thông đạt với nhau. Riêng kiến thức mà thôi, cuối cùng, không chỉ cho chúng ta biết được mầu nhiệm đang bao phủ chúng ta; nó giản lược chúng ta vào thế bất động, giống như những du khách kia, đêm khuya trên một bến bờ vô định, đang chờ đợi một bình minh không bao giờ ló dạng. Nhưng, người ta nói thêm, bằng việc thực hành cuộc sống, chúng ta mới thấu triệt mầu nhiệm này; chúng ta di chuyển trong nó, chúng ta ở trong nó, nó là chính chúng ta. Thế nhưng, giữa niềm tin và khoa học, đối với tôi, dường như có một điểm giao nhau vĩnh viễn, đó là hành động: trong đó, hai trật tự mà người ta đã chồng lên nhau, xếp cạnh nhau, đối lập nhau, được kết hợp trong một cuộc thấu nhập [compénétration] hỗ tương. Bằng cách làm cho người ta thấy các sự thật tích cực nhất được trích xuất từ hành động ra sao, tôi sẵn sàng trích xuất từ hành động các sự thật bề ngoài có vẻ siêu việt mà thực ra vốn nội tại trong đó. Quả thế, một mặt, tôi chứng tỏ rằng kiến thức, trong toàn bộ trương độ của nó, là một dẫn khởi [dérivé] từ hành động nơi nó tìm thấy sự biện minh và thực tại của nó. Mặt khác, tôi chứng minh rằng Hành động của con người chúng ta ngụ hàm mọi nhu cầu tôn giáo kia, mà người ta vốn trình bầy với chúng ta như ở bên ngoài chúng ta hoặc giống như những điều viển vông. Cùng một trương độ [coextensifs], chúng đi vào chính đạo đức tự nhiên mà ý niệm về nó sẽ không trọn vẹn nếu người ta không đi tới chỗ tôi đã đi: tôi không hạn chế hoặc thỏa hiệp nó, tôi đã mở rộng và phát triển nó. Điều mà con người thực hiện chắc chắn chỉ là một phần của điều tự thực hiện trong nó; nhưng phần này có cùng một trương độ với toàn bộ; đó là lý do tại sao tôi nghiên cứu điều có vẻ như vượt quá vai trò riêng của con người, mà không ra ngoài vai trò của triết học, bởi vì tôi không ra ngoài Hành động nhân bản của chúng ta. Nếu tôi nói về siêu nhiên, thì đó vẫn là tiếng kêu của thiên nhiên, một lời kêu gọi của lương tâm đạo đức và một đòi hỏi của lý trí mà tôi làm cho người ta nghe. Đó là lý do tại sao tôi nghiên cứu điều dường như vượt quá vai trò của chính nó mà không ra ngoài lãnh vực của lý trí, đơn giản bằng cách theo dõi diễn biến liên tục của các ý tưởng khoa học, luân lý và tôn giáo; như thế, tôi đạt tới chỗ làm phát sinh từ ý thức, từ bên trong, điều dường như được áp đặt từ bên ngoài, từ nguồn gốc của chuyển động này. Các hành vi của chúng ta bao hàm trong cấu trúc tự nhiên của chúng, tất cả những gì siêu nhiên có thể ở đó. Ngoài ra, khi tôi nói về những gì vượt trội khoa học hay lý trí, nó vẫn nhân danh lý trí và do nhu cầu của tự nhiên (Lettres philosophiques, trang 32-36).
Sự suy tư
Một lý do hành động [motif] không phải là một lý do nếu đứng một mình. Nếu nó đứng một mình, đó là một mong muốn động vật, một hình ảnh bản năng. Nếu nó xuất hiện một mình với ý thức, nó là một xung động tự phát hoặc thói quen máy móc, một mê sảng của bệnh nhân hoặc người mất trí, một gợi ý của người mộng du, một tính tự động của người phân tâm hoặc mơ mộng; nó là một ám ảnh, chứ không phải là một ý niệm.
Mọi ý niệm, mọi trạng thái ý thức rõ ràng đều bao hàm sự tương phản và đối lập bên trong: giống như mắt tự kích thích màu bổ sung cho mầu nó mệt mỏi không còn tri nhận được để làm cho chúng sinh động lẫn nhau, tương tự như vậy, thì sinh vật có tâm trí cũng được cấu tạo một cách khiến mọi biểu thị đều gợi lên các đối lập và đối kháng, giống như rất nhiều âm bội [harmoniques] nhằm đặt chúng nổi bật bởi việc song song dùng một cái chặn tiếng [sourdine]. Người ta vốn nhắc nhở, ý thức chỉ phát sinh từ một phân biệt, nó tự phát triển dưới ảnh hưởng của định luật tương đối.
Việc nghiên cứu điều gọi là phân cực tâm lý cho thấy rằng, dưới mọi tri nhận có vẻ đơn giản và thẳng thắn đều che giấu hình ảnh của một tri nhận khác có tính hư ảo, sẵn sàng thay thế tri nhận đầu. Cũng theo cách này, trong cơn cuồng loạn, người ta có thể giải thích nhu cầu mô phỏng và cả sở thích nói dối nữa, một sở thích đàng khác đã ám ảnh một số tổ chức rất khó tính, nhưng vẫn lành mạnh: vì bên cạnh các ký ức có thực chất, xuất hiện và phát triển một hệ thống liên tưởng trái ngược; và do sự lôi kéo của một cơn cám dỗ kỳ lạ, người ta tiến tới chỗ, bất chấp bản thân, nói điều ngược lại với điều họ suy nghĩ, cởi bỏ cuộc sống có ý thức, rơi vào ảo tưởng, như thể các mô tả dối trá, vì hết thẩy đều có tính chủ quan, nên đúng là có nhiều thẩm quyền đối với chủ thể hơn những mô tả mà chủ thể có ấn tượng thực sự. Cũng thế, cơ chế phủ định thông thường kích hoạt một cặp khẳng định đối nghịch nhau, trong đó khẳng định này thành công nhờ loại trừ khẳng định kia, nhưng không bao giờ hủy diệt được nó. Từ đó có tinh thần mâu thuẫn; từ đó có nguy cơ khơi dậy, nơi trẻ em, sự nghi ngờ hoặc không vâng lời bởi một câu hỏi sớm sủa nào đó. Mặt khác, từ đó, bù lại, có tiện ích đánh bại cơn cám dỗ, để củng cố chính sức mạnh của ý nghĩa luân lý. Nói tóm lại, quan niệm rõ ràng một hành động là cùng một lúc tưởng tượng, ít nhất mờ mờ, khả thể có nhiều hành động khác nhau, dùng như vật làm nổi và giúp làm chính xác quan niệm ban đầu bằng cách loại bỏ và phỏng chừng. Như thế, mọi quan niệm giống như một phân số chỉ có nghĩa nhờ liên hệ với một đơn vị và đòi hỏi sự bổ sung của một phân số khác.
Đây là các sự kiện: tính tự động thú vật nơi con người và tính tất định của cuộc sống họ, cả về phương diện sinh lý lẫn tâm lý, đều bị thâm nhập bởi định luật các tương phản đồng thời hoặc tiếp nối nhau {2}. Cơ chế bên trong, cho tới tận trung tâm sự sống thô sơ của chúng ta, được cấu tạo một cách khiến cho sự thống nhất đơn điệu và không được tri nhận của diễn trình hữu cơ liên tục bị đi qua, phân chia, xé nát bởi những cuộc đấu đá nội bộ. Vì vậy, như chúng ta đã thấy khi nghiên cứu tính tự phát chủ quan, nếu đúng là mọi hành vi của ý thức đều là một tổng hợp sức mạnh và một nguyên lý mới của sức mạnh, thì cũng đúng là mọi ý thức về một hành vi (ý tưởng hoặc tình cảm) đều là kết quả của một cuộc xung đột, một xáo trộn và một ngưng đọng trong tính năng động của tâm trí, một "sự ức chế" ít nhất từng phần. Cần phải nghiên cứu nguyên nhân và hậu quả của nó.
Khi hình ảnh và ý tưởng nảy sinh nhiều hơn, nhiều vấn đề tự đặt ra hơn cho hoạt động; vì công việc vô thức của đời sống tâm lý tự chuyển dịch một cách tự phát dưới dạng các mục đích phải đạt được. Tính tất định dự phóng mục tiêu nó tự chỉ định cho mình và với sự trợ giúp của các điều kiện có trước, nó tạo thành lý tưởng để theo đuổi. Chính như thế mà, giữa các khuynh hướng khác nhau, tự tỏ hiện trong chúng ta do một tất yếu không ai biết, các hệ thống tương phản của các cùng đích đã biết tự hình thành; mỗi một hệ thống mang một sức mạnh hiện thực hóa trong nó. Và bởi sức thu hút của các lý do hữu thức khác nhau, các sức mạnh tản mác của đời sống nội tâm được nhóm họp lại, theo một quy luật cùng đích, trong những tổng hợp đối kháng nhau. Vậy thì, giữa các nhóm dị biệt này làm thế nào có sự đối lập? Làm thế nào từ cuộc đấu tranh nội bộ này rút ra một kiến thức rõ ràng hơn và một sức chú ý mới? Làm thế nào từ chính ý thức này nảy sinh ra suy tư? Làm thế nào sự phân rẽ các khuynh hướng thường không đồng đều và không cân xứng dẫn đến “sự ức chế”?
Thì đây.
Nếu các hệ thống đối kháng chống lại nhau trong ý thức, thì đó là vì, bất chấp đối kháng này, chúng được bao gồm trong sự thống nhất phức tạp của một cơ thể duy nhất; là vì chúng cũng phụ thuộc một sức mạnh cao hơn của các thể đối lập; là vì thay vì là những mảnh cô lập, chúng là các bộ phận của một tổng thể. Tính đa dạng của các hình ảnh và lý do chắc chắn đã chuẩn bị, nhưng trước hết nó giả thiết một sự thống nhất có khả năng bao gồm chúng và sản sinh ra chúng. Ngoài ra, trước những lý do trái nghịch thì như có một lý do thứ ba can thiệp để chống đối chúng. Ngay cả trước một lý do duy nhất, từ thời điểm nó được quan niệm một cách rõ rệt, người ta vẫn coi nó chỉ như một trong những giải pháp khả hữu, trong mối quan hệ của nó với tổng số các ấn tượng và xu hướng hiện có. Trong ý thức, mối tương quan của các bộ phận tương phản nhau với toàn bộ và với nhau này nói đúng ra chính là việc suy tư. Nó là kết quả đặc tính từng phần của các trạng thái đối kháng nhau; nhưng tính đa nguyên của các trạng thái liên đới và đối lập này chỉ có thể khả hữu nhờ hành động nội tại của một sức mạnh có khả năng bao trùm trọn tính đa dạng của các thể đối lập trong một thể thống nhất cao hơn, mà ta phải gọi đúng là lý trí.
Như thế, ngay khi có những mâu thuẫn bên trong và sự ngưng đọng của các khuynh hướng, ý thức, khi tự khám phá trong mình một sức mạnh lớn hơn, trở thành suy tư. Từ cuộc xung đột giữa các năng lực và các mong muốn bị ngưng đọng phát sinh các trạng thái cảm xúc dùng làm chất liệu và thực phẩm cho các trạng thái tri thức mới. Thay vì vẫn mù mờ và không mạch lạc, các lý do khác nhau của Hành động xuất hiện để đối đầu với nhau; nó là Lý trí bao gồm trong chính nó toàn bộ hệ thống các lý do đối địch nhau, nó không phải là một lý do đặc thù nào trong các lý do này; nó chứa chúng tất cả, nó tự phân biệt với chúng tất cả và đặt tất cả chúng ở trạng thái cân bằng, vì nó thấy mỗi lý do trong số này, một phần trong tổng thể, chỉ là một lý do giữa những lý do khác và giống như những lý do khác, una e multis [một từ nhiều]. Đây là lý do tại sao, bất cứ sự bất bình đẳng nào của các sức mạnh đang hiện diện, việc suy tư cũng làm tê liệt chúng như nhau; vì nó giả thiết, không những sức mạnh của một trong các thành tố thù địch nhau, nhưng là sự kết hợp mọi năng lực tiềm tàng. Nó moi cho những năng lực tự phát này tất cả những gì chúng có từ sức mạnh cổ vũ và sử dụng chúng để ngăn chặn chúng.
Cũng ở đó, cách ý thức tính tất định tự thành hình trong chúng ta đã tự tỏ bày ra. Vì chúng ta chỉ quan niệm tính tất yếu của một hành vi dưới ảnh hưởng hấp dẫn của một mô tả tâm trí, khi tưởng tượng rằng, hệ thống các lý do trổi vượt đã loại bỏ mọi xu hướng trái nghịch và, có thể nói, nó đã trở thành một phần toàn bộ; nghĩa là nhờ dùng trừu tượng, coi lý do trổi vượt này như lý do duy nhất chân thực và hữu hiệu, chúng ta duy trì trước nó, để hiểu sức mạnh xác định ra nó, ý tưởng có lẽ nó chỉ là một bên trong một toàn bộ. Đến nỗi, tính tất định chỉ được biết đến bao lâu người ta tìm thấy trong mình điều có thể nhờ đó vượt quá được nó.
Cuối cùng, việc phân tích này giúp ta có thể giải thích tại sao, ngược lại, một số đề xuất dẫn đến hành động dưới ảnh hưởng của tính tất yếu, đã để lại nơi tác nhân một ảo tưởng về tự do. Khi hành động được đề xuất thực sự xuất hiện với tất cả các lý do có thể hỗ trợ nó, đó chính là hậu quả của đề xuất nhằm loại bỏ khỏi lĩnh vực ý thức các trở ngại và ý muốn thoáng qua trái ngược nhau. Tuy không có bất cứ sự đàn áp thực sự nào đối với các xu hướng đối kháng nhau, vẫn có sự gây mê chủ quan; vừa rồi, bằng một câu chuyện hư cấu, chúng ta tưởng tượng một lý do từng phần đã hấp thụ toàn bộ hoạt động, và kết luận với thuyết tất định; bây giờ có vẻ như đối với người kiên nhẫn, chịu thực hiện gợi ý cho rằng trong trường hợp không có bất cứ lý do nào khác, một mục tiêu được đề nghị với họ, và trong khi nhắm tới nó, họ nghĩ rằng họ được tự do như thể họ được như thế nếu họ hành xử bằng sự biện phân trọn vẹn thông thường của mình.
Kiến thức suy tư vì vậy giống như một tổng hợp bậc hai; nó là mô tả của các mô tả. Điều nó có tóm tắt điều có trong chúng ta, và điều có trong chúng ta tóm tắt mọi điều khác. Nhưng sau khi, nhờ một tiến bộ nhất thiết, người ta đã leo lên các bậc có cấp này, nếu họ quay lại, thì làm thế nào họ có thể giải thích được việc, theo cách này, điều nhiều hơn dường như phát xuất từ điều ít hơn? Tại sao lại có sức mạnh chiến thắng của các tình trạng được dẫn khởi này? Do đâu có việc, cùng một lúc, sự suy tư thu hẹp phạm vi của sự sống tự phát, vì nó đưa vào đó các giới hạn và các tương phản, trong khi mở rộng sức mạnh của các lý do đặc thù, vì nó làm cho bất cứ một trong số chúng có khả năng đánh bại tất cả?
Đó là vì sự chuyển dịch đi lên này tự nó được định đoạt trước bởi một khát vọng thầm kín mà, ngay từ nguồn gốc, đã gieo mầm cho những sự phát triển bất ngờ này. Nhìn từ dưới lên trên, theo chuỗi các phương tiện, mọi điều dường như nhất thiết; nhưng chỉ có sự hạn chế bề ngoài. Nhìn từ cao xuống thấp, có thể nói, và trong thứ tự các mục đích theo đuổi, tất cả đều phát sinh từ một sáng kiến mà mỗi nỗ lực mới phải biểu lộ tốt hơn. Và chính vì thế, mỗi tổng hợp về sau chứa nhiều hơn các tiền thân đã xác định của nó; chính vì thế, sự sao chép trong ý thức các trạng thái vô thức tạo ra một năng lực mới; cũng chính vì điều này, sự suy tư, khi tập trung ánh sáng tản mạn vào một điểm, phần nào nhân thừa nó lên; cuối cùng, chính vì điều này, ngay cả sự rõ ràng tăng lên này cũng chưa đủ để đưa chúng ta đến hành động nếu chúng ta vẫn không thấy quá bên kia sức hấp dẫn của bóng tối và điều chưa biết.
Do đó, khi đặt vào cùng một thời điểm của đời sống bên trong, người ta không hề có thể giải quyết vấn đề tự do và thuyết tất định ngay lập tức. Vì những gì ban đầu làm nhất thiết đến lượt nó, cũng sẽ trở thành nhất thiết: chỉ theo ngôn từ mà thôi, nếu người ta đạt được nó, họ sẽ phát hiện ra đặc điểm thực sự của chuyển động toàn diện của sự sống này. Vì vậy, chỉ cần chứng tỏ, ở mỗi sự phát triển của hành vi, sự tiếp nối bắt buộc của chính sự phát triển này và sự chiến thắng của tình trạng mới theo các điều kiện của riêng nó. Nhưng phải cẩn thận đừng đảo thứ tự hoặc nhầm lẫn các mức độ của sự tiến triển nghiêm ngặt này: nếu không, người ta sẽ hiểu sai đặc điểm khoa học của diễn biến này, và người ta sẽ tự rơi vào chỗ coi cho việc nhất thiết phát sinh tự do {3} (một phương diện thường bị bỏ qua) thành sự hấp thụ tự do ngay trong nhất thiết.
Đó là khởi nguyên, là tính công hiệu của suy tư: nó phát khởi từ tính tự phát, và nó tự giải thoát khỏi nó bằng cách giải thích nó; nó diễn tiến từ tính tất định, nhưng nó vượt ra ngoài tính tất định để biết nó. Sinh ra từ một sự dị biệt hóa bên trong và một sự ức chế, nó là chính năng lực ức chế và gây rối này (như Chủ nghĩa duy nghiệm đã nhận xét về nó rất đúng). Kể từ thời điểm xuất hiện, bất cứ xu hướng nào cũng được cư xử một cách kính trọng; nó đình chỉ, không phải nhận thức mà nó xác định, mà là hoạt động tức khắc, bởi một sức mạnh mà nó vay mượn từ các khuynh hướng đối kháng đa dạng và là sức mạnh vượt trội hơn từng sức mạnh và mọi sức mạnh. Thực thế, há người ta không hay nhận xét rằng một sự chú ý quá hẹp sẽ làm trật kế sách tự nhiên và cản trở sự dễ dàng của các chuyển động thông thường nhất, việc phân tích ham biết và bác học giết chết đà hăng hái, cảm giác hạnh phúc ngây thơ, tính phong phú của cuộc sống, và chính tình yêu; và há người ta không thấy các bản năng và các phong tục truyền thống đôi khi phải nhường bước trước sự tiến bộ của sức mạnh hòa tan này, tức suy tư đó sao?
Do đó, từ tính tất định của thể di động và các lý do nảy sinh một sức mạnh làm nó luôn bị lúng túng. Nhờ có nó, không một gợi ý tự nhiên nào giữ được sự quyến rũ ma thuật từng biến nó thành tối cao; trước nó, không có ảnh hưởng quyết định nào, không có giá trị tuyệt đối nào; có thể nói, không điều gì đáng phải thực hiện nữa: có sự ngưng đọng, có sự dửng dưng. Há đó không phải là cái chết của hành động, và há nó không chỉ được quan niệm để trục bỏ đó sao? (Hành động, trang 110-115).
Còn tiếp
Máu Đỏ Thánh Giá
Mới đây, một phái đoàn y tế của Impact Life ghé vào trường Đại Học xin hiến tặng máu cho bệnh nhân trong vùng. Ban giảng huấn và sinh viên, nhiều người ghi tên hiến tặng. Tác giả cũng tham gia ngày hiến tặng máu đỏ. Khi nhân viên y tế hỏi lý do tại sao muốn tặng máu, tác giả chỉ nói đơn giản, “Xin được tặng ban cho những ai đang cần.”
Chuyện hiến tặng máu nhắc nhở tới lần mất máu ở đất thánh. Lần đó, tác giả bị bệnh bao tử. Bởi bao tử bị loét, máu chảy xuống ruột. Bị hơn một ngày rồi, nhưng tác giả chỉ có cảm giác chóng mặt. Sáng hôm đó, mặt mày tự nhiên xây xẩm, thở không được nữa. Tác giả đứng không vững trên mặt đất nữa. Mang vào bệnh viện trên đồi Cây Dầu, bác sĩ nhanh chóng chuyền mấy bịch máu đỏ. Nhờ những hạt máu đỏ, tác giả dần dần hồi phục, mặt thôi tái xanh, hơi thở dần dần trở lại nhịp thở bình thường.
Hồi đó trên con đường thiên lý, trong đất sỏi sa mạc, mệt mỏi với hành trình bốn mươi năm hoang địa, với manna, với nước, và với chim cút, dân hành hương Do Thái than van oán trách Thiên Chúa tại sao lại mang họ ra khỏi vùng đất nô lệ về miền đất hứa. Trong khi người dân du mục đang than thở, nhớ thương củ hành củ tỏi của đất Ai Cập, rắn độc bỗng dưng xuất hiện ngập tràn sa mạc. Thế là máu đỏ của dân Do Thái trong sa mạc không còn đỏ nữa, nhưng chuyển đổi sang mầu đen bởi nọc rắn độc. Trong cơn nguy khốn, dân riêng du mục quay trở về lại với Thiên Chúa. Bởi lòng thống hối của họ, Thiên Chúa sai ngôn sứ Môisen làm một con rắn bằng đồng dựng cao trên cột trụ. Những ai đang bị nọc độc của rắn tung hoành trong người, nếu nhìn lên con rắn đồng, nọc độc máu đen trong huyết mạch sẽ biến mất, nhường chỗ cho dòng máu đỏ nguyên thủy luân lưu (Dân Số 21:4-9).
Về sau, trong khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu đã so sánh hình ảnh của con rắn đồng treo trên cột trụ trong sa mạc năm xưa với hình ảnh của thân xác Ngài bị đóng đinh trên cây gỗ hình chữ thập (Gioan 3:14). Theo như thánh sử Gioan, khi bị đóng đinh trên cây thánh giá, Đức Giêsu không nhắm mắt lại chết đi như một tội nhân, nhưng Ngài đã trở thành nguồn suối nước hằng sống tẩy rửa tất cả những nọc độc tội lỗi của nhân loại (Gioan 4:13-14, 8:28, 19:34). Đặc biệt, bởi máu đỏ của Đức Giêsu đã chảy ra hết, nhuộm hồng đất đen, máu đen rắn độc trên quả địa cầu đã được chuyền dòng máu mới. Bởi thế, khi Đức Giêsu bị treo trên cây thập giá, giây phút của ơn cứu độ đã khởi đầu.
SUY NIỆM
Đức Khổng Tử tin rằng, “Nhân chi sơ tính bổn thiện”, con người nguyên thủy mang trong người tính thiện. Tương tự như người Trung Hoa, người Do Thái cũng tin rằng, bởi được sinh ra trong hình dạng của Giavê Thiên Chúa (Sáng Thế Ký 1:26, 27), con người nguyên thủy là con người tốt, con người của tính thiện. Nhưng, rất tiếc, bởi Adong và Evà cãi lại lời của Giavê Thiên Chúa, nọc độc tội lỗi đã có dịp nứt vỏ, nẩy mầm, lan tràn trong tâm hồn của con người. Thật vậy, từ khi ông bà nguyên tổ nghe lời của con rắn trên cành cây, nọc độc của rắn độc và của tội lỗi đã có cơ hội phun vào thịt da, ngấm sâu vào trong mạch máu của nhân loại.
Bởi thế, máu đen của ác tính có dịp len lỏi vào dòng máu đỏ của thiện tính. Nhưng, bởi Đức Giêsu bị treo trên cây gỗ hình chữ thập (Gioan 8:28), đã chảy hết máu đỏ của Ngài ra trên cây thánh giá (Gioan 19:34), nọc độc của rắn độc và của tội lỗi trong chúng ta đã bị chế ngự. Hơn thế nữa, bởi dòng máu đỏ của Đức Giêsu đã nhỏ ra tới giọt cuối cùng (Gioan 19:34), máu đen rắn độc năm xưa đã được thay thế bằng dòng máu đỏ thánh giá của Con Thiên Chúa trên núi Sọ. Khi Đức Giêsu nhắm mắt lại chết đi trên đỉnh núi, thánh giá và thân xác của Ngài đã trở thành một biểu tượng của một Thiên Chúa giầu lòng vị tha. Ai tin, nhìn lên cây thánh giá, biểu tượng của ơn cứu rỗi, dòng máu đen rắn độc sẽ được biến đổi, hóa thành dòng máu đỏ thánh giá.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa, trong Mùa Chay thánh, xin cho con biết quay đầu hướng về Núi Sọ, nhìn lên thánh giá máu đỏ của Chúa, để máu đen rắn độc của tội lỗi không còn luân lưu trong thân thể của con.
□ Nguyễn Trung Tây
1. Tổng thống Ukraine, Volodymyr Zelenskiy, đã đến thăm thị trấn Bucha
Hôm thứ Hai, Tổng thống Ukraine, Volodymyr Zelenskiy đã đến thăm thị trấn Bucha, cách thủ đô Kiev 35 km về phía tây bắc, sau khi những hình ảnh cho thấy các thi thể dân thường rải rác trên đường phố đã khiến quốc tế lên án.
Mặc áo giáp và được bao quanh bởi các nhân viên quân sự, tổng thống Zelenskiy phát biểu trên kênh truyền hình quốc gia, nơi ông nói rằng “rất khó” để Ukraine đàm phán với Nga sau những hành động tàn bạo của lực lượng Nga ở Bucha.
Ông cảnh báo rằng “Liên bang Nga đang kéo dài quá trình họp”, và tình hình càng trở nên tồi tệ.
Ông nói thêm:
Chúng ta biết hàng ngàn người bị giết và bị tra tấn, bị chặt tay chân, phụ nữ bị hãm hiếp và trẻ em bị sát hại.
Nga chuẩn bị mở cuộc tấn công ở miền đông Ukraine để chiếm thành phố Kharkiv
Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết Nga đang chuẩn bị tiến hành một cuộc tấn công ở miền đông Ukraine để chiếm thành phố Kharkiv và bao vây chiến tuyến phía đông của Ukraine.
Tại cuộc họp báo chiều thứ Hai, người phát ngôn Bộ Quốc phòng Ukraine Oleksandr Motuzyanyk cũng cho biết, Nga hiện đang tấn công các thành phố Rubizhne và Popasna ở khu vực phía đông Luhansk, đồng thời chuẩn bị tấn công thành phố Severodonetsk và quyết tâm đánh chiếm cho bằng được Mariupol.
2. Chủ tịch Nghị viện Châu Âu Roberta Metsola
Chủ tịch Nghị viện Âu Châu Roberta Metsola đã kinh hoàng trước những hành động tàn bạo do quân xâm lược Nga gây ra tại các địa phương hiện đã được giải phóng của Ukraine.
“Kinh hoàng trước sự tàn bạo của quân đội Nga ở Bucha và các khu vực vừa được giải phóng khác. Đây là thực tế lạnh lùng về tội ác chiến tranh của Putin. Thế giới phải nhận thức được những gì đang xảy ra. Các biện pháp trừng phạt mạnh hơn phải được áp dụng. Những kẻ phạm tội và chỉ huy của chúng phải bị đưa ra công lý.”
Như đã báo cáo, Irpin, Bucha, Hostomel và toàn bộ khu vực Kiev đã được giải phóng khỏi quân xâm lược Nga. Các vụ giết dân thường do binh lính Nga thực hiện đã được ghi nhận tại các thị trấn và làng mạc đã được giải phóng.
Bộ trưởng Ngoại giao Ukraine Dmytro Kuleba kêu gọi các nước G7 áp đặt các biện pháp trừng phạt mới đối với Nga ngay lập tức
Thủ tướng Canada Justin Trudeau cũng đã lên án vụ giết hại dân thường “nghiêm trọng và kinh hoàng” ở thị trấn Bucha của Ukraine, nói rằng Nga phải chịu trách nhiệm.
“Chúng tôi lên án mạnh mẽ vụ sát hại dân thường ở Ukraine, và chế độ Nga phải chịu trách nhiệm. Những kẻ chịu trách nhiệm cho những cuộc tấn công kinh hoàng và nghiêm trọng này phải bị đưa ra trước công lý.”
3. Biden gọi Putin là 'tội phạm chiến tranh' và nói sẽ kêu gọi mở phiên tòa xét xử
Hôm thứ Hai, Tổng thống Mỹ, Joe Biden, đã gọi Tổng thống Nga, Vladimir Putin, là tội phạm chiến tranh và nói rằng ông sẽ kêu gọi mở một phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh.
“Bạn đã thấy những gì đã xảy ra ở Bucha,” Biden nói. Ông nói thêm rằng Putin “là một tên tội phạm chiến tranh”.
Biden cũng cho biết ông sẽ tìm kiếm thêm các biện pháp trừng phạt sau khi được báo cáo về những hành động tàn bạo ở Ukraine.
“Chúng tôi phải tiếp tục cung cấp cho Ukraine những vũ khí mà họ cần để tiếp tục cuộc chiến. Và chúng tôi phải thu thập tất cả các chi tiết để đây có thể là một phiên tòa thực tế - phải có một phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh,” tổng thống Biden nói.
Biden đã chỉ trích Putin là “tàn bạo”.
“Những gì đang xảy ra ở Bucha thật đáng kinh tởm và mọi người đều thấy điều đó,” Biden nói thêm.
4. Hoa Kỳ sẽ yêu cầu Nga loại khỏi Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc
Theo Reuters, Mỹ sẽ yêu cầu Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hợp Quốc loại Nga ra khỏi Hội Đồng này. Linda Thomas-Greenfield, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc, đã kêu gọi cơ quan quốc tế đình chỉ Nga, lý tưởng nhất là ngay trong tuần này.
Diễn tiến này xảy ra sau những bàng hoàng của thế giới vì tội ác của quân Nga tại Bucha, một thị trấn trong vùng Kiev, vừa được quân đội Ukraine giải phóng. Xác người nằm la liệt trên đường phố, tay bị trói giật ra sau và họ bị bắn đằng sau ót. Ít nhất 410 thi thể đã được tìm thấy. Nhiều người bị xô xuống hố chôn tập thể. Nhiều phụ nữ chết trần truồng chứng tỏ họ đã bị hiếp dâm trước khi bị giết chết.
Thomas-Greenfield nói: “Sự tham gia của Nga vào Hội đồng Nhân quyền là một trò hề. Và điều đó là sai trái, đó là lý do tại sao chúng tôi tin rằng đã đến lúc Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc bỏ phiếu để loại bỏ họ ra”.
“Thông điệp của tôi gửi tới 140 quốc gia đã can đảm sát cánh cùng nhau là: những hình ảnh về Bucha và sự tàn phá trên khắp Ukraine đòi hỏi chúng ta phải kết hợp lời nói với hành động”.
5. Nga phạm tội ác chiến tranh ở Ukraine
Jake Sullivan, cố vấn an ninh quốc gia Mỹ, nói với các phóng viên: “Chúng tôi đã kết luận rằng Nga phạm tội ác chiến tranh ở Ukraine và thông tin từ Bucha cho thấy thêm bằng chứng về các tội ác chiến tranh”.
“Và như tổng thống đã nói, chúng tôi sẽ làm việc với thế giới để bảo đảm Nga có trách nhiệm giải trình cho những tội ác này. Chúng tôi cũng đang làm việc tích cực với các đồng minh Âu Châu của chúng tôi về các biện pháp trừng phạt hơn nữa sẽ được đưa ra để tăng áp lực và tăng chi phí đối với Putin và đối với Nga”.
Sullivan vạch ra 4 nguồn chính để xây dựng hồ sơ tội phạm chiến tranh: thông tin do Mỹ và đồng minh thu thập bao gồm cả tin tức tình báo; những gì người Ukraine làm trên thực địa để phát triển vụ án và lập hồ sơ pháp y; các tổ chức quốc tế bao gồm Liên Hiệp Quốc; công việc của các phương tiện truyền thông độc lập toàn cầu là sản xuất hình ảnh, phỏng vấn và tài liệu.
Khi được hỏi tại sao Biden từ chối sử dụng thuật ngữ diệt chủng, Sullivan nói: “Chúng tôi đã nhìn thấy sự tàn bạo, chúng tôi đã thấy tội ác chiến tranh. Chúng tôi chưa có đủ bằng chứng cho thấy một mức độ tận diệt sự sống có hệ thống là điều cấu thành tội ác diệt chủng.”
6. Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier hôm nay thừa nhận rằng hợp tác kinh tế với Nga là một sai lầm
Biến cố Bucha tiếp tục gây ra các phản ứng tàn phá đối với uy tín của Nga trên trường qtờng quốc tế. Tại Đức, Tổng thống Frank-Walter Steinmeier hôm nay thừa nhận rằng hợp tác kinh tế với Nga là một sai lầm
Nói cụ thể về đường ống Nord Stream 2 đã bị giải thể khi Nga xâm lược Ukraine, tổng thống Steinmeier nói:
Tôi không tin rằng Vladimir Putin sẽ chấp nhận sự sụp đổ hoàn toàn về kinh tế, chính trị và đạo đức của đất nước vì sự điên rồ của chủ nghĩa đế quốc.
Chính phủ Đức tuyên bố 40 nhà ngoại giao Nga là “những người không được mong muốn”, ngoại trưởng Annalena Baerbock cho biết như trên mở màn cho hành động trục xuất 40 viên chức này.
Ngoại trưởng Baerbock của Đức cho biết động thái này là một phản ứng đối với “sự tàn bạo không thể tưởng tượng nổi” mà Điện Cẩm Linh đã gây ra ở Ukraine.
Baerbock nói: “Những hình ảnh từ Bucha nói lên sự tàn bạo không thể tưởng tượng nổi của giới lãnh đạo Nga và những người tuân theo tuyên truyền của nó với ý chí tiêu diệt vô biên”.
Mạc Tư Khoa cho biết quyết định trục xuất một số nhà ngoại giao Nga của Đức là “không thân thiện” và sẽ làm xấu đi mối quan hệ.
Đại sứ quán Nga tại Berlin cho biết: “Việc giảm số lượng nhân viên ngoại giao tại các cơ quan đại diện của Nga tại Đức một cách vô căn cứ sẽ thu hẹp không gian duy trì đối thoại giữa các nước chúng ta, dẫn đến quan hệ Nga-Đức ngày càng xấu đi”.
Thông báo này được đưa ra vào hôm thứ Hai sau các động thái tương tự của các đối tác Âu Châu trong những ngày gần đây như một phản ứng đối với cuộc chiến của Nga ở Ukraine.
Ngay sau tuyên bố của Đức, Pháp cho biết họ sẽ trục xuất 35 nhà ngoại giao Nga trong khuôn khổ một hành động chung của Âu Châu.
Trước đó, vào thứ Hai, Lithuania đã đuổi đại sứ Nga về nước.
Bộ trưởng Ngoại giao Lithuania, Gabrielius Landsbergis, cho biết quyết định này được đưa ra vì Lithuania “kinh hoàng trước những cảnh tượng tàn bạo khủng khiếp ở Bucha và các thị trấn khác ở Ukraine”
7. Cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc yêu cầu khai quật tất cả các thi thể liên quan đến vụ Bucha
Cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc, Michelle Bachelet, cho biết tất cả các thi thể cần được khai quật và xác định danh tính tại thị trấn Bucha của Ukraine để bảo đảm có thể điều tra các tội ác chiến tranh có thể đã xảy ra
Trong một tuyên bố, Bachelet cho biết cô “kinh hoàng” trước những hình ảnh thường dân nằm chết trên đường phố ở thị trấn Bucha của Ukraine:
Các báo cáo xuất hiện từ khu vực này và các khu vực khác đặt ra những câu hỏi nghiêm trọng và đáng lo ngại về các tội ác chiến tranh có thể đã xảy ra, vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế và vi phạm nghiêm trọng luật nhân quyền quốc tế.
Văn phòng quyền của Liên Hợp Quốc hôm qua cho biết các nhân viên của họ trên mặt đất vẫn chưa thể xác minh các con số hoặc thông tin chi tiết mà các quan chức Ukraine báo cáo.
Bachelet nói:
Điều cần thiết là tất cả các thi thể phải được khai quật và xác định danh tính để có thể thông báo cho gia đình nạn nhân và xác định nguyên nhân chính xác của cái chết.
Cô cho biết cần thực hiện mọi biện pháp để bảo toàn bằng chứng.
Điều quan trọng là tất cả các nỗ lực được thực hiện để bảo đảm có các cuộc điều tra độc lập và hiệu quả về những gì đã xảy ra ở Bucha để bảo đảm sự thật, công lý và trách nhiệm giải trình, cũng như các khoản bồi thường và khắc phục hậu quả cho các nạn nhân và gia đình của họ.
1. Nhà tạm của nhà thờ ở Chí Lợi bị xúc phạm
Cha Pedro Pedraza, Giám đốc Đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức ở Santiago, Chí Lợi, đã báo cáo rằng hai bình đựng Mình Thánh đã bị đánh cắp khỏi nhà tạm của đền thánh vào ngày 28 tháng Ba.
Các nữ tu thuộc dòng Nữ Tử Thánh Ann, sống trong khu vực, đã được “cảnh báo bởi một cuộc gọi từ một phụ huynh từ Trường Thánh Ann”. Họ nói với các nữ tu rằng có “những bánh thánh nằm trên đường phố.”
Khoảng 4:30 chiều, bề trên nhà dòng nhặt được “một số bánh thánh và sau đó những bánh thánh khác cũng được tìm thấy, dọc theo con phố.”
Một chiếc bình đựng Mình Thánh Chúa được mạ bạc, và chiếc còn lại được mạ vàng.
Trong tuyên bố của mình, Cha Giám đốc Đền thánh đã than thở về “tin buồn và đau đớn” và yêu cầu các tín hữu tham gia cầu nguyện để phạt tạ.
“Lạy Chúa, xin tha thứ tội lỗi vì Chúa đã bị vứt bỏ như rác và những gì chúng con dám làm với Chúa!” tuyên bố kết luận.
Cộng đoàn đã tổ chức một hành động phạt tạ vào ngày 30 tháng Ba, bắt đầu bằng kinh Mân Côi, sau đó là Thánh lễ.
Source:Catholic News Agency
2. Vẫn còn thời gian để nhận được ơn toàn xá trong Mùa Chay
Mùa Chay sắp kết thúc, tuy nhiên, vẫn còn nhiều thời gian để nhận được Ơn Toàn Xá trong Mùa Chay bằng 4 cách khác nhau.
Trước hết, Ơn Toàn Xá là gì?
Ơn Toàn Xá là ân sủng do Giáo hội ban cho chúng ta nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Mẹ Maria và tất cả các thánh để xóa bỏ hình phạt tạm thời do tội lỗi gây ra. Ơn Toàn Xá làm sạch tâm hồn như thể một người vừa được rửa tội.
Làm thế nào để chúng ta nhận được Ơn Toàn Xá trong Mùa Chay?
Các điều kiện luật định để được ơn toàn xá là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha và từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi. Tuy nhiên, việc xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha có thể làm sau khi có thể. Như thế, bước đầu tiên, và quan trọng nhất, là quý vị và anh chị em phải dốc lòng từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi. Ngay khi có thể, xin đi xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha. Bên cạnh đó, chúng ta còn cần phải làm một trong bốn việc sau để nhận được Ơn Toàn Xá Mùa Chay.
Cách đầu tiên là dành ít nhất 30 phút để chầu Thánh Thể. Việc cầu nguyện trước Thánh Thể là điều quan trọng quanh năm. Như thế, tại sao không tham gia vào thực hành tốt đẹp này trong Mùa Chay và nhận thêm một số ân sủng?
Cách thứ hai là tham gia vào các Chặng Đàng Thánh Giá, suy niệm về cuộc Khổ nạn và Cái chết của Chúa. Các nhà thờ Công Giáo đều có chương trình đi đàng Thánh giá, dù đơn giản hay công phu. Chúng ta có thể tham gia cùng với cộng đoàn hay tự mình đi đàng tháng giá.
Tuy nhiên, có một số điều cần lưu ý. Sách hướng dẫn về ân xá của Tòa thánh, Ấn bản thứ tư, nói rằng phải có 14 chặng “đại diện cho 14 chặng của Giêrusalem.”
Sách hướng dẫn này cũng nhắc nhở chúng ta rằng “cần phải đi từ chặng này sang chặng tiếp theo”. Mặc dù, nếu có quá nhiều người và việc di chuyển sẽ gây ra sự bất tiện, thì ít nhất một người dẫn đàng Thánh giá phải di chuyển từ chặng này sang chặng khác. Nói cách khác, nếu anh chị em tham dự các chặng Đàng Thánh Giá với nhiều người tham gia và mọi người vẫn ở trong băng ghế trong khi linh mục di chuyển đến từng chặng, điều đó vẫn có giá trị.
Ơn Toàn Xá này thậm chí có thể được hưởng mỗi ngày một lần đối với những người có thể đến nhà thờ hàng ngày và muốn tự mình thực hiện các Chặng Đàng Thánh Giá.
Cách tiếp theo là đọc kinh Mân Côi “trong nhà thờ hoặc nhà nguyện, hoặc thậm chí trong gia đình, trong một cộng đồng tôn giáo, hoặc một hiệp hội của các tín hữu.”
Cách cuối cùng là đọc hoặc nghe Sách Thánh. Chỉ cần bảo đảm rằng anh chị em dành ít nhất nửa giờ cho Lời Chúa và sẽ được hưởng Ơn Toàn Xá.
Source:Catholic News Agency
3. Đền thánh Ta' Pinu
Trong cuộc tông du đến Malta, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chào đón những người hành hương, khuyến khích họ khám phá lại những điều cốt yếu của đức tin và phát triển nghệ thuật chào đón.
“Nơi tưởng như đã mất và ngày nay tái tạo niềm tin và hy vọng của dân Chúa.” - Với những lời này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã giới thiệu đền thánh Ta 'Pinu nơi ngài đọc bài diễn từ thứ hai trong ngày đầu tiên của ngài ở Malta, ngày 2 tháng 4 năm 2022. Đức Giáo Hoàng hướng việc suy niệm của ngài theo hướng lòng an ủi, cho thấy tính đáng tin cậy của đức tin Kitô hữu hệ ở việc họ cụ thể chú ý đến những người bé nhỏ nhất.
Đức Giáo Hoàng đã tới đền thờ Ta ’Pinu trễ gần 1 tiếng đồng hồ; đền thờ này được xây dựng trên khuôn viên của một nhà thờ nhỏ, nơi một phụ nữ nông dân đã nghe thấy tiếng nói của Đức Trinh nữ Maria vào năm 1883. Được chào đón bởi 3,000 người, hầu hết là những người trẻ tuổi, Đức Giáo Hoàng đã lắng nghe ba chứng từ, trong số đó có chứng từ của một cặp vợ chồng mà người vợ được chẩn đoán mắc bệnh đa xơ cứng lúc mới 23 tuổi.
Nhân đây, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị và anh chị em một vài nét về Đền thánh Ta' Pinu.
Đền thánh Ta' Pinu là nơi hành hương nổi tiếng nhất của Malta. Nhà thờ được xây theo kiến trúc gô-tích với Thánh giá kiểu Latinh. Bên trong nhà thờ có lưu giữ rất nhiều lời khấn nguyện, bằng chứng lòng đạo đức bình dân của người dân Malta.
Vào những năm 1500, tại nơi này đã có một nhà nguyện nhỏ. Năm 1575, khi nhà nguyện bị bỏ hoang và hư hoại, đặc sứ của Đức Gregorio XIII đã ra lệnh phá bỏ nhà nguyện. Nhưng khi công việc mới bắt đầu thì một công nhân bị gãy tay. Sự việc được hiểu như là một dấu chỉ và do đó công việc phá dỡ nhà nguyện được dừng lại. Nhà nguyện ban đầu thuộc tài sản của dòng họ Gentili, sau đó được một người tên Pino Gauci mua lại; từ đó có tên Ta' Pinu. Pino Gauci đã nới rộng và tu sửa nhà nguyện, đặt trong nhà thờ một bức ảnh Đức Mẹ Hồn xác lên trời do hoạ sĩ người Ý Amedeo Perugino vẽ. Bức ảnh vẫn được lưu giữ cho đến ngày nay.
Sau khi bị đóng cửa trong vài thế kỷ, nhà thờ được mở lại khi một sự kiện lạ thường xảy ra. Theo lưu truyền, ngày 22/6/1883, khi đi ngang qua nhà thờ, bà Carmela Grima, một phụ nữ nhà quê, đã nghe một giọng nói yêu cầu bà đọc “ba kinh Kính Mừng, mỗi kinh cho một ngày khi thân xác Ta ở trong mồ.” Bà đã kể lại với người bạn và người này cho biết chính ông cũng nghe lời yêu cầu giống như thế khi ở gần nhà nguyện. Trong thời gian này hai người này cũng được chữa lành bệnh cách lạ lùng. Trong thời gian ngắn, tin tức của hai thị nhân này đã lan truyền khắp hòn đảo và nhà nguyện Ta' Pinu trở thành nơi hành hương. Năm 1887, khi đảo Gozo tránh được trận dịch tả cách kỳ diệu, Đức Giám Mục đã cho phép cử hành phụng vụ kính Đức Mẹ tại đây.
Để kỷ niệm 100 năm lần hiện ra đầu tiên, Đại hội Đức Mẹ Quốc tế lần thứ IX đã được tổ chức tại Malta vào tháng 9/1983. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cử hành Thánh lễ tại thềm đền thờ vào ngày 26/5/1990.
Bên cạnh rất nhiều tai ương mà đại dịch Covid đang gây ra cho nhân loại, từ quan điểm của đức tin đã có ít nhất một tác động tích cực. Đại dịch làm cho chúng ta ý thức được nhu cầu của chúng ta đối với Bí tích Thánh Thể và sự trống rỗng mà sự thiếu vắng Bí tích Thánh Thể tạo ra; đại dịch đã giúp chúng ta không coi Bí Tích Thánh Thể là điều hiển nhiên.
Một số Giáo Hội địa phương và quốc gia đã quyết định dành năm hiện tại cho một bài giáo lý đặc biệt về Bí tích Thánh Thể, vì mong muốn có một sự phục hưng về Bí tích Thánh Thể trong Giáo Hội Công Giáo. Theo Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, đó là một quyết định đúng lúc và là một tấm gương để noi theo, khi đề cập đến một số khía cạnh có lẽ ít được xem xét về Bí Tích Thánh Thể. Do đó, ngài dành những suy tư của Mùa Chay 2022 để trình bày về mầu nhiệm Thánh Thể để nhấn mạnh rằng Bí tích Thánh Thể bảo đảm với chúng ta rằng Chúa Giêsu ở với chúng ta, không chỉ về mặt ý định mà thôi, nhưng là “thực sự” trong cái thế giới dường như có thể tuột khỏi tay chúng ta bất cứ lúc nào.
Trong ba bài tĩnh tâm trước, Đức Hồng Y đã trình bày phần thứ nhất Phụng vụ Lời Chúa, phần thứ Hai là Phụng Vụ Thánh Thể, và phần thứ Ba là Hiệp Thông Thánh Thể.
Lúc 9g sáng ngày thứ Sáu 31 tháng Ba, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, đã có bài thuyết giảng thứ tư cho Mùa Chay năm 2022 tại Đại Thính Đường Phaolô Đệ Lục ở Vatican. Chủ đề của bài giảng này là “Sự Hiện Diện Thực Sự Của Chúa Kitô Trong Bí Tích Thánh Thể”
Mở đầu bài suy niệm, Đức Hồng Y nói:
Làm thế nào chúng ta có thể đối diện với một mầu nhiệm sâu sắc và khó hiểu như vậy? Những ký ức về vô số lý thuyết và những cuộc thảo luận về mầu nhiệm này, sự bất đồng giữa Công Giáo và Tin lành, giữa Giáo hội Latinh và Chính thống giáo, đã có thời chứa đầy các cuốn sách thần học của chúng ta, đã tấn công chúng ta. Tất cả những điều đó khiến chúng ta dường như không thể thêm bất cứ điều gì vào mầu nhiệm này nhằm gây dựng niềm tin và sưởi ấm trái tim chúng ta, mà không tránh khỏi việc sa vào các cuộc luận chiến giữa các hệ phái.
Tuy nhiên, đây là điều kỳ diệu đang được Chúa Thánh Thần tác động ngày nay trong tất cả các tín hữu Kitô. Ngài thúc giục chúng ta thừa nhận mức độ mà những tranh cãi liên quan đến Bí tích Thánh Thể của chúng ta dựa trên giả định của con người rằng mầu nhiệm này có thể được gói gọn trong một lý thuyết, hoặc thậm chí trong một lời nói, và mức độ háo thắng kẻ thù của chúng ta. Ngài đang thúc giục chúng ta ăn năn vì đã giản lược cam kết tối cao về tình yêu thương và sự hiệp nhất mà Chúa để lại cho chúng ta thành chủ đề thảo luận yêu thích của mình.
Con đường dẫn đến đại kết Thánh Thể là con đường dẫn đến sự thừa nhận lẫn nhau, con đường Kitô của đức ái, của chia sẻ. Chúng ta không được yêu cầu bỏ qua những khác biệt thực sự tồn tại và cũng chẳng bị buộc phải đoạn tuyệt đức tin với bất kỳ quan điểm nào của giáo lý Công Giáo đích thực. Vấn đề là tập hợp các khía cạnh tích cực và các giá trị đích thực trong mọi truyền thống ngõ hầu tạo thành một “khối lượng” chân lý chung sẽ dần dần dẫn chúng ta đến sự hiệp nhất.
Thật không thể tin được bằng cách nào mà một số quan điểm của Công Giáo, Chính thống và Tin lành về sự hiện diện đích thực [của Chúa Giêsu trong Thánh Thể] lại khác biệt và phá hoại đến vậy bất cứ khi nào chúng được nhìn thấy như những quan điểm đối kháng hoặc như những lựa chọn thay thế, và làm thế nào chúng lại xem ra hội tụ một cách tuyệt vời khi được kết hợp cẩn thận lại với nhau. Do đó, chúng ta phải bắt đầu thực hiện một sự tổng hợp. Như vậy, chúng ta phải sàng lọc những truyền thống lớn của Kitô Giáo để loại bỏ những gì không tốt và như Thánh Phaolô khuyến khích chúng ta, hãy “điều gì tốt thì giữ” (xem 1 Thess 5:21).
Truyền thống Công Giáo: một sự hiện diện thực sự nhưng ẩn giấu
Theo tinh thần này, bây giờ chúng ta hãy xem xét kỹ ba truyền thống Thánh Thể chính - Công Giáo, Chính thống và Tin lành - được gây dựng bởi những kho tàng mà chúng chứa đựng và hợp nhất chúng trong kho tàng chung của Giáo hội. Kết quả là chúng ta sẽ thấy rằng sự hiểu biết của chúng ta về mầu nhiệm của sự hiện diện thực sự phong phú hơn và sống động hơn.
Trong thần học và phụng vụ Công Giáo, sự thánh hiến là trọng tâm không thể chối cãi của Bí tích Thánh Thể, từ đó chúng ta có sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô. Khi truyền phép, chính Chúa Giêsu hành động và nói. Thánh Ambrôsiô đã viết:
Bánh chỉ là bánh trước khi các lời bí tích được phát âm... Những lời nào làm cho việc truyền phép có hiệu quả và đó là lời của ai? Thưa: Những lời ấy thuộc về Chúa Giêsu! Tất cả những gì được nói trước thời điểm đó được nói bởi vị linh mục, người ca ngợi Thiên Chúa, cầu nguyện cho dân chúng, cho nhà vua và những người khác, nhưng khi đến thời điểm truyền phép Thánh Thể, thì vị linh mục không còn dùng lời của mình nữa, mà dùng lời của chính Đức Kitô. Do đó, chính những lời của Chúa Kitô đã làm cấu thành (conficit) bí tích này... Hãy xem những lời truyền phép của Chúa Giêsu Kitô có hiệu quả (operatorius) biết bao. Trước khi truyền phép Mình Chúa Kitô chưa hiện diện, nhưng từ sau khi truyền phép, đó chính là Mình Chúa Kitô. Vì Người đã phán, và bí tích xảy ra (Tv 33:9)”
Từ quan điểm Công Giáo phương Tây, chúng ta có thể nói về một thuyết hiện thực Kitô học. “Kitô học” bởi vì sự chú ý tập trung vào Chúa Kitô được nhìn thấy cả trong tình trạng lịch sử và nhập thể của Người và với tư cách là Đấng Phục sinh. Chúa Kitô vừa là đối tượng vừa là chủ thể của Bí tích Thánh Thể, nghĩa là Người được hoàn thành trong Bí tích Thánh Thể và Người hoàn thành Bí tích Thánh Thể. “Hiện thực” bởi vì Chúa Giêsu không được nhìn thấy hiện diện trên bàn thờ đơn thuần như một dấu chỉ hoặc biểu tượng mà là sự thật và trong thực tế của Ngài. Chủ nghĩa hiện thực Kitô học này rất rõ ràng, chẳng hạn, trong bài thánh ca “Ave Verum,” được sáng tác để tôn vinh Mình Thánh. Bài thánh ca ấy thế này:
Kính Lạy Chúa! cơ thể thật, nảy ra từ cung lòng Mẹ Đồng trinh Maria!
Cùng cơ thể trên thập tự giá đã được treo,
Để tránh cho con người họa diệt vong cay đắng.
Cạnh sườn Chúa bị đâm thủng và chảy ra
Cả nước cùng với máu....
Sau đó, Công Đồng Trent đã đưa ra lời giải thích chính xác hơn về cách tiếp cận này đối với sự hiện diện thực sự. Ba trạng từ đã được sử dụng: vere – một cách thực sự, realiter – một cách thực tế, substantialiter – một cách cơ bản. Chúa Giêsu hiện diện thực sự chứ không chỉ đơn giản qua hình ảnh hay hình thức, Người thực sự hiện diện, và không chỉ chủ quan qua đức tin của các tín hữu; Ngài hiện diện một cách căn bản, nghĩa là trong thực tại sâu xa của Ngài, không thể nhìn thấy bằng các giác quan, chứ không phải trong những hình tượng chỉ còn là bánh và rượu.
Đúng là có nguy cơ rơi vào chủ nghĩa hiện thực “thô thiển” hoặc phóng đại. Phương pháp khắc phục nguy cơ này phải được tìm thấy trong chính truyền thống. Thánh Augustinô đã nói rõ, một lần và mãi mãi, rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể là “trong bí tích”. Nói cách khác, đó là một sự hiện diện mang tính bí tích chứ không phải vật chất, thông qua các dấu chỉ, và chính xác là, qua bánh và rượu. Tuy nhiên, trong trường hợp này, dấu chỉ không loại trừ thực tại nhưng làm cho nó hiện diện với chúng ta, theo cách duy nhất mà Đức Kitô Phục sinh, đang sống “trong Thánh Thần,” có thể hiện diện với chúng ta chừng nào chúng ta còn ở trên đất này.
Một bậc thầy vĩ đại khác của linh đạo Thánh Thể Tây phương, Thánh Thomas Aquinas, cũng nói như vậy khi ngài bàn về sự hiện diện của Chúa Kitô “về bản thể” dưới hình bánh và rượu. Thật vậy, nói rằng Chúa Giêsu hiện diện về cơ bản trong Bí tích Thánh Thể, là nói rằng Người hiện diện trong thực tại đích thực của Người, là điều nuôi dưỡng chúng ta chỉ qua đức tin. Trong bài thánh ca Adoro te devote, được cho cũng thuộc về Thánh Thomas, chúng ta hát:
Thị giác, xúc giác và vị giác của bạn, cái nào cũng đánh lừa bạn;
Chỉ có đôi tai là an toàn nhất để tin tưởng.
Do đó, Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể một cách hoàn toàn độc đáo. Không một từ nào có thể mô tả sự hiện diện này một cách thích hợp, ngay cả tính từ “thực”. Chữ real có nguồn gốc từ chữ res (đồ vật) và có nghĩa như là một đồ vật hay một vật thể. Nhưng Chúa Giêsu không hiện diện trong Bí tích Thánh Thể như một “vật” hay một vật thể, mà là một con người. Nếu chúng ta thực sự muốn đặt tên cho sự hiện diện này, thì tốt hơn là chỉ nên nói sự hiện diện “Thánh Thể”, bởi vì nó chỉ xảy ra trong Bí tích Thánh Thể.
Truyền thống Chính thống giáo: hành động của Chúa Thánh Thần.
Thần học phương Tây rất phong phú nhưng không đầy đủ, và cũng không thể đầy đủ. Trước đây, ít nhất là tầm quan trọng dành cho Chúa Thánh Thần và cần thiết để hiểu về Bí tích Thánh Thể đã bị lơ là. Và vì vậy chúng ta quay sang phương Đông để xem truyền thống Chính thống giáo có gì để cung cấp cho chúng ta. Thái độ của chúng ta ngày nay đã khác; chúng ta không còn lo lắng về sự khác biệt mà biết ơn những gì được cung cấp để giúp hoàn thiện quan điểm của chúng tôi.
Trên thực tế, truyền thống Chính thống giáo luôn coi trọng tác động của Chúa Thánh Thần trong việc cử hành Thánh Thể. Kể từ Công đồng Vatican II, sự chia sẻ này đã cho thấy kết quả. Cho đến nay, Sách Lễ Rôma chỉ đề cập đến Chúa Thánh Thần một cách thoáng qua trong tụng thức cuối cùng: “Nhờ Người, với Người, trong Người… trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần....” Giờ đây, trái lại, tất cả các sách lễ mới đều có một lời khẩn cầu kép đối với Chúa Thánh Thần: một là trên các lễ vật trước khi truyền phép và hai là về Giáo hội sau khi truyền phép.
Các phụng vụ Đông phương luôn quy sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trên bàn thờ là do tác động cụ thể của Chúa Thánh Thần. Trong “Kinh Nguyện Thánh Thể của Thánh Giacôbê,” được sử dụng trong Giáo Hội tại Antiôkia, Chúa Thánh Thần được cầu khẩn với những từ sau:
Lạy Chúa là Đấng Ban Sự Sống, xin hãy sai Thánh Thần Chúa đến trên chúng con và trên những lễ vật này, Ngài là Đấng trị vì cùng Chúa Cha và cùng Con Một của Chúa. Ngài cùng trị vì thực sự và vĩnh viễn; Ngài phán qua luật pháp và các tiên tri và Tân Ước; Ngài đã giáng xuống dưới hình dạng chim bồ câu trên Chúa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô ở sông Giôđan, Ngài giáng xuống trên các Tông đồ vào ngày Lễ Ngũ Tuần, dưới hình dạng lưỡi lửa. Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến ba lần trên chúng con và trên những lễ vật này, để nhờ sự thánh khiết, nhân từ và vinh hiển của Ngài, Ngài có thể thánh hóa bánh này và biến nó thành Mình Thánh Chúa Kitô (Amen), và thánh hóa chén thánh này và làm cho nó thành Máu Châu báu của Chúa Kitô (Amen).
Đây không chỉ là một sự bổ sung đơn giản cho việc cầu khẩn Chúa Thánh Thần. Đó là một cái nhìn bao quát và xuyên suốt về lịch sử cứu độ đã mở ra một chiều kích mới về mầu nhiệm Thánh Thể. Bắt đầu với những lời trong Kinh Tin Kính Nicê Constantinople xác định Chúa Thánh Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống... Đấng đã nói qua các vị tiên tri,” viễn cảnh sau đó được mở rộng để phác thảo một “lịch sử” thực sự về hoạt động của Chúa Thánh Thần.
Bí tích Thánh Thể đưa chuỗi sự kiện tuyệt vời này đến sự viên mãn. Chúa Thánh Thần, Đấng trong lễ Phục sinh xông vào trong mộ, chạm vào Thân thể Chúa Kitô và ban sự sống cho Người, lặp lại điều kỳ diệu này trong Bí tích Thánh Thể. Ngài đến trên những phần tử chết của bánh và rượu và ban sự sống cho chúng; Ngài biến chúng thành Mình và Máu của Đấng Cứu Chuộc. Quả thật, như chính Chúa Giêsu đã nói về Bí tích Thánh Thể, “chính Thần Khí ban sự sống” (Gioan 6:63). Theodore thành Mopsuestia, một bậc thầy về truyền thống Thánh Thể Đông phương, đã viết:
Nhờ hành động phụng vụ, như thể Chúa của chúng ta đã sống lại từ cõi chết và tuôn đổ ân sủng của Người trên tất cả chúng ta, nhờ Chúa Thánh Thần.... Khi vị linh mục tuyên bố rằng bánh và rượu là Mình và Máu Chúa Kitô, ngài khẳng định rằng điều này đã xảy ra nhờ Chúa Thánh Thần. Điều này cũng giống như những gì đã xảy ra với thân thể tự nhiên của Chúa Kitô khi nhận được Đức Thánh Linh và sự xức dầu của Ngài. Vào lúc Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta tin rằng bánh và rượu nhận được một sự xức dầu ân sủng đặc biệt. Và từ đó trở đi, chúng ta tin rằng chúng là Mình và Máu của Chúa Kitô, bất tử, không nhiễm bệnh, không thể bị tổn thương và bất biến về bản chất, giống như Mình của Chúa Kitô lúc sống lại.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên một thực tế cho thấy rằng truyền thống Công Giáo cũng có điều gì đó để cung cấp cho anh em Chính thống giáo. Chúa Thánh Thần không hành động độc lập với Chúa Giêsu; nhưng hành động theo lời Người. Chúa Giêsu nói về Thánh Linh như sau: “Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại.. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16: 13-14). Đó là lý do tại sao chúng ta không được tách những lời của Chúa Giêsu (“Này là Mình Thầy”) khỏi những lời nguyện xin cùng Chúa Thánh Thần trong Kinh Nguyện Thánh Thể (“Nguyện xin Chúa Thánh Thần làm cho bánh này trở nên Mình Chúa Kitô”).
Lời kêu gọi hiệp nhất, đối với cả tín hữu Công Giáo và Chính thống, phát xuất từ chính tâm điểm của mầu nhiệm Thánh Thể. Ngay cả khi, vì những lý do hiển nhiên, việc tưởng niệm việc thiết lậ[ bí tích Thánh Thể và việc cầu khẩn Chúa Thánh Thần diễn ra vào hai thời điểm khác nhau (người phàm không thể diễn tả mầu nhiệm trong cùng một khoảnh khắc), thì hành động của họ vẫn diễn ra đồng thời. Hiệu quả của nó chắc chắn đến từ Thánh Linh (chứ không phải từ linh mục hay Giáo hội), nhưng nó hoạt động bên trong và qua lời của Chúa Kitô.
Tôi đã nói rằng hiệu quả khiến Chúa Giêsu hiện diện trên bàn thờ không bắt nguồn từ Giáo hội nhưng cũng không xảy ra nếu không có Giáo hội. Giáo hội là kênh sống động qua đó và nhờ đó Chúa Thánh Thần tác động. Chúa Giêsu ngự đến trên bàn thờ cũng giống như Ngài lại đến trong vinh quang cuối cùng: Thánh Linh và Hiền Thê (Hội Thánh) nói với Chúa Giêsu: Lạy Chúa xin hãy đến! (xem Kh 22:17). Và Ngài đến.
Linh đạo Tin lành: tầm quan trọng của đức tin.
Truyền thống Rôma nhấn mạnh “ai” hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, đó là Chúa Kitô; truyền thống Chính thống giáo nhấn mạnh “bởi ai” sự hiện diện này được thực hiện, đó là Chúa Thánh Thần; Thần học Tin lành nhấn mạnh “đối với ai” sự hiện diện này có hiệu quả; nói cách khác, họ nhấn mạnh đến những điều kiện làm cho bí tích thực sự hữu hiệu nơi những người lãnh nhận bí tích. Các điều kiện có rất nhiều nhưng chúng có thể được tóm gọn trong một tiêu đề: đức tin.
Chúng ta đừng quan tâm ngay lập tức và hoàn toàn đến những khía cạnh tiêu cực đã bị chỉ trích vào một số thời điểm nhất định trong nguyên tắc Tin lành rằng các bí tích chỉ là “dấu chỉ của đức tin”. Chúng ta hãy quên đi những hiểu lầm và tranh cãi và chúng ta sẽ thấy rằng việc nhớ lại đức tin tràn đầy năng lượng này có lợi cho việc cứu bí tích này và ngăn nó trở thành một “việc lành phúc đức” khác, hoặc một thứ hoạt động một cách máy móc hoặc ma thuật mà con người hầu như không biết. Cuối cùng, đó là vấn đề khám phá ý nghĩa sâu xa của câu cảm thán vang vọng lại trong phụng vụ ở cuối lời truyền phép và từng được đặt ở trung tâm của công thức truyền phép, như để nhấn mạnh rằng đức tin là tính chất nội tại của mầu nhiệm này: “Mysterium fidei”, mầu nhiệm đức tin!
Đức tin không “làm nên” bí tích nhưng “lãnh nhận” bí tích. Chỉ những lời của Chúa Kitô được Hội thánh lặp lại và được Chúa Thánh Thần làm cho có hiệu lực mới “làm nên” bí tích. Nhưng một bí tích “được thực hiện” mà không được lãnh nhận thì sẽ như thế nào? Liên quan đến việc nhập thể, những người như Origen, Thánh Augustinô và Thánh Bernard nói: “Tôi có lợi gì khi Chúa Kitô được sinh ra bởi Đức Maria ở Bethlehem nếu Người cũng không được sinh ra bởi đức tin trong lòng tôi?” Chúng ta có thể nói như vậy về Bí tích Thánh Thể; Tôi có lợi gì khi Chúa Kitô thực sự hiện diện trên bàn thờ, mà đối với tôi, Ngài không hiện diện? Đức tin là cần thiết ngay cả khi Chúa Giêsu hiện diện thể lý trên trái đất này; nếu không - như chính Ngài đã lặp lại nhiều lần trong phúc âm - sự hiện diện của Ngài chẳng ích gì, nếu không muốn nói rằng đó chỉ là một sự lên án: “Khốn cho ngươi hỡi Khôradin, khốn cho ngươi hỡi Caphácnaum!” (Mt 11: 21f.).
Đức tin là điều cần thiết để làm cho sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể không chỉ là “thực sự” mà còn là “cá vị”, một sự hiện diện một đối một. “Ở đó” là một chuyện, “hiện diện” là một chuyện khác. Sự hiện diện giả định một người nào đó có mặt vì người khác; nó giả định sự giao tiếp qua lại, một cuộc trao đổi giữa hai người tự do, những người nhận thức được và cởi mở với nhau. Do đó, có nhiều liên quan hơn là chỉ ở một nơi nhất định.
Chiều kích chủ quan và hiện sinh như vậy của sự hiện diện Thánh Thể không hủy bỏ sự hiện diện khách quan có trước đức tin của con người, nhưng thực sự nó đã giả định trước và mang lại giá trị cho nó. Luther, người đã nâng vai trò của đức tin lên tầm cao như vậy, cũng là một trong những người bảo vệ trung thành nhất giáo lý về sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Trong quá trình tranh luận về chủ đề này với các nhà Cải cách khác, ông đã tuyên bố:
Tôi không thể giải thích những từ 'Này là Mình Thầy' khác với cách chúng được phát âm. Do đó, ai muốn chứng minh rằng, nơi những từ 'Này là Mình Thầy ' được nói ra, Thân thể của Chúa Kitô không hiện diện thì mặc kệ họ. Tôi không muốn nghe những lời giải thích dựa trên lý trí. Trước những lời lẽ rõ ràng như vậy, không thể có thắc mắc nào cả; Tôi từ chối lý luận logic và lý lẽ thông thường. Tôi hoàn toàn bác bỏ các minh chứng thực tế và tranh luận phân tích. Thiên Chúa đứng trên tất cả các loại chắc chắn toán học và chúng ta phải ngạc nhiên tôn thờ Lời Chúa.
Nhìn sơ qua sự phong phú chứa đựng trong các truyền thống Kitô giáo khác nhau là đủ để thấy món quà to lớn mở ra cho Giáo hội khi các giáo phái Kitô khác nhau chấp nhận hợp nhất tài sản tinh thần của họ, như những Kitô hữu đầu tiên đã làm, những người “có tất cả mọi thứ làm của chung “(Cv 2:44). Đây là đức ái đích thực, bao trùm toàn thể Giáo Hội, mà Chúa khiến chúng ta muốn thấy để nhận ra, vì vinh quang của Cha chung của chúng ta và lợi ích của Giáo hội của Người.
Cảm tình đối với sự hiện diện
Bây giờ đến lúc chúng ta chấm dứt cuộc hành hương Thánh Thể nhỏ bé của chúng ta thông qua các giáo phái Kitô giáo khác nhau. Chúng ta đã thu thập được một vài giỏ bánh vụn từ việc nhân rộng tấm bánh trong Giáo Hội. Nhưng chúng ta không thể kết luận ở đây những suy tư của chúng ta về mầu nhiệm của sự hiện diện thực sự. Nó sẽ giống như thu thập các mảnh vụn mà không ăn chúng. Niềm tin vào sự hiện diện thực sự là một điều tuyệt vời, nhưng vẫn chưa đủ; ít nhất, niềm tin theo một cách nào đó là không đủ. Ý tưởng chính xác và hoàn hảo về mặt thần học về sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể là chưa đủ. Nhiều nhà thần học biết tất cả về mầu nhiệm này, nhưng họ không biết sự hiện diện thực sự. Theo thuật ngữ Kinh thánh, bạn chỉ “biết” điều gì đó khi bạn đã trải nghiệm nó. Để biết lửa, bạn phải ít nhất một lần đến gần ngọn lửa, gần đến mức có nguy cơ bị cháy.
Thánh Grêgôriô thành Nyssa đã để lại cho chúng ta một biểu hiện sâu sắc đáng kinh ngạc về loại đức tin sâu sắc hơn này; ngài nói về một “cảm tình đối với sự hiện diện” (aesthesis parousias). Điều này xảy ra khi một người bị thu hút bởi sự hiện diện của Thiên Chúa và có một cảm thức nhất định (không chỉ là một ý tưởng) rằng Thiên Chúa ở đó. Nó không phải là một cảm thức tự nhiên; nó là hoa trái của ân sủng. Có một sự tương đồng mạnh mẽ giữa điều này và những gì đã xảy ra khi sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với một người nào đó. Đó là một điều gì đó đột ngột thay đổi hoàn toàn và bất ngờ trong tâm trí của người đó.
Một ngày sau khi phục sinh, khi các tông đồ đang đánh cá trong hồ; một người đàn ông đứng trên bãi biển. Người bắt đầu nói chuyện từ xa: “Các con ơi, các con có con cá nào không?” và họ trả lời Ngài, “Không!” Nhưng sau đó, một nhận thức loé lên trong đầu, Thánh Gioan đã kêu lên: “Chúa đó!” Mọi thứ đã khác sau sự công nhận này và mọi người vội vã lên bờ (xem Ga 21: 4f.). Điều tương tự cũng đã xảy ra, ngay cả khi theo một cách nhẹ nhàng hơn, đối với các môn đệ trên đường Emmau. Chúa Giêsu đang đi với họ, “nhưng mắt họ không nhận ra Ngài”; cuối cùng, khi Người bẻ bánh, “mắt họ mở ra và nhận ra Người” (Luca 24: 13ff.). Điều tương tự cũng xảy ra khi một Kitô hữu, người đã tiếp nhận Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể nhiều lần, cuối cùng, một ngày nào đó, nhờ ân sủng, “nhận ra” Người.
Từ đức tin và “cảm tình” đối với sự hiện diện thực sự, lòng tôn kính phải tự phát xuất hiện, và thực sự, một cảm giác dịu dàng đối với Chúa Giêsu trong Bí tích. Đây là một tình cảm cá vị và tế nhị đến mức lời nói thậm chí có thể phá hủy nó. Thánh Phanxicô Assisi có điều gì đó muốn nói với chúng ta vào thời điểm này. Trái tim ngài tràn ngập những tình cảm tôn kính và dịu dàng. Ngài đã cảm động trước Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, cũng như ngài đã xúc động trước Hài Nhi ở Bethlehem. Thánh nhân thấy Chúa thật bất lực, thật phó thác cho nhân loại, thật khiêm tốn. Trong Thư gửi tất cả các anh em, ngài viết những lời đầy lửa mà chúng ta muốn nghe bây giờ khi chúng ta khi kết thúc bài suy niệm về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể:
Hãy xem xét phẩm giá của anh em, các thầy, và các linh mục, và hãy thánh thiện vì chính Ngài là thánh… Thật là một sự khốn khổ và yếu đuối đáng trách khi anh em có Ngài hiện diện như thế mà lại lo toan cho bất cứ điều gì khác trên thế gian này. Hãy để cho toàn bộ nhân loại co rúm vì sợ hãi; cả thế giới run sợ; hãy để thiên đàng hân hoan khi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, ngự trên bàn thờ trong tay của thầy cả tế lễ. Ôi cao vời đáng ngưỡng mộ và uy phong tuyệt vời! Ôi khiêm nhường siêu phàm! Ôi khiêm nhường cao cả! Chúa của vũ trụ, Thiên Chúa và là Con Chúa Cha, tự hạ mình đến mức để cứu rỗi chúng ta, Ngài đã ẩn mình dưới một tấm bánh. Hỡi anh em, hãy xem xét sự khiêm nhường của Thiên Chúa và “hãy đổ hết lòng mình ra trước mặt Ngài, và hãy hạ mình để được Ngài tôn cao. Vì vậy, đừng giữ lại bất cứ điều gì cho riêng mình để Ngài, Đấng tự hiến hoàn toàn cho anh em, có thể tiếp nhận anh em một cách trọn vẹn.
1.De sacramentis, IV, 14-16 (PL 16, 439 ss).
2. xem THOMAS AQUINAS, Summa theologiae III, q. 75, a. 4.
3.THANH SÁCH CỦA MOPSUESTIA, Bài giảng Giáo lý, XVI, 11 s.
4.Cf Acts of the colloquy of Marburg of 1529 (Weimar Ed., 30, 3, p. 110 ss).
5.GREGORY OF NYSSA, On the Canticle, XI, 5, 2 (PG 44, 1001).
Source:Cantalamessa
1. Đoàn xe Nga bị phục kích gần thành phố Ichnia, không ai sống sót
Hôm thứ Hai, 4 tháng Tư, Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết một đoàn xe Nga rút lui khỏi Chernihiv đã bị phục kích gần thành phố Ichnia. Vì tham vọng điên cuồng của Putin, khổ thân cho những người lính Nga, không ai còn sống trong cuộc phục kích này.
Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết trong 24 giờ của ngày thứ Hai, Lực lượng Liên quân Ukraine đã phá hủy 7 xe tăng, 8 xe bọc thép và 3 hệ thống pháo của đối phương.
Kể từ đầu cuộc chiến, quân đội Nga đã mất gần 18.300 binh sĩ, 647 xe tăng, 1,844 xe chiến đấu bọc thép và các trang thiết bị khác tại Ukraine.
Trong khi đó, Ngũ Giác Đài nhận định khoảng 2 phần 3 quân đội Nga tập trung xung quanh thủ đô Kiev của Ukraine đã “rời khỏi khu vực”.
Các không ảnh từ vệ tinh cho thấy quân Nga đang rời khỏi khu vực xung quanh Kiev, tiến về phía bắc và tập trung tại Belarus.
“Điều chúng tôi tiếp tục tin tưởng là họ sẽ được tái trang bị, tiếp tế, thậm chí có thể được tăng cường thêm nhân lực, và sau đó được gửi trở lại Ukraine để tiếp tục chiến đấu ở những nơi khác,” ông nói thêm.
“Đánh giá” của Hoa Kỳ là những binh sĩ này sẽ được “bố trí ở phía đông của Ukraine, trong khu vực Donbas,” để chiến đấu ở đó.
“Đánh giá tốt nhất của chúng tôi, và đó chỉ là đánh giá, là chúng sẽ được đưa đến miền đông Ukraine trong khu vực Donbas, nhưng đó chỉ là đánh giá,” quan chức này cho biết.
Một “cuộc chiến gay gắt” tiếp tục diễn ra ở Mariupol, nhưng “không có dấu hiệu nào cho thấy người Nga đã đạt được bất kỳ tiến bộ nào” trong việc chiếm thành phố.
Ông cũng đánh giá tình hình xung quanh Kherson. “Chúng tôi đánh giá rằng ở khu vực Kherson, như chúng tôi đã nói trong vài ngày qua, người Nga đã bị chặn đứng giữa Kherson và Mykolaiv. Bây giờ chúng tôi đánh giá rằng họ đã chuyển nhiều hơn sang một thế trận phòng thủ xung quanh Kherson.”
Ngũ Giác Đài nhấn mạnh rằng các lực lượng Nga “vẫn thực hiện khoảng hơn 200 phi vụ mỗi ngày” và “hầu hết các cuộc không kích của họ đều tập trung vào khu vực Izyum”.
2. Hiếp dâm như một vũ khí: Bạo lực tình dục quy mô lớn của quân Nga ở Ukraine
Phụ nữ trên khắp Ukraine đang phải vật lộn với mối đe dọa bị hãm hiếp như một vũ khí chiến tranh khi ngày càng có nhiều bằng chứng về bạo lực tình dục xuất hiện tại các khu vực sau khi quân Nga rút lui.
Thế giới kinh hoàng hôm Chúa Nhật trước bức ảnh do nhiếp ảnh gia Mikhail Palinchak chụp trên đường cao tốc 20 km bên ngoài thủ đô Kiev, trong đó thi thể của một người đàn ông và ba phụ nữ được chất đống dưới một tấm chăn. Nhiếp ảnh gia cho biết những người phụ nữ khỏa thân và cơ thể của họ đã bị đốt cháy một phần.
Hình ảnh đáng kinh ngạc bổ sung thêm bằng chứng cho thấy các vụ hành quyết hàng loạt, hãm hiếp và tra tấn đã được sử dụng chống lại dân thường trong các khu vực do Nga kiểm soát kể từ khi Điện Cẩm Linh tiến hành cuộc xâm lược nước láng giềng vào ngày 24 tháng 2.
Đặc biệt khó hiểu đối với nhiều người là quy mô của bạo lực tình dục. Khi quân đội Nga đã rút khỏi các thị trấn và vùng ngoại ô xung quanh thủ đô để tập trung lại nỗ lực chiến tranh ở phía đông Ukraine, phụ nữ và trẻ em gái đã đến để nói với cảnh sát, truyền thông và các tổ chức nhân quyền về những hành động tàn bạo mà họ phải gánh chịu dưới bàn tay của binh lính Nga. Các vụ cưỡng hiếp tập thể, tấn công bằng súng, và hãm hiếp trước mặt trẻ em nằm trong số những lời khai nghiệt ngã mà các nhà điều tra thu thập được.
“Chúng tôi đã nhận được một số cuộc gọi đến đường dây nóng khẩn cấp từ phụ nữ và trẻ em gái để tìm kiếm sự trợ giúp, nhưng trong hầu hết các trường hợp, chúng tôi không thể giúp họ về mặt vật chất.” Kateryna Cherepakha, chủ tịch của La Strada Ukraine, một tổ chức bác ái hỗ trợ những người sống sót sau nạn buôn người, bạo lực gia đình và tấn công tình dục cho biết “chúng tôi không thể tiếp cận họ vì các cuộc giao tranh vẫn đang diễn ra”.
“Hiếp dâm là một tội phạm ít được báo cáo và là vấn đề bị kỳ thị ngay cả trong thời bình. Tôi lo lắng rằng những gì chúng ta biết được sẽ chỉ là phần nổi của tảng băng chìm”.
Hiếp dâm và tấn công tình dục được coi là tội ác chiến tranh và vi phạm luật nhân đạo quốc tế, và cả Tổng công tố Ukraine và Tòa án Hình sự quốc tế đều cho biết họ sẽ mở các cuộc điều tra về các vụ bạo lực tình dục được báo cáo. Nhưng những gì hiện tại có vẻ như một khả năng công lý còn xa vời đã không làm dịu được nỗi lo của phụ nữ Ukraine về những gì có thể xảy ra trong một cuộc chiến tranh còn lâu mới kết thúc.
Antonina Medvedchuk, 31 tuổi, cho biết khi tỉnh dậy vì tiếng bom nổ vào ngày chiến tranh nổ ra, những thứ đầu tiên cô nắm được trước khi rời Kiev là kéo để làm vũ khí phòng thân.
“Mỗi khi nghỉ giữa giờ giới nghiêm và đánh bom, tôi đều tìm thuốc tránh thai khẩn cấp,” cô nói. “Mẹ tôi cố trấn an tôi: 'Đây không phải là cuộc chiến như thế, chúng không tồn tại nữa, chúng đến từ những bộ phim cũ.' Tôi đã là một nhà nữ quyền trong tám năm, và tôi đã khóc trong im lặng, bởi vì tất cả các cuộc chiến đều như thế cả”.
Các tổ chức như La Strada Ukraine và một mạng lưới toàn quốc có tên là Hội thảo Nữ quyền đã làm việc trực tuyến và với chính quyền địa phương để phân phối thông tin về hỗ trợ y tế, pháp lý và tâm lý dành cho các nạn nhân bị tấn công tình dục, đồng thời đang cố gắng tìm nơi trú ẩn an toàn cho phụ nữ và trẻ em gái đang chạy trốn chiến tranh.
Tuy nhiên, họ lo sợ rằng những tổn thương do sử dụng cưỡng hiếp như một chiến thuật quân sự sẽ dẫn đến những đau khổ sâu sắc cho xã hội Ukraine trong nhiều năm tới.
Sasha Kantser, giám đốc đối ngoại phân bộ Lviv của Hội thảo Nữ quyền, nơi đã giúp đỡ hàng trăm phụ nữ và trẻ em gái di tản, cho biết: “Khi một người phụ nữ đi xa, có vẻ như cô ấy an toàn, cô ấy sẽ tránh xa súng đạn và kẻ đã cưỡng hiếp cô ấy.”
“Nhưng chấn thương là một quả bom bên trong cô ấy, theo sau cô ấy. Quy mô của những gì đang xảy ra bây giờ thật đau lòng”.
3. Ở thành phố đẹp như tranh vẽ này ở Ukraine, chính quyền không khuyến khích chụp hình
Đi dạo ở Lviv, tôi muốn chụp ảnh. Đây là lần đầu tiên tôi đến thành phố, nơi mọi dãy nhà đều đẹp như tranh vẽ: Tuyết tháng Tư nhẹ nhàng rơi trên những bức tượng đồng. Lan can sắt rèn theo trường phái tân nghệ thuật trên ban công nhìn ra những con phố lát đá cuội. Những bức tượng thần Hy Lạp đẹp đẽ, và ngẫu nhiên, nằm bên cạnh lối vào của một tòa nhà chung cư mà nếu không có các bức tượng ấy thì trông không khác bình thường bao nhiêu.
Nhưng mọi người ở đây bây giờ không thích nhìn thấy ai chụp hình. Tôi học được điều đó khi dùng điện thoại chụp một bức ảnh chi tiết của nhà ga xe lửa được trang trí công phu. Một người đàn ông Ukraine lớn tuổi vẫy tay với tôi để nói với tôi đừng làm như thế và sau đó chỉ lên trời. Người dân tin rằng những hình ảnh công khai có thể giúp lực lượng Nga nhắm vào thành phố thân yêu của họ.
Lviv được công nhận là Di sản Thế giới của UNESCO nhờ trung tâm lịch sử được bảo tồn tốt. Bạn có thể thấy nơi thành phố này những vết tích bằng đá, gạch và sắt của các nền văn hóa khác nhau kết hợp với nhau qua nhiều thế kỷ để góp phần tạo nên vẻ đẹp đặc sắc của nó, hiện đang bị đe dọa bởi chiến tranh hiện đại. Tôi là một người thích du lịch: Tại sao tôi không biết về thành phố này trước đây, tôi tự hỏi.
Vì sợ hãi trước các cuộc tấn công, một số vẻ đẹp đó đã bị ẩn đi. Các cửa sổ kính màu của các nhà thờ và thánh đường lộng lẫy của Lviv được che chắn để giữ cho chúng không bị vỡ trong một cuộc không kích. Đang là Mùa Chay, nhưng những bức tượng của các vị thánh đang trông coi trên đường phố được bọc chặt trong lớp đệm bảo vệ. Những tấm tôn che tượng đài ở quảng trường thành phố.
Hôm thứ Bảy, trên một trong những quảng trường lát đá cuội lịch sử đó, một ban nhạc pop địa phương bắt đầu biểu diễn. Ngay sau đó là một đám đông. Trước chiến tranh, đã có nhiều khách du lịch từ khắp Âu Châu đến thăm. Lần này, hầu như tất cả người dân Ukraine đều tận hưởng cảm giác hồi hộp ngắn ngủi được cung cấp bởi âm nhạc, một liều thuốc giải độc cho tiếng còi báo động của cuộc không kích sẽ vang lên trong vài giờ nữa và là một sự tái khẳng định rằng cuộc sống của thành phố này vẫn tiếp diễn.
4. Tổng thống Zelenskiy chỉ trích 'chính sách nhượng bộ Nga' của phương Tây dẫn đến chiến tranh
Kết thúc bài diễn văn quốc gia của mình, tổng thống Zelenskiy đã nói về “các hành vi chính trị đã cho phép tệ nạn này đến vùng đất của chúng ta” đã được phản ánh trong hội nghị thượng đỉnh Nato năm 2008 ở Bucharest.
Hôm nay là kỷ niệm mười bốn năm hội nghị thượng đỉnh Nato ở Bucharest. Lúc đó có cơ hội đưa Ukraine ra khỏi 'vùng xám' ở Đông Âu. Ra khỏi 'vùng xám' giữa Nato và Nga.
Ra khỏi vùng xám, nơi Mạc Tư Khoa cho rằng họ được phép làm mọi thứ. Ngay cả những tội ác chiến tranh đáng sợ nhất. “
Zelenskiy nói về “những tuyên bố ngoại giao lạc quan” được đưa ra vào thời điểm đó khiến Ukraine hy vọng nước này có thể trở thành thành viên của NATO, nói thêm rằng vào năm 2008, “việc từ chối chấp nhận Ukraine gia nhập Liên minh đã bị che giấu”.
Ông nói thêm: “Sự sợ hãi vô lý của một số chính trị gia đối với Nga đã bị che giấu. “Họ nghĩ rằng bằng cách từ chối Ukraine, họ sẽ có thể xoa dịu Nga, thuyết phục nước này tôn trọng Ukraine và sống bình thường bên cạnh chúng ta”.
Trong suốt 14 năm kể từ khi tính toán sai lầm đó, Ukraine đã trải qua một cuộc cách mạng và tám năm chiến tranh ở Donbas. Và bây giờ chúng ta đang chiến đấu để giành lấy sự sống trong cuộc chiến kinh hoàng nhất ở Âu Châu kể từ Thế chiến thứ hai.
Tôi mời bà Merkel và ông Sarkozy đến thăm Bucha và xem chính sách nhượng bộ đối với Nga đã dẫn đến điều gì trong 14 năm. Để tận mắt chứng kiến những người đàn ông và phụ nữ Ukraine bị tra tấn “.
Tuy nhiên, Zelenskiy nói rõ rằng ông không đổ lỗi cho phương Tây mà cảm thấy Ukraine có “quyền nói về sự do dự”.
“Chúng ta không đổ lỗi cho bất kỳ ai ngoài quân đội Nga cụ thể đã làm điều này chống lại người dân của chúng ta. Và những người đã ra lệnh cho họ. Nhưng chúng ta có quyền nói về sự do dự. Về con đường đã dẫn đến Bucha như thế này, đến Hostomel, đến Kharkiv, và đến Mariupol. Chúng ta không do dự. Bất kể chúng ta ở trong một khối nhất định hay không liên kết, chúng ta đều hiểu một điều: chúng ta phải mạnh mẽ “.
5. Anthony Blinken: Sự phục hồi đáng kể về giá trị của đồng rúp Nga là giả tạo
Ngoại trưởng Mỹ Anthony Blinken tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn hôm Chúa Nhật rằng giá trị của đồng rúp Nga đã phục hồi đáng kể một phần lớn là do “rất nhiều sự thao túng” từ chính phủ Mạc Tư Khoa.
Đồng rúp được giao dịch ở mức 84.62 đổi một đô la Mỹ, vào hôm thứ Sáu, tức là trở lại gần mức được thấy trước khi cuộc xâm lược của Điện Cẩm Linh vào Ukraine dẫn đến các lệnh trừng phạt kinh tế lịch sử chống lại Nga. Giá trị của đồng rúp ban đầu giảm mạnh, giao dịch ở mức thấp nhất là 151.5 rúp đổi một đô la Mỹ vào ngày 7 tháng 3, theo dữ liệu của FactSet.
“Khi nói đến đồng rúp, không chỉ là một chút thao túng, mà là rất nhiều thao túng. Blinken cho biết trong một cuộc phỏng vấn trên kênh “Gặp gỡ báo chí” của NBC, đề cập đến các biện pháp kiểm soát vốn do ngân hàng trung ương Nga thực hiện.
“Đó là nâng cao giá trị một cách giả tạo. Điều đó không bền vững, vì vậy tôi nghĩ bạn sẽ thấy sự thay đổi đó”. Ông Blinken cho rằng các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc kết hợp với việc các doanh nghiệp phương Tây rời bỏ Nga, về lâu dài sẽ đè nặng lên tiền tệ và nền kinh tế.
Ông nói: “Các biện pháp kiểm soát xuất khẩu mà chúng ta đã áp đặt đối với Nga, từ chối các công nghệ mà nước này cần để hiện đại hóa các ngành sẽ ngày càng gia tăng”
1. Một vị tướng Ukraine sẵn sàng hiến mạng sống của mình cho cuộc sống của những đứa trẻ ở Mariupol
Tướng Ukraine Vyacheslav Abroskin đã đưa ra một đề nghị bất thường đối với những người Nga đang vây hãm Mariupol.
Trung tướng cảnh sát Ukraine Vyacheslav Abroskin sẵn sàng đầu hàng làm tù binh để đổi lấy sự di tản của trẻ em trong thành phố. Ngay sau khi ông đưa ra tuyên bố của mình, nhà chức trách Ukraine đã công bố số người chết trong vụ đánh bom Nhà hát kịch Mariupol.
Abroskin đã viết trên tài khoản Facebook của mình: “Hôm nay có rất nhiều trẻ em bị bỏ lại trong thành phố bị phá hủy hoàn toàn, nếu không được cứu ngay bây giờ, sẽ chết trong vài ngày tới, thời gian không còn nhiều. Tôi kêu gọi những người chiếm đóng Nga - hãy cho cơ hội để đưa những đứa trẻ ra khỏi Mariupol để những đứa trẻ vẫn còn sống, tôi tự hiến dâng mình. Vâng, tôi yêu cầu cho chúng tôi ở Mariupol cơ hội để tìm kiếm các trẻ em và tổ chức đưa chúng ra ngoài. Tôi cần ba ngày trong thành phố. Tại trạm kiểm soát cuối cùng khi đưa lũ trẻ ra ngoài, tôi đầu hàng và chấp nhận tình trạng bị giam cầm. Cuộc sống của tôi chỉ thuộc về một mình tôi, và tôi cống hiến nó để đổi lấy mạng sống của những đứa trẻ vẫn còn bị kẹt Mariupol. “
Đề xuất này càng bất thường hơn vì vị tướng này đã phục vụ trong 4 năm ở chiến tuyến sau khi chiến tranh bùng nổ ở Donbas vào năm 2014. Do đó, ông dường như nằm trong danh sách mục tiêu bị “trừ khử” của người Nga. Qua sự thừa nhận của chính vị tướng này, ta có thể thấy các lực lượng xâm lược đã thực hiện các nỗ lực tìm giết ông.
Kể từ khi Tướng Abroskin đăng lời kêu gọi của mình vào ngày 24 tháng 3, những người Ukraine khác đang phục vụ trong quân đội và cảnh sát đã tiến lên, sẵn sàng xả thân để giải cứu cuộc sống của những đứa trẻ ở Mariupol. Đề xuất của vị tướng được đưa ra vài giờ trước khi chính quyền thành phố công bố số người chết vì vụ đánh bom tuần trước nhằm vào Nhà hát Kịch địa phương, nơi đã được chuyển thành hầm trú bom; cuộc không kích đã cướp đi sinh mạng của khoảng 300 thường dân.
Theo số liệu chưa đầy đủ của Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, gọi tắt là UNHCR, cuộc xâm lược của Nga đã cướp đi sinh mạng của 1,035 dân thường; và làm bị thương 1,650 người khác. Con số trước đây, tính đến ngày 24 tháng 3, bao gồm ít nhất 90 trẻ em. Tuy nhiên, phía Ukraine tuyên bố rằng chỉ riêng ở Mariupol đã có hơn 3,000 người thiệt mạng trong đó không dưới 135 người.
Mariupol, đã bị bao vây hơn một tháng, bị cắt nguồn cung cấp nước, điện, khí đốt, thuốc men và thực phẩm. Các cuộc pháo kích và bắn phá các tòa nhà dân cư cũng như các hành lang và các đoàn xe nhân đạo vẫn tiếp diễn. Khoảng 90% các tòa nhà của thành phố đã bị hư hại, 30% trong số đó đã bị phá hủy hoàn toàn. Thông tin về số lượng thường dân bị mắc kẹt ở Mariupol dao động trong khoảng 100,000 đến thậm chí 400,000. Cho đến nay, chỉ có khoảng 75,000 cư dân được di tản. Trong những ngày gần đây đã có báo cáo về những người chết trong thành phố do đói và mất nước.
Ngày 16 tháng 3, Tòa án Công lý Quốc tế ở The Hague tuyên bố hành động gây hấn của Nga đối với Ukraine là bất hợp pháp và yêu cầu chấm dứt hành động này ngay lập tức. Tuyên bố về tội ác chiến tranh của Nga đang chờ Tòa án Hình sự Quốc tế xét xử. Tính đến ngày 24 tháng 3, Nga bị nghi ngờ đã thực hiện 2,427 tội ác như vậy kể từ khi cuộc xâm lược bắt đầu. Các đại diện của Nga cho đến nay đã không xuất hiện trong phiên điều trần của các bên trước Tòa án.
Source:Aleteia
2. Chiến tranh Ukraine là một lời nhắc nhở về một trận chiến tâm linh vô hình, nhà lãnh đạo Công Giáo nói
Cuộc chiến ở Ukraine là một lời nhắc nhở về cuộc chiến tâm linh vô hình mà các Kitô hữu chiến đấu mỗi ngày để chống lại cám dỗ phạm tội, nhà lãnh đạo của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương nhận định như trên.
“Cuộc chiến này ngày càng nhắc nhở chúng ta về những quy luật của cuộc chiến vô hình, là cuộc đấu tranh tinh thần mà mọi Kitô hữu phải chiến đấu với ma quỷ, với cái ác và những tay sai của hắn,” Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk cho biết trong một thông điệp video được công bố hôm 30 tháng Ba.
“Hôm nay tôi muốn nhắc lại một quy luật khác của cuộc đấu tranh tinh thần này. Cái ác luôn ẩn mình trong bóng tối. Nếu ma quỷ và những việc làm xấu xa được đưa ra ánh sáng, nếu chúng bị vạch trần, thì ngay lập tức ma quỷ mất đi sức mạnh. Nó bị tiêu diệt trong ánh sáng “.
Đức Tổng Giám Mục Shevchuk, có trụ sở tại thủ đô Kiev của Ukraine, nói rằng ánh sáng chân lý của Chúa làm suy yếu và giải trừ ma quỷ.
“Vì vậy, nếu chúng ta phủ nhận hoặc che giấu tội lỗi, khuyết điểm của mình, chúng trở nên mạnh mẽ hơn, chúng thống trị chúng ta. Nhưng khi chúng ta đưa những tội lỗi ấy ra ánh sáng, đi xưng tội, nói thật về họ với chính mình, và mở lòng với một linh mục, thì giống như thể chúng ta đưa ma quỷ ra ánh sáng và lấy đi quyền năng của nó”.
Vị tổng giám mục 51 tuổi cảm ơn những người làm việc trong lĩnh vực truyền thông “những người nói ra sự thật bằng chính mạng sống của mình”.
Ngài nói: “Họ nói sự thật về nỗi thống khổ và nỗi đau của Ukraine, và lưu ý rằng ở Nga những từ như ‘chiến tranh’ bị cấm trên các phương tiện truyền thông.
“Tôi cảm ơn tất cả những ai có can đảm nói ra sự thật, những người không chỉ nghe sự thật về Ukraine, mà còn mang nó ra thế giới và qua đó vạch mặt, đưa ác quỷ ra ánh sáng, tước vũ khí của hắn. Và nó cho chúng tôi sức mạnh để chiến thắng”, Đức Cha Shevchuk nói.
Nhà lãnh đạo Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương cho biết người ta có thể trở thành đồng lõa với tội lỗi của người khác bằng cách im lặng về tội lỗi hoặc bằng cách ca ngợi tội lỗi.
“Hôm nay tôi muốn kêu gọi tất cả các bạn đừng nhúng tay vào tội lỗi của người khác. Đừng trở thành đồng lõa với những tội ác đang diễn ra ở Ukraine thông qua sự im lặng của chính bạn hoặc sợ hãi nói ra sự thật”
“Hãy đưa ma quỷ ra ánh sáng và chúng ta sẽ vượt qua. Chúng ta cảm thấy rằng ánh sáng của Chúa soi sáng trái tim của người Ukraine ngày nay. Và sự thật mà chúng ta sống và chết là nội dung của sức mạnh, sự kiên cường của chúng ta, và sẽ là chìa khóa cho chiến thắng của Ukraine”.
Trong thông điệp video của mình vào ngày 31 tháng 3, Đức Tổng Giám Mục Shevchuk phản ánh về sự kiên cường của người dân Ukraine, khi cuộc xung đột bước sang tuần thứ sáu.
Ngài nói rằng khả năng sinh tồn của con người có một mức độ tinh thần được đặc trưng bởi sự đấu tranh đạo đức.
Ngài nói: “Chúng ta biết rất rõ rằng mọi Kitô hữu, nhờ quyền năng của mầu nhiệm thánh của phép Rửa Tội, đã được kêu gọi để chiến đấu, chống lại sự dữ”.
Trích dẫn thư Thánh Phaolô gởi các tín hữu thành Êphêsô (6:12), ngài nói thêm: “Tông đồ Phaolô nói rằng “chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao”
Shevchuk lưu ý rằng trong truyền thống Kitô giáo phương Đông, có những ví dụ về thái độ khổ hạnh này giữa các tu sĩ, cũng như những người ẩn dật, những người sống trên chòi cao, những người sống trong túp lều trong các vùng hẻo lánh.
Source:Catholic News Agency
3. Hiệp sĩ Thánh Mộ Jerusalem kêu gọi giúp Thánh địa
Hội Hiệp sĩ Thánh Mộ Jerusalem, Phân bộ Áo quốc, kêu gọi tiếp tục trợ giúp các tín hữu Kitô tại Thánh địa trước tình trạng nhiều người vẫn còn chịu hậu quả nặng nề vì đại dịch Covid-19.
Hội Hiệp sĩ Thánh Mộ Jerusalem, do Đức Hồng Y Fernando Filoni, nguyên Tổng trưởng Bộ Truyền giáo, làm thủ lãnh, có sứ mạng hỗ trợ Tòa Thượng phụ Công Giáo Latinh Jerusalem và Caritas địa phương trong các hoạt động xã hội và giáo dục. Hội có 30.000 Hiệp sĩ hội viên thế giới, trong đó có 550 người thuộc phân bộ Áo.
Trong thông cáo phổ biến ngày 31 tháng Ba vừa qua trên trang mạng, Hội cho biết tình trạng xã hội và chính trị các tín hữu Kitô tại Thánh địa tiếp tục ở mức độ căng thẳng. Trong hai năm qua, đại dịch càng làm cho tình trạng này thêm trầm trọng, đặc biệt tại miền Gaza, bị Israel phong tỏa, tình trạng nhân đạo, xã hội và kinh tế được mô tả là thêm thảm.
Hội Hiệp sĩ Thánh Mộ Jerusalem trợ giúp trong việc bảo trì các thánh đường, trường học, vườn trẻ, các trung tâm xã hội và nhà dưỡng lão do Giáo Hội Công Giáo đảm trách tại Israel, Giordani, và Palestine. Đặc biệt về vấn đề trường học. Tòa Thượng phụ tại đây có 44 trường Công Giáo với gần 20.000 học sinh và 1.600 giáo viên. Những gia đình nghèo được Hội hiệp sĩ trợ giúp học phí để các con em có thể có một nền giáo dục vững chắc cho đến tú tài, chi phí của các trường cũng được Hội này trợ giúp tới 95%.
Những gia đình túng thiếu, được Caritas Jerusalem hỗ trợ với sự giúp đỡ của Hội Hiệp sĩ Thánh Mộ Jerusalem, về tài chánh, thuốc men và săn sóc sức khỏe. Từ khi đại dịch bộc phát, các dự án cứu trợ trong lãnh vực này được đặc biệt nâng đỡ.