Phụng Vụ - Mục Vụ
Chúa luôn mời gọi chúng ta nẻn bạn hữu của Ngài
Lm. Jude Siciliano, OP
05:52 15/05/2015
Chúa Nhật VII PHỤC SINH (B)
Cv 1: 15-17, 20a, 20c-26; T.vịnh 46; 1Ga 4: 11-16; Gioan 17: 11b-19
CHÚA LUÔN MỜI GỌI CHÚNG TA NÊN BẠN HỮU CỦA NGÀI
Cách đây 20 năm, tôi có một ngủỏ̀i bạn đau nặng, chết vi ung thủ. Nhủ̃ng lúc tôi đến thăm và đem những thúc ăn mà anh ta thích và nuốt đủọ̉c. Tôi chẳng bao giỏ̀ biết được lần thăm nào là cuối cùng. Anh ta qua đời trong lúc tôi không có đó. Mặc dù tôi biết bạn tôi sẽ ra đi, tôi thấy anh ta khỏe mạnh lúc tôi thăm lần cuối. Tôi nghĩ tôi sẽ gặp anh ta trỏ̉ lại. (Tôi nhỏ́ đến một câu trong bài hát "Lủ̉a và Mưa" của James Taylor về sụ̉ mất một ngủỏ̀i bạn: "Nhủng tôi vẫn nghĩ tôi sẽ gặp bạn lần nủ̃a"). Nếu tôi biết đủọ̉c bạn tôi sẽ ra đi lúc tôi thăm lần cuối thì tôi sẽ không phí thì giỏ̀ nói về trận đấu banh Chúa Nhật trủỏ́c đó.
Nhủ̃ng câu chuyện chia tay thật là quý giá biết bao: đó là lúc diễn tả tình thủỏng, lòng biết ỏn, và nhủ̃ng lo âu về tủỏng lai. Sau khi bạn tôi mất, tôi nhận đủọ̉c môt tấm thiệp của anh ta. Bạn tôi biết giỏ̀ chót đã gần đến, nên anh ta viết nhủ̃ng gì anh ta suy nghĩ trong tâm hồn và trong tình bạn chung của chúng tôi. Bạn tôi nhỏ̀ một ngủỏ̀i bạn gỏ̉i bủ́c thiệp sau khi anh ta qua đỏ̀i. Thật bạn tôi có lòng tốt ngay đến giỏ̀ chót. Tôi giủ̃ tấm thiệp ghi lỏ̀i cuối cùng làm bằng chủ́ng, và đôi khi mỏ̉ ra đọc lại để nhỏ́ một ngủỏ̀i bạn đặc biệt.
Phúc âm hôm nay là bài diễn tủ̀ "chia tay" trong bủ̃a Tiệc Ly. Vì Chúa Giêsu không chết vì bệnh hoạn, nên Ngài biết giỏ̀ chót đỏ̀i Ngài sắp đến. Sau bủ̃a Tiệc Ly Ngài nói vỏ́i các môn đệ "Thầy gọi anh em là bạn hủ̃u, vì tất cả nhủ̃ng gì Thầy nghe đủọ̉c nỏi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết" (Ga 15:15). Vậy Chúa Giêsu nói vỏ́i các "bạn hủ̃u" về nhủ̃ng điều quan trọng trong tâm hồn và lòng trí Ngài. Các môn đệ sẽ nhỏ́ nhủ̃ng lỏ̀i quý hóa đó và sẽ nói lại vỏ́i chúng ta để khi chúng ta nghe, chúng ta sẽ nhỏ́ đến, và sẽ đủọ̉c thêm năng lụ̉c trong lúc chúng ta cố gắng sống đỏ̀i sống Chúa Giêsu trong "thế gian".
Trong đoạn văn ngắn ấy có 9 lần nói về "thế gian". Và bây giỏ̀ trong phúc âm thánh Gioan "thế gian" nói đến nhủ̃ng ngủỏ̀i, và nhủ̃ng sủ́c lụ̉c chống lại Thiên Chúa. "Thế gian" đó không nói đến thế giỏ́i mà Ngôi Lỏ̀i Chúa đã tạo dụ̉ng (Ga 1:3): "Nhỏ̀ Ngôi Lỏ̀i, vạn vật đủọ̉c tạo thành". Thế giỏ́i mà Thiên Chúa tạo thành, đủọ̉c tình thủỏng của Thiên Chúa gìn giủ̃ và thánh hoá. Nhủng vẫn còn "thế gian" chối bỏ Thiên Chúa và sẽ giết Chúa Giêsu. Ngài để các môn đệ Ngài ỏ̉ lại, và họ sẽ phải bị từ bỏ và chống đối bỏ̉i "thế gian" nhủ Ngài đã bị chối bỏ .
"Thế gian" chống đối môn đệ Chúa Giêsu, không hẵn luôn luôn chống chọi ngay. Thật ra "thế gian" với quyền lực, với vật chất, hào nhoáng sẽ quyến rũ các Kitô hữu, sẽ làm chúng ta mê hoặc và bị lôi kéo. Chúa Giêsu cũng biết nếu chúng ta chống lại đường lối của "thế gian", chúng ta sẽ cảm nghiệm sự chống đối và chối bỏ. Chúng ta sẽ cảm thấy chúng ta như người đứng ngoài lề, không thích hợp vào "thế gian" đó - ngay cả với gia đình chúng ta. Vì thế Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha cho những người Ngài để lại trong "thế gian". Ngài biết vì Ngài đã kinh nghiệm "thế gian" chống đối Ngài, và những giá trị của Ngài.
Lúc tôi còn trẻ, hình như người ta có thể biết các năng lực chống đối Thiên Chúa trong "thế gian". Người ta cho đó là cộng sản. Chúng ta chỉ "thế gian" chống đối Chúa Kitô một cách đơn sơ và dễ dàng Họ cho là những người vô thần, cộng sản. Chúng ta có thể nhìn nhận một cách dễ dàng điều làm chúng ta sợ hãi. Nhưng thật ra, lúc đó đơn sơ và bây giờ cũng đơn sơ dễ dàng. "Thế gian" mà phúc âm thánh Gioan diễn tả rất gần chúng ta. Chúng ta sống trong "thế gian" đó, và các giá trị cúa nó ảnh hưởng chúng ta và con cái chúng ta hằng ngày trong những trường hợp tầm thường. Như, các bậc phụ huynh rất cẫn thận về những điều họ cho con cái họ xem trên truyền hình. Một người cha vừa rồi than phiền về những hình ảnh bạo lực và những tranh ảnh về tình dục xấu xa lúc trước thường chiếu trên truyền hình vào những giờ trễ lúc trẻ con đã ngủ. Rồi ông ta nói "bây giờ các giờ phát chính trên truyền hình là cạm bẩy cho trẻ con về những giá trị mà tôi chống đối".
Nhưng, không những chỉ con cháu chúng ta bị ảnh thưởng của "thế gian" xấu xa này, mà ngay cả chúng ta cũng bị ảnh hưởng phải không? Ảnh hưởng trên chúng ta là ảnh hưởng khuyến khích chúng ta chỉ nghĩ đến mình trước tiên: nghĩ đến sự an toàn cho mình, nghĩ đến vẽ mặt bên ngoài, nghĩ đến vật chất, của cải của mình v.v... Vậy chúng ta có chấp nhận giá trị của "thế gian" hay không? Chúng ta có bị ảnh hưởng do nhìn nhận các giá trị chính của "thế gian" hay không? Chúng ta cần tự hỏi mỗi ngày xem chúng ta có sống lối sống mà Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta hay không? Chúng ta có thể sống 2 lối sống: thuộc về "thế gian" và cùng lúc đó sống những đòi hỏi của đời sống người Kitô hữu. Thật là một sự nguy hiểm, nếu chúng ta sống 2 lối sống đó: theo đường lối giá trị "thế gian" trong 6 ngày, và rồi đến ngày thứ 7 thì tuyên xưng đức tin và sống lối sống khác.
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu nơi bàn tiệc với các môn đệ cũng là lời cầu nguyện Ngài dâng lên nơi bàn ăn với chúng ta hôm nay: là để chúng ta có thể sống trong "thế gian", nhưng không thuộc về "thế gian", không đầu hàng trước "thế gian". Chúa Giêsu muốn chúng ta được thánh hiến trong sự thật: sống và làm nhân chứng cho đường lối của Chúa Kitô trong "thế gian", đường lối của sự thật. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là chúng ta sống trong sự thật của Ngài, và được che chở khỏi ảnh hưởng "thế gian". Nhưng Chúa Giêsu không muốn các môn đệ Ngài dược bóc tách khỏi "thế gian". Trái lại, Ngài gởi các ông vào "thế gian" như Chúa Cha đã gởi Ngài vào "thế gian".
Nếu Chúa Giêsu bỏ chúng ta ra đi thì đau đớn cho chúng ta biết chừng nào phải không? Chúng ta, các môn đệ của Ngài làm sao có thể sống trong "thế gian" đã chối bỏ và giết Ngài? Chúng ta đâu có may mắn gì? Làm sao chúng ta có thể tự sống giữa "thế gian" khi các giá trị sâu đậm của chúng ta, và ngay cả đời sống của chúng ta bị thử thách? Bởi chúng ta, chúng ta không thể nào tự làm được. Nhưng Chúa Giêsu không cầu nguyện cho Ngài trong lúc Ngài sửa soạn ra đi. Ngài cầu nguyện cho chúng ta.
Việc Chúa Giêsu vâng lời thánh ý Thiên Chúa đem đến sự chết cho Ngài. Ngài thánh hiến Ngài để chu toàn sứ vụ Thiên Chúa đã giao. Chúa Giêsu dâng hiến chính Ngài cho các môn đệ; như Ngài đã làm trong bữa Tiệc Ly khi Ngài rửa chân cho các môn đệ. Và bây giờ các ông cũng sẽ được thánh hiến trong sự thật: là sống đời sống khiêm nhường trong phục vụ mà Chúa Giêsu đã sống và đã chết cho lối sống đó.
Chúa Giêsu dâng lời nguyện một lần nữa trong tiệc Thánh Thể. Ngài dâng chúng ta cùng với Ngài cho Chúa Cha. Một lần nữa Ngài thánh hiến chúng ta trong đời sống của Ngài. Chúa Giêsu sống mật thiết với Chúa Cha, và bây giờ Ngài chia sẻ sự sống đó với chúng ta. Thật là một ân huệ cho cộng đoàn này. Chúng ta cùng nhau thánh hiến vào đời sống thánh thiện, và cùng dâng hiến cho nhau trong sự liên kết với Chúa Kitô. Chúng ta cần phải can đảm, nâng đở, và nêu gương nhau trong khi chúng ta sống ơn gọi của chúng ta trong "thế gian". Chúng ta có thể làm điều này cho chúng ta vì lời cầu nguyện của chúng ta được thánh hiến trong sự thật.
Chúa Nhật sau chúng ta sẽ mừng lễ Chúa Thánh Thần và sẽ nghe một bài sách khác của phúc âm thánh Gioan (Ga 15: 26-27; 16: 12-15). Chúng ta sẽ mừng Chúa Giêsu đã gởi "Thần Khí sự thật" - bằng không chúng ta nghĩ là chúng ta tự làm lấy mọi sự. Chúa Giêsu nói Chúa Thánh Thần sẽ "dẫn dắt anh em trong tất cả sự thật". Rốt cùng, Chúa Giêsu không bỏ chúng ta một mình trong "thế gian". Nếu Ngài bỏ chúng ta một mình thì chúng ta sẽ thất bại. Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha cho chúng ta. Ngài họp chúng ta thành cộng đoàn để chúng ta có thể nghe lần nũa những lời giả từ khuyến khích, và như Ngài đã hứa, Ngài sẽ gởi Chúa Thánh Thần để thánh hiến chúng ta và giúp đở chúng ta.
Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP
7th SUNDAY OF EASTER (B) –
Acts 1: 15-17, 20a, 20c-26; Psalm 47; 1 John 4: 11-16; John 17: 11b-19
About 20 years ago I had a friend who was dying of cancer. When I could, I tried to visit and bring him some of the food treats he was still able to swallow. I never knew when our last visit would be. He died while I was away. Though I knew he was dying, at our last visit he still seemed strong; I thought I would see him again. (I am reminded of a line from James Taylor’s song, “Fire and Rain,” about the loss of a friend. “But I always thought I’d see you again.”) If I had known that our visit was our last, I would have said some more important things to him than “wasting” time talking about the past Sunday’s football scores.
Farewell conversations are something precious; a time to express love, gratitude and future concerns. After my friend died I received a card from him! He knew the end was near and he wrote what was on his mind and in his heart about our friendship and our mutual friends. He had a friend mail the card after he died. How very thoughtful he was, right up to the end! I treasured that “last will and testament” and would occasionally re-read it in remembrance of a special friend.
Today’s gospel is from Jesus’ “Farewell Discourse” at the Last Supper. While he isn’t dying from a disease, he does know that the end is near. Later in the meal he will tell his disciples, “...I call you friends since I have made known to you all that I heard from my Father” (15:15). So, Jesus is speaking to his “friends” about important things that are on his mind and in his heart. His disciples will treasure his words and also pass them on to us so that, when we hear them, we will remember and be strengthened as we try to live his life in “the world.”
I count nine references in today’s short reading to “the world.” Now in John’s gospel “the world” refers to those people and forces opposed to God. It does not refer to the world that was created through the Word (1:3); the world that was created and is sustained in God’s love is sacred. But still, there is “the world” that rejects God and is about to put Jesus to death. He is leaving his followers behind and they will have to contend with and be rejected by that world as he was.
The world’s opposition to Jesus’ followers won’t always be outright hostile. In fact, that world of power, status, materialism and sparkle will be alluring to Christians, seduce us and draw us in. Jesus also knows if we do resist the ways of the world, we will experience alienation and opposition. We will feel like strangers, people who don’t fit in – even in our own families! So, Jesus prays to his Father for those he is leaving behind. He knows and will soon have first hand experience, how the world is set over and against him and all he values.
When I was younger the anti-God forces in the world seemed to be more easily identified – they were the Communists. We simplistically thought we could point to “the world” that opposed Christ; it was those atheists, the communists! We could pinpoint the well-defined object of our fears. But, in fact, it wasn’t that simple then and it isn’t simple now. “The world,” as John’s gospel describes it, is much closer to us; we are immersed in it and its values affect us and our children every day in commonplace ways. For example, parents are very careful what they allow their children to watch on television. A father complained recently that offensive violence and explicit sexual material used to be at later hours when his children were asleep. “Now,” he said, “Prime time television is a trap, exposing my kids to values I find objectionable.”
But it is not only our children who are affected by the world’s stealthful influence and entrance into our lives, is it? Ours is a narcissistic age in which we are encouraged to place ourselves first; our comfort, security, looks, possessions, etc. Do we, in fact, embrace the world’s values? Are we suckered into buying into the world’s priorities? We must ask ourselves each day whether we are living the life Jesus has shown us. We can’t be split personalities; belong to the world and, at the same time, live out our Christian commitment. There is a danger we are trying to live two lives simultaneously: follow one set of values for six days and then, on the seventh, profess faith in another way of living.
Jesus’ prayer at table with his disciples is the same prayer he offers at table with us today; that we might live in the world, but not surrender to it. He wants us to be “consecrated to the truth”: to live and give witness in the world of Christ’s way, the way of truth. His prayer is that we live in his truth and be protected from the world. But he doesn’t want his disciples to live barricaded off from the world. Quite the contrary, he sends them out into the world, just as his Father has sent him.
Wouldn’t it be terrible if Jesus just up and left us? How could we, his disciples, live in the same world that rejected and killed him? What chance would we have? How would we fare on our own, when our deepest values or even our lives, were threatened? On our own, we couldn’t, but Jesus isn’t praying for himself as he prepares to leave – he is praying for us.
Jesus’ obedience to God’s will is going to bring on his death. He “consecrates” (“sanctifies”) himself to fulfilling God’s mission he was sent by the Father to accomplish. Jesus is giving himself up for the sake of his disciples and as he showed them earlier in the meal (13:1ff.), when he washed their feet, now they too are going to be consecrated to living the truth – the life of humble service he lived and died for.
Gathered at Eucharist Jesus is offering his prayer again for us and he is offering us, with himself, to his Father. Once again he is consecrating us in his life. Jesus has and shares an intimate life with the Father and now he is sharing that life with us. What a blessing this community is! Together we are consecrated into the divine life and also committed to one another by our union in Christ. We are to be courage, support and example to one another as we live our vocations in the world. We are able to do that because Jesus’ prayer for us is heard – we are consecrated in truth.
Next week we will celebrate Pentecost and hear another reading from John’s gospel (15: 26-27; 16: 12-15). We will celebrate that Jesus has sent us “the Spirit of truth” – lest we think we have to work out things on our own. That Spirit, Jesus tells us, will “guide you to all truth.” As it turns out, Jesus has not left us alone in the world, if he had, it would defeat us. He prays for us to his Father; he gathers us in community so we can hear again his encouraging farewell words and, as he promised, he sends us the Holy Spirit, who consecrates us and enables us to live the truth of Jesus’ life in the world.
Cv 1: 15-17, 20a, 20c-26; T.vịnh 46; 1Ga 4: 11-16; Gioan 17: 11b-19
CHÚA LUÔN MỜI GỌI CHÚNG TA NÊN BẠN HỮU CỦA NGÀI
Cách đây 20 năm, tôi có một ngủỏ̀i bạn đau nặng, chết vi ung thủ. Nhủ̃ng lúc tôi đến thăm và đem những thúc ăn mà anh ta thích và nuốt đủọ̉c. Tôi chẳng bao giỏ̀ biết được lần thăm nào là cuối cùng. Anh ta qua đời trong lúc tôi không có đó. Mặc dù tôi biết bạn tôi sẽ ra đi, tôi thấy anh ta khỏe mạnh lúc tôi thăm lần cuối. Tôi nghĩ tôi sẽ gặp anh ta trỏ̉ lại. (Tôi nhỏ́ đến một câu trong bài hát "Lủ̉a và Mưa" của James Taylor về sụ̉ mất một ngủỏ̀i bạn: "Nhủng tôi vẫn nghĩ tôi sẽ gặp bạn lần nủ̃a"). Nếu tôi biết đủọ̉c bạn tôi sẽ ra đi lúc tôi thăm lần cuối thì tôi sẽ không phí thì giỏ̀ nói về trận đấu banh Chúa Nhật trủỏ́c đó.
Nhủ̃ng câu chuyện chia tay thật là quý giá biết bao: đó là lúc diễn tả tình thủỏng, lòng biết ỏn, và nhủ̃ng lo âu về tủỏng lai. Sau khi bạn tôi mất, tôi nhận đủọ̉c môt tấm thiệp của anh ta. Bạn tôi biết giỏ̀ chót đã gần đến, nên anh ta viết nhủ̃ng gì anh ta suy nghĩ trong tâm hồn và trong tình bạn chung của chúng tôi. Bạn tôi nhỏ̀ một ngủỏ̀i bạn gỏ̉i bủ́c thiệp sau khi anh ta qua đỏ̀i. Thật bạn tôi có lòng tốt ngay đến giỏ̀ chót. Tôi giủ̃ tấm thiệp ghi lỏ̀i cuối cùng làm bằng chủ́ng, và đôi khi mỏ̉ ra đọc lại để nhỏ́ một ngủỏ̀i bạn đặc biệt.
Phúc âm hôm nay là bài diễn tủ̀ "chia tay" trong bủ̃a Tiệc Ly. Vì Chúa Giêsu không chết vì bệnh hoạn, nên Ngài biết giỏ̀ chót đỏ̀i Ngài sắp đến. Sau bủ̃a Tiệc Ly Ngài nói vỏ́i các môn đệ "Thầy gọi anh em là bạn hủ̃u, vì tất cả nhủ̃ng gì Thầy nghe đủọ̉c nỏi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết" (Ga 15:15). Vậy Chúa Giêsu nói vỏ́i các "bạn hủ̃u" về nhủ̃ng điều quan trọng trong tâm hồn và lòng trí Ngài. Các môn đệ sẽ nhỏ́ nhủ̃ng lỏ̀i quý hóa đó và sẽ nói lại vỏ́i chúng ta để khi chúng ta nghe, chúng ta sẽ nhỏ́ đến, và sẽ đủọ̉c thêm năng lụ̉c trong lúc chúng ta cố gắng sống đỏ̀i sống Chúa Giêsu trong "thế gian".
Trong đoạn văn ngắn ấy có 9 lần nói về "thế gian". Và bây giỏ̀ trong phúc âm thánh Gioan "thế gian" nói đến nhủ̃ng ngủỏ̀i, và nhủ̃ng sủ́c lụ̉c chống lại Thiên Chúa. "Thế gian" đó không nói đến thế giỏ́i mà Ngôi Lỏ̀i Chúa đã tạo dụ̉ng (Ga 1:3): "Nhỏ̀ Ngôi Lỏ̀i, vạn vật đủọ̉c tạo thành". Thế giỏ́i mà Thiên Chúa tạo thành, đủọ̉c tình thủỏng của Thiên Chúa gìn giủ̃ và thánh hoá. Nhủng vẫn còn "thế gian" chối bỏ Thiên Chúa và sẽ giết Chúa Giêsu. Ngài để các môn đệ Ngài ỏ̉ lại, và họ sẽ phải bị từ bỏ và chống đối bỏ̉i "thế gian" nhủ Ngài đã bị chối bỏ .
"Thế gian" chống đối môn đệ Chúa Giêsu, không hẵn luôn luôn chống chọi ngay. Thật ra "thế gian" với quyền lực, với vật chất, hào nhoáng sẽ quyến rũ các Kitô hữu, sẽ làm chúng ta mê hoặc và bị lôi kéo. Chúa Giêsu cũng biết nếu chúng ta chống lại đường lối của "thế gian", chúng ta sẽ cảm nghiệm sự chống đối và chối bỏ. Chúng ta sẽ cảm thấy chúng ta như người đứng ngoài lề, không thích hợp vào "thế gian" đó - ngay cả với gia đình chúng ta. Vì thế Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha cho những người Ngài để lại trong "thế gian". Ngài biết vì Ngài đã kinh nghiệm "thế gian" chống đối Ngài, và những giá trị của Ngài.
Lúc tôi còn trẻ, hình như người ta có thể biết các năng lực chống đối Thiên Chúa trong "thế gian". Người ta cho đó là cộng sản. Chúng ta chỉ "thế gian" chống đối Chúa Kitô một cách đơn sơ và dễ dàng Họ cho là những người vô thần, cộng sản. Chúng ta có thể nhìn nhận một cách dễ dàng điều làm chúng ta sợ hãi. Nhưng thật ra, lúc đó đơn sơ và bây giờ cũng đơn sơ dễ dàng. "Thế gian" mà phúc âm thánh Gioan diễn tả rất gần chúng ta. Chúng ta sống trong "thế gian" đó, và các giá trị cúa nó ảnh hưởng chúng ta và con cái chúng ta hằng ngày trong những trường hợp tầm thường. Như, các bậc phụ huynh rất cẫn thận về những điều họ cho con cái họ xem trên truyền hình. Một người cha vừa rồi than phiền về những hình ảnh bạo lực và những tranh ảnh về tình dục xấu xa lúc trước thường chiếu trên truyền hình vào những giờ trễ lúc trẻ con đã ngủ. Rồi ông ta nói "bây giờ các giờ phát chính trên truyền hình là cạm bẩy cho trẻ con về những giá trị mà tôi chống đối".
Nhưng, không những chỉ con cháu chúng ta bị ảnh thưởng của "thế gian" xấu xa này, mà ngay cả chúng ta cũng bị ảnh hưởng phải không? Ảnh hưởng trên chúng ta là ảnh hưởng khuyến khích chúng ta chỉ nghĩ đến mình trước tiên: nghĩ đến sự an toàn cho mình, nghĩ đến vẽ mặt bên ngoài, nghĩ đến vật chất, của cải của mình v.v... Vậy chúng ta có chấp nhận giá trị của "thế gian" hay không? Chúng ta có bị ảnh hưởng do nhìn nhận các giá trị chính của "thế gian" hay không? Chúng ta cần tự hỏi mỗi ngày xem chúng ta có sống lối sống mà Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta hay không? Chúng ta có thể sống 2 lối sống: thuộc về "thế gian" và cùng lúc đó sống những đòi hỏi của đời sống người Kitô hữu. Thật là một sự nguy hiểm, nếu chúng ta sống 2 lối sống đó: theo đường lối giá trị "thế gian" trong 6 ngày, và rồi đến ngày thứ 7 thì tuyên xưng đức tin và sống lối sống khác.
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu nơi bàn tiệc với các môn đệ cũng là lời cầu nguyện Ngài dâng lên nơi bàn ăn với chúng ta hôm nay: là để chúng ta có thể sống trong "thế gian", nhưng không thuộc về "thế gian", không đầu hàng trước "thế gian". Chúa Giêsu muốn chúng ta được thánh hiến trong sự thật: sống và làm nhân chứng cho đường lối của Chúa Kitô trong "thế gian", đường lối của sự thật. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là chúng ta sống trong sự thật của Ngài, và được che chở khỏi ảnh hưởng "thế gian". Nhưng Chúa Giêsu không muốn các môn đệ Ngài dược bóc tách khỏi "thế gian". Trái lại, Ngài gởi các ông vào "thế gian" như Chúa Cha đã gởi Ngài vào "thế gian".
Nếu Chúa Giêsu bỏ chúng ta ra đi thì đau đớn cho chúng ta biết chừng nào phải không? Chúng ta, các môn đệ của Ngài làm sao có thể sống trong "thế gian" đã chối bỏ và giết Ngài? Chúng ta đâu có may mắn gì? Làm sao chúng ta có thể tự sống giữa "thế gian" khi các giá trị sâu đậm của chúng ta, và ngay cả đời sống của chúng ta bị thử thách? Bởi chúng ta, chúng ta không thể nào tự làm được. Nhưng Chúa Giêsu không cầu nguyện cho Ngài trong lúc Ngài sửa soạn ra đi. Ngài cầu nguyện cho chúng ta.
Việc Chúa Giêsu vâng lời thánh ý Thiên Chúa đem đến sự chết cho Ngài. Ngài thánh hiến Ngài để chu toàn sứ vụ Thiên Chúa đã giao. Chúa Giêsu dâng hiến chính Ngài cho các môn đệ; như Ngài đã làm trong bữa Tiệc Ly khi Ngài rửa chân cho các môn đệ. Và bây giờ các ông cũng sẽ được thánh hiến trong sự thật: là sống đời sống khiêm nhường trong phục vụ mà Chúa Giêsu đã sống và đã chết cho lối sống đó.
Chúa Giêsu dâng lời nguyện một lần nữa trong tiệc Thánh Thể. Ngài dâng chúng ta cùng với Ngài cho Chúa Cha. Một lần nữa Ngài thánh hiến chúng ta trong đời sống của Ngài. Chúa Giêsu sống mật thiết với Chúa Cha, và bây giờ Ngài chia sẻ sự sống đó với chúng ta. Thật là một ân huệ cho cộng đoàn này. Chúng ta cùng nhau thánh hiến vào đời sống thánh thiện, và cùng dâng hiến cho nhau trong sự liên kết với Chúa Kitô. Chúng ta cần phải can đảm, nâng đở, và nêu gương nhau trong khi chúng ta sống ơn gọi của chúng ta trong "thế gian". Chúng ta có thể làm điều này cho chúng ta vì lời cầu nguyện của chúng ta được thánh hiến trong sự thật.
Chúa Nhật sau chúng ta sẽ mừng lễ Chúa Thánh Thần và sẽ nghe một bài sách khác của phúc âm thánh Gioan (Ga 15: 26-27; 16: 12-15). Chúng ta sẽ mừng Chúa Giêsu đã gởi "Thần Khí sự thật" - bằng không chúng ta nghĩ là chúng ta tự làm lấy mọi sự. Chúa Giêsu nói Chúa Thánh Thần sẽ "dẫn dắt anh em trong tất cả sự thật". Rốt cùng, Chúa Giêsu không bỏ chúng ta một mình trong "thế gian". Nếu Ngài bỏ chúng ta một mình thì chúng ta sẽ thất bại. Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha cho chúng ta. Ngài họp chúng ta thành cộng đoàn để chúng ta có thể nghe lần nũa những lời giả từ khuyến khích, và như Ngài đã hứa, Ngài sẽ gởi Chúa Thánh Thần để thánh hiến chúng ta và giúp đở chúng ta.
Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP
7th SUNDAY OF EASTER (B) –
Acts 1: 15-17, 20a, 20c-26; Psalm 47; 1 John 4: 11-16; John 17: 11b-19
About 20 years ago I had a friend who was dying of cancer. When I could, I tried to visit and bring him some of the food treats he was still able to swallow. I never knew when our last visit would be. He died while I was away. Though I knew he was dying, at our last visit he still seemed strong; I thought I would see him again. (I am reminded of a line from James Taylor’s song, “Fire and Rain,” about the loss of a friend. “But I always thought I’d see you again.”) If I had known that our visit was our last, I would have said some more important things to him than “wasting” time talking about the past Sunday’s football scores.
Farewell conversations are something precious; a time to express love, gratitude and future concerns. After my friend died I received a card from him! He knew the end was near and he wrote what was on his mind and in his heart about our friendship and our mutual friends. He had a friend mail the card after he died. How very thoughtful he was, right up to the end! I treasured that “last will and testament” and would occasionally re-read it in remembrance of a special friend.
Today’s gospel is from Jesus’ “Farewell Discourse” at the Last Supper. While he isn’t dying from a disease, he does know that the end is near. Later in the meal he will tell his disciples, “...I call you friends since I have made known to you all that I heard from my Father” (15:15). So, Jesus is speaking to his “friends” about important things that are on his mind and in his heart. His disciples will treasure his words and also pass them on to us so that, when we hear them, we will remember and be strengthened as we try to live his life in “the world.”
I count nine references in today’s short reading to “the world.” Now in John’s gospel “the world” refers to those people and forces opposed to God. It does not refer to the world that was created through the Word (1:3); the world that was created and is sustained in God’s love is sacred. But still, there is “the world” that rejects God and is about to put Jesus to death. He is leaving his followers behind and they will have to contend with and be rejected by that world as he was.
The world’s opposition to Jesus’ followers won’t always be outright hostile. In fact, that world of power, status, materialism and sparkle will be alluring to Christians, seduce us and draw us in. Jesus also knows if we do resist the ways of the world, we will experience alienation and opposition. We will feel like strangers, people who don’t fit in – even in our own families! So, Jesus prays to his Father for those he is leaving behind. He knows and will soon have first hand experience, how the world is set over and against him and all he values.
When I was younger the anti-God forces in the world seemed to be more easily identified – they were the Communists. We simplistically thought we could point to “the world” that opposed Christ; it was those atheists, the communists! We could pinpoint the well-defined object of our fears. But, in fact, it wasn’t that simple then and it isn’t simple now. “The world,” as John’s gospel describes it, is much closer to us; we are immersed in it and its values affect us and our children every day in commonplace ways. For example, parents are very careful what they allow their children to watch on television. A father complained recently that offensive violence and explicit sexual material used to be at later hours when his children were asleep. “Now,” he said, “Prime time television is a trap, exposing my kids to values I find objectionable.”
But it is not only our children who are affected by the world’s stealthful influence and entrance into our lives, is it? Ours is a narcissistic age in which we are encouraged to place ourselves first; our comfort, security, looks, possessions, etc. Do we, in fact, embrace the world’s values? Are we suckered into buying into the world’s priorities? We must ask ourselves each day whether we are living the life Jesus has shown us. We can’t be split personalities; belong to the world and, at the same time, live out our Christian commitment. There is a danger we are trying to live two lives simultaneously: follow one set of values for six days and then, on the seventh, profess faith in another way of living.
Jesus’ prayer at table with his disciples is the same prayer he offers at table with us today; that we might live in the world, but not surrender to it. He wants us to be “consecrated to the truth”: to live and give witness in the world of Christ’s way, the way of truth. His prayer is that we live in his truth and be protected from the world. But he doesn’t want his disciples to live barricaded off from the world. Quite the contrary, he sends them out into the world, just as his Father has sent him.
Wouldn’t it be terrible if Jesus just up and left us? How could we, his disciples, live in the same world that rejected and killed him? What chance would we have? How would we fare on our own, when our deepest values or even our lives, were threatened? On our own, we couldn’t, but Jesus isn’t praying for himself as he prepares to leave – he is praying for us.
Jesus’ obedience to God’s will is going to bring on his death. He “consecrates” (“sanctifies”) himself to fulfilling God’s mission he was sent by the Father to accomplish. Jesus is giving himself up for the sake of his disciples and as he showed them earlier in the meal (13:1ff.), when he washed their feet, now they too are going to be consecrated to living the truth – the life of humble service he lived and died for.
Gathered at Eucharist Jesus is offering his prayer again for us and he is offering us, with himself, to his Father. Once again he is consecrating us in his life. Jesus has and shares an intimate life with the Father and now he is sharing that life with us. What a blessing this community is! Together we are consecrated into the divine life and also committed to one another by our union in Christ. We are to be courage, support and example to one another as we live our vocations in the world. We are able to do that because Jesus’ prayer for us is heard – we are consecrated in truth.
Next week we will celebrate Pentecost and hear another reading from John’s gospel (15: 26-27; 16: 12-15). We will celebrate that Jesus has sent us “the Spirit of truth” – lest we think we have to work out things on our own. That Spirit, Jesus tells us, will “guide you to all truth.” As it turns out, Jesus has not left us alone in the world, if he had, it would defeat us. He prays for us to his Father; he gathers us in community so we can hear again his encouraging farewell words and, as he promised, he sends us the Holy Spirit, who consecrates us and enables us to live the truth of Jesus’ life in the world.
Thánh Thiện
Lm Vũđình Tường
06:07 15/05/2015
Được sinh ra làm người là một điều may mắn nhưng hạnh phúc hơn nếu người đó được thánh hiến để trở nên thánh thiện, thành con cái Thiên Chúa. Trẻ thơ năm bảy tháng tuổi đã biết giữ đồ chơi cho riêng mình, biết ghen khi mẹ em bồng đứa trẻ khác. Con người trở nên thánh thiện không phải vì ‘nhân chi sơ tính bổn thiện’ như quan niệm xưa mà thực ra được giáo huấn, uốn nắn để trở nên tốt, nên thánh thiện. Kitô hữu trở nên thánh thiện qua việc thánh hiến cho Thiên Chúa. Bí Tích Thanh Tẩy biến chúng ta trở nên trong sáng, thánh thiện và quan trọng hơn cả là biến chúng ta thành con Thiên Chúa, gia nhập Giáo Hội Chúa. Là con Thiên Chúa có nghĩa là được tháp vào thân thể của của Đấng Chí Thánh Thiên Chúa Ba Ngôi, là thành phần của Giáo Hội Chúa nơi trần thế và tiến vào cõi hạnh phúc thật đời sau trong nhà Chúa. Là con Thiên Chúa là kẻ thừa tự và hưởng gia nghiệp Chúa ban. Con Thiên Chúa sống trong xã hội, là phần tử của xã hội nhưng không thuộc về xã hội mà thuộc về Chúa. Con Thiên Chúa được Thánh Thần Chúa hướng dẫn, thêm sức vượt qua gian nan khốn khó trong đời, thêm sức để trung tín trong việc làm chứng nhân trung kiên trong đời sống đức tin giữa đời. Là con Thiên Chúa Kitô hữu được mời gọi chia sẻ sứ mạng của Đức Kitô, tiếp tục sứ mạng rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng đồng thời góp phần vào việc xoa dịu đau khổ của tha nhân. Vì thế Kitô hữu được Đức Kitô sai đi sống giữa đời, thi hành sứ mạng của mình. Đức Kitô là ánh sáng cho thế gian chúng ta được mời gọi trở thành muối cho đời và ánh sáng cho thế giới.
Chữ thánh hiến có nguồn gốc từ tiếng Latinh và có nghĩa là được tăng thêm sức mạnh để hiến tặng cho Thiên Chúa. Như thế những gì được dâng hiến cho Thiên Chúa đều trở thành vật được thánh hiến, ví dụ như đất thánh, phòng thánh, đồ thánh. Qua Bí Tích Thanh Tẩy Kitô hữu được thánh hiến cho Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể thánh hiến ta bởi Ngài là Đấng Chí Thánh và những ai tiếp xúc với Ngài đều nhờ ơn thánh Ngài toả ra mà được thánh hiến. Chính vì thế mà Đức Kitô nói không có Ngài chúng ta không làm được gì bởi mọi sự tốt lành đều phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng Chí Thánh. Cắt đứt từ nguồn thánh vô tận thì ơn thánh hữu hạn trong ta bị cắt đứt và ta sẽ không còn thông ơn với ơn thánh vô hạn từ Đức Kitô nữa nên ta không làm được điều gì thánh thiện bởi ơn đó bị khô cạn trong ta. Vì lí do đó Đức Kitô nhắc Kitô hữu là liên kết với Ngài để được sự sống dồi dào, được sinh hoa trái tốt bởi nhờ ơn thánh Ngài ban mà ta có thể thâu hoạch được thành quả tốt lành.
Đức Kitô về cùng Chúa Cha bởi Ngài từ Chúa Cha mà đến. Khi hoàn tất sứ mạng cứu độ Đức Kitô trở về nơi Ngài xuất phát. Ngài trở về nơi xuất phát với một thân xác đầy thương tích và một con tim bị đâm thâu qua. Ngài để lại tất cả thành quả, gia tài là Giáo Hội Ngài nơi trần thế cho Kitô hữu tiếp tục rao giảng chương trình cứu độ cho muôn dân. Chương trình cứu độ Đức Kitô đã hoàn tất nhưng rao giảng về chương trình đó còn kéo dài cho đến khi Đức Kitô đến lần thứ hai trong vinh quang, lúc đó là thời điểm chấm dứt rao giảng về chương trình cứu độ và đó cũng là thời gian viên mãn. Sứ mạng kitô hữu lãnh nhận khi Rửa Tội chính là sứ mạng vừa làm chứng nhân vừa rao giảng cho chương trình cứu độ của Chúa.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Chữ thánh hiến có nguồn gốc từ tiếng Latinh và có nghĩa là được tăng thêm sức mạnh để hiến tặng cho Thiên Chúa. Như thế những gì được dâng hiến cho Thiên Chúa đều trở thành vật được thánh hiến, ví dụ như đất thánh, phòng thánh, đồ thánh. Qua Bí Tích Thanh Tẩy Kitô hữu được thánh hiến cho Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể thánh hiến ta bởi Ngài là Đấng Chí Thánh và những ai tiếp xúc với Ngài đều nhờ ơn thánh Ngài toả ra mà được thánh hiến. Chính vì thế mà Đức Kitô nói không có Ngài chúng ta không làm được gì bởi mọi sự tốt lành đều phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng Chí Thánh. Cắt đứt từ nguồn thánh vô tận thì ơn thánh hữu hạn trong ta bị cắt đứt và ta sẽ không còn thông ơn với ơn thánh vô hạn từ Đức Kitô nữa nên ta không làm được điều gì thánh thiện bởi ơn đó bị khô cạn trong ta. Vì lí do đó Đức Kitô nhắc Kitô hữu là liên kết với Ngài để được sự sống dồi dào, được sinh hoa trái tốt bởi nhờ ơn thánh Ngài ban mà ta có thể thâu hoạch được thành quả tốt lành.
Đức Kitô về cùng Chúa Cha bởi Ngài từ Chúa Cha mà đến. Khi hoàn tất sứ mạng cứu độ Đức Kitô trở về nơi Ngài xuất phát. Ngài trở về nơi xuất phát với một thân xác đầy thương tích và một con tim bị đâm thâu qua. Ngài để lại tất cả thành quả, gia tài là Giáo Hội Ngài nơi trần thế cho Kitô hữu tiếp tục rao giảng chương trình cứu độ cho muôn dân. Chương trình cứu độ Đức Kitô đã hoàn tất nhưng rao giảng về chương trình đó còn kéo dài cho đến khi Đức Kitô đến lần thứ hai trong vinh quang, lúc đó là thời điểm chấm dứt rao giảng về chương trình cứu độ và đó cũng là thời gian viên mãn. Sứ mạng kitô hữu lãnh nhận khi Rửa Tội chính là sứ mạng vừa làm chứng nhân vừa rao giảng cho chương trình cứu độ của Chúa.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Hãy trở nên nhân chứng cho Đức Kitô trong trần gian
Lm. Jude Siciliano, OP
06:16 15/05/2015
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THĂNG THIÊN
Cv 1: 1-11; T.vịnh 46; Êphêsô 1: 17-23 ;(Ep 4: 1-13) Máccô 16: 15-20
HÃY TRỞ NÊN NHÂN CHỨNG CHO ĐỨC KITÔ TRONG TRẦN GIAN
Một người thường thăm nhà nguyện dòng chúng tôi hỏi vài thầy dòng những ngày chúng tôi chịu chức. Bà ta ngạc nhiên sao những ngày đó gần nhau vậy. Thường lệ thì lễ thụ phong linh mục xảy ra trong tháng 6 không kể năm nào cả. Câu hỏi bà ta làm chúng tôi nhỏ́ lại. Chúng tôi rất bận rộn nhủ̃ng tháng trủỏ́c ngày chịu chủ́c. Có lẽ không nhủ nhủ̃ng gia đình bận rộn về việc sủ̃a soạn một đám củỏ́i, nhủng cũng bận rộn khá nhiều.
Chúng tôi phải gỏ̉i thiệp mỏ̀i bà con và bạn bè, dọn dẹp nhà củ̉a để đãi tiệc. Rồi đến nhủ̃ng việc về học vấn trong khóa trủỏ́c lễ chịu chủ́c: nào ra hội đồng phỏng vấn, thi về việc làm bí tích giải tội, về thần học và Kinh Thánh, và tập lo thực hiện các bí tích cho thông thạo.
Trong các việc thi đó không bao giỏ̀ có câu hỏi nhủ trong phúc âm thánh Máccô về việc "bắt rắn" bằng tay hay "uống thuốc độc". Tôi chắc chúng tôi không thể sống đủọ̉c nếu phải qua các đề thi về đủ́c tin đó. Khi tôi ỏ̉ West Vỉrginia và làm thầy giảng ỏ̉ đó tôi có nghe nói một thầy giảng trong lúc giủ̃a bài giảng đủa tay thò vào một thùng rắn độc theo bài giảng hôm nay. Thầy giảng bị rắn cắn làm giáo dân phải đủa thầy vào phòng cấp củ́u. Chúng tôi, các ủ́ng củ̉ viên để chịu chủ́c thánh, hay để phục vụ giáo dân là nhủ̃ng ngủỏ̀i phàm. Chúng tôi cố gắng hết sủ́c để trung thành vỏ́i lỏ̀i dạy của Chúa Giêsu "hãy đi khắp thế gian rao giảng tin mủ̀ng cho khắp mọi loài tạo vật".
Vủ̀a rồi tôi đủ́ng cạnh một ngủỏ̀i bạn đang hấp hối. Chúng tôi có sách chỉ cách và kinh đọc để làm phép xủ́c dầu cho ngủỏ̀i ốm đau và ngủỏ̀i hấp hối. Nhủng chúng tôi không có lỏ̀i chỉ dẫn phải nói gì trong lúc đó. Không có câu trả lỏ̀i để đáp lại nhủ̃ng câu hỏi trong nhủ̃ng lúc đó, hay về nhủ̃ng trủỏ̀ng họ̉p khác trong giáo xứ vỏ́i nhủ̃ng nhân viên trong HĐMV giáo xủ́, hay các bậc phụ huynh, bạn hủ̃u và các ngủỏ̀i lo việc ngoài xủ́ đạo khi chúng tôi đi vỏ́i họ lúc cần thiết. Chúa Giêsu bảo, nhủ̃ng khi chúng tôi gặp các mầu nhiệm, không có câu trả lỏ̀i đủọ̉c, nhủ về bệnh hoạn, sụ̉ thất bại hay chết chóc. Chúng ta đủọ̉c bảo đảm sụ̉ hiện diện của Chúa Giêsu ỏ̉ đó. Chúng ta sẽ có "dấu chỉ" của nhủ̃ng ngủỏ̀i tin vào thánh danh Chúa.
Hôm nay lễ Chúa Thăng Thiên, một lễ nối liền. Bài sách trích trong Công Vụ Tông Đồ nói rõ về điều đó. Lễ này đến sau lễ Phục Sinh. Sau 40 ngày Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần cho các môn đệ, và bây giỏ̀ Ngài tủ̀ giả họ.
Điều Chúa Giêsu nói vỏ́i các môn đệ nghe nhủ mội bài diễn văn trong dịp ra trủỏ̀ng. Đại học gần nhà dòng chúng tôi sắp có lễ ra trủỏ̀ng. Ra trủỏ̀ng là kết quả nhủ̃ng năm học tập, chúng ta gọi đó là "lễ kết thúc". Lẽ cố nhiên là có nhủ̃ng kết thúc vì đó là lúc cuối cùng các sinh viên gặp nhau đông đủ, và lọ̉p học kết thúc rồi biết bao lỏ̀i giã tủ̀. Nhủng không phải là lễ kết thúc mà là "lễ Bắt Đầu". Các sinh viên bắt đầu lên đủỏ̀ng vỏ́i sụ̉ nghiệp, họ sẽ đối phó vỏ́i nhủ̃ng lúc khó khăn, và còn phải nghĩ đến việc trả nọ̉ tiền vay trong lúc học hành.
Đối vỏ́i các môn đệ Chúa Giêsu cũng vậy vào ngày "Lễ Bắt Đầu". Đó là kết thúc sứ vụ của Chúa Giêsu, và bao nhiêu điều khác họ sẽ gặp trong tủỏng lai. Thiên Chúa muốn chúng ta hoạt động trong thế gian qua Chúa Giêsu. Bây giỏ̀ các môn đệ sẽ tiếp tục phục vụ. Các ông sẽ đủọ̉c gọi đi chủ̃a bệnh, hòa giải nhủ̃ng ngủỏ̀i chống đối nhau, cho kẻ đói ăn, dạy dỗ ngủỏ̀i ta về đủỏ̀ng lối của Thiên Chúa. Đó là tất cả nhủ̃ng điều chúng ta đủọ̉c gọi để thực hiện.
Đây không chỉ là lễ cho các linh mục, các nủ̃ tu và nhủ̃ng ngủỏ̀i lãnh chủ́c vụ trong xủ́ đạo. Đó là điều đòi hỏi tất cả chúng ta, nhủ̃ng ngủỏ̀i có thái độ "chỏ̀ đọ̉i để xem". Chúa Giêsu không chỉ cuốn gói về nhà. Ngài khuyến khích chúng ta hãy dấn thân vào thế gian - ỏ̉ trong thế gian nhủ Ngài đã sống trong thế gian. Tất cả nhủ̃ng gì giúp loài ngủỏ̀i tiến lên, là tất cả nhủ̃ng điều chúng ta phải để ý đến.
Trủỏ́c khi Chúa Giêsu ra đi, Ngài không nói vỏ́i các môn đệ là các ông sẽ phải cẫn thận, họp nhau thành một nhóm chặt chẻ vỏ́i nhau, phụng vụ đặc biệt trong phòng đóng củ̉a kín. Trái lại, Ngài bảo các ông ra đi khắp thế gian giảng dạy cho mọi loài tạo vật. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ chân lấm tay bùn, và có thể mắc lỗi lầm. Chắc là chúng ta sẽ không thắng đạt thành quả lỏ́n theo nhủ ý nghĩ của thế gian. Chúa Giêsu đòi hỏi một số đông trong chúng ta là nhủ̃ng môn đệ không đủọ̉c huấn luyến nhiều, và hay sọ̉ sệt.
Chúa Giêsu dùng nhủ̃ng hình ảnh trong lỏ̀i nói củ́ng rắn để nhấn mạnh ý kiến mạnh dạn và can đảm, không sọ̉ hãi, và đầy tin tủỏ̉ng. Nhủ Ngài nói "uống thuốc độc", “bắt rắn", hay nói cách khác là "hãy dụ̉a vào Thầy, và Thầy sẽ ỏ̉ vỏ́i anh em". Không ai có thể tránh khỏi đủọ̉c nhiệm vụ Chúa Giêsu giao phó cho chúng ta. Ngài khuyến khích cả nhủ̃ng ngủỏ̀i tật nguyền, nhủ̃ng ngủỏ̀i yếu đuối và tội lỗi trong chúng ta. Thánh Phaolô gọi chúng ta là "nhủ̃ng bình đất tầm thủỏ̀ng". Chúng ta không là nhủ̃ng ngủỏ̀i tài giỏi, nhủng vỏ́i Chúa Kitô, chúng ta là nhủ̃ng ngủỏ̀i hủ̃u dụng. Bình đất có thể chủ́a đủọ̉c nủỏ́c cho ngủỏ̀i khát uống, và đem thủ́c ăn cho ngủỏ̀i đói. Điều xác quyết mà chúng ta nghe hôm nay là mặc dù chúng ta làm thế nào đi nủ̃a chúng ta đã đủọ̉c gọi để phục vụ. Chúa Giêsu sẽ ỏ̉ vỏ́i chúng ta để làm bằng chủ́ng sụ̉ hiện diện của Ngài, một cách đích thật và cụ thể.
Lễ Chúa Thăng Thiên thật đúng là lễ của chúng ta. Trong Công Vụ Tông Đồ thánh Luca nói rõ về nhủ̃ng ngày sinh trủỏ̉ng của Giáo Hội. Thỏ̀i buổi của Giáo Hội kéo dài đến ngày Chúa Giêsu trỏ̉ lại. Mặc dù, hình nhủ Chúa Giêsu vắng mặt, và hình nhủ chúng ta cảm nhận Ngài bỏ rỏi chúng ta, thánh Luca nói "Nhủng anh em sẽ nhận đủọ̉c sủ́c mạnh của Thánh Thần khi Ngủỏ̀i ngụ̉ xuống trên anh em. Bấy giỏ̀ anh em sẽ là chủ́ng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giu-đê, Samari và cho đến tận cùng trái đất".
Vủ̀a ngay khi chúng ta cảm thấy lo sọ̉, thiếu thốn, và tội lỗi, Kinh Thánh loan báo "Nhủng". Sau tiếng "Nhủng" đó, chúng ta nghe Thiên Chúa sẽ làm gì cho chúng ta. Mặc dù chúng ta lo sọ̉, thiếu thốn và tuyên xủng yếu hèn, chúng ta nghe "Nhủng anh em sẽ nhận đủọ̉c sủ́c mạnh…"
Sau khi nghe và nhìn nhận nhủ̃ng đau khổ và cần giúp đỏ̃ của loài ngủỏ̀i, chúng ta loan báo Tin Mủ̀ng vỏ́i tiếng nói "Nhủng". Có thể nghe ra nhủ thế này: "nhủng tôi sẽ không bỏ bạn lúc cần thiết”, "nhủng tôi sẽ đủ́ng vỏ́i bạn trong sụ̉ bất công gây sụ̉ thiếu hụt cho bạn", "nhủng tôi sẽ đi mua vật dụng cho bạn khi bạn ốm đau", "nhủng tôi sẽ cầu nguyện cho bạn phục hồi sủ́c khỏe", "nhủng tôi sẽ thăm bạn trong lao tù". . .
Chúng ta có thể nói lên tiếng "nhủng" trủỏ́c nhủ̃ng thiếu thốn của con ngủỏ̀i, vì Chúa Giêsu đã giủ̃ lỏ̀i hủ́a là sẽ gỏ̉i Chúa Thánh Thần Ngài đến vỏ́i chúng ta. Bây giỏ̀, mặc dù gặp bao cản trỏ̉, chúng ta có thể là nhân chủ́ng của Ngài "đến tận cùng trái đất". Chúng ta sẽ thò tay vào thùng đầy rắn độc để chủ́ng tỏ đủ́c tin của chúng ta. Nhủng chúng ta sẽ có dấu chỉ lỏ̀i hủ́a của Chúa Giêsu đi theo chúng ta nhủ trong phúc âm hôm nay. Trong lỏ̀i nói, việc làm, sụ̉ sống và sụ̉ chết của chúng ta, chúng ta sẽ làm nhân chủ́ng cho Chúa Giêsu.
Chúng ta sẽ có thể trủ̀ quỷ ám vào con ngủỏ̀i: nhủ nghiện ngập, kiêu ngạo, ích kỷ, tàn bạo v.v... Chúng ta sẽ nói nhủ̃ng "ngôn ngủ̃ mỏ́i" khi chúng ta đón tiếp nhủ̃ng ngủỏ̀i vỏ́i văn hóa và ngôn ngủ̃ khác chúng ta. Rắn là tủọ̉ng trủng quỷ dủ̃. Vì thế chúng ta sẽ "bắt rắn" khi chúng ta phải chống đối vỏ́i quỷ dủ̃ trong gia đình chúng ta, hay trong đất nủỏ́c chúng ta và trong giáo hội.
Điều gì sẽ che chỏ̉ chúng ta trong nhủ̃ng trủỏ̀ng họ̀p quỷ dủ̃ này? Vỏ́i Thần Khí Chúa Giêsu hủ́a ban cho chúng ta và vỏ́i Chúa Giêsu Phục Sinh trong kinh nguyện, trong suy ngẫm, và trong đỏ̀i sống phụng vụ, chúng ta sẽ đủọ̉c che chỏ̉ khỏi thuốc độc có thể phá hoại và giết chết đỏ̀i sống của thần khí.
Chuyển ngữ: FX Trọng Yên, OP
ASCENSION OF THE LORD (B)
Acts 1: 1-11; Psalm 47; Ephesians 1: 17-23 (Ephesians 4: 1-13); Mark 16:15-20
A regular visitor to our priory chapel asked a couple of us friars the dates of our ordinations. She was surprised to hear how close together those dates are. It was the custom to ordain us in early June, no matter which year we were ordained. Her question brought back memories. The preceding months to the big day were busy indeed! Perhaps not as busy as a family planning a wedding, but still very busy.
There were invitations to be sent to family and friends and preparations for the home party afterwards. There were academic events during the preceding semester as well: interview boards, oral exams for hearing confessions, written tests in Theology and Scripture, even practice runs on presiding at the sacraments.
Not once during those examinations were we asked, as Mark’s gospel suggests, "to pick up serpents" with our hands and "drink deadly poisons." I’m not sure we would have survived those tests of faith. When I lived and preached in West Virginia I heard about a local preacher who, in the middle of his sermon, plunged his hands into a box of rattlesnakes in response to today’s gospel passage. He was bitten by several snakes and rushed by his congregation to the emergency room. No, we candidates for ordained and lay ministry are just ordinary folk trying to do our best to be faithful to Jesus’ mandate, "Go to the whole world and proclaim the gospel to every creature."
Recently I was with a man who is dying. We have a ritual for the prayers we should say and rubrics for the way to anoint the sick and dying. But we don’t have a script which tells us what to say at such moments. There are no "answers" to the questions that arise on these occasions and for all the other circumstances we face as parish staff, parents, friends and outreach workers as we accompany those in need. Jesus assures us that when we face mysteries that have no easy answers – sickness, failure, death – we are assured of his presence. We will have the "signs" of those who believe in his name.
Today, the feast of the Ascension, is a transitional feast. That’s clear from our first reading from the Acts of the Apostles. It is after the resurrection. For 40 days Jesus has been appearing to his disciples. Now he is saying farewell to them.
What Jesus says to his disciples sounds like a commencement address at a graduation. Our neighboring University is having its graduation ceremony soon. While graduation concludes years of study, we don’t call it a "Termination Ceremony." Of course there are endings: it is the last time all the students will be altogether; classes have ended; lots of farewells are said. But it’s not just about finishing; it is a "Commencement Ceremony." Young people are beginning on the road of life with adventures and also serious issues to face – not least of which are the debts they have incurred.
It is the same with the disciples at their "Commencement Ceremony." It is the end of Jesus’ public ministry and much more work lies ahead for them. In Jesus, God wanted to be involved in our world. Now they must continue that work of involvement, called to: heal the sick, reconcile enemies, feed the hungry, teach people God’s ways. That’s what all of us are called to do.
This isn’t a feast just for priests, sisters and church ministers. It’s a mandate to all of us not to fall into a "wait and see attitude." Jesus didn’t just pack up and go home. He urged us to be involved and invested in the world – to be worldly, the way he was worldly. Whatever will help humans advance, falls under our concern.
Before Jesus departs he doesn’t tell the disciples to be careful, to form a tight protective circle, a private club worshiping behind locked doors with private liturgies. Instead, he commissions them to go out into the whole world, to every creature. Which means we are going to get our hands dirty and will probably make mistakes. We certainly won’t be successful, as the world views success. Jesus is asking a lot of us untrained and very raw, frightened disciples.
To make his point about boldness and courage, about risk and trust, Jesus uses exaggerations and strong figures of speech. Drink poisons, handle snakes – in other words, "Take a chance on me and I will be with you." No one is exempt from the mission Jesus is giving us. He is encouraging even the walking-wounded among us, the fragile and the sinful. St. Paul calls us, "common clay pots." We are not very fancy, but with Christ we are very useful, because common clay pots can hold water for the thirsty and carry food for the hungry. The assurance we hear today is that, in whatever way we are called to serve, Jesus will be there with us to confirm his presence in real and tangible ways.
The feast of the Ascension certainly is our feast. In Acts we have Luke’s accounts of the birth and early days of the church. This period of the church will extend until Jesus returns. Despite his apparent absence, or any sense of abandonment we might feel, Luke’s account includes a promise. "But you will receive power when the Holy Spirit comes upon you and you will be my witnesses in Jerusalem, throughout Judea and Samaria and to the ends of the earth.
Just when we experience our fears, limitations and sin, the Scriptures proclaim a "but." After that "but" we hear what God is about to do for us. Despite our fears, inadequacies, and protests of weakness, we hear, "But you will receive power...."
After observing and hearing people’s suffering and needs we proclaim the Good News by speaking our "But." It might sound like this: "But I won’t abandon you in your need." "But I will stand up to the injustice that is causing your deprivation." "But I will do the shopping for you what you are sick." "But I will pray for your recovery." "But I will visit you in prison."
We can say "But" in the face of human need because Jesus has kept his promise to send us his Spirit. Now, despite the obstacles we can be his witnesses, "to the ends of the earth." We will not be plunging our hands into a crate filled with rattlesnakes to prove our faith, but we will be accompanied by signs Jesus promises us in today’s gospel. In our words and deeds, our living and are dying, we will give witness to Jesus.
We will be able to expel the modern demons that possess people: addictions, pride, selfishness, aggression, etc. We will speak "new languages" when we are hospitable to people of cultures and languages different from ours. Serpents were an ancient symbol of evil, so we will "pick up serpents" whenever we confront and name the evils in our family, country and church.
What will protect us from all this evil? Gifted with the Spirit Jesus promised us and staying in touch with the risen Christ in prayer, reflection and our liturgical life, we will be protected from the poisons which attack and kill the life of the spirit.
Cv 1: 1-11; T.vịnh 46; Êphêsô 1: 17-23 ;(Ep 4: 1-13) Máccô 16: 15-20
HÃY TRỞ NÊN NHÂN CHỨNG CHO ĐỨC KITÔ TRONG TRẦN GIAN
Một người thường thăm nhà nguyện dòng chúng tôi hỏi vài thầy dòng những ngày chúng tôi chịu chức. Bà ta ngạc nhiên sao những ngày đó gần nhau vậy. Thường lệ thì lễ thụ phong linh mục xảy ra trong tháng 6 không kể năm nào cả. Câu hỏi bà ta làm chúng tôi nhỏ́ lại. Chúng tôi rất bận rộn nhủ̃ng tháng trủỏ́c ngày chịu chủ́c. Có lẽ không nhủ nhủ̃ng gia đình bận rộn về việc sủ̃a soạn một đám củỏ́i, nhủng cũng bận rộn khá nhiều.
Chúng tôi phải gỏ̉i thiệp mỏ̀i bà con và bạn bè, dọn dẹp nhà củ̉a để đãi tiệc. Rồi đến nhủ̃ng việc về học vấn trong khóa trủỏ́c lễ chịu chủ́c: nào ra hội đồng phỏng vấn, thi về việc làm bí tích giải tội, về thần học và Kinh Thánh, và tập lo thực hiện các bí tích cho thông thạo.
Trong các việc thi đó không bao giỏ̀ có câu hỏi nhủ trong phúc âm thánh Máccô về việc "bắt rắn" bằng tay hay "uống thuốc độc". Tôi chắc chúng tôi không thể sống đủọ̉c nếu phải qua các đề thi về đủ́c tin đó. Khi tôi ỏ̉ West Vỉrginia và làm thầy giảng ỏ̉ đó tôi có nghe nói một thầy giảng trong lúc giủ̃a bài giảng đủa tay thò vào một thùng rắn độc theo bài giảng hôm nay. Thầy giảng bị rắn cắn làm giáo dân phải đủa thầy vào phòng cấp củ́u. Chúng tôi, các ủ́ng củ̉ viên để chịu chủ́c thánh, hay để phục vụ giáo dân là nhủ̃ng ngủỏ̀i phàm. Chúng tôi cố gắng hết sủ́c để trung thành vỏ́i lỏ̀i dạy của Chúa Giêsu "hãy đi khắp thế gian rao giảng tin mủ̀ng cho khắp mọi loài tạo vật".
Vủ̀a rồi tôi đủ́ng cạnh một ngủỏ̀i bạn đang hấp hối. Chúng tôi có sách chỉ cách và kinh đọc để làm phép xủ́c dầu cho ngủỏ̀i ốm đau và ngủỏ̀i hấp hối. Nhủng chúng tôi không có lỏ̀i chỉ dẫn phải nói gì trong lúc đó. Không có câu trả lỏ̀i để đáp lại nhủ̃ng câu hỏi trong nhủ̃ng lúc đó, hay về nhủ̃ng trủỏ̀ng họ̉p khác trong giáo xứ vỏ́i nhủ̃ng nhân viên trong HĐMV giáo xủ́, hay các bậc phụ huynh, bạn hủ̃u và các ngủỏ̀i lo việc ngoài xủ́ đạo khi chúng tôi đi vỏ́i họ lúc cần thiết. Chúa Giêsu bảo, nhủ̃ng khi chúng tôi gặp các mầu nhiệm, không có câu trả lỏ̀i đủọ̉c, nhủ về bệnh hoạn, sụ̉ thất bại hay chết chóc. Chúng ta đủọ̉c bảo đảm sụ̉ hiện diện của Chúa Giêsu ỏ̉ đó. Chúng ta sẽ có "dấu chỉ" của nhủ̃ng ngủỏ̀i tin vào thánh danh Chúa.
Hôm nay lễ Chúa Thăng Thiên, một lễ nối liền. Bài sách trích trong Công Vụ Tông Đồ nói rõ về điều đó. Lễ này đến sau lễ Phục Sinh. Sau 40 ngày Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần cho các môn đệ, và bây giỏ̀ Ngài tủ̀ giả họ.
Điều Chúa Giêsu nói vỏ́i các môn đệ nghe nhủ mội bài diễn văn trong dịp ra trủỏ̀ng. Đại học gần nhà dòng chúng tôi sắp có lễ ra trủỏ̀ng. Ra trủỏ̀ng là kết quả nhủ̃ng năm học tập, chúng ta gọi đó là "lễ kết thúc". Lẽ cố nhiên là có nhủ̃ng kết thúc vì đó là lúc cuối cùng các sinh viên gặp nhau đông đủ, và lọ̉p học kết thúc rồi biết bao lỏ̀i giã tủ̀. Nhủng không phải là lễ kết thúc mà là "lễ Bắt Đầu". Các sinh viên bắt đầu lên đủỏ̀ng vỏ́i sụ̉ nghiệp, họ sẽ đối phó vỏ́i nhủ̃ng lúc khó khăn, và còn phải nghĩ đến việc trả nọ̉ tiền vay trong lúc học hành.
Đối vỏ́i các môn đệ Chúa Giêsu cũng vậy vào ngày "Lễ Bắt Đầu". Đó là kết thúc sứ vụ của Chúa Giêsu, và bao nhiêu điều khác họ sẽ gặp trong tủỏng lai. Thiên Chúa muốn chúng ta hoạt động trong thế gian qua Chúa Giêsu. Bây giỏ̀ các môn đệ sẽ tiếp tục phục vụ. Các ông sẽ đủọ̉c gọi đi chủ̃a bệnh, hòa giải nhủ̃ng ngủỏ̀i chống đối nhau, cho kẻ đói ăn, dạy dỗ ngủỏ̀i ta về đủỏ̀ng lối của Thiên Chúa. Đó là tất cả nhủ̃ng điều chúng ta đủọ̉c gọi để thực hiện.
Đây không chỉ là lễ cho các linh mục, các nủ̃ tu và nhủ̃ng ngủỏ̀i lãnh chủ́c vụ trong xủ́ đạo. Đó là điều đòi hỏi tất cả chúng ta, nhủ̃ng ngủỏ̀i có thái độ "chỏ̀ đọ̉i để xem". Chúa Giêsu không chỉ cuốn gói về nhà. Ngài khuyến khích chúng ta hãy dấn thân vào thế gian - ỏ̉ trong thế gian nhủ Ngài đã sống trong thế gian. Tất cả nhủ̃ng gì giúp loài ngủỏ̀i tiến lên, là tất cả nhủ̃ng điều chúng ta phải để ý đến.
Trủỏ́c khi Chúa Giêsu ra đi, Ngài không nói vỏ́i các môn đệ là các ông sẽ phải cẫn thận, họp nhau thành một nhóm chặt chẻ vỏ́i nhau, phụng vụ đặc biệt trong phòng đóng củ̉a kín. Trái lại, Ngài bảo các ông ra đi khắp thế gian giảng dạy cho mọi loài tạo vật. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ chân lấm tay bùn, và có thể mắc lỗi lầm. Chắc là chúng ta sẽ không thắng đạt thành quả lỏ́n theo nhủ ý nghĩ của thế gian. Chúa Giêsu đòi hỏi một số đông trong chúng ta là nhủ̃ng môn đệ không đủọ̉c huấn luyến nhiều, và hay sọ̉ sệt.
Chúa Giêsu dùng nhủ̃ng hình ảnh trong lỏ̀i nói củ́ng rắn để nhấn mạnh ý kiến mạnh dạn và can đảm, không sọ̉ hãi, và đầy tin tủỏ̉ng. Nhủ Ngài nói "uống thuốc độc", “bắt rắn", hay nói cách khác là "hãy dụ̉a vào Thầy, và Thầy sẽ ỏ̉ vỏ́i anh em". Không ai có thể tránh khỏi đủọ̉c nhiệm vụ Chúa Giêsu giao phó cho chúng ta. Ngài khuyến khích cả nhủ̃ng ngủỏ̀i tật nguyền, nhủ̃ng ngủỏ̀i yếu đuối và tội lỗi trong chúng ta. Thánh Phaolô gọi chúng ta là "nhủ̃ng bình đất tầm thủỏ̀ng". Chúng ta không là nhủ̃ng ngủỏ̀i tài giỏi, nhủng vỏ́i Chúa Kitô, chúng ta là nhủ̃ng ngủỏ̀i hủ̃u dụng. Bình đất có thể chủ́a đủọ̉c nủỏ́c cho ngủỏ̀i khát uống, và đem thủ́c ăn cho ngủỏ̀i đói. Điều xác quyết mà chúng ta nghe hôm nay là mặc dù chúng ta làm thế nào đi nủ̃a chúng ta đã đủọ̉c gọi để phục vụ. Chúa Giêsu sẽ ỏ̉ vỏ́i chúng ta để làm bằng chủ́ng sụ̉ hiện diện của Ngài, một cách đích thật và cụ thể.
Lễ Chúa Thăng Thiên thật đúng là lễ của chúng ta. Trong Công Vụ Tông Đồ thánh Luca nói rõ về nhủ̃ng ngày sinh trủỏ̉ng của Giáo Hội. Thỏ̀i buổi của Giáo Hội kéo dài đến ngày Chúa Giêsu trỏ̉ lại. Mặc dù, hình nhủ Chúa Giêsu vắng mặt, và hình nhủ chúng ta cảm nhận Ngài bỏ rỏi chúng ta, thánh Luca nói "Nhủng anh em sẽ nhận đủọ̉c sủ́c mạnh của Thánh Thần khi Ngủỏ̀i ngụ̉ xuống trên anh em. Bấy giỏ̀ anh em sẽ là chủ́ng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giu-đê, Samari và cho đến tận cùng trái đất".
Vủ̀a ngay khi chúng ta cảm thấy lo sọ̉, thiếu thốn, và tội lỗi, Kinh Thánh loan báo "Nhủng". Sau tiếng "Nhủng" đó, chúng ta nghe Thiên Chúa sẽ làm gì cho chúng ta. Mặc dù chúng ta lo sọ̉, thiếu thốn và tuyên xủng yếu hèn, chúng ta nghe "Nhủng anh em sẽ nhận đủọ̉c sủ́c mạnh…"
Sau khi nghe và nhìn nhận nhủ̃ng đau khổ và cần giúp đỏ̃ của loài ngủỏ̀i, chúng ta loan báo Tin Mủ̀ng vỏ́i tiếng nói "Nhủng". Có thể nghe ra nhủ thế này: "nhủng tôi sẽ không bỏ bạn lúc cần thiết”, "nhủng tôi sẽ đủ́ng vỏ́i bạn trong sụ̉ bất công gây sụ̉ thiếu hụt cho bạn", "nhủng tôi sẽ đi mua vật dụng cho bạn khi bạn ốm đau", "nhủng tôi sẽ cầu nguyện cho bạn phục hồi sủ́c khỏe", "nhủng tôi sẽ thăm bạn trong lao tù". . .
Chúng ta có thể nói lên tiếng "nhủng" trủỏ́c nhủ̃ng thiếu thốn của con ngủỏ̀i, vì Chúa Giêsu đã giủ̃ lỏ̀i hủ́a là sẽ gỏ̉i Chúa Thánh Thần Ngài đến vỏ́i chúng ta. Bây giỏ̀, mặc dù gặp bao cản trỏ̉, chúng ta có thể là nhân chủ́ng của Ngài "đến tận cùng trái đất". Chúng ta sẽ thò tay vào thùng đầy rắn độc để chủ́ng tỏ đủ́c tin của chúng ta. Nhủng chúng ta sẽ có dấu chỉ lỏ̀i hủ́a của Chúa Giêsu đi theo chúng ta nhủ trong phúc âm hôm nay. Trong lỏ̀i nói, việc làm, sụ̉ sống và sụ̉ chết của chúng ta, chúng ta sẽ làm nhân chủ́ng cho Chúa Giêsu.
Chúng ta sẽ có thể trủ̀ quỷ ám vào con ngủỏ̀i: nhủ nghiện ngập, kiêu ngạo, ích kỷ, tàn bạo v.v... Chúng ta sẽ nói nhủ̃ng "ngôn ngủ̃ mỏ́i" khi chúng ta đón tiếp nhủ̃ng ngủỏ̀i vỏ́i văn hóa và ngôn ngủ̃ khác chúng ta. Rắn là tủọ̉ng trủng quỷ dủ̃. Vì thế chúng ta sẽ "bắt rắn" khi chúng ta phải chống đối vỏ́i quỷ dủ̃ trong gia đình chúng ta, hay trong đất nủỏ́c chúng ta và trong giáo hội.
Điều gì sẽ che chỏ̉ chúng ta trong nhủ̃ng trủỏ̀ng họ̀p quỷ dủ̃ này? Vỏ́i Thần Khí Chúa Giêsu hủ́a ban cho chúng ta và vỏ́i Chúa Giêsu Phục Sinh trong kinh nguyện, trong suy ngẫm, và trong đỏ̀i sống phụng vụ, chúng ta sẽ đủọ̉c che chỏ̉ khỏi thuốc độc có thể phá hoại và giết chết đỏ̀i sống của thần khí.
Chuyển ngữ: FX Trọng Yên, OP
ASCENSION OF THE LORD (B)
Acts 1: 1-11; Psalm 47; Ephesians 1: 17-23 (Ephesians 4: 1-13); Mark 16:15-20
A regular visitor to our priory chapel asked a couple of us friars the dates of our ordinations. She was surprised to hear how close together those dates are. It was the custom to ordain us in early June, no matter which year we were ordained. Her question brought back memories. The preceding months to the big day were busy indeed! Perhaps not as busy as a family planning a wedding, but still very busy.
There were invitations to be sent to family and friends and preparations for the home party afterwards. There were academic events during the preceding semester as well: interview boards, oral exams for hearing confessions, written tests in Theology and Scripture, even practice runs on presiding at the sacraments.
Not once during those examinations were we asked, as Mark’s gospel suggests, "to pick up serpents" with our hands and "drink deadly poisons." I’m not sure we would have survived those tests of faith. When I lived and preached in West Virginia I heard about a local preacher who, in the middle of his sermon, plunged his hands into a box of rattlesnakes in response to today’s gospel passage. He was bitten by several snakes and rushed by his congregation to the emergency room. No, we candidates for ordained and lay ministry are just ordinary folk trying to do our best to be faithful to Jesus’ mandate, "Go to the whole world and proclaim the gospel to every creature."
Recently I was with a man who is dying. We have a ritual for the prayers we should say and rubrics for the way to anoint the sick and dying. But we don’t have a script which tells us what to say at such moments. There are no "answers" to the questions that arise on these occasions and for all the other circumstances we face as parish staff, parents, friends and outreach workers as we accompany those in need. Jesus assures us that when we face mysteries that have no easy answers – sickness, failure, death – we are assured of his presence. We will have the "signs" of those who believe in his name.
Today, the feast of the Ascension, is a transitional feast. That’s clear from our first reading from the Acts of the Apostles. It is after the resurrection. For 40 days Jesus has been appearing to his disciples. Now he is saying farewell to them.
What Jesus says to his disciples sounds like a commencement address at a graduation. Our neighboring University is having its graduation ceremony soon. While graduation concludes years of study, we don’t call it a "Termination Ceremony." Of course there are endings: it is the last time all the students will be altogether; classes have ended; lots of farewells are said. But it’s not just about finishing; it is a "Commencement Ceremony." Young people are beginning on the road of life with adventures and also serious issues to face – not least of which are the debts they have incurred.
It is the same with the disciples at their "Commencement Ceremony." It is the end of Jesus’ public ministry and much more work lies ahead for them. In Jesus, God wanted to be involved in our world. Now they must continue that work of involvement, called to: heal the sick, reconcile enemies, feed the hungry, teach people God’s ways. That’s what all of us are called to do.
This isn’t a feast just for priests, sisters and church ministers. It’s a mandate to all of us not to fall into a "wait and see attitude." Jesus didn’t just pack up and go home. He urged us to be involved and invested in the world – to be worldly, the way he was worldly. Whatever will help humans advance, falls under our concern.
Before Jesus departs he doesn’t tell the disciples to be careful, to form a tight protective circle, a private club worshiping behind locked doors with private liturgies. Instead, he commissions them to go out into the whole world, to every creature. Which means we are going to get our hands dirty and will probably make mistakes. We certainly won’t be successful, as the world views success. Jesus is asking a lot of us untrained and very raw, frightened disciples.
To make his point about boldness and courage, about risk and trust, Jesus uses exaggerations and strong figures of speech. Drink poisons, handle snakes – in other words, "Take a chance on me and I will be with you." No one is exempt from the mission Jesus is giving us. He is encouraging even the walking-wounded among us, the fragile and the sinful. St. Paul calls us, "common clay pots." We are not very fancy, but with Christ we are very useful, because common clay pots can hold water for the thirsty and carry food for the hungry. The assurance we hear today is that, in whatever way we are called to serve, Jesus will be there with us to confirm his presence in real and tangible ways.
The feast of the Ascension certainly is our feast. In Acts we have Luke’s accounts of the birth and early days of the church. This period of the church will extend until Jesus returns. Despite his apparent absence, or any sense of abandonment we might feel, Luke’s account includes a promise. "But you will receive power when the Holy Spirit comes upon you and you will be my witnesses in Jerusalem, throughout Judea and Samaria and to the ends of the earth.
Just when we experience our fears, limitations and sin, the Scriptures proclaim a "but." After that "but" we hear what God is about to do for us. Despite our fears, inadequacies, and protests of weakness, we hear, "But you will receive power...."
After observing and hearing people’s suffering and needs we proclaim the Good News by speaking our "But." It might sound like this: "But I won’t abandon you in your need." "But I will stand up to the injustice that is causing your deprivation." "But I will do the shopping for you what you are sick." "But I will pray for your recovery." "But I will visit you in prison."
We can say "But" in the face of human need because Jesus has kept his promise to send us his Spirit. Now, despite the obstacles we can be his witnesses, "to the ends of the earth." We will not be plunging our hands into a crate filled with rattlesnakes to prove our faith, but we will be accompanied by signs Jesus promises us in today’s gospel. In our words and deeds, our living and are dying, we will give witness to Jesus.
We will be able to expel the modern demons that possess people: addictions, pride, selfishness, aggression, etc. We will speak "new languages" when we are hospitable to people of cultures and languages different from ours. Serpents were an ancient symbol of evil, so we will "pick up serpents" whenever we confront and name the evils in our family, country and church.
What will protect us from all this evil? Gifted with the Spirit Jesus promised us and staying in touch with the risen Christ in prayer, reflection and our liturgical life, we will be protected from the poisons which attack and kill the life of the spirit.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Israel buồn, Palestine vui vì Hiệp Định Tòa Thánh - Palestine
Lm. Trần Đức Anh OP
09:54 15/05/2015
JERUSALEM. Một số quan chức Bộ ngoại giao Israel bày tỏ đau buồn trong khi Palestine vui mừng vì hiệp định toàn bộ giữa Tòa Thánh và Palestine sắp được ký kết.
Thông cáo chung công bố hôm 13-5-2015 của Ủy ban song phương giữa Tòa Thánh và Israel cho biết đã hoàn tất Văn bản hiệp định toàn bộ và đệ trình cấp trên để cứu xét và chuẩn bị ký kết. Thông cáo có nói đến giải pháp hai quốc gia cho cuộc xung đột từ lâu giữa Israel và Palestine.
Tuy không có thông cáo chính thức của Bộ ngoại giao Israel, nhưng báo chí Israel ra ngày 14-5-2015 đưa tin một số quan chức của Bộ này tỏ ra bất mãn về việc Tòa Thánh chính thức dùng từ ”Quốc gia Palestine” và cho rằng việc làm của Tòa Thánh không đẩy mạnh tiến trình hòa bình tại Thánh Địa. Tuy nhiên cũng có một quan chức cấp cao khác của Bộ ngoại giao Israel nói rằng người ta không thấy trong văn kiện và thông cáo có đoạn nào nói Tòa Thánh nhìn nhận quốc gia Palestine, và chính phủ Israel chờ đợi Tòa Thánh làm sáng tỏ vấn đề này.
Thực ra, từ cuối năm 2013, Tòa Thánh vẫn nói về ”Quốc gia Palestine”. Tòa Thánh và tổ chức Giải Phóng Palestine, OLP, đã ký hiệp định cơ bản với nhau hồi năm 2000. Năm 2004 một Ủy ban song phương được thành lập để cụ thể hóa hiệp định chi tiết giữa hai bên.
Rabbi David Rosen, Giám đốc Quốc tế của Ủy ban Do thái Hoa Kỳ, nói với tờ New York Thời Báo rằng: Quan hệ giữa Israel và Tòa Thánh rất vững chắc, nên không bị thương tổn vì một từ ngữ hay một cách gọi. ”ĐGH Phanxicô rất quan tâm đến các dân tộc tại Israel và ngài rất muón thấy có một sự hòa giải an bình, nhưng tôi không thấy có thay đổi nào trong chính sách của Tòa Thánh”.
Phản ứng từ Palestine
Cùng ngày 14-5-2015, một lãnh tụ Palestine là Bà Hanan Ashrawi, thuộc Ban chấp hành của tổ chức OLP, chào mừng Hiệp định đã đạt được với Tòa Thánh trong đó có nói đến việc Tòa Thánh chính thức nhìn nhận người Palestine có quyền được một quốc gia. Bà Asharawi bày tỏ ”lòng biết ơn và quí chuộng cao độ đối với ĐGH Phanxicô”.
Trong thông báo, bà viết: ”Nhờ tất cả những người đã làm việc để đạt tới kết quả lịch sử này, việc nhìn nhận Palestine và dân tộc Palestine là một sự đầu tư quan trọng cho hòa bình, an ninh và ổn định trong vùng.. Chúng tôi vui mừng vì sự nhìn nhận này và coi đó là một tiến triển tích cực, không những về phương diện chính trị, nhưng cả về mặt nhân bản và pháp lý. Hiệp định mở đường cho một kỷ nguyên mới trong đó thế giới sẽ coi Palestine là một quốc gia độc lập, một kỷ nguyên trong đó dân tộc Palestine sẽ được quyền tự vệ và ở lại quê hương của mình, phù hợp với công pháp quốc tế”.
Sau cùng bà Asharawi nhắc lại rằng hiệp định ấy đến cùng với một biến cố lớn khác của quốc gia, đó là sự phong thánh cho hai nữ tu người Palestine: Maria Alfonsina Ghattas và Mariam Baouardy vào Chúa Nhật 17-5-2015. Đây là một biến cố lịch sử quan trọng, đầy ý nghĩa quốc gia, chính trị, tôn giáo và nhân bản, và sẽ để lại một dấu vết rõ ràng trong ký ức của dân tộc Palestine” (Ansa 14-5-2015)
Thông cáo chung công bố hôm 13-5-2015 của Ủy ban song phương giữa Tòa Thánh và Israel cho biết đã hoàn tất Văn bản hiệp định toàn bộ và đệ trình cấp trên để cứu xét và chuẩn bị ký kết. Thông cáo có nói đến giải pháp hai quốc gia cho cuộc xung đột từ lâu giữa Israel và Palestine.
Tuy không có thông cáo chính thức của Bộ ngoại giao Israel, nhưng báo chí Israel ra ngày 14-5-2015 đưa tin một số quan chức của Bộ này tỏ ra bất mãn về việc Tòa Thánh chính thức dùng từ ”Quốc gia Palestine” và cho rằng việc làm của Tòa Thánh không đẩy mạnh tiến trình hòa bình tại Thánh Địa. Tuy nhiên cũng có một quan chức cấp cao khác của Bộ ngoại giao Israel nói rằng người ta không thấy trong văn kiện và thông cáo có đoạn nào nói Tòa Thánh nhìn nhận quốc gia Palestine, và chính phủ Israel chờ đợi Tòa Thánh làm sáng tỏ vấn đề này.
Thực ra, từ cuối năm 2013, Tòa Thánh vẫn nói về ”Quốc gia Palestine”. Tòa Thánh và tổ chức Giải Phóng Palestine, OLP, đã ký hiệp định cơ bản với nhau hồi năm 2000. Năm 2004 một Ủy ban song phương được thành lập để cụ thể hóa hiệp định chi tiết giữa hai bên.
Rabbi David Rosen, Giám đốc Quốc tế của Ủy ban Do thái Hoa Kỳ, nói với tờ New York Thời Báo rằng: Quan hệ giữa Israel và Tòa Thánh rất vững chắc, nên không bị thương tổn vì một từ ngữ hay một cách gọi. ”ĐGH Phanxicô rất quan tâm đến các dân tộc tại Israel và ngài rất muón thấy có một sự hòa giải an bình, nhưng tôi không thấy có thay đổi nào trong chính sách của Tòa Thánh”.
Phản ứng từ Palestine
Cùng ngày 14-5-2015, một lãnh tụ Palestine là Bà Hanan Ashrawi, thuộc Ban chấp hành của tổ chức OLP, chào mừng Hiệp định đã đạt được với Tòa Thánh trong đó có nói đến việc Tòa Thánh chính thức nhìn nhận người Palestine có quyền được một quốc gia. Bà Asharawi bày tỏ ”lòng biết ơn và quí chuộng cao độ đối với ĐGH Phanxicô”.
Sau cùng bà Asharawi nhắc lại rằng hiệp định ấy đến cùng với một biến cố lớn khác của quốc gia, đó là sự phong thánh cho hai nữ tu người Palestine: Maria Alfonsina Ghattas và Mariam Baouardy vào Chúa Nhật 17-5-2015. Đây là một biến cố lịch sử quan trọng, đầy ý nghĩa quốc gia, chính trị, tôn giáo và nhân bản, và sẽ để lại một dấu vết rõ ràng trong ký ức của dân tộc Palestine” (Ansa 14-5-2015)
Caritas International lần đầu tiên bầu một người Á Châu làm chủ tịch: ĐHY Tagle.
Trần Mạnh Trác
13:21 15/05/2015
Đức Hồng Y Luis Tagle, Tổng Giám Mục Manila, là vị chủ tịch mới của Caritas International.
Đại hội của của tổ chức từ thiện Công Giáo này đã bầu Ngài với 91 phiếu trong tổng số 133.
"Cảm ơn quí bạn đã tin tưởng tôi. Dù cho khả năng cá nhân cuả tôi thì giới hạn, nhưng cùng với tất cả các bạn và với tình yêu mà Chúa Giêsu đã đổ tràn vào lòng chúng ta, và nhân danh tất cả những người nghèo trên thế giới, tôi chấp nhận cuộc bầu cử này, " Đức Hồng Y Tagle đã tuyên bố như trên qua đường dây điện thoại tới 130 đại biểu cuả các tổ chức Caritas quốc tế vào ngày 14 tháng 5.
Đức Hồng Y Tagle sẽ thay thế Đức Hồng Y Oscar Rodriguez Maradiaga, từng phục vụ hai nhiệm kỳ 2007-2011 và 2011-2015. Đức Hồng Y Rodriguez đã ngỏ lời chúc mừng và sự ủng hộ nhiệt tình cho vị chủ tịch mới.
Đại hội đồng Caritas International, họp từ 12 tháng 5 cho tới ngày 17, sẽ phác thảo và thiết kế các mục tiêu cho nhiệm kỳ 4 năm tới, với chủ đề là "Một gia đình nhân loại, chăm sóc cho những công trình cuả Tạo Hoá." (“One human family, care for creation.”)
Kể từ sau cuộc cải cách năm 2012, các ứng viên cho chức vụ Chủ tịch, Tổng thư ký và thủ quỹ phải được chính Đức Giáo Hoàng duyệt y.
Năm nay có hai tên được đề cử vào chức vụ chủ tịch là ĐHY Tagle cuả Phi Luật Tân và Đức Tổng Giám mục Soueif, tổng giám mục Công Giáo phái Maronite của đảo quốc Cyprus.
Chức vụ Tổng thư ký vẫn là Michel Roy, chủ tịch Secours Catholique, một chi nhánh Caritas cuả Pháp. Ông Roy là ứng viên duy nhất cho chiếc ghế này, mà ông đã nắm giữ kể từ năm 2011.
Theo một nguồn tin trước ngày bầu cử từ Caritas International thì đức Tổng Giám Mục Soueif có thể sẽ rút tên để cho Đức Hồng Y Tagle làm ứng cử viên duy nhất. Nhưng Ngài đã tiếp tục tranh cử dựa vào sự hỗ trợ của các cơ quan Caritas ở Châu Âu, và muốn đề xuất một chương trình mới dựa trên tinh thần của đạo luật năm 2012 cuả Caritas International.
Những người ủng hộ Tổng Giám mục Soueif lưu ý rằng Ngài có kinh nghiệm bản thân về tình hình khó khăn của các Kitô hữu, vì Ngài là người Lebanon, và đang phục vụ tại Cyprus là một hòn đảo bị chia đôi và vẫn còn những cuộc đàn áp Kitô hữu. Đồng thời, Đức Tổng Giám mục Soueif cũng hiểu biết về các vấn đề cuả Châu Âu, vì Ngài là một thành viên của Ủy ban các Giám Mục của Liên minh châu Âu.
Về phần Đức Hồng Y Tagle, tên cuả Ngài đã được nhắc nhở tới như là một ứng viên sáng giá ngay từ đầu năm. Vì những kết quả thực hiện với các cơ quan Caritas địa phương, khi phải đối phó với những trận bão liên miên tại đảo quốc Phi Luật Tân, trung bình khoảng 20 cơn bão mỗi năm.
Quan trọng hơn, những chương trình cuả ĐHY đều tập trung vào những công tác vận động cho người nghèo và tiếp cận với những vùng ngoại vi. Ngài thành công trong nhiều nỗ lực hợp tác và thúc đẩy chính quyền Phi Luật Tân lưu ý tới các vấn đề cuả các khu vực bị thiệt thòi.
Sinh tại Manila năm 1957 và thụ phong linh mục năm 1982, Đức Hồng Y Tagle được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Imus năm 2001. Năm 2011, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám Mục Manila, và thăng tước Hồng Y cho Ngài năm 2012, lúc đó Ngài là người trẻ thứ hai trong Hồng Y đoàn.
Người ta thường coi Ngài là một vị có nhiều "khả năng sẽ làm Giáo Hoàng, không lần này thì cũng lần khác", chỉ còn một điểm yếu về Ngài là sự việc Ngài chưa nắm giữ một chức vụ quan trọng nào ở Vatican.
Bài giảng tại Santa Marta: Các cộng đoàn sợ hãi và không có niềm vui không phải là các cộng đoàn Kitô
Đặng Tự Do
17:00 15/05/2015
Trong thánh lễ sáng 15 tháng 5 tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định rằng các cộng đoàn sợ hãi và không có niềm vui không phải là các cộng đoàn Kitô.
“Sự sợ hãi” và “niềm vui” là hai từ chủ yếu của phụng vụ ngày Thứ Sáu trong Tuần Thứ Sáu Mùa Phục sinh. Đức Thánh Cha nhận xét rằng “Sợ hãi là một thái độ làm hại chúng ta. Nó làm cho chúng ta suy yếu và ti tiện. Nó thậm chí còn làm tê liệt chúng ta. Một người đang sợ không dám làm gì cả, không biết phải làm gì. Anh ta tập trung vào chính bản thân mình để đừng có chuyện gì xấu xảy ra. Sự sợ hãi dẫn anh chị em đến một thái độ ích kỷ tập trung vào mình và làm tê liệt anh chị em. Một Kitô hữu sợ hãi là một người không hiểu được thông điệp của Đức Giêsu”
“Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu nói với Thánh Phaolô: “Đừng sợ. Cứ tiếp tục nói”. Sợ không phải là một thái độ Kitô giáo. Chúng ta có thể nói đó là một thái độ cá chậu chim lồng, là thái độ của những người không có tự do để nhìn về phía trước, để tạo ra một cái gì đó, để làm tốt ... là thái độ của những kẻ lúc nào cũng nói “không”: “nhưng điều này rất nguy hiểm, phải có cái gì đó khác.. Sợ hãi là một tật xấu. Sợ hãi gây ra những thiệt hại.
“Đừng sợ, hãy xin ơn can đảm, sự can đảm của Chúa Thánh Thần mà Ngài sai đến cùng chúng ta”:
“Có những cộng đoàn sợ hãi, họ luôn luôn đi ở phiá an toàn: 'Không, không, chúng ta đừng làm điều này ... Không, không, điều này không thể thực hiện được, đừng làm như vậy.” Có vẻ như họ đã viết sẵn trên lối ra vào mấy chữ ‘Tử Cấm Thành’ Tất cả mọi thứ đều bị cấm vì sợ hãi. Và khi anh chị em gia nhập vào cộng đoàn này anh chị em sẽ thấy một bầu không khí cũ mèm, bởi vì đó là một cộng đoàn bệnh hoạn. Sợ hãi làm cho một cộng đoàn trở nên bệnh hoạn. Thiếu can đảm làm cho một cộng đoàn mất sinh khí”
Đức Giáo Hoàng giải thích thêm là sự sợ hãi cần phải được phân biệt với “sự kính sợ Chúa”, là một thái độ thánh thiện. Thái độ kính sợ trước tôn nhan Chúa là một nhân đức. Thái độ kính sợ Thiên Chúa không làm chúng ta ra ti tiện, hèn yếu, tê liệt nhưng đưa chúng ta tiến về phía trước, với sứ mệnh Chúa trao phó cho chúng ta.
Một từ khác trong phụng vụ hôm nay là “niềm vui”. “Không ai có thể lấy đi niềm vui của anh em” Chúa Giêsu nói với chúng ta. Và, Đức Thánh Cha nói, “trong những khoảnh khắc buồn bã nhất, trong những khoảnh khắc sầu muộn,” niềm vui “mang lại hòa bình.” “Một Kitô hữu mà không có niềm vui thì không phải là Kitô hữu. Một Kitô hữu liên tục sống trong nỗi buồn không phải là một Kitô hữu đích thực. Và khi một Kitô hữu, trong lúc gặp thử thách, bệnh tật, và rất nhiều khó khăn, mà mất đi an bình – thì người ấy đang còn thiếu một cái gì đó”.
“Niềm vui Kitô hữu không chỉ đơn giản là sự hân hoan, không phải là một sự vui tươi phù du. Niềm vui Kitô hữu là một ân sủng, đó là một ân sủng của Chúa Thánh Thần. Trong tim người ấy luôn có sự vui mừng vì Chúa đã chiến thắng, Chúa đang hiển trị, Ngài đang ngự bên hữu Chúa Cha, Chúa đã đoái nhìn tôi và gọi tôi và đã ban cho tôi ân sủng của Ngài, và đã khiến tôi trở thành một người Con của Chúa Cha ... Đó là niềm vui Kitô giáo. Kitô hữu phải sống trong niềm vui.”
Cũng thế “cộng đoàn không có niềm vui” là một cộng đoàn bệnh. Có lẽ nó sẽ là một “cộng đoàn yêu đời” đấy, nhưng “nó đã trở nên bệnh hoạn với những sự thế gian, vì nó không có niềm vui của Chúa Giêsu Kitô. Và như thế, “khi Giáo Hội sợ hãi và khi Giáo Hội không nhận được niềm vui của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội thành ra bệnh hoạn, các cộng đoàn thành đau yếu, các tín hữu đâm ra ốm đau.” Đức Thánh Cha Phanxicô kết luận bài giảng của ngài bằng lời cầu nguyện này: “Lạy Chúa, xin nâng chúng con lên với Chúa Kitô Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha ... xin vực dậy tinh thần của chúng con. Xin lấy đi mọi nỗi sợ hãi của chúng con, và ban cho chúng con niềm vui và bình an.”
“Sự sợ hãi” và “niềm vui” là hai từ chủ yếu của phụng vụ ngày Thứ Sáu trong Tuần Thứ Sáu Mùa Phục sinh. Đức Thánh Cha nhận xét rằng “Sợ hãi là một thái độ làm hại chúng ta. Nó làm cho chúng ta suy yếu và ti tiện. Nó thậm chí còn làm tê liệt chúng ta. Một người đang sợ không dám làm gì cả, không biết phải làm gì. Anh ta tập trung vào chính bản thân mình để đừng có chuyện gì xấu xảy ra. Sự sợ hãi dẫn anh chị em đến một thái độ ích kỷ tập trung vào mình và làm tê liệt anh chị em. Một Kitô hữu sợ hãi là một người không hiểu được thông điệp của Đức Giêsu”
“Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu nói với Thánh Phaolô: “Đừng sợ. Cứ tiếp tục nói”. Sợ không phải là một thái độ Kitô giáo. Chúng ta có thể nói đó là một thái độ cá chậu chim lồng, là thái độ của những người không có tự do để nhìn về phía trước, để tạo ra một cái gì đó, để làm tốt ... là thái độ của những kẻ lúc nào cũng nói “không”: “nhưng điều này rất nguy hiểm, phải có cái gì đó khác.. Sợ hãi là một tật xấu. Sợ hãi gây ra những thiệt hại.
“Đừng sợ, hãy xin ơn can đảm, sự can đảm của Chúa Thánh Thần mà Ngài sai đến cùng chúng ta”:
“Có những cộng đoàn sợ hãi, họ luôn luôn đi ở phiá an toàn: 'Không, không, chúng ta đừng làm điều này ... Không, không, điều này không thể thực hiện được, đừng làm như vậy.” Có vẻ như họ đã viết sẵn trên lối ra vào mấy chữ ‘Tử Cấm Thành’ Tất cả mọi thứ đều bị cấm vì sợ hãi. Và khi anh chị em gia nhập vào cộng đoàn này anh chị em sẽ thấy một bầu không khí cũ mèm, bởi vì đó là một cộng đoàn bệnh hoạn. Sợ hãi làm cho một cộng đoàn trở nên bệnh hoạn. Thiếu can đảm làm cho một cộng đoàn mất sinh khí”
Đức Giáo Hoàng giải thích thêm là sự sợ hãi cần phải được phân biệt với “sự kính sợ Chúa”, là một thái độ thánh thiện. Thái độ kính sợ trước tôn nhan Chúa là một nhân đức. Thái độ kính sợ Thiên Chúa không làm chúng ta ra ti tiện, hèn yếu, tê liệt nhưng đưa chúng ta tiến về phía trước, với sứ mệnh Chúa trao phó cho chúng ta.
Một từ khác trong phụng vụ hôm nay là “niềm vui”. “Không ai có thể lấy đi niềm vui của anh em” Chúa Giêsu nói với chúng ta. Và, Đức Thánh Cha nói, “trong những khoảnh khắc buồn bã nhất, trong những khoảnh khắc sầu muộn,” niềm vui “mang lại hòa bình.” “Một Kitô hữu mà không có niềm vui thì không phải là Kitô hữu. Một Kitô hữu liên tục sống trong nỗi buồn không phải là một Kitô hữu đích thực. Và khi một Kitô hữu, trong lúc gặp thử thách, bệnh tật, và rất nhiều khó khăn, mà mất đi an bình – thì người ấy đang còn thiếu một cái gì đó”.
“Niềm vui Kitô hữu không chỉ đơn giản là sự hân hoan, không phải là một sự vui tươi phù du. Niềm vui Kitô hữu là một ân sủng, đó là một ân sủng của Chúa Thánh Thần. Trong tim người ấy luôn có sự vui mừng vì Chúa đã chiến thắng, Chúa đang hiển trị, Ngài đang ngự bên hữu Chúa Cha, Chúa đã đoái nhìn tôi và gọi tôi và đã ban cho tôi ân sủng của Ngài, và đã khiến tôi trở thành một người Con của Chúa Cha ... Đó là niềm vui Kitô giáo. Kitô hữu phải sống trong niềm vui.”
Cũng thế “cộng đoàn không có niềm vui” là một cộng đoàn bệnh. Có lẽ nó sẽ là một “cộng đoàn yêu đời” đấy, nhưng “nó đã trở nên bệnh hoạn với những sự thế gian, vì nó không có niềm vui của Chúa Giêsu Kitô. Và như thế, “khi Giáo Hội sợ hãi và khi Giáo Hội không nhận được niềm vui của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội thành ra bệnh hoạn, các cộng đoàn thành đau yếu, các tín hữu đâm ra ốm đau.” Đức Thánh Cha Phanxicô kết luận bài giảng của ngài bằng lời cầu nguyện này: “Lạy Chúa, xin nâng chúng con lên với Chúa Kitô Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha ... xin vực dậy tinh thần của chúng con. Xin lấy đi mọi nỗi sợ hãi của chúng con, và ban cho chúng con niềm vui và bình an.”
Các khoa học gia nói các phụ nữ dùng thuốc tránh thai có thể bị suy thoái vỏ não bộ
Đặng Tự Do
18:22 15/05/2015
Nghiên cứu khoa học mới cho thấy rằng việc sử dụng thuốc tránh thai có thể làm thay đổi hình dạng của não bộ phụ nữ, Thông tấn xã Công Giáo CNA cho biết như trên.
Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Human Brain Mapping đã tìm thấy rằng hai khu vực trên vỏ não gọi là lateral orbitofrontal và posterior cingulate bị bào mòn đáng kể và trở nên mỏng ở mức đáng báo động nơi những phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai. Các nghiên cứu cho đến nay chưa đưa ra những khẳng định là liệu sự bào mòn này có khả năng năng gây ra những thay đổi trong cấu trúc của não bộ mà tối hậu sẽ dẫn đến những thay đổi trong hành vi hoặc cảm xúc.
Một đồng tác giả của nghiên cứu này giải thích lý do của việc chưa thể khẳng định này với CNA rằng ông thấy rằng người ta cố tình lờ đi, thậm chí ngăn chặn tích cực bằng cách cấm đoán hay tiêu cực bằng cách không tài trợ cho những nghiên cứu về các tác dụng phụ của thuốc ngừa thai trên phụ nữ.
Tiến sĩ Larry Cahill của Đại học Irvine tại California cho biết
“Bạn có thể nghĩ rằng sau 50 năm, khi mà đã có hàng trăm triệu phụ nữ dùng các loại hóa thân khác nhau của các loại thuốc này, đương nhiên là sẽ có những bằng chứng to lớn, mạch lạc, và đầy ấn tượng về tác dụng phụ của các thứ thuốc ngừa thai. Nhưng bên cạnh điều đó không có một nghiên cứu nào.”
Một đồng tác giả của nghiên cứu này giải thích lý do của việc chưa thể khẳng định này với CNA rằng ông thấy rằng người ta cố tình lờ đi, thậm chí ngăn chặn tích cực bằng cách cấm đoán hay tiêu cực bằng cách không tài trợ cho những nghiên cứu về các tác dụng phụ của thuốc ngừa thai trên phụ nữ.
Tiến sĩ Larry Cahill của Đại học Irvine tại California cho biết
“Bạn có thể nghĩ rằng sau 50 năm, khi mà đã có hàng trăm triệu phụ nữ dùng các loại hóa thân khác nhau của các loại thuốc này, đương nhiên là sẽ có những bằng chứng to lớn, mạch lạc, và đầy ấn tượng về tác dụng phụ của các thứ thuốc ngừa thai. Nhưng bên cạnh điều đó không có một nghiên cứu nào.”
Họp báo về Lễ Phong Thánh cho hai nữ tu người Palestine
Đặng Tự Do
19:07 15/05/2015
Việc phong thánh cho hai nữ tu Palestine vào ngày Chúa Nhật 17 là một lời nhắc nhở rằng “chỉ có lời cầu nguyện mới có thể giúp giữ vững đức tin của chúng ta một cách nhiệm mầu ở giữa những gian truân và thử thách”, một linh mục từ Jordan cho biết như trên tại một cuộc họp báo hôm thứ Sáu ngày 15 tháng Năm tại phòng báo chí Tòa Thánh.
Cha Rifat Bader, Giám đốc Trung tâm Công Giáo Nghiên cứu và Truyền thông ở Amman, cho biết việc phong thánh cho hai nữ tu Marie-Alphonsine Danil Ghattas và Baouardy Maryam (hay còn gọi là Maria của Chúa Giêsu chịu đóng đinh) “là một sự kiện thiêng liêng có tầm quan trọng đặc biệt cho các cư dân tại Thánh Địa, trong bối cảnh khó khăn chúng ta đang trải qua, vì hai vị sắp được tuyên thánh soi sáng con đường của chúng ta.”
Cha Bader nhận xét rằng chân phước Marie-Alphonsine được mọi người nhớ đến như là người đã thành lập cộng đoàn nữ tu Ả Rập đầu tiên. Trong khi Chân Phước “Maria của Chúa Giêsu chịu đóng đinh” được mọi người kính nhớ vì tấm gương kiên cường không chịu khuất phục trước “những bách hại của chủ nghĩa cực đoan và những nỗ lực tìm cách buộc chị phải cải đạo sang Hồi Giáo”
Hai vị thánh mới, như thế, mang lại một thông điệp đặc biệt cho các Kitô hữu tại Thánh Địa ngày nay .
Cha Rifat Bader, Giám đốc Trung tâm Công Giáo Nghiên cứu và Truyền thông ở Amman, cho biết việc phong thánh cho hai nữ tu Marie-Alphonsine Danil Ghattas và Baouardy Maryam (hay còn gọi là Maria của Chúa Giêsu chịu đóng đinh) “là một sự kiện thiêng liêng có tầm quan trọng đặc biệt cho các cư dân tại Thánh Địa, trong bối cảnh khó khăn chúng ta đang trải qua, vì hai vị sắp được tuyên thánh soi sáng con đường của chúng ta.”
Cha Bader nhận xét rằng chân phước Marie-Alphonsine được mọi người nhớ đến như là người đã thành lập cộng đoàn nữ tu Ả Rập đầu tiên. Trong khi Chân Phước “Maria của Chúa Giêsu chịu đóng đinh” được mọi người kính nhớ vì tấm gương kiên cường không chịu khuất phục trước “những bách hại của chủ nghĩa cực đoan và những nỗ lực tìm cách buộc chị phải cải đạo sang Hồi Giáo”
Hai vị thánh mới, như thế, mang lại một thông điệp đặc biệt cho các Kitô hữu tại Thánh Địa ngày nay .
Al Gore chờ đợi thông điệp môi sinh của Đức Thánh Cha và có thể trở thành người Công Giáo.
Đặng Tự Do
20:20 15/05/2015
Thông điệp về môi sinh của Đức Thánh Cha, được dự trù công bố vào tháng Sáu tới đây, đang được nhiều người chờ đón. Trong số những người ấy có ông Al Gore, nguyên phó tổng thống Hoa Kỳ, là người đã suýt chút nữa trở thành tổng thống Mỹ vào tháng 11 năm 2000.
Trong bài nói chuyện tại Đại Học Berkeley, California, hôm 5 tháng 5 vừa qua, ông Al Gore đã tự mô tả mình giống như thánh Phaolô trên đường đi Đamát. Tuy nhiên, ông nói rõ là ông có thể sẽ trở thành người Công Giáo không phải vì ông ta nhận được bất kỳ mặc khải tôn giáo nào, nhưng vì mối quan tâm của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về sự nóng lên toàn cầu.
“Tôi nghĩ rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô là một nhân vật thực sự gây nhiều hứng khởi. Ngài là một hiện tượng. Tôi đã giật mình với sự trong sáng trong sức mạnh tinh thần mà ngài là hiện thân.”
“Vâng tôi đã nói công khai năm ngoái là tôi xuất thân và được nuôi dưỡng trong truyền thống Tin Lành Baptist miền Nam, nhưng tôi có thể sẽ trở thành một người Công Giáo do vị Giáo hoàng này. Ngài đã truyền cảm hứng cho tôi. Và tôi biết đa số bạn bè Công Giáo của tôi vui mừng đến tận xương tủy vì hình thái lãnh đạo tinh thần này của ngài.”
Ông Al Gore cho biết ông ta đang chờ đợi thông điệp về môi sinh của Đức Thánh Cha trong đó Đức Thánh Cha dự kiến sẽ mạnh mẽ chống lại việc đốt các nhiên liệu hóa thạch để tạo năng lượng và vận động một chiến dịch giảm bớt khí thải carbon trong nền kinh tế thế giới.
Trong bài nói chuyện tại Đại Học Berkeley, California, hôm 5 tháng 5 vừa qua, ông Al Gore đã tự mô tả mình giống như thánh Phaolô trên đường đi Đamát. Tuy nhiên, ông nói rõ là ông có thể sẽ trở thành người Công Giáo không phải vì ông ta nhận được bất kỳ mặc khải tôn giáo nào, nhưng vì mối quan tâm của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về sự nóng lên toàn cầu.
“Tôi nghĩ rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô là một nhân vật thực sự gây nhiều hứng khởi. Ngài là một hiện tượng. Tôi đã giật mình với sự trong sáng trong sức mạnh tinh thần mà ngài là hiện thân.”
“Vâng tôi đã nói công khai năm ngoái là tôi xuất thân và được nuôi dưỡng trong truyền thống Tin Lành Baptist miền Nam, nhưng tôi có thể sẽ trở thành một người Công Giáo do vị Giáo hoàng này. Ngài đã truyền cảm hứng cho tôi. Và tôi biết đa số bạn bè Công Giáo của tôi vui mừng đến tận xương tủy vì hình thái lãnh đạo tinh thần này của ngài.”
Ông Al Gore cho biết ông ta đang chờ đợi thông điệp về môi sinh của Đức Thánh Cha trong đó Đức Thánh Cha dự kiến sẽ mạnh mẽ chống lại việc đốt các nhiên liệu hóa thạch để tạo năng lượng và vận động một chiến dịch giảm bớt khí thải carbon trong nền kinh tế thế giới.
Tòa Thánh bác bỏ tin đồn thông điệp môi sinh của Đức Thánh Cha Phanxicô bị dời lại
Đặng Tự Do
20:43 15/05/2015
Tòa thánh đã bác bỏ tin đồn theo đó việc công bố thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô về môi trường đã bị đình hoãn.
Thông điệp sẽ được công bố vào tháng Sáu, theo dự trù trước đây. Cha Federico Lombardi, giám đốc văn phòng báo chí Tòa Thánh khẳng định như trên và nói rằng “chưa có, và không có, bất kỳ sự chậm trễ nào so với những gì đã được dự kiến.”
Tòa Thánh vẫn chưa quyết định ngày giờ cụ thể để công bố tài liệu này, một tài liệu trong đó có nhiều luận chứng khoa học có thể gây tranh cãi lớn. Sự dè dặt của Đức Thánh Cha và giáo triều Rôma là có thể hiểu được, đặc biệt trong bối cảnh sự thất bại của hội nghị về sự thay đổi khí hậu vào tháng 12 năm ngoái tại Lima, Peru, và một hội nghị tương tự sắp diễn ra tại Paris từ 30 tháng 11 đến 11 tháng 12 năm nay, 2015.
Tuy nhiên, cha Lombardi khẳng định một lần nữa rằng từ cuối tháng ba thông điệp đó đã gần hoàn thành.
Tin đồn là thông điệp sẽ bị đình hoãn do ký giả Sandro Magister, của tờ L'Espresso đưa ra, theo đó Đức Giáo Hoàng đã “liệng vào thùng rác” một dự thảo tài liệu này, được chuẩn bị bởi Đức Tổng Giám Mục Victor Manuel Fernández. Trong một bài viết có ý chỉ trích Đức Tổng Giám Mục Manuel Fernandez, Magister nói là dự thảo này đã bị “bác bỏ” bởi Đức Hồng Y Gerhard Müller và Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin.
Cha Lombardi nói rằng theo thông lệ một thông điệp trước khi được công bố đều được xem xét lại cẩn thận bởi Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, và một số thay đổi có thể được thực hiện trong quá trình tái xét đó. Tuy nhiên, ngài nói rằng ngài không hề hay biết về bất kỳ vấn đề nào có thể làm trì hoãn sự công bố thông điệp này.
Thông điệp sẽ được công bố vào tháng Sáu, theo dự trù trước đây. Cha Federico Lombardi, giám đốc văn phòng báo chí Tòa Thánh khẳng định như trên và nói rằng “chưa có, và không có, bất kỳ sự chậm trễ nào so với những gì đã được dự kiến.”
Tòa Thánh vẫn chưa quyết định ngày giờ cụ thể để công bố tài liệu này, một tài liệu trong đó có nhiều luận chứng khoa học có thể gây tranh cãi lớn. Sự dè dặt của Đức Thánh Cha và giáo triều Rôma là có thể hiểu được, đặc biệt trong bối cảnh sự thất bại của hội nghị về sự thay đổi khí hậu vào tháng 12 năm ngoái tại Lima, Peru, và một hội nghị tương tự sắp diễn ra tại Paris từ 30 tháng 11 đến 11 tháng 12 năm nay, 2015.
Tuy nhiên, cha Lombardi khẳng định một lần nữa rằng từ cuối tháng ba thông điệp đó đã gần hoàn thành.
Tin đồn là thông điệp sẽ bị đình hoãn do ký giả Sandro Magister, của tờ L'Espresso đưa ra, theo đó Đức Giáo Hoàng đã “liệng vào thùng rác” một dự thảo tài liệu này, được chuẩn bị bởi Đức Tổng Giám Mục Victor Manuel Fernández. Trong một bài viết có ý chỉ trích Đức Tổng Giám Mục Manuel Fernandez, Magister nói là dự thảo này đã bị “bác bỏ” bởi Đức Hồng Y Gerhard Müller và Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin.
Cha Lombardi nói rằng theo thông lệ một thông điệp trước khi được công bố đều được xem xét lại cẩn thận bởi Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, và một số thay đổi có thể được thực hiện trong quá trình tái xét đó. Tuy nhiên, ngài nói rằng ngài không hề hay biết về bất kỳ vấn đề nào có thể làm trì hoãn sự công bố thông điệp này.
Top Stories
Philippines: Le cardinal Tagle, nouveau président de Caritas Internationalis
Eglises d'Asie
08:55 15/05/2015
15/05/2015 - Jeudi 14 mai, le cardinal philippin Luis Antonio Tagle, archevêque de Manille, a été élu président de Caritas Internationalis, la confédération catholique dont les 165 délégations nationales sont actuellement réunies à Rome pour leur 20ème assemblée générale. C’est sur le réseau social Twitter que Caritas a annoncé cette élection. Il succède au cardinal hondurien Oscar Andrès Rodriguez Maradiaga, qui quitte la présidence de l’organisation après deux mandats de quatre ans, rapporte Radio Vatican.
Lors d’une liaison téléphonique entre Rome et Manille, celui qui devient le premier Asiatique à présider la confédération caritative a commencé par lancer avec humour « Buona sera a tutti ! » (‘Bonsoir à tous’), en italien, avant de s’exprimer en anglais : « Merci pour votre confiance. Je suis limité dans mes capacités mais avec vous tous, avec l’amour que Jésus a versé dans nos cœurs et au nom de tous les gens pauvres dans le monde, j’accepte cette élection. Renforçons ensemble l’Eglise des pauvres, pour que notre témoignage puisse aider à nous guider vers un monde de compréhension, de justice, de vraie liberté et de paix. » Le cardinal Maradiaga lui a apporté ses félicitations et son soutien.
Très charismatique, le jeune archevêque de Manille, qui aura 58 ans le 21 juin prochain, est l’un des figures montantes de l’épiscopat asiatique et mondial. Spécialiste du Concile Vatican II et plus précisément de la collégialité épiscopale, il a déjà participé à cinq Synodes (il était l’un des présidents du récent Synode sur la famille). Très bon connaisseur de l’œuvre de Paul VI, qui lui aurait inspiré sa vocation sacerdotale lors de sa visite à Manille en 1970 et auquel il a consacré une thèse, soutenue à l’Université catholique d’Amérique (Washington DC, Etats-Unis), il a été nommé évêque du diocèse d’Imus par Jean-Paul II en 2001, puis archevêque de Manille et primat des Philippines en 2011 par Benoît XVI, et enfin cardinal en 2012. Ses larmes lors de son accolade avec Benoît XVI avaient alors fait le tour du monde, au point qu’il avait été présenté par certains vaticanistes comme un « Wojtyla asiatique », et comme un « papabile » pour le ou les conclaves à venir.
Très attaché au projet du pape François d’une « Eglise pauvre et pour les pauvres », il a reçu le Saint-Père lors de sa visite aux Philippines en janvier dernier, dont la messe finale, le 18 janvier, a rassemblé six millions de personnes, ce qui en fait la plus grande messe de l’histoire de l’humanité.
Il était pressenti depuis plusieurs semaines pour succéder au cardinal Maradiaga à la présidence de Caritas Internationalis, et l’a donc emporté face au président de Caritas Chypre, Mgr Youssef Soueif. Mgr Tagle a été élu avec 91 voix sur 133 suffrages exprimés. Un Autrichien, Alexander Bodmann, devient le trésorier de la confédération. Le Français Michel Roy doit, lui, demeurer dans ses fonctions de secrétaire général.
Caritas Internationalis est une confédération d’organisations catholiques de charité, qui opère dans environ 200 pays. (eda/ra)
(Source: Eglises d'Asie, le 15 mai 2015)
Lors d’une liaison téléphonique entre Rome et Manille, celui qui devient le premier Asiatique à présider la confédération caritative a commencé par lancer avec humour « Buona sera a tutti ! » (‘Bonsoir à tous’), en italien, avant de s’exprimer en anglais : « Merci pour votre confiance. Je suis limité dans mes capacités mais avec vous tous, avec l’amour que Jésus a versé dans nos cœurs et au nom de tous les gens pauvres dans le monde, j’accepte cette élection. Renforçons ensemble l’Eglise des pauvres, pour que notre témoignage puisse aider à nous guider vers un monde de compréhension, de justice, de vraie liberté et de paix. » Le cardinal Maradiaga lui a apporté ses félicitations et son soutien.
Très charismatique, le jeune archevêque de Manille, qui aura 58 ans le 21 juin prochain, est l’un des figures montantes de l’épiscopat asiatique et mondial. Spécialiste du Concile Vatican II et plus précisément de la collégialité épiscopale, il a déjà participé à cinq Synodes (il était l’un des présidents du récent Synode sur la famille). Très bon connaisseur de l’œuvre de Paul VI, qui lui aurait inspiré sa vocation sacerdotale lors de sa visite à Manille en 1970 et auquel il a consacré une thèse, soutenue à l’Université catholique d’Amérique (Washington DC, Etats-Unis), il a été nommé évêque du diocèse d’Imus par Jean-Paul II en 2001, puis archevêque de Manille et primat des Philippines en 2011 par Benoît XVI, et enfin cardinal en 2012. Ses larmes lors de son accolade avec Benoît XVI avaient alors fait le tour du monde, au point qu’il avait été présenté par certains vaticanistes comme un « Wojtyla asiatique », et comme un « papabile » pour le ou les conclaves à venir.
Très attaché au projet du pape François d’une « Eglise pauvre et pour les pauvres », il a reçu le Saint-Père lors de sa visite aux Philippines en janvier dernier, dont la messe finale, le 18 janvier, a rassemblé six millions de personnes, ce qui en fait la plus grande messe de l’histoire de l’humanité.
Il était pressenti depuis plusieurs semaines pour succéder au cardinal Maradiaga à la présidence de Caritas Internationalis, et l’a donc emporté face au président de Caritas Chypre, Mgr Youssef Soueif. Mgr Tagle a été élu avec 91 voix sur 133 suffrages exprimés. Un Autrichien, Alexander Bodmann, devient le trésorier de la confédération. Le Français Michel Roy doit, lui, demeurer dans ses fonctions de secrétaire général.
Caritas Internationalis est une confédération d’organisations catholiques de charité, qui opère dans environ 200 pays. (eda/ra)
(Source: Eglises d'Asie, le 15 mai 2015)
Chine: «Un évêque n’est pas un homme politique, c’est un pasteur» - cardinal Zen Ze-kiun
Eglises d'Asie
08:58 15/05/2015
15/05/2015- En janvier dernier, le cardinal Pietro Parolin, secrétaire d’Etat du Saint-Siège, se félicitait de l’avancée des négociations avec la Chine en ces termes : « Nous sommes dans une phase positive. » Depuis, aucune information nouvelle significative n’est parue au sujet d’un éventuel réchauffement des relations entre Pékin et le Saint-Siège, pas plus que le respect de la liberté religieuse en Chine populaire ne semble s’être amélioré. Dans ce contexte, le point de vue du cardinal Zen Ze-kiun, évêque émérite de Hongkong, demeure intéressant à entendre.
L’interview du cardinal Zen que nous reproduisons ci-dessous a été publiée le 11 mai 2015 sur le site Internet du journal L’Homme Nouveau.
L’Homme Nouveau : On entend dire que les relations entre la Chine et le Saint-Siège se réchauffent. Le secrétaire d’Etat, le cardinal Parolin, estime que les relations avec la Chine prennent un tour prometteur. Qu’en pensez-vous ?
Cardinal Joseph Zen Ze-kiun : C’était une vraie surprise pour nous d’apprendre que Pékin veut renouer avec Rome. Même étonnement d’apprendre que les perspectives soient considérées comme très prometteuses du côté du Vatican. Peut-être y a-t-il quelque secret que nous ne connaissons pas. A regarder les choses de plus près, il n’y a aucune raison pour être optimiste. Le gouvernement chinois reste totalitaire et la liberté religieuse n’existe pas. Récemment, ils ont retiré la croix de nombreuses églises et ils en ont démoli d’autres. Deux évêques sont encore en prison. On dit que l’un d’entre eux est mort mais les nouvelles sont tellement contradictoires qu’on ne sait plus rien. Un jour, il a été annoncé aux parents qu’il était mort. Puis comme la famille s’inquiétait de récupérer son corps, on lui a dit que celui qui avait lancé la nouvelle était ivre. Ensuite, il y eut des rumeurs que le gouvernement avait donné de l’argent à la famille pour qu’elle reste calme mais la rumeur a ensuite été réfutée. Les choses sont loin d’être idylliques comme vous le voyez.
Qui donc a enclenché cette ivresse d’optimisme ? Ce sont les journaux communistes de Hongkong qui ont lancé l’affaire. En Chine, tout est politique. Et politique rime avec lutte de pouvoir. Tout le monde sait qu’aujourd’hui il y a une lutte au sommet entre Xi Jinping et Jiang Zemin (1). Xi Jinping est le champion de la lutte anti-corruption mais il faut savoir que cette bannière n’est peut-être qu’un moyen pour éliminer ses ennemis. Et l’élimination des gros tigres permettra à de nouveaux tigres de grandir. Il n’est pas sûr que Xi Jinping puisse gagner. Car Jiang Zemin est très puissant. Qui sont ces gens qui veulent parler au Vatican ? Sont-ils de la faction de Xi Jinping ou appartiennent-ils à celle de Jiang Zemin ? S’ils sont du clan de Xi Jinping, peut-être y a-t-il quelque espoir. S’ils sont du clan adverse, il n’y en a pas. A Hongkong, le pouvoir communiste est sous l’influence de Jiang Zemin. La chaîne de télévision Phoenix TV a récemment interviewé le P. Lombardi et c’est à cette occasion que le Vatican a révélé son enthousiasme pour le réchauffement des relations entre la Chine et le Saint-Siège. Comment peuvent-ils être aussi enthousiastes ? Nous ne voyons aucune raison à cette euphorie. Ils ne comprennent pas et ne veulent pas nous écouter. Je suis très inquiet. Beaucoup de gens ne peuvent rien dire. Moi je suis cardinal et ma voix porte. Alors je n’ai pas peur. Peut-être est-ce la voix qui crie dans le désert mais je dois dire ce que j’ai à dire.
Je ne dis pas qu’il faut refuser le dialogue : le dialogue est nécessaire. Mais on peut s’interroger sur la bonne volonté du gouvernement chinois. C’est en commençant à dialoguer, qu’on verra s’ils sont de bonne volonté. Mais, en attendant, il faut rester ferme. Ce n’est pas à nous de changer, c’est à eux. Ces dernières années, l’Eglise a suivi une stratégie beaucoup trop timide faite de peur et de volonté de composer. Le gouvernement en profite. Les choses se sont dégradées dans les années 2000. Jusqu’en 2001, la Congrégation pour l’Evangélisation des peuples est présidée par le cardinal Tomko. Il venait de Tchécoslovaquie et connaissait très bien le communisme. Quand il prit sa retraite en 2001, arriva le cardinal Sepe. Sepe n’avait aucune connaissance ni de la Chine ni du communisme. Rien ne s’est passé pendant cette période. Puis vint le pape Benoît XVI. Benoît XVI est un pape merveilleux mais le personnel qu’il a choisi ne lui fut d’aucune aide. Beaucoup de bonnes choses qu’il a encouragées ont été gâchées car on ne le suivait pas. À la fin de son pontificat, il changea finalement son personnel. C’est à cette époque qu’est apparu ce projet d’accord avec le gouvernement chinois. Aujourd’hui le gouvernement pousse à ce qu’il soit signé. Il faut donc que le Vatican continue de refuser car un tel accord n’est pas acceptable si je me fie aux informations que j’ai pu avoir. Malheureusement, le nouveau secrétaire d’Etat est plein d’espoir : pourquoi le cardinal Parolin s’est-il cru obligé de louer le cardinal Casaroli ? Et pourquoi croit-il encore aux miracles de l’Ostpolitik alors que cela a été un échec, un grand échec ? Je ne comprends pas pourquoi ils ne prennent pas les leçons de l’Histoire. En Hongrie, cela a été un échec complet.
Le porte-parole du ministère des Affaires étrangères Hong Lei a déclaré qu’en ce qui concerne les ordinations d’évêques, le Vatican devait respecter « la tradition historique et la réalité des catholiques en Chine ». Selon lui, « la Chine est toujours sincère dans sa volonté d’améliorer les relations avec le Vatican et déploie sans discontinuer des efforts en ce sens ». Et d’ajouter : « Nous souhaitons avoir un dialogue constructif avec le Vatican (…). Nous espérons que le Vatican pourra créer les conditions favorables à une amélioration des relations » (2). Quelle est la part de la langue de bois dans ce genre de propos ? Et comment faut-il interpréter ceux-ci ?
Le discours officiel du gouvernement autour des ordinations d’évêques est toujours le même. Selon eux, tout se passe de la manière la plus transparente possible : il y a des élections puis les élections sont approuvées ; et enfin le gouvernement demande au Vatican d’accepter. Concrètement, le Vatican fait quelques recherches puis approuve. Savez-vous ce qu’est une élection en Chine ? Il n’y a pas de vraie élection en Chine. Vous connaissez la blague. Le citoyen du pays X dit : « Notre gouvernement est très efficace car nous connaissons le résultat des élections le lendemain du vote ». Le citoyen du pays Y réagit et dit : « C’est mieux chez nous car nous connaissons le résultat le jour même avant minuit ». C’est alors que le citoyen chinois intervient et conclut la dispute en disant : « Nous nous faisons encore mieux car nous connaissons les résultats avant même que le vote n’ait eu lieu ».
C’est comme cela que cela marche également pour l’Eglise car l’Eglise « officielle » est complètement dans les mains du gouvernement. Les élections en vue de la nomination d’un évêque sont toutes manipulées : il n’y a pas de règle. Puis la nomination est approuvée par la Conférence épiscopale. Mais il n’y a pas de Conférence épiscopale : ce ne sont que des noms. Le président de la Conférence épiscopale est un évêque illégitime. Certes ce n’est pas un mauvais homme mais il a peur et est subjugué par le gouvernement.
Vous vous rappelez il y a deux ans, le tout nouvel évêque de Shanghai, Mgr Ma Daqin. Lors de son sacre, il refusa l’allégeance à l’Eglise patriotique. Ils pensaient qu’ils lui avaient lavé le cerveau mais ce n’était pas le cas. C’est un homme très intelligent. Peut-être aurait-il dû attendre quelque temps avant de s’annoncer. Aujourd’hui, il est en résidence surveillée. Le lendemain de son ordination, il a été révoqué. Qu’ont-ils dit ? Nous avons réuni la Conférence épiscopale et nous l’avons révoqué. Et ils montrèrent une photo de la Conférence épiscopale. Le chef des Affaires religieuses présidait cette réunion. C’est lui le patron de la Conférence épiscopale. On le voyait sourire pendant que les deux évêques qui sont à la tête de la Conférence apparaissaient tout piteux. Tout est faux en Chine. En 2010, il y a eu neuf ordinations épiscopales. Tout le monde a salué cette nouvelle : voilà que la Chine accepte les évêques proposés par le Vatican. Mais c’était le contraire qui se produisait. C’est le Vatican qui acceptait les évêques nommés par le gouvernement. Le Saint-Siège fait trop de concessions et il approuve parfois des candidats qui ne sont pas bons.
L’accord évoqué par le Vatican mentionne que pour tout siège vacant, le gouvernement proposerait trois noms. Et le Vatican pourrait choisir parmi les trois noms ou les refuser tous en bloc.
Comment un gouvernement athée peut-il présenter des noms ? Que savent-ils des évêques ? Un évêque n’est pas un homme politique, c’est un pasteur. L’initiative doit venir de Rome. Certes, on peut consulter le gouvernement et celui-ci peut refuser en arguant que tel ou tel est fermement opposé au gouvernement. Mais cela doit partir du Vatican et non en sens inverse. … (eda/ra)
Notes: (1) Xi Jinping est le chef du Parti communiste et le président de la République populaire de Chine. Quant à Jiang Zemin, un de ses prédécesseurs, il dispose d’une très forte influence au travers d’un réseau d’alliés dans le Parti, l’armée et l’économie.
(Source: Eglises d'Asie, le 15 mai 2015)
L’interview du cardinal Zen que nous reproduisons ci-dessous a été publiée le 11 mai 2015 sur le site Internet du journal L’Homme Nouveau.
L’Homme Nouveau : On entend dire que les relations entre la Chine et le Saint-Siège se réchauffent. Le secrétaire d’Etat, le cardinal Parolin, estime que les relations avec la Chine prennent un tour prometteur. Qu’en pensez-vous ?
Cardinal Joseph Zen Ze-kiun : C’était une vraie surprise pour nous d’apprendre que Pékin veut renouer avec Rome. Même étonnement d’apprendre que les perspectives soient considérées comme très prometteuses du côté du Vatican. Peut-être y a-t-il quelque secret que nous ne connaissons pas. A regarder les choses de plus près, il n’y a aucune raison pour être optimiste. Le gouvernement chinois reste totalitaire et la liberté religieuse n’existe pas. Récemment, ils ont retiré la croix de nombreuses églises et ils en ont démoli d’autres. Deux évêques sont encore en prison. On dit que l’un d’entre eux est mort mais les nouvelles sont tellement contradictoires qu’on ne sait plus rien. Un jour, il a été annoncé aux parents qu’il était mort. Puis comme la famille s’inquiétait de récupérer son corps, on lui a dit que celui qui avait lancé la nouvelle était ivre. Ensuite, il y eut des rumeurs que le gouvernement avait donné de l’argent à la famille pour qu’elle reste calme mais la rumeur a ensuite été réfutée. Les choses sont loin d’être idylliques comme vous le voyez.
Qui donc a enclenché cette ivresse d’optimisme ? Ce sont les journaux communistes de Hongkong qui ont lancé l’affaire. En Chine, tout est politique. Et politique rime avec lutte de pouvoir. Tout le monde sait qu’aujourd’hui il y a une lutte au sommet entre Xi Jinping et Jiang Zemin (1). Xi Jinping est le champion de la lutte anti-corruption mais il faut savoir que cette bannière n’est peut-être qu’un moyen pour éliminer ses ennemis. Et l’élimination des gros tigres permettra à de nouveaux tigres de grandir. Il n’est pas sûr que Xi Jinping puisse gagner. Car Jiang Zemin est très puissant. Qui sont ces gens qui veulent parler au Vatican ? Sont-ils de la faction de Xi Jinping ou appartiennent-ils à celle de Jiang Zemin ? S’ils sont du clan de Xi Jinping, peut-être y a-t-il quelque espoir. S’ils sont du clan adverse, il n’y en a pas. A Hongkong, le pouvoir communiste est sous l’influence de Jiang Zemin. La chaîne de télévision Phoenix TV a récemment interviewé le P. Lombardi et c’est à cette occasion que le Vatican a révélé son enthousiasme pour le réchauffement des relations entre la Chine et le Saint-Siège. Comment peuvent-ils être aussi enthousiastes ? Nous ne voyons aucune raison à cette euphorie. Ils ne comprennent pas et ne veulent pas nous écouter. Je suis très inquiet. Beaucoup de gens ne peuvent rien dire. Moi je suis cardinal et ma voix porte. Alors je n’ai pas peur. Peut-être est-ce la voix qui crie dans le désert mais je dois dire ce que j’ai à dire.
Je ne dis pas qu’il faut refuser le dialogue : le dialogue est nécessaire. Mais on peut s’interroger sur la bonne volonté du gouvernement chinois. C’est en commençant à dialoguer, qu’on verra s’ils sont de bonne volonté. Mais, en attendant, il faut rester ferme. Ce n’est pas à nous de changer, c’est à eux. Ces dernières années, l’Eglise a suivi une stratégie beaucoup trop timide faite de peur et de volonté de composer. Le gouvernement en profite. Les choses se sont dégradées dans les années 2000. Jusqu’en 2001, la Congrégation pour l’Evangélisation des peuples est présidée par le cardinal Tomko. Il venait de Tchécoslovaquie et connaissait très bien le communisme. Quand il prit sa retraite en 2001, arriva le cardinal Sepe. Sepe n’avait aucune connaissance ni de la Chine ni du communisme. Rien ne s’est passé pendant cette période. Puis vint le pape Benoît XVI. Benoît XVI est un pape merveilleux mais le personnel qu’il a choisi ne lui fut d’aucune aide. Beaucoup de bonnes choses qu’il a encouragées ont été gâchées car on ne le suivait pas. À la fin de son pontificat, il changea finalement son personnel. C’est à cette époque qu’est apparu ce projet d’accord avec le gouvernement chinois. Aujourd’hui le gouvernement pousse à ce qu’il soit signé. Il faut donc que le Vatican continue de refuser car un tel accord n’est pas acceptable si je me fie aux informations que j’ai pu avoir. Malheureusement, le nouveau secrétaire d’Etat est plein d’espoir : pourquoi le cardinal Parolin s’est-il cru obligé de louer le cardinal Casaroli ? Et pourquoi croit-il encore aux miracles de l’Ostpolitik alors que cela a été un échec, un grand échec ? Je ne comprends pas pourquoi ils ne prennent pas les leçons de l’Histoire. En Hongrie, cela a été un échec complet.
Le porte-parole du ministère des Affaires étrangères Hong Lei a déclaré qu’en ce qui concerne les ordinations d’évêques, le Vatican devait respecter « la tradition historique et la réalité des catholiques en Chine ». Selon lui, « la Chine est toujours sincère dans sa volonté d’améliorer les relations avec le Vatican et déploie sans discontinuer des efforts en ce sens ». Et d’ajouter : « Nous souhaitons avoir un dialogue constructif avec le Vatican (…). Nous espérons que le Vatican pourra créer les conditions favorables à une amélioration des relations » (2). Quelle est la part de la langue de bois dans ce genre de propos ? Et comment faut-il interpréter ceux-ci ?
Le discours officiel du gouvernement autour des ordinations d’évêques est toujours le même. Selon eux, tout se passe de la manière la plus transparente possible : il y a des élections puis les élections sont approuvées ; et enfin le gouvernement demande au Vatican d’accepter. Concrètement, le Vatican fait quelques recherches puis approuve. Savez-vous ce qu’est une élection en Chine ? Il n’y a pas de vraie élection en Chine. Vous connaissez la blague. Le citoyen du pays X dit : « Notre gouvernement est très efficace car nous connaissons le résultat des élections le lendemain du vote ». Le citoyen du pays Y réagit et dit : « C’est mieux chez nous car nous connaissons le résultat le jour même avant minuit ». C’est alors que le citoyen chinois intervient et conclut la dispute en disant : « Nous nous faisons encore mieux car nous connaissons les résultats avant même que le vote n’ait eu lieu ».
C’est comme cela que cela marche également pour l’Eglise car l’Eglise « officielle » est complètement dans les mains du gouvernement. Les élections en vue de la nomination d’un évêque sont toutes manipulées : il n’y a pas de règle. Puis la nomination est approuvée par la Conférence épiscopale. Mais il n’y a pas de Conférence épiscopale : ce ne sont que des noms. Le président de la Conférence épiscopale est un évêque illégitime. Certes ce n’est pas un mauvais homme mais il a peur et est subjugué par le gouvernement.
Vous vous rappelez il y a deux ans, le tout nouvel évêque de Shanghai, Mgr Ma Daqin. Lors de son sacre, il refusa l’allégeance à l’Eglise patriotique. Ils pensaient qu’ils lui avaient lavé le cerveau mais ce n’était pas le cas. C’est un homme très intelligent. Peut-être aurait-il dû attendre quelque temps avant de s’annoncer. Aujourd’hui, il est en résidence surveillée. Le lendemain de son ordination, il a été révoqué. Qu’ont-ils dit ? Nous avons réuni la Conférence épiscopale et nous l’avons révoqué. Et ils montrèrent une photo de la Conférence épiscopale. Le chef des Affaires religieuses présidait cette réunion. C’est lui le patron de la Conférence épiscopale. On le voyait sourire pendant que les deux évêques qui sont à la tête de la Conférence apparaissaient tout piteux. Tout est faux en Chine. En 2010, il y a eu neuf ordinations épiscopales. Tout le monde a salué cette nouvelle : voilà que la Chine accepte les évêques proposés par le Vatican. Mais c’était le contraire qui se produisait. C’est le Vatican qui acceptait les évêques nommés par le gouvernement. Le Saint-Siège fait trop de concessions et il approuve parfois des candidats qui ne sont pas bons.
L’accord évoqué par le Vatican mentionne que pour tout siège vacant, le gouvernement proposerait trois noms. Et le Vatican pourrait choisir parmi les trois noms ou les refuser tous en bloc.
Comment un gouvernement athée peut-il présenter des noms ? Que savent-ils des évêques ? Un évêque n’est pas un homme politique, c’est un pasteur. L’initiative doit venir de Rome. Certes, on peut consulter le gouvernement et celui-ci peut refuser en arguant que tel ou tel est fermement opposé au gouvernement. Mais cela doit partir du Vatican et non en sens inverse. … (eda/ra)
Notes: (1) Xi Jinping est le chef du Parti communiste et le président de la République populaire de Chine. Quant à Jiang Zemin, un de ses prédécesseurs, il dispose d’une très forte influence au travers d’un réseau d’alliés dans le Parti, l’armée et l’économie.
(Source: Eglises d'Asie, le 15 mai 2015)
Philadelphia residents ready spare rooms, couches for papal pilgrims
Scott Malone / Reuters
10:56 15/05/2015
(Reuters) - The 1.5 million people expected to pack into Philadelphia this fall for Pope Francis' first visit to the United States will fill the city's hotels, motels and Patricia Hughey's spare rooms.
Hughey and her husband are among the more than 1,000 Philadelphia-area households who have signed up to host visitors attending a September summit on families organized by the Roman Catholic church, which will come at the start of the week of Francis' visit to the United States.
"When I heard that the Pope was going to come, really my first thought was 'Oh my gosh, they are going to need hosts for this enormous crush of people'," said Hughey, who is 57 and said she was raised Catholic in Alabama but is no longer a member of the church.
For Hughey, who plans to host two brothers from the Democratic Republic of Congo and a married couple from Vietnam, a lot of the appeal was the chance to show off her adopted hometown and meet visitors from some of the 150 foreign delegations attending the World Meeting of Families. Visitors will pay host families a token fee to cover costs.
"We love to travel and I love meeting people from other countries," said Hughey. "Hosting somebody from a completely other country and culture is an opportunity that's a little hard to come by."
The Pope's visit to the "City of Brotherly Love," which will cap a week in which he speaks to the U.S. Congress and the United Nations, is expected to give Philadelphia's economy a $417.9 million boost, with much of the spending going to hotels and restaurants, according to the Philadelphia Convention and Visitors Bureau.
Organizers of the week-long meeting, that leads up to a Sept. 27 Mass expected to draw over 1.5 million people, said they asked area residents to offer space in their homes for visitors who might not be able to afford hotel stays.
Founded by Quakers in the late 17th century, Philadelphia gained a large Catholic population through immigration from traditionally Roman Catholic countries such as Italy and Ireland.
"We'll have young people coming who are willing to sleep on floors, families coming who are thrilled they will have some place to stay they can afford," said Donna Farrell, the meeting's executive director. "They will be viewing this as a pilgrimage."
Visitors who do not plan to stay with host families will have a hard time finding accommodation. With more than four months to go before Francis' visit, many major downtown Philadelphia hotels are already booked solid, according to travel reservation web sites.
Some 1,200 Philadelphia residents and families have already signed up through the Website at Homestay.com that meeting organizers are using to connect willing host families with potential guests, Farrell said.
Francis' visit comes at a time that Americans are drifting away from the Catholic church, according to a study by the Pew Research Center released on Tuesday.
About one in five U.S. adults, or 20.9 percent, identified as Catholic during the survey, a decline since the 2007 version of the study, which found 23.9 percent of adults said they were Catholic.
The decline reflects the fact that four out of ten people raised in the U.S. Catholic church have left the faith, with that decline partly offset by Catholic immigrants.
ACTIVE HOSTS
It is common for Americans to rent out their homes for events that draw large numbers of out-of-town visitors, such as the Masters golf tournament in Augusta, Georgia, or Mardis Gras celebrations in New Orleans. But many of the families looking for guests for the Pope's visit plan to remain in Philadelphia, spend time with their visitors, and are not in it for the money, according to Farrell and prospective hosts.
"It's going to make the experience more exciting to be sharing it," said Renee Bowen, 47, who has offered a room in the Wayne, Pennsylvania, home where she lives with her husband, 12-year-old twins and three cats. "I felt that it would enhance the experience."
The Homestay.com site used to connect host families with guests set a minimum fee of $50 per night, with the Web site collecting 10 percent of that. That compares with the $200 or more per night advertised by hotels at least 10 miles outside of Philadelphia that still have rooms available.
Some members of the city's immigrant community have also been signing up to host visitors, organizers said. Among them are many families in Philadelphia's St. Helena Parish, whose members include more than 200 families of Vietnamese origin and about 150 from Latin America.
The church's pastor, Monsignor Joseph Trinh, said parishioners had been lining up to host guests and offer translation services. Roughly 300 Vietnamese clergy and lay people have signed up to attend the meeting, the second-largest foreign delegation after Canada's, according to organizers.
"They feel honored to help because we have been welcomed here," said Trinh, who immigrated to the United States from Vietnam in 1975, after U.S. troops withdrew at the end of the Vietnam War.
"We know what it's like to have four or five people living in a room," said Trinh, who expects to feed about 120 Vietnamese visitors breakfast and dinner each day of the meeting. "They are willing to be a part of it, to give back some of what they have received here in Philadelphia."
(Source: http://news.yahoo.com/philadelphia-residents-ready-spare-rooms-couches-papal-pilgrims-144747590.html, Reporting by Scott Malone in Boston, editing by Jill Serjeant and Andrew Hay)
Hughey and her husband are among the more than 1,000 Philadelphia-area households who have signed up to host visitors attending a September summit on families organized by the Roman Catholic church, which will come at the start of the week of Francis' visit to the United States.
For Hughey, who plans to host two brothers from the Democratic Republic of Congo and a married couple from Vietnam, a lot of the appeal was the chance to show off her adopted hometown and meet visitors from some of the 150 foreign delegations attending the World Meeting of Families. Visitors will pay host families a token fee to cover costs.
"We love to travel and I love meeting people from other countries," said Hughey. "Hosting somebody from a completely other country and culture is an opportunity that's a little hard to come by."
The Pope's visit to the "City of Brotherly Love," which will cap a week in which he speaks to the U.S. Congress and the United Nations, is expected to give Philadelphia's economy a $417.9 million boost, with much of the spending going to hotels and restaurants, according to the Philadelphia Convention and Visitors Bureau.
Organizers of the week-long meeting, that leads up to a Sept. 27 Mass expected to draw over 1.5 million people, said they asked area residents to offer space in their homes for visitors who might not be able to afford hotel stays.
Founded by Quakers in the late 17th century, Philadelphia gained a large Catholic population through immigration from traditionally Roman Catholic countries such as Italy and Ireland.
"We'll have young people coming who are willing to sleep on floors, families coming who are thrilled they will have some place to stay they can afford," said Donna Farrell, the meeting's executive director. "They will be viewing this as a pilgrimage."
Visitors who do not plan to stay with host families will have a hard time finding accommodation. With more than four months to go before Francis' visit, many major downtown Philadelphia hotels are already booked solid, according to travel reservation web sites.
Some 1,200 Philadelphia residents and families have already signed up through the Website at Homestay.com that meeting organizers are using to connect willing host families with potential guests, Farrell said.
Francis' visit comes at a time that Americans are drifting away from the Catholic church, according to a study by the Pew Research Center released on Tuesday.
About one in five U.S. adults, or 20.9 percent, identified as Catholic during the survey, a decline since the 2007 version of the study, which found 23.9 percent of adults said they were Catholic.
The decline reflects the fact that four out of ten people raised in the U.S. Catholic church have left the faith, with that decline partly offset by Catholic immigrants.
ACTIVE HOSTS
It is common for Americans to rent out their homes for events that draw large numbers of out-of-town visitors, such as the Masters golf tournament in Augusta, Georgia, or Mardis Gras celebrations in New Orleans. But many of the families looking for guests for the Pope's visit plan to remain in Philadelphia, spend time with their visitors, and are not in it for the money, according to Farrell and prospective hosts.
"It's going to make the experience more exciting to be sharing it," said Renee Bowen, 47, who has offered a room in the Wayne, Pennsylvania, home where she lives with her husband, 12-year-old twins and three cats. "I felt that it would enhance the experience."
The Homestay.com site used to connect host families with guests set a minimum fee of $50 per night, with the Web site collecting 10 percent of that. That compares with the $200 or more per night advertised by hotels at least 10 miles outside of Philadelphia that still have rooms available.
Some members of the city's immigrant community have also been signing up to host visitors, organizers said. Among them are many families in Philadelphia's St. Helena Parish, whose members include more than 200 families of Vietnamese origin and about 150 from Latin America.
The church's pastor, Monsignor Joseph Trinh, said parishioners had been lining up to host guests and offer translation services. Roughly 300 Vietnamese clergy and lay people have signed up to attend the meeting, the second-largest foreign delegation after Canada's, according to organizers.
"They feel honored to help because we have been welcomed here," said Trinh, who immigrated to the United States from Vietnam in 1975, after U.S. troops withdrew at the end of the Vietnam War.
"We know what it's like to have four or five people living in a room," said Trinh, who expects to feed about 120 Vietnamese visitors breakfast and dinner each day of the meeting. "They are willing to be a part of it, to give back some of what they have received here in Philadelphia."
(Source: http://news.yahoo.com/philadelphia-residents-ready-spare-rooms-couches-papal-pilgrims-144747590.html, Reporting by Scott Malone in Boston, editing by Jill Serjeant and Andrew Hay)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo xứ Vinh Lưu, thánh lễ tạ ơn 60 năm thành lập
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
09:47 15/05/2015
PHAN THIẾT - Sáng ngày 15.5.2015, Nhà thờ Vinh lưu rực rỡ với sắc cờ và rộn rã âm nhạc hân hoan đón mừng quan khách đến chung chia niềm vui trong thánh lễ Tạ ơn Ngọc khánh thành lập Giáo xứ.
Hình ảnh
Linh mục quản xứ Phaolô Hoàng Kim Tốt, Linh mục phó xứ Phêrô Lê Anh Tuấn và bà con giáo dân Vinh Lưu đón mừng mọi người với nụ cười rạng rỡ. Niềm vui còn nhân lên với sự kiện giáo xứ vừa hoàn thành đài Đức Mẹ khang trang. Niềm vui lớn biểu lộ trên khuôn mặt, nơi sắc phục và cung cách tổ chức thánh lễ.
Đức Cha Giuse, Giám mục Gp Phan Thiết cùng đoàn đồng tế khoảng 70 linh mục, đông đảo chủng sinh, tu sĩ và cộng đoàn đến Lễ đài Đức Mẹ. Ngài làm phép tượng Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, sau đó cộng đoàn tiến vào Nhà thờ, ca đoàn hát vang bài ca tạ ơn.
Trong bài giảng lễ, Đức Cha Giuse chúc mừng và chia vui với Giáo xứ. Ngài nói đến 3 điểm. Một điểm dừng: nhìn lại để tạ ơn. Từ đời sống đức tin đến đời sống kinh tế, nhớ lại tất cả mà tạ ơn Chúa. Một điểm nhấn, nhắm vào hiện tại để thấy rõ lòng đạo đức, lòng yêu mến Đức Mẹ, lòng yêu mến Giáo Hội của cộng đoàn Vinh lưu. Một điểm tái khởi hành, trong tinh thần yêu thương hiệp nhất hòa hợp tin cậy và truyền giáo.
Cuối lễ, ông Chủ tịch HĐGX dâng lời tri ân.
Ngày 15/5/1955, Giáo xứ Vinh lưu được thành lập và đã chọn Đức Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời làm bổn mạng. Hành trình 60 năm giúp Giáo xứ nhận ra rằng: Thiên Chúa là chủ thời gian và lịch sử. Ngài luôn yêu thương quan phòng và che chở giáo xứ dưới cánh tay của Ngài. Ngài đã lần lượt gửi các vị mục tử đến, để hạt giống đức tin được nảy mầm và phát triển trên vùng đất này. Chúng con xin tri ân tình Chúa, cảm tạ quý Đức Cha, quý Cha, các bậc tiền bối, các ân nhân và thân hữu xa gần.
Cám ơn Đức Cha nhiều, dù những ngày vừa qua lo hậu sự cho Đức Cha Nicolas, rồi thánh lễ tại trung tâm Tàpao, nhưng Đức Cha vẫn yêu thương hiện diện với đoàn chiên.
Cám ơn Cha Giuse Nguyễn Văn Chữ, ngày Cha về với xứ là khởi đầu một đời sống đức tin đầy thử thách, đòi hỏi tín hữu cần biết hy sinh, can đảm. Quả thật, sau biến cố 1975, mọi sinh hoạt của Giáo xứ hầu như bị chững lại vì nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan. Nhưng cũng chính thời kỳ này đã chứng tỏ được sức sống tiềm ẩn, mãnh liệt của Giáo Hội Chúa Kitô, và vai trò của vị mục tử với đoàn chiên. Cha là người có công lớn trong việc lèo lái con thuyền Giáo xứ vượt qua bao gian nan thử thách trong suốt gần 13 năm. Nguyện suốt đời mãi khắc ghi.
Cám ơn Cha Alphongsô Nguyễn Công Vinh, tuy thời gian quản xứ của Cha chỉ có hơn 8 năm, nhưng những gì Cha đã làm cho Giáo xứ thật đáng trân trọng, đã để lại trong lòng mọi người giáo dân Vinh Lưu một dấu ấn sâu đậm, chúng con xin được điểm lại những công việc nổi bật mà cha đã thực hiện:
-Về đời sống tinh thần: Cha đã thành lập: giới các bà mẹ, các người cha Công Giáo; đoàn Thiếu nhi và thành lập thêm một giáo họ mới, là giáo họ Mân Côi.
-Về cơ sở vật chất: Chỉnh trang, tu sửa các cơ sở và khuôn viên nhà thờ, xây dựng nhà Đa năng, khởi công xây dựng đài Đức Mẹ cũ. Giáo xứ xin chân thành tri ân Cha.
Cám ơn Cha Phêrô Phan Ngọc Cẩm.Từ khi nhận trách vụ về coi giáo xứ Vinh Lưu, Cha đã không quản ngại gian nan, khổ cực, luôn miệt mài với những công trình lớn nhỏ, nhằm giúp giáo dân trong Giáo xứ có được ngôi thánh đường làm nơi thờ phượng và cầu nguyện; một ngôi nhà xứ khang trang; một nhà giáo lý đầy đủ tiện nghi, sạch đẹp, thuận lợi cho Giới trẻ và thiếu nhi có nơi để sinh hoạt hội đoàn, học hỏi Lời Chúa; một nhà máy nước cho nguồn nước sạch để giảm bớt ốm đau; một trạm xá làm nơi sẻ chia và làm vơi đi những đau khổ của bệnh tật… Những việc Cha đã làm trong suốt thời gian đương nhiệm, mà có thể chúng con không nhìn thấy hết, nhưng mọi người cảm nhận được tình thương, sự hy sinh phục vụ với cả tấm lòng của Cha, nhằm gieo trồng và khơi lên niềm tin nơi những người chưa biết Chúa, đồng thời để củng cố đào sâu hơn nữa đức tin của người Kitô hữu được ngày thêm lớn mạnh. Chúng con mãi mãi suốt đời cảm ơn Cha.
Giáo xứ biết ơn sự đóng góp công sức, vật chất và trí tuệ cũng như sự cộng tác quý báu, nhiệt thành của quý vị HĐMV tiền nhiệm và đương nhiệm, của cộng đoàn giáo dân 5 giáo họ, của các Ban ngành đoàn thể, các thành phần trong giáo xứ, của mọi người, của quý ân nhân xa gần trong ngoài giáo xứ và hải ngoại…
Với tất cả tâm tình tri ân, những bó hoa tươi thắm dâng lên Đức Cha, quý Cha cựu quản xứ và cha xứ bày tỏ tấm lòng yêu mến và biết ơn.
Bữa tiệc liên hoan liên hoan trong niềm vui tạ ơn tại khuôn viên thánh đường.
Được biết, đêm trước thánh lễ, giáo xứ đã tổ chức buổi diễn nguyện lịch sử giáo xứ với tấm lòng tri ân. Giáo xứ Vinh lưu được thành lập từ năm 1955. Giáo dân di cư từ giáo phận Vinh đến miền đất mới lập nghiệp. Ngày xưa nghèo khó, đất cát nắng cháy. Ngày nay đất tốt nước trong,phồn thịnh sung túc. Nhà cửa như phố thị sầm uất xinh đẹp. Ơn gọi Linh mục Tu sĩ nam nữ dồi dào. Bà con giáo dân quảng đại trợ lực nhiều giáo xứ đến xin giúp xây Nhà thờ nhà giáo lý…Xuyên suốt 60 năm qua, giáo xứ có 8 cha quản xứ chăm lo mục vụ nối tiếp nhau, nay 4 vị đã về với Chúa. Các mục tử tận tụy hy sinh, từng bước đưa giáo xứ phát triển không ngừng.
Chúc mừng Ngọc Khánh Giáo xứ Vinh Lưu. 60 năm là thời gian đẹp trong lịch sử đời người, là thời gian quý trong lịch sử một tổ chức. Đến tuổi 60, người ta mừng thọ. 60 năm hình thành và phát triển của một tổ chức, người ta mừng lễ ngọc. Cầu chúc Giáo xứ luôn thăng tiến mọi mặt, góp phần vào sứ vụ truyền giáo của Giáo phận Phan thiết thân yêu.
Hình ảnh
Linh mục quản xứ Phaolô Hoàng Kim Tốt, Linh mục phó xứ Phêrô Lê Anh Tuấn và bà con giáo dân Vinh Lưu đón mừng mọi người với nụ cười rạng rỡ. Niềm vui còn nhân lên với sự kiện giáo xứ vừa hoàn thành đài Đức Mẹ khang trang. Niềm vui lớn biểu lộ trên khuôn mặt, nơi sắc phục và cung cách tổ chức thánh lễ.
Đức Cha Giuse, Giám mục Gp Phan Thiết cùng đoàn đồng tế khoảng 70 linh mục, đông đảo chủng sinh, tu sĩ và cộng đoàn đến Lễ đài Đức Mẹ. Ngài làm phép tượng Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, sau đó cộng đoàn tiến vào Nhà thờ, ca đoàn hát vang bài ca tạ ơn.
Trong bài giảng lễ, Đức Cha Giuse chúc mừng và chia vui với Giáo xứ. Ngài nói đến 3 điểm. Một điểm dừng: nhìn lại để tạ ơn. Từ đời sống đức tin đến đời sống kinh tế, nhớ lại tất cả mà tạ ơn Chúa. Một điểm nhấn, nhắm vào hiện tại để thấy rõ lòng đạo đức, lòng yêu mến Đức Mẹ, lòng yêu mến Giáo Hội của cộng đoàn Vinh lưu. Một điểm tái khởi hành, trong tinh thần yêu thương hiệp nhất hòa hợp tin cậy và truyền giáo.
Cuối lễ, ông Chủ tịch HĐGX dâng lời tri ân.
Ngày 15/5/1955, Giáo xứ Vinh lưu được thành lập và đã chọn Đức Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời làm bổn mạng. Hành trình 60 năm giúp Giáo xứ nhận ra rằng: Thiên Chúa là chủ thời gian và lịch sử. Ngài luôn yêu thương quan phòng và che chở giáo xứ dưới cánh tay của Ngài. Ngài đã lần lượt gửi các vị mục tử đến, để hạt giống đức tin được nảy mầm và phát triển trên vùng đất này. Chúng con xin tri ân tình Chúa, cảm tạ quý Đức Cha, quý Cha, các bậc tiền bối, các ân nhân và thân hữu xa gần.
Cám ơn Đức Cha nhiều, dù những ngày vừa qua lo hậu sự cho Đức Cha Nicolas, rồi thánh lễ tại trung tâm Tàpao, nhưng Đức Cha vẫn yêu thương hiện diện với đoàn chiên.
Cám ơn Cha Giuse Nguyễn Văn Chữ, ngày Cha về với xứ là khởi đầu một đời sống đức tin đầy thử thách, đòi hỏi tín hữu cần biết hy sinh, can đảm. Quả thật, sau biến cố 1975, mọi sinh hoạt của Giáo xứ hầu như bị chững lại vì nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan. Nhưng cũng chính thời kỳ này đã chứng tỏ được sức sống tiềm ẩn, mãnh liệt của Giáo Hội Chúa Kitô, và vai trò của vị mục tử với đoàn chiên. Cha là người có công lớn trong việc lèo lái con thuyền Giáo xứ vượt qua bao gian nan thử thách trong suốt gần 13 năm. Nguyện suốt đời mãi khắc ghi.
Cám ơn Cha Alphongsô Nguyễn Công Vinh, tuy thời gian quản xứ của Cha chỉ có hơn 8 năm, nhưng những gì Cha đã làm cho Giáo xứ thật đáng trân trọng, đã để lại trong lòng mọi người giáo dân Vinh Lưu một dấu ấn sâu đậm, chúng con xin được điểm lại những công việc nổi bật mà cha đã thực hiện:
-Về đời sống tinh thần: Cha đã thành lập: giới các bà mẹ, các người cha Công Giáo; đoàn Thiếu nhi và thành lập thêm một giáo họ mới, là giáo họ Mân Côi.
-Về cơ sở vật chất: Chỉnh trang, tu sửa các cơ sở và khuôn viên nhà thờ, xây dựng nhà Đa năng, khởi công xây dựng đài Đức Mẹ cũ. Giáo xứ xin chân thành tri ân Cha.
Cám ơn Cha Phêrô Phan Ngọc Cẩm.Từ khi nhận trách vụ về coi giáo xứ Vinh Lưu, Cha đã không quản ngại gian nan, khổ cực, luôn miệt mài với những công trình lớn nhỏ, nhằm giúp giáo dân trong Giáo xứ có được ngôi thánh đường làm nơi thờ phượng và cầu nguyện; một ngôi nhà xứ khang trang; một nhà giáo lý đầy đủ tiện nghi, sạch đẹp, thuận lợi cho Giới trẻ và thiếu nhi có nơi để sinh hoạt hội đoàn, học hỏi Lời Chúa; một nhà máy nước cho nguồn nước sạch để giảm bớt ốm đau; một trạm xá làm nơi sẻ chia và làm vơi đi những đau khổ của bệnh tật… Những việc Cha đã làm trong suốt thời gian đương nhiệm, mà có thể chúng con không nhìn thấy hết, nhưng mọi người cảm nhận được tình thương, sự hy sinh phục vụ với cả tấm lòng của Cha, nhằm gieo trồng và khơi lên niềm tin nơi những người chưa biết Chúa, đồng thời để củng cố đào sâu hơn nữa đức tin của người Kitô hữu được ngày thêm lớn mạnh. Chúng con mãi mãi suốt đời cảm ơn Cha.
Giáo xứ biết ơn sự đóng góp công sức, vật chất và trí tuệ cũng như sự cộng tác quý báu, nhiệt thành của quý vị HĐMV tiền nhiệm và đương nhiệm, của cộng đoàn giáo dân 5 giáo họ, của các Ban ngành đoàn thể, các thành phần trong giáo xứ, của mọi người, của quý ân nhân xa gần trong ngoài giáo xứ và hải ngoại…
Với tất cả tâm tình tri ân, những bó hoa tươi thắm dâng lên Đức Cha, quý Cha cựu quản xứ và cha xứ bày tỏ tấm lòng yêu mến và biết ơn.
Bữa tiệc liên hoan liên hoan trong niềm vui tạ ơn tại khuôn viên thánh đường.
Được biết, đêm trước thánh lễ, giáo xứ đã tổ chức buổi diễn nguyện lịch sử giáo xứ với tấm lòng tri ân. Giáo xứ Vinh lưu được thành lập từ năm 1955. Giáo dân di cư từ giáo phận Vinh đến miền đất mới lập nghiệp. Ngày xưa nghèo khó, đất cát nắng cháy. Ngày nay đất tốt nước trong,phồn thịnh sung túc. Nhà cửa như phố thị sầm uất xinh đẹp. Ơn gọi Linh mục Tu sĩ nam nữ dồi dào. Bà con giáo dân quảng đại trợ lực nhiều giáo xứ đến xin giúp xây Nhà thờ nhà giáo lý…Xuyên suốt 60 năm qua, giáo xứ có 8 cha quản xứ chăm lo mục vụ nối tiếp nhau, nay 4 vị đã về với Chúa. Các mục tử tận tụy hy sinh, từng bước đưa giáo xứ phát triển không ngừng.
Chúc mừng Ngọc Khánh Giáo xứ Vinh Lưu. 60 năm là thời gian đẹp trong lịch sử đời người, là thời gian quý trong lịch sử một tổ chức. Đến tuổi 60, người ta mừng thọ. 60 năm hình thành và phát triển của một tổ chức, người ta mừng lễ ngọc. Cầu chúc Giáo xứ luôn thăng tiến mọi mặt, góp phần vào sứ vụ truyền giáo của Giáo phận Phan thiết thân yêu.
Giáo dân VN và cư dân tại Philadelphia đã sẵn sàng đón tiếp 1.5 triệu khách hành hương
Nguyễn Long Thao
19:34 15/05/2015
Cư dân thành phố Philadelphia sẵn sàng đón tiếp 1.5 triệu khách hành hương dịp ĐTC Phanxicô dự Hội Nghị Thế Giới Về Gia Đình
Philadelphia 15/5/2015. - Theo tin Reuters, 1,5 triệu người dự kiến sẽ đổ về thành phố Philadelphia vào mùa Thu này để đón Đức Thánh Cha Phanxicô đến Hoa Kỳ để dự đại hội thế giới về gia đình được tổ chức tại đây
Với số du khách đông đảo như vậy đến cùng một lúc trong quãng thời gian ngắn là một vấn nạn lớn đối với thành phố Philadelphia.
Để giải quyết vấn đề, ban tổ chức đại hội đã kêu gọi cư dân thành phố Philadelphia tự nguyện đứng ra thành lập một tổ chức đảm nhận việc đón tiếp khách hành hương, đặc biệt cho những người hoặc không thuê được khách sạn vì đã hết chỗ, hoặc giá cả tại khách sạn quá cao. Tổ chức này có mạng lưới tên là www.homestay.com gồm khoảng trên dưới 1200 gia đình, trong đó có khoảng 200 gia đình Công Giáo Việt Nam. Khách hành hương liên lạc với mạng lưới này và người ta sẽ cho biết, khách hành hương sẽ ở tại căn nhà nào.
Ông Hughey và bà vợ là cư dân Công Giáo của thành phố Philadelphia phát biểu với phóng viên của thông tấn xã Reuters:”Khi tôi nghe tin Đức Thánh Cha sẽ đến đây, tôi kêu lên Chúa ơi, ai mà có sức chứa chấp từng ấy người.”
Gia đình ông bà Hughey dự trù sẽ tiếp đón hai anh em người Cộng Hòa Dân Chủ Congo và một cặp vợ chồng người Việt Nam. Đây là cơ hội của ông bà được giới thiệu với khách hành hương về thành phố của họ đồng thời có cơ hội được biết đến văn hóa khác của 150 đoàn khách nước ngoài đến tham dự đại hội.
Tại Hoa Kỳ, người ta có thói quen là khi có một sự kiện đông đảo người đến tham dự, thì các gia chủ quanh vùng đó thường cho thuê nhà để kiếm lợi. Nhưng trong trường hợp tại Philadelphia, vì các gia đình đón tiếp đại đa số là người Công Giáo nên kiếm lợi không phải là mục tiêu chính mà là dịp để gia chủ góp phần quảng bá lời Chúa và biết thêm văn hóa của dân tộc khác.
Bà Renee Bowen, 47 tuổi ngụ tại Wayne Pennsylvania phát biểu “ Đây là dịp tôi được chia sẻ và cảm nghiệm nền văn hóa khác “
Đến ở với các gia đình tại Philadelphia, khách hành hương chỉ trả một số tiền tượng trưng để gia chủ trang trải chi phí. Nếu thuê khách sạn, mỗi đêm khách phải trả là 200 Mỹ Kim, hoặc nhiều hơn. Còn tại các gia đình khách chỉ trả 50 Mỹ kim trong đó mạng lưới môi giới đưa khách đến ăn 10% tức 5 Mỹ Kim.
Theo ước tính của giới chức thành phố Philadelphia, cuộc viếng thăm của ĐGH tại đây trong một tuần lễ, gồm việc Ngài đọc diễn văn trước lưỡng viện quốc hội Hoà Kỳ và trước Liên Hiệp Quốc, sẽ mang lại cho nền kinh tế thành phố một khoản tiền là 417 triệy Mỹ Kim do khách hành hương thuế mướn khách sạn, ăn uống nhà hàng.
Hiện nay, dù còn 4 tháng nữa mới khai mạc đại hội thế nhưn khách hành hương không muốn trụ ngụ tại các gia đình tiếp đón đã gặp khó khăn trong việc tìm khách sạn thuê vì các khách sạn quanh vùng tổ chức đại hội đã được các du khách trên thế giới đặt giữ chổ hết, chỉ còn những khách sạn xa nơi tổ chức khoảng 15 đến 20 km.
Điều đặc biệt ban tổ chức đại hội cho biết trong số 1200 gia đình ghi danh đón tiếp khách hành hương, có đến 200 gia đình Việt Nam và 150 gia đình gốc Mỹ Châu Latin
Đức Ông Trịnh Minh Trí, chính xứ giáo xứ tại Philadelphia nói với phóng viên Scott Malone của hãng Reuters: “Giáo dân trong giáo xứ đã sẵn sáng đón tiếp khách hành hương và cung cấp các dịch vụ thông dịch”
Ban tổ chức cũng cho biết. Khoảng 300 giáo sĩ và giáo dân Việt Nam đã ghi danh tham dự đại hội. Đây là đoàn lớn thứ hai, chỉ sau có đoàn đại biểu của Canada
Đức Ông Trịnh Minh Trí cũng nói thêm Giáo dân Việt Nam rất vinh dự được tiếp đón khách hành hương. Chúng tôi đã biết cảnh sống 4 hay 5 người trong một phòng thế nào rồi. Mỗi ngày chúng tôi sẽ cung cấp bữa ăn sáng, chiều cho khoảng 120 du khách Việt Nam. Chúng tôi muốn góp phần vào nỗ lực của ban tổ chức để đáp lại những gì chúng tôi đã nhận được từ thành phố Philadelphia.
Philadelphia 15/5/2015. - Theo tin Reuters, 1,5 triệu người dự kiến sẽ đổ về thành phố Philadelphia vào mùa Thu này để đón Đức Thánh Cha Phanxicô đến Hoa Kỳ để dự đại hội thế giới về gia đình được tổ chức tại đây
Với số du khách đông đảo như vậy đến cùng một lúc trong quãng thời gian ngắn là một vấn nạn lớn đối với thành phố Philadelphia.
Để giải quyết vấn đề, ban tổ chức đại hội đã kêu gọi cư dân thành phố Philadelphia tự nguyện đứng ra thành lập một tổ chức đảm nhận việc đón tiếp khách hành hương, đặc biệt cho những người hoặc không thuê được khách sạn vì đã hết chỗ, hoặc giá cả tại khách sạn quá cao. Tổ chức này có mạng lưới tên là www.homestay.com gồm khoảng trên dưới 1200 gia đình, trong đó có khoảng 200 gia đình Công Giáo Việt Nam. Khách hành hương liên lạc với mạng lưới này và người ta sẽ cho biết, khách hành hương sẽ ở tại căn nhà nào.
Ông Hughey và bà vợ là cư dân Công Giáo của thành phố Philadelphia phát biểu với phóng viên của thông tấn xã Reuters:”Khi tôi nghe tin Đức Thánh Cha sẽ đến đây, tôi kêu lên Chúa ơi, ai mà có sức chứa chấp từng ấy người.”
Gia đình ông bà Hughey dự trù sẽ tiếp đón hai anh em người Cộng Hòa Dân Chủ Congo và một cặp vợ chồng người Việt Nam. Đây là cơ hội của ông bà được giới thiệu với khách hành hương về thành phố của họ đồng thời có cơ hội được biết đến văn hóa khác của 150 đoàn khách nước ngoài đến tham dự đại hội.
Tại Hoa Kỳ, người ta có thói quen là khi có một sự kiện đông đảo người đến tham dự, thì các gia chủ quanh vùng đó thường cho thuê nhà để kiếm lợi. Nhưng trong trường hợp tại Philadelphia, vì các gia đình đón tiếp đại đa số là người Công Giáo nên kiếm lợi không phải là mục tiêu chính mà là dịp để gia chủ góp phần quảng bá lời Chúa và biết thêm văn hóa của dân tộc khác.
Bà Renee Bowen, 47 tuổi ngụ tại Wayne Pennsylvania phát biểu “ Đây là dịp tôi được chia sẻ và cảm nghiệm nền văn hóa khác “
Đến ở với các gia đình tại Philadelphia, khách hành hương chỉ trả một số tiền tượng trưng để gia chủ trang trải chi phí. Nếu thuê khách sạn, mỗi đêm khách phải trả là 200 Mỹ Kim, hoặc nhiều hơn. Còn tại các gia đình khách chỉ trả 50 Mỹ kim trong đó mạng lưới môi giới đưa khách đến ăn 10% tức 5 Mỹ Kim.
Theo ước tính của giới chức thành phố Philadelphia, cuộc viếng thăm của ĐGH tại đây trong một tuần lễ, gồm việc Ngài đọc diễn văn trước lưỡng viện quốc hội Hoà Kỳ và trước Liên Hiệp Quốc, sẽ mang lại cho nền kinh tế thành phố một khoản tiền là 417 triệy Mỹ Kim do khách hành hương thuế mướn khách sạn, ăn uống nhà hàng.
Điều đặc biệt ban tổ chức đại hội cho biết trong số 1200 gia đình ghi danh đón tiếp khách hành hương, có đến 200 gia đình Việt Nam và 150 gia đình gốc Mỹ Châu Latin
Đức Ông Trịnh Minh Trí, chính xứ giáo xứ tại Philadelphia nói với phóng viên Scott Malone của hãng Reuters: “Giáo dân trong giáo xứ đã sẵn sáng đón tiếp khách hành hương và cung cấp các dịch vụ thông dịch”
Ban tổ chức cũng cho biết. Khoảng 300 giáo sĩ và giáo dân Việt Nam đã ghi danh tham dự đại hội. Đây là đoàn lớn thứ hai, chỉ sau có đoàn đại biểu của Canada
Đức Ông Trịnh Minh Trí cũng nói thêm Giáo dân Việt Nam rất vinh dự được tiếp đón khách hành hương. Chúng tôi đã biết cảnh sống 4 hay 5 người trong một phòng thế nào rồi. Mỗi ngày chúng tôi sẽ cung cấp bữa ăn sáng, chiều cho khoảng 120 du khách Việt Nam. Chúng tôi muốn góp phần vào nỗ lực của ban tổ chức để đáp lại những gì chúng tôi đã nhận được từ thành phố Philadelphia.
Thánh Lễ truyền chức và Mở tay của Tân LM gốc Việt tại Gx Đức Mẹ La Vang, Miami
Lm Giuse Nguyễn Kim Long
18:33 15/05/2015
Giáo xứ Đức Mẹ La Vang, Miami: Thánh Lễ truyền chức và Mở tay của Tân Linh Mục Philip Trần.
Sáng nay thứ Bảy 9-05, một ngày thật đẹp, chan chứa ánh nắng mặt trời của mùa hè nam Florida. Và ngày hôm nay càng vui hơn nữa khi Tổng Giáo phận Miami hân hoan chào đón 6 Tân Linh mục sẽ được thụ phong tai nhà thờ chính toà Thánh Maria, trong đó có một người Việt Nam, là cha Philip Trần Hoàng. Đây là Linh mục Việt Nam đầu tiên của Tổng giáo phận, sinh ra ở Mỹ và được đào tạo chính thức từ Đại chủng viện của Giáo phận.
Xem Hình
Thánh Lễ Truyền chức Linh mục bắt đầu lúc 10:00 sáng. Nhà thờ chính tòa lúc này đã đầy người là các thân nhân của 6 tiến chức và anh chị em giáo dân từ các giáo xứ. Đức Tổng giám mục Thomas Wenski chủ tế Thánh Lễ. Cùng đồng tế với ngài có Đức GM phụ tá, các Gm vể hưu, và đặc biệt là Đức Cha Tước, Giáo phận Phú Cường và hơn 100 cha, với khoảng 15 cha Việt Nam.
Trong bài giảng nhắn nhủ các tiến chức, ĐTGM chủ tế đã nhắc lại lới nhắn nhủ của bà cố Thánh Gioan Bosco khi ngài mới chịu chức LM: “Gioan, hôm nay con là Linh mục. Con sẽ dâng Thánh Lễ và như vậy con sẽ gần Chúa Giê-su hơn. Con nhớ rằng khi bắt đầu dâng Thánh lễ là bắt đầu chịu khổ. Con sẽ không nhận ra điều này ngay bây giờ, nhưng rồi con sẽ biết rằng lời mẹ nói với con là sự thật”.
Sáu đó là phần nghi thức truyền chức. Các Tân LM là: Javier Barreto, 34 tuổi – Julio Enrique de Jesu, 43 tuổi – Yamil Miranda, 30 tuổi – Bryant Garcia, 26 tuổi – Michael Garcia, 26 tuổi và Philip Trần, 28 tuổi.
Cuối Thánh Lễ, Đức TGM thông báo bổ nhiệm các cha mới đi làm cha phó các giáo xứ. Cha Philip Trần được bổ nhiệm làm cha phó giáo xứ Little Flower tai thành phố Coral Gables.
Cùng ngày hôm nay, vào buổi chiều lúc 5:00PM, Tân Linh Mục Philip Trần đã về Giáo xứ nhà Đức Mẹ La Vang. Dâng Thánh Lễ Mở Tay để tạ ơn Thiên Chúa và cầu nguyện cho gia đình. Củng đồng tế với Cha mới là quí cha Việt Nam trong tiểu bang Florida và một số cha khách. Đức Cha Giuse Nguyễn tấn Tước, Giám mục Phú Cường dự lễ và giảng trong Thánh Lễ. Sau Thánh Lễ, một bữa tiệc mừng đã được tổ chức tại hội trường Giáo xứ với các tiết mục văn nghệ thật vui nhộn.
Chúng ta cùng cảm tạ Chúa với các Tân Linh Mục trong Giáo Hội và cầu nguyện cho các ngài luôn trung thành và hăng say trong sứ mạng phục vụ cho đoàn chiên Chúa trao phó.
Cha Giuse Nguyễn Kim Long
Sáng nay thứ Bảy 9-05, một ngày thật đẹp, chan chứa ánh nắng mặt trời của mùa hè nam Florida. Và ngày hôm nay càng vui hơn nữa khi Tổng Giáo phận Miami hân hoan chào đón 6 Tân Linh mục sẽ được thụ phong tai nhà thờ chính toà Thánh Maria, trong đó có một người Việt Nam, là cha Philip Trần Hoàng. Đây là Linh mục Việt Nam đầu tiên của Tổng giáo phận, sinh ra ở Mỹ và được đào tạo chính thức từ Đại chủng viện của Giáo phận.
Xem Hình
Thánh Lễ Truyền chức Linh mục bắt đầu lúc 10:00 sáng. Nhà thờ chính tòa lúc này đã đầy người là các thân nhân của 6 tiến chức và anh chị em giáo dân từ các giáo xứ. Đức Tổng giám mục Thomas Wenski chủ tế Thánh Lễ. Cùng đồng tế với ngài có Đức GM phụ tá, các Gm vể hưu, và đặc biệt là Đức Cha Tước, Giáo phận Phú Cường và hơn 100 cha, với khoảng 15 cha Việt Nam.
Trong bài giảng nhắn nhủ các tiến chức, ĐTGM chủ tế đã nhắc lại lới nhắn nhủ của bà cố Thánh Gioan Bosco khi ngài mới chịu chức LM: “Gioan, hôm nay con là Linh mục. Con sẽ dâng Thánh Lễ và như vậy con sẽ gần Chúa Giê-su hơn. Con nhớ rằng khi bắt đầu dâng Thánh lễ là bắt đầu chịu khổ. Con sẽ không nhận ra điều này ngay bây giờ, nhưng rồi con sẽ biết rằng lời mẹ nói với con là sự thật”.
Sáu đó là phần nghi thức truyền chức. Các Tân LM là: Javier Barreto, 34 tuổi – Julio Enrique de Jesu, 43 tuổi – Yamil Miranda, 30 tuổi – Bryant Garcia, 26 tuổi – Michael Garcia, 26 tuổi và Philip Trần, 28 tuổi.
Cuối Thánh Lễ, Đức TGM thông báo bổ nhiệm các cha mới đi làm cha phó các giáo xứ. Cha Philip Trần được bổ nhiệm làm cha phó giáo xứ Little Flower tai thành phố Coral Gables.
Cùng ngày hôm nay, vào buổi chiều lúc 5:00PM, Tân Linh Mục Philip Trần đã về Giáo xứ nhà Đức Mẹ La Vang. Dâng Thánh Lễ Mở Tay để tạ ơn Thiên Chúa và cầu nguyện cho gia đình. Củng đồng tế với Cha mới là quí cha Việt Nam trong tiểu bang Florida và một số cha khách. Đức Cha Giuse Nguyễn tấn Tước, Giám mục Phú Cường dự lễ và giảng trong Thánh Lễ. Sau Thánh Lễ, một bữa tiệc mừng đã được tổ chức tại hội trường Giáo xứ với các tiết mục văn nghệ thật vui nhộn.
Chúng ta cùng cảm tạ Chúa với các Tân Linh Mục trong Giáo Hội và cầu nguyện cho các ngài luôn trung thành và hăng say trong sứ mạng phục vụ cho đoàn chiên Chúa trao phó.
Cha Giuse Nguyễn Kim Long
Thông Báo
Thông Báo Đại Hội Thánh Thể lần thứ 20 tại Atlanta
Pt Giuse Nguyễn Hòa Phú
13:35 15/05/2015
Hằng năm vào dịp Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, Tổng Giáo Phận Atlanta tổ chức Đại Hội Thánh Thể thường niên. Đây là biến cố tôn giáo trọng đại trong năm, thu hút đông đảo giáo dân địa phương và các tiểu bang lân cận. Hơn thế nữa, đây là lần Đại Hội Thánh Thể lần thứ 20 kể từ năm 1996.
1-Lịch sử:
Ngược dòng lịch sử, vào dịp lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa năm 1995, Đức cố Tổng Giám Mục John F. Donoghue phát động và đề xướng việc canh tân và sùng mộ Bí tích Thánh Thể trong giáo phận, nhưng phải chờ đến ngày 9 tháng 6 năm 1996, Đức cố TGM mới chính thức thành lập “Ủy ban canh tân Thánh Thể.”
Nếu đó là công việc của Thiên Chúa thì nó sẽ tồn tại, quả thực, Chúa đã chúc lành và thời gian đã xác tín việc tổ chức đại hội hàng năm với số người tham dự mỗi năm một thêm đông. Ngoài số giáo dân chủ lực tại Tổng giáo phận Atlanta, giáo dân và dân chúng từ các giáo phận lân cận và khắp nước Mỹ cũng về tham dự. Đức tân Tổng Giám mục Wilton D. Gregory tiếp nối và thừa kế công việc tổ chức Đại hội; từ con số khiêm nhường 4,000 người tham dự trong dịp lễ Mình và Máu Thánh Chúa năm 1997, cho đến nay, đặc biệt năm 2014 vừa qua, Ban tổ chức cho biết số người tham dự lên hơn 30,000 ngàn người.
2-Mục đích Đại Hội Thánh Thể:
Hai mục đích chính của đại hội: thứ nhất là tạo cơ hội để tán tụng ngợi khen mầu nhiệm hiện diện thật của Chúa Giêsu qua hình bánh và rượu trong Bí tích Thánh Thể và lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria. Mục đích thứ hai, Đại hội còn là cơ hội cầu nguyện và cổ võ ơn thiên triệu: Linh Mục, Phó tế, đời sống tận hiến và cũng là thời gian để cầu nguyện cho đời sống hôn nhân và gia đình.
3-Thành phần dân Chúa tham dự:
Từ khởi đầu, hai ngành chính chủ trì là tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha; nhưng với sự hội nhập và phát triển đa văn hóa, các sắc dân thiểu số hiện nay cũng tích cực tham dự mà biểu tượng rõ nét nhất là 7 đại biểu dâng “Lời Nguyện Tín Hữu.” Chúng ta thấy có sự hiện diện của các sắc dân: Bồ đào nha, Francophone, Phi Luật Tân, Đại Hàn, Trung Hoa, Việt Nam …
Theo thông lệ hằng năm, Ban tổ chức luôn ưu ái dành cho đại biểu Ngành Việt Nam đọc Bài đọc 2 trong Thánh lễ Đại trào bế mạc. Sở dĩ các Đức Tổng Giám Mục Atlanta ưu ái và lưu tâm đến sắc dân Việt Nam, chính là nhờ uy tín và công lao của các vị mục tử đang phục vụ trong Tổng giáo phận và tinh thần hăng say sống đạo của các cộng đòan. Đặc biệt là công khó của những vị mục tử “khai quốc công thần” mà trước hết cần nêu danh là Đức Ông Francis Phạm Văn Phương.
4-Cộng đồng Công Giáo Việt Nam tại Tổng Giáo phận Atlanta
Hiện nay giáo dân Việt Nam sinh hoạt thường xuyên trong 4 Cộng đoàn sau:
a-Giáo Xứ Đức Mẹ Việt Nam – Riverdale
Cha sở: Đức Ông Francis Phạm Văn Phương
Cha phó: Linh mục Phêrô Vũ Ngọc Đức
b-Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam – Norcross
Cha sở: Linh mục Phanxicô Xaviê Trần Quốc Tuấn
Cha phó: Linh mục Anthony Bùi Kim Phong
c-Cộng Đồng Thánh Michael (Gainesville)
(Các Linh Mục VN luân phiên (rotation) phụ trách mục vụ hàng tháng)
d-Cộng Đồng Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu (Hartwell)
Quản nhiệm: Linh mục Đôminicô Trần Công Thơ
5-Diễn giả Đại Hội của Ngành Việt Nam:
Năm nay, diễn giả toàn phần cho Ngành Việt Nam trong Đại hội là Đức Giám Mục Phêrô Nguyễn Khảm. Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm sinh năm 1952 tại Hà Ðông, Hànội. Sau khi cộng sản chiếm cứ miền Bắc, ngài đã cùng với gia đình di cư vào miền Nam, Việt Nam. Tháng 8 năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm làm Giám mục Chánh tòa Giáo phận Mỹ Tho - Việt Nam.
6-Lời mời tham dự Đại Hội Thánh Thể 2015
Nhân dịp Đại Hội Thánh Thể lần thứ 20, Đức Ông Phạm Văn Phương “Vicar for Clergy for Vietnamese Piests”, đại diện cho giáo sĩ Việt Nam trong Tổng Giáo phận Atlanta, tha thiết xin quý Cha, quý thầy Sáu, quý Tu sĩ Nam nữ, quý ông bà và anh chị em vui lòng thu xếp công ăn việc làm và sinh hoạt gia đình sao cho thuận tiện để cố gắng đến tham dự Đại Hội, và cũng xin quý vị vui lòng phổ biến rộng rãi tin tức và chương trình về ngày Đại Hội Thánh Thể năm 2015.
7- CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI HỘI THÁNH THỂ lần thứ 20, năm 2015
Chủ đề: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20)
I-Chiều Thứ Sáu ngày 5 tháng 6 năm 2015
6:30 p.m Thánh Lễ Khai Mạc, Đức Giám Mục David Talley (Giảng thuyết)
-Phụng Vụ Chữa Lành (Giờ mở cửa 5:30 chiều)
II-Thứ Bẩy ngày 6 tháng 6 năm 2015
7:30 giờ sáng Mở cửa (Trung Tâm Đại Hội Thánh Thể)
8:30 giờ Kiệu Thánh Thể (ngoài trời, nếu thời tiết cho phép)
10:00 giờ Chầu Thánh Thể (10:00 - 10:45 tại “Exhibit Halls A-D” Giảng Thuyết: Đức Tổng Giám Mục Wilton D. Gregory
11:00 giờ Nghỉ Giải Lao
(Có quý Cha ngồi Tòa Giải Tội từ 11:30 giờ sáng đến 4:30 giờ chiều)
11:30 giờ Đức Ông Francis Phạm Văn Phương giới thiệu diễn giả
Hội Luận I:“Ở với Chúa để thi hành sứ mệnh Tân Phúc Âm Hóa” Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm (Giảng thuyết)
12:30 giờ Ăn trưa
1:00 giờ chiều Hội Luận II:“Ở với Chúa để thi hành sứ mệnh Tân Phúc Âm Hóa, Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm (Giảng thuyết)
2:30 giờ Thăm viếng của Đức Tổng Giám Mục Wilton D. Gregory
3:00 giờ Hội Luận III: “Hỏi - Đáp” Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm (Phụ trách)
4:00 giờ Lần chuỗi “Kính Lòng Chúa Thương Xót”
5:00 giờ Thánh Lễ Đại Trào - Bế Mạc Đại Hội Thánh Thể 2012
(tại “Exhibit Halls A-D”)
III-Địa điểm tổ chức:
Georgia International Convention Center
2000 Convention Center Concourse
College Park, GA 30337 - (770) 997-3566 www.gicc.com
Ngược dòng lịch sử, vào dịp lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa năm 1995, Đức cố Tổng Giám Mục John F. Donoghue phát động và đề xướng việc canh tân và sùng mộ Bí tích Thánh Thể trong giáo phận, nhưng phải chờ đến ngày 9 tháng 6 năm 1996, Đức cố TGM mới chính thức thành lập “Ủy ban canh tân Thánh Thể.”
Nếu đó là công việc của Thiên Chúa thì nó sẽ tồn tại, quả thực, Chúa đã chúc lành và thời gian đã xác tín việc tổ chức đại hội hàng năm với số người tham dự mỗi năm một thêm đông. Ngoài số giáo dân chủ lực tại Tổng giáo phận Atlanta, giáo dân và dân chúng từ các giáo phận lân cận và khắp nước Mỹ cũng về tham dự. Đức tân Tổng Giám mục Wilton D. Gregory tiếp nối và thừa kế công việc tổ chức Đại hội; từ con số khiêm nhường 4,000 người tham dự trong dịp lễ Mình và Máu Thánh Chúa năm 1997, cho đến nay, đặc biệt năm 2014 vừa qua, Ban tổ chức cho biết số người tham dự lên hơn 30,000 ngàn người.
2-Mục đích Đại Hội Thánh Thể:
Hai mục đích chính của đại hội: thứ nhất là tạo cơ hội để tán tụng ngợi khen mầu nhiệm hiện diện thật của Chúa Giêsu qua hình bánh và rượu trong Bí tích Thánh Thể và lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria. Mục đích thứ hai, Đại hội còn là cơ hội cầu nguyện và cổ võ ơn thiên triệu: Linh Mục, Phó tế, đời sống tận hiến và cũng là thời gian để cầu nguyện cho đời sống hôn nhân và gia đình.
3-Thành phần dân Chúa tham dự:
Từ khởi đầu, hai ngành chính chủ trì là tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha; nhưng với sự hội nhập và phát triển đa văn hóa, các sắc dân thiểu số hiện nay cũng tích cực tham dự mà biểu tượng rõ nét nhất là 7 đại biểu dâng “Lời Nguyện Tín Hữu.” Chúng ta thấy có sự hiện diện của các sắc dân: Bồ đào nha, Francophone, Phi Luật Tân, Đại Hàn, Trung Hoa, Việt Nam …
Theo thông lệ hằng năm, Ban tổ chức luôn ưu ái dành cho đại biểu Ngành Việt Nam đọc Bài đọc 2 trong Thánh lễ Đại trào bế mạc. Sở dĩ các Đức Tổng Giám Mục Atlanta ưu ái và lưu tâm đến sắc dân Việt Nam, chính là nhờ uy tín và công lao của các vị mục tử đang phục vụ trong Tổng giáo phận và tinh thần hăng say sống đạo của các cộng đòan. Đặc biệt là công khó của những vị mục tử “khai quốc công thần” mà trước hết cần nêu danh là Đức Ông Francis Phạm Văn Phương.
4-Cộng đồng Công Giáo Việt Nam tại Tổng Giáo phận Atlanta
Hiện nay giáo dân Việt Nam sinh hoạt thường xuyên trong 4 Cộng đoàn sau:
a-Giáo Xứ Đức Mẹ Việt Nam – Riverdale
Cha sở: Đức Ông Francis Phạm Văn Phương
Cha phó: Linh mục Phêrô Vũ Ngọc Đức
b-Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam – Norcross
Cha sở: Linh mục Phanxicô Xaviê Trần Quốc Tuấn
Cha phó: Linh mục Anthony Bùi Kim Phong
c-Cộng Đồng Thánh Michael (Gainesville)
(Các Linh Mục VN luân phiên (rotation) phụ trách mục vụ hàng tháng)
d-Cộng Đồng Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu (Hartwell)
Quản nhiệm: Linh mục Đôminicô Trần Công Thơ
5-Diễn giả Đại Hội của Ngành Việt Nam:
Năm nay, diễn giả toàn phần cho Ngành Việt Nam trong Đại hội là Đức Giám Mục Phêrô Nguyễn Khảm. Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm sinh năm 1952 tại Hà Ðông, Hànội. Sau khi cộng sản chiếm cứ miền Bắc, ngài đã cùng với gia đình di cư vào miền Nam, Việt Nam. Tháng 8 năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm làm Giám mục Chánh tòa Giáo phận Mỹ Tho - Việt Nam.
6-Lời mời tham dự Đại Hội Thánh Thể 2015
Nhân dịp Đại Hội Thánh Thể lần thứ 20, Đức Ông Phạm Văn Phương “Vicar for Clergy for Vietnamese Piests”, đại diện cho giáo sĩ Việt Nam trong Tổng Giáo phận Atlanta, tha thiết xin quý Cha, quý thầy Sáu, quý Tu sĩ Nam nữ, quý ông bà và anh chị em vui lòng thu xếp công ăn việc làm và sinh hoạt gia đình sao cho thuận tiện để cố gắng đến tham dự Đại Hội, và cũng xin quý vị vui lòng phổ biến rộng rãi tin tức và chương trình về ngày Đại Hội Thánh Thể năm 2015.
7- CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI HỘI THÁNH THỂ lần thứ 20, năm 2015
Chủ đề: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20)
I-Chiều Thứ Sáu ngày 5 tháng 6 năm 2015
6:30 p.m Thánh Lễ Khai Mạc, Đức Giám Mục David Talley (Giảng thuyết)
-Phụng Vụ Chữa Lành (Giờ mở cửa 5:30 chiều)
II-Thứ Bẩy ngày 6 tháng 6 năm 2015
7:30 giờ sáng Mở cửa (Trung Tâm Đại Hội Thánh Thể)
8:30 giờ Kiệu Thánh Thể (ngoài trời, nếu thời tiết cho phép)
10:00 giờ Chầu Thánh Thể (10:00 - 10:45 tại “Exhibit Halls A-D” Giảng Thuyết: Đức Tổng Giám Mục Wilton D. Gregory
11:00 giờ Nghỉ Giải Lao
(Có quý Cha ngồi Tòa Giải Tội từ 11:30 giờ sáng đến 4:30 giờ chiều)
11:30 giờ Đức Ông Francis Phạm Văn Phương giới thiệu diễn giả
Hội Luận I:“Ở với Chúa để thi hành sứ mệnh Tân Phúc Âm Hóa” Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm (Giảng thuyết)
12:30 giờ Ăn trưa
1:00 giờ chiều Hội Luận II:“Ở với Chúa để thi hành sứ mệnh Tân Phúc Âm Hóa, Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm (Giảng thuyết)
2:30 giờ Thăm viếng của Đức Tổng Giám Mục Wilton D. Gregory
3:00 giờ Hội Luận III: “Hỏi - Đáp” Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm (Phụ trách)
4:00 giờ Lần chuỗi “Kính Lòng Chúa Thương Xót”
5:00 giờ Thánh Lễ Đại Trào - Bế Mạc Đại Hội Thánh Thể 2012
(tại “Exhibit Halls A-D”)
III-Địa điểm tổ chức:
Georgia International Convention Center
2000 Convention Center Concourse
College Park, GA 30337 - (770) 997-3566 www.gicc.com
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Tay Trong Tay
Tấn Đạt
21:29 15/05/2015
Ảnh của Tấn Đạt
Bên nhau chia xẻ mặn nồng
Ngọt bùi cay đắng theo dòng đời trôi
Bổng trầm từng nốt ru lời
Dấu yêu tiếng hát đầy vơi ân tình.
(Trích thơ của TTL)
VietCatholic TV
Phóng sự cuộc rước kiệu kính Đức Mẹ tại Fatima, Bồ Đào Nha tối 12/5/2015
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
05:57 15/05/2015
Quý vị và anh chị em đang theo dõi phóng sự đặc biệt về cuộc rước kiệu kính Đức Mẹ Fatima tối 12 tháng 5 năm 2015 tại linh địa Fatima. Hàng mấy chục ngàn người từ bốn phương trời đã tề tựu về linh địa này và tham gia trong cuộc rước kiệu tối nay.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Có lẽ người Công Giáo Việt Nam nào cũng hát thuộc lòng bài ca “Năm xưa trên cây sồi làng Fatima xa xôi, có Đức Mẹ Chúa Trời hiện ra uy linh sáng chói. Mẹ nhắn nhủ người đời, hãy mau ăn năn đền bồi. Hãy tôn sùng Mẫu Tâm, hãy năn lần hạt Mân Côi...”. Hình ảnh Đức Mẹ Fatima luôn gắn liền với cây sồi. Đức Mẹ hiện ra “uy linh sáng chói” trên một cây sồi ở làng Fatima xa xôi. Trong đời, người tín hữu nào cũng mong muốn được ít là một lần hành hương đến Fatima cầu nguyện bên Mẹ.
Cũng như Lộ Đức, Fatima là trung tâm hành hương Đức Mẹ nổi tiếng trên thế giới. Tại làng Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra nhiều lần với ba trẻ chăn chiên Lucia, Phanxicô và Gianxita. Thời gian này đang xảy ra chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Các nước Châu Âu kinh hoàng và kiệt quệ vì chiến tranh. Giữa bối cảnh đau thương đó, Đức Mẹ đã đến thăm và can thiệp. Sứ điệp Đức Mẹ nhắn gửi đầu tiên qua ba trẻ là: “Các con hãy cầu nguyện! Hãy cầu nguyện thật nhiều!”. Ngày 19-8-1917, Đức Mẹ đề nghị: “Hãy hy sinh nhiều để xin ơn tha thứ cho các tội nhân. Có rất nhiều linh hồn đang sa xuống hỏa ngục, vì không có ai hy sinh đền tội và cầu nguyện cho họ”. Mỗi ngày 13, từ tháng 5 đến tháng 10, Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ. Người đến cầu nguyện mỗi ngày một đông hơn. Đức Mẹ hiện ra lần cuối cùng vào ngày 13-10-1917, và có một phép lạ hùng vĩ xảy ra như chính Mẹ đã hứa trước đó: trước đám đông hơn 70 ngàn người, mặt trời nhảy múa trên không trung. Những người có mặt lúc đầu lo sợ vì họ nghĩ ngày tận thế đã đến, sau đó họ vui mừng và quỳ gối lần hạt, nhiều người ăn năn khóc lóc sám hối tội lỗi của mình.
Từ Fatima, Đức Mẹ đã truyền đi thông điệp cho cả thế giới, như một điều kiện khẩn thiết để thế giới được hòa bình: “Hãy siêng năng lần hạt; hãy cải thiện đời sống; hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ”.
Chiến tranh thế giới kết thúc vào tháng 11-1918. Người ta tin chắc đó là do quyền năng của Đức Mẹ. Đất nước Bồ Đào Nha và Châu Âu được hòa bình. Fatima từ đó đã trở nên trung tâm hành hương quốc tế, mỗi ngày đón tiếp hàng ngàn tín hữu đến cầu nguyện.
Đức Giáo Hoàng Piô XI đã dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Năm 1942, Đức Giáo Hoàng Piô XII một lần nữa dâng thế giới cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã trao phó gia đình nhân loại cho Đức Mẹ sau ngày bế mạc Công đồng Vaticanô II (1964) và một lần nữa ngài dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.
Ngày 13-5-1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tới linh địa Fatima để tạ ơn Đức Mẹ (sau 1 năm ngài bị ám sát tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 13-5-1981). Ngài tin mình sống sót nhờ sự can thiệp trực tiếp của Đức Mẹ Vô Nhiễm. Chính Ali Agca, kẻ bắn Đức Thánh Cha, một tay bắn súng thiện xạ, cũng hết sức ngạc nhiên, không thể hiểu được vì sao ngài không chết. Sự kiện lạ thường ngoài sức tưởng tượng này đã xảy ra đúng vào ngày kính nhớ Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên với ba trẻ Phanxicô, Giacinta va Lucia ở Fatima, khiến Đức Thánh Cha nghĩ ngay đến Người Mẹ trên trời dấu yêu. Đức Thánh Cha kết luận: “Một người bắn, nhưng một người khác hướng dẫn đường đạn”. Và Đức Thánh Cha thêm: “Đức Mẹ Maria đã cứu sống tôi”. Do lòng biết ơn Đức Mẹ Fatima, kể từ sau ngày bị nạn, Đức Thánh Cha đã có nhiều nghĩa cử thánh thiện nhằm tôn vinh và tạ ơn Đức Mẹ. Chẳng hạn, ngày 13.5.1982, Đức Thánh Cha đã hành hương Fatima và đặt lên chiếc triều thiên của tượng Đức Mẹ tại đền thánh Fatima viên đạn lấy ra từ thân thể, như một lời khẳng định với thế giới rằng, Đức Mẹ đã che chở ngài.Tiến xa hơn nữa, trong nghĩa cử tỏ lộ lòng yêu mến Nữ Vương Fatima, đó là cuộc hành hương đền thánh Fatima dịp phong Á Thánh cho hai thánh trẻ Phanxicô và Giacinta năm 2000, cũng vào ngày 13-5, Đức Thánh Cha đã đặt dưới chân tượng Đức Mẹ Fatima chiếc nhẫn Giám mục quý giá do Đức Cố Hồng Y Stefan Wyszynski, Tổng Giám Mục Kracow dâng tặng lúc Đức Thánh Cha được bầu làm Giáo hoàng ngày 16-10-1978. Năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công bố ngày 13-5 hàng năm sẽ trở thành ngày lễ kính Đức Mẹ Fatima. Chưa hết, để diễn tả lòng yêu mến Đức Mẹ thẳm sâu của mình, Đức Thánh Cha đã viết tông thư “Kinh Mân Côi kính Đức Trinh Nữ Maria” và thêm vào chuỗi Mân Côi truyền thống mầu nhiệm Năm Sự Sáng. Ngài cũng công bố năm 2003 là Năm Thánh Mẫu Mân Côi, nhằm cổ súy việc đọc kinh truyền thống này để tôn vinh mầu nhiệm Mân Côi và các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Cứu Thế. Qua đó, Đức Thánh Cha khuyên dạy các tín hữu hãy yêu mến, hãy chú trọng nhiều đến chuỗi Mân Côi trong đời sống Kitô hữu của mình, hãy chuyên chăm cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã dâng hiến triều đại Giáo Hoàng của mình cho Đức Mẹ Fatima vào ngày 13-5-2013. Ngài đã hai lần yêu cầu Đức Hồng Y José da Cruz Policarpo, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Bồ Đào Nha dâng hiến sứ mệnh theo Thánh Phêrô của ngài lên Đức Mẹ Fatima.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Hàng mấy chục ngàn ngàn người đang sốt sắng lần chuỗi và lắng nghe suy niệm với tất cả lòng yêu mến Đức Mẹ.Từng đoàn hành hương đủ mọi màu da, ngôn ngữ, già trẻ, nam nữ. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp của một Giáo Hội cầu nguyện khiến chúng ta liên tưởng đến hình ảnh các Tông đồ cầu nguyện cùng Đức Mẹ, chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến.
Hầu hết những người hành hương này đến từ các quốc gia trên thế giới. Khi đến Fatima, nếu đi theo các đoàn du lịch quý vị và anh chị em sẽ được dẫn đi thăm những địa điểm di tích lịch sử, chẳng hạn như nơi Thiên thần hiện ra lần đầu với ba trẻ vào mùa xuân năm 1916 và lần 2 vào tháng 10.1916. Thiên thần chuẩn bị trước 1 năm cho sự kiện trọng đại Đức Mẹ hiện ra. Các khách hành hương sẽ đi theo chặng Đàng thánh giá Hungary gồm 14 nhà nguyện nhỏ dọc theo đường lót đá bằng phẳng, dài khoảng 2km, hai bên là vườn ô liu xanh mướt cho tới tượng đài Đức Kitô trên Thập giá bằng cẩm thạch. Rồi chúng ta đến với đến tượng Đức Mẹ đứng trên bệ có mái che, phía trước có tấm bảng ghi bằng ba thứ tiếng Bồ, Anh và Pháp: “Valinhos: nơi đây Đức Mẹ hiện ra vào ngày 19-8-1917, và nói: ‘Hãy cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều, và làm những việc hy sinh cho các kẻ có tội’”.Vahinhos là địa điểm Đức Mẹ hiện ra lần thứ 4 với ba trẻ.
Sau đó, các khách hành hương có thể đi xe bus khoảng 3km đến Aljustrel, thăm nhà của của ba trẻ chăn chiên. Phong cảnh yên bình và xanh tươi cây cỏ nơi đây gợi về ngôi làng nhỏ ngày xưa êm đềm. Căn nhà Lucia gạch mái ngói, tường bên ngoài tô xi măng màu trắng. Ông ngoại của Lucia sinh trưởng tại làng Aljustrel. Thân phụ mẫu của Lucia là Maria và Antonio Santos, gia đình có 7 con, 6 gái 1 trai. Lucia sinh năm 1907 và là con út. Bên trong căn nhà, những vật dụng cá nhân của Lucia và gia đình được lưu giữ cẩn thận, từ giường nệm, bàn tủ, máy may, khung dệt vải, nồi nêu soong chảo, các vật dụng cá nhân như giỏ mây, ly tách…và vẫn còn có người cháu gái của Lucia, nay cũng đã cao niên. Các khách hành hương sẽ thăm Nhà Bào tàng Aljustrel, có 12 phòng ghi lại cuộc sống của làng này từ mấy thế kỷ trước. Nhà Bảo tàng được khai trương vào ngày 19-8-1992 và là sở hữu của Thánh địa Fatima.
Đến Fatima, ai cũng muốn nhìn thấy cây sồi. Trước nhà Lucia có cây sồi bấc, một loại cây võ rất dày dùng làm nút bần. Cây sồi xanh quanh năm, thường trồng ở Nam Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Pháp và ở Bắc Phi như Morocco, Tunisia, Algeria. Cây sồi sống rất lâu năm, vỏ cây được lột cứ mỗi 10 năm một lần. Cây sồi là một biểu tượng của xứ Bồ Đào Nha. Ở xứ này, đốn cây sồi bấc là bất hợp pháp. Bồ Đào Nha là nước sản xuất đến 50% sồi bấc của cả thế giới.
Từ nhà Lucia, đi bộ chừng nửa cây số là đến nhà Phanxicô và Giaxinta. Căn nhà đơn sơ, nhỏ hẹp và mái thấp, nhà của gia đình nghèo, những vật dụng cá nhân của hai trẻ và gia đình được xếp đặt ngăn nắp.
Nếu chúng ta tiếp tục cuộc hành trình thì có thể đến thăm ngôi nhà thờ Giáo xứ của ba trẻ đã được rửa tội. Ra vùng ngoại ô Fatima viếng nơi chôn cất đầu tiên của hai trẻ Phanxicô và Giaxinta tại một nghĩa trang. Từ Fatima, chúng tôi đi 60km đến Santarem thăm Nhà thờ Phép Lạ Thánh Thể. Ban chiều trở về lại Fatima mua quà lưu niệm trong cửa hàng rất lớn rồi chúng tôi đi thăm các Thánh đường và dâng lễ ở Nhà nguyện được xây dựng chính nơi Đức Mẹ hiện ra tại cây sồi năm xưa. Ban tối tham gia giờ cầu nguyện và cung nghinh Đức Mẹ tại quảng trường.
1. Nguồn gốc của từ Fatima
Tên Fatima có nguồn gốc từ tiếng Ả rập. Đó là tên của một công chúa xứ Ả rập. Cô Fatima bị quân Công Giáo bắt làm con tin trong thời gian người Moro chiếm đóng Bồ Đào Nha. Sau đó, cô trở thành vị hôn thê của Bá tước Ourém. Cô đã trở lại đạo và lãnh nhận Bí tích Rửa tội trước khi thành hôn với Bá tước này vào năm 1158. Cô lấy tên là Oureana (Oriane), tên của thành phố Ourém ngày nay phát xuất từ chữ Oureana.
Làng Fatima nhỏ bé ngày xưa nay đã trở thành thị trấn sầm uất và là linh địa thuộc thành phố Ourém trong quận Santarém.
2. Đôi nét lịch sử
Năm 1917, Fatima là miền quê gồm khoảng 2.500 người cư ngụ rải rác trong khoảng 40 thôn xóm. Dân lao động làm ruộng nương rẫy. Trẻ em thường chăn dắt bò, dê, cừu...Phần lớn dân cư đều mù chữ, chỉ có khoảng 10% phụ nữ biết đọc, biết viết.
Các gia đình Dos Santos và Marto cư ngụ trong thôn Aljustrel, đây là một trong những thôn xóm xưa nhất của xứ đạo Fatima. Vào đầu thế kỷ XX, Aljustrel là một nơi chỉ có 25 gia đình sinh sống với khoảng 100 cư dân, làm nghề nông và chăn cừu, phần lớn mù chữ. Họ kiếm sống ở vùng đất khô cằn bằng cần cù làm việc. Ban tối cả gia đình quây quần bên lò sưởi dùng bữa và tạ ơn Chúa. Cuộc sống của dân quê chất phác. Gia đình Dos Santos có 1 bé gái, sinh ngày 22-3-1907. Gia đình người em họ Marto có 1 con trai là Francisco Marto, sinh ngày 11-6-1908 và 1 con gái là Jacinta Marto, sinh 11-3-1910. Ba em bé này thường chăn dắt đàn cừu tại bãi cỏ “Cova de iria” cách thôn chừng 2 km.
Vào ngày đầu tiên của năm 1916, trời mưa lớn, ba em nhỏ là Lucia 9 tuổi, và hai người em họ là Phanxicô 8 tuổi và Giaxinta 6 tuổi đang trú mưa tại một hang. Bỗng nhiên, một vầng sáng trắng xuất hiện trên đồng cỏ. Các em sửng sờ khi thấy một thanh niên trẻ đẹp trong y phục màu trắng đứng giữa vầng sáng. Người thanh niên trong vầng sáng ấy nói với các em rằng: "Ðừng sợ, ta là sứ thần hòa bình. Hãy cùng ta cầu nguyện". Ðoạn người quỳ xuống và cầu nguyện: "Lạy Chúa, con tin kính, con thờ lạy, con trông cậy và con yêu mến Chúa. Xin Chúa tha thứ cho những kẻ đã không tin kính, không thờ lạy, không trông cậy và không yêu mến Chúa". Thiên Thần lại cúi đầu sâu hơn, và cầu nguyện ba lần như vậy, các em cũng lập lại lời cầu nguyện này với Thiên Thần.
Rồi vào một ngày mùa hè, đang khi các em vui đùa, Thiên Thần lại hiện ra với các em và bảo: "Hãy cầu nguyện và cầu nguyện thật nhiều. Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim Mẹ Maria đã dành cho chúng con đầy lòng thương xót. Hãy tiếp tục dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện và những hãm mình. Hãy biến mọi việc làm thành những hy sinh dâng lên Thiên Chúa để đền bù tội lỗi đã xúc phạm đến Người, và cầu cho kẻ có tội ăn năn trở lại. Bằng phương thế này, hòa bình sẽ đến với quê hương các con... Ta là Thiên Thần bản mệnh của nước Bồ Ðào Nha. Hãy đón nhận và vui lòng chịu đựng mọi thử thách Chúa sẽ gửi đến cho các con.". Mùa thu năm ấy, Thiên Thần lại hiện đến cùng các em. Trong lần hiện ra thứ ba này các em thấy Thiên Thần một tay bưng một chén Thánh, một tay cầm Mình Thánh Chúa, các em đã nhìn thấy những giọt máu nhỏ xuống chén thánh. Ðể chén thánh và Mình Thánh Chúa lơ lửng trên không trung, Thiên Thần cung kính quỳ xuống đất và cầu nguyện: "Lạy Ba Ngôi Cực Thánh - Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần - con cung kính thờ lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa mình và máu thánh cực trọng, linh hồn và bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô đang ngự trong các nhà chầu trên khắp hoàn cầu để đền tạ vì những tội bội bạc, thờ ơ, xúc phạm đến Người. Cậy vì công nghiệp vô cùng của Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu và Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria, xin Chúa cho kẻ có tội được ăn năn trở lại.".
Sau hơn một năm, kể từ ngày Thiên Thần hiện ra lần đầu tiên cùng các em, vào ngày 13 tháng 5 năm 1917, Ðức Mẹ đã hiện ra cùng các em. Trong những tháng kế tiếp, ba trẻ trở lại đồi Cova da Iria theo lời dặn dò của Đức Mẹ, bất chấp những khó khăn ngoại cảnh như thời tiết bất thuận lợi hay khó khăn tinh thần như sự ngờ vực và cấm đoán của cả chính quyền lẫn giáo quyền. Vượt qua tất cả, các em vui mừng và hy vọng tiến đến điểm hẹn, vừa đi vừa lần hạt, lòng khát mong gặp lại Đức Mẹ. Chính Đức Mẹ luôn tôn trọng lịch gặp gỡ với các em như đã hẹn trước là ngày 13 mỗi tháng (trừ tháng 8 các em bị nhốt), khích lệ, trò chuyện, cầu nguyện, dạy dỗ, nâng đỡ, ủi an và mạc khải cho các em nhưng điều cần kíp do Đức Mẹ mong muốn hay hoàn cảnh đòi buộc.
a. Đức Mẹ hiện ra lần đầu
Ngày 13-5-1917, vào lúc trưa, 1 bà mặc áo trắng tinh hiện ra với 3 em bé chăn cừu, nói với các em là hãy lần chuỗi đọc kinh Mân Côi hàng ngày để cầu nguyện cho thế giới chấm dứt chiến tranh, được hòa bình. Trước khi biến đi, Bà bảo 3 em hãy trở lại nơi đây đúng giờ trưa ngày 13 tháng sau.
Giacinta quên giữ kín nên về nhà thuật lại sự việc cho cha mẹ nghe. Tin này loan truyền nhanh khắp làng. Mọi người tỏ ra không tin. Vị linh mục chính xứ hỏi Lucia, nhưng cũng không tin. Trong báo cáo gửi lên Đức Giám Mục Giáo Phận Leiria, cha xứ viết: cần phải xa lánh chuyện này.
b. Đức Mẹ hiện ra lần thứ hai
Ngày 13 tháng 6, đúng giờ trưa, 3 em lại tới nơi hẹn, theo sau có khoảng vài chục người tò mò đến xem sự thể ra sao. Mọi người lần chuỗi đọc kinh. Đức Mẹ hiện ra với 3 em, nhắc Lucia về tầm quan trọng của việc đọc kinh Mân Côi, đồng thời báo trước cái chết của 2 anh em Phanxicô và Gianxinta: “Ta sẽ sớm đưa Phanxicô và Gianxinta về trời, còn con, con sẽ ở lại thế gian một thời gian. Chúa Giêsu muốn dùng con để loan truyền cho mọi người biết ta và yêu mến ta”. Đức Mẹ cũng yêu cầu Lucia học chữ để dễ loan báo lời Đức Mẹ cho các người khác. Những người đi theo không nhìn và nghe thấy gì. Họ chỉ nhìn thấy cành cây nhỏ nơi Đức Mẹ đứng trĩu xuống dưới một sức nặng, rồi đột nhiên bật lên khi Đức Mẹ biến đi.
c. Đức Mẹ hiện ra lần thứ ba
Ngày thứ Sáu 13-7-1917, “bà mặc áo trắng” lại hiện ra với 3 em, có khoảng 4.000 người theo sau. Đức Mẹ vẫn nhắc Lucia việc đọc kinh Mân Côi mọi ngày, để chiến tranh mau chấm dứt. Lần này Đức Mẹ tiết lộ cho 3 em "bí mật" gọi là "bí mật Fatima". (Năm 1942, 2 bí mật đầu đã được công bố, còn bí mật thứ 3 thì mãi tới năm 2000, Giáo Hội mới công bố).
d. Đức Mẹ hiện ra lần thứ tư
Ngày 10-8-1917, viên chánh tổng, một người chống đối hàng giáo sĩ đòi 3 em tới để tra hỏi, nhưng không có kết quả. Ngày 13-8, ông ta nhốt 3 em vì làm rối loạn trật tự công cộng và tiếp tục tra hỏi, nhưng hoài công. Rốt cuộc, ngày 15-8, ông ta phải thả 3 em ra.
Tuy nhiên, ngày 13-8, có khoảng 18.000 người tới bãi chờ xem sự lạ, nhưng 3 em vắng mặt vì còn bị nhốt. Chúa Nhật 19-8, khi 3 em dẫn đàn cừu tới thả ở bãi Cova de iria, Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em, yêu cầu các em nói với mọi người cầu nguyện cho những người tội lỗi mau thống hối và hứa sẽ làm 1 phép lạ cho mọi người tin.
e. Đức Mẹ hiện ra lần thứ năm
Ngày 13-9, có khoảng 30.000 người tụ họp tại bãi Cova de iria, cầu nguyện cùng với 3 em. Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em và cho biết tháng sau, sẽ có Chúa, Đức Mẹ núi Carmêlô, thánh Giuse và Chúa Hài đồng Giêsu sẽ cùng tới.
f. Đức Mẹ hiện ra lần thứ sáu
Ngày 13-10-1917, mưa như trút nước trên bãi Cova da Iria. Một đám đông khoảng 70.000 người kể cả nhiều phóng viên chụp hình và các ký giả tụ tập tại đây lần chuỗi, đọc kinh cầu nguyện. Lúc giữa trưa, Đức Mẹ hiện ra với 3 em và tỏ cho các em biết, Bà chính là Đức Nữ Trinh Maria, Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Đức Mẹ mời gọi các em cầu nguyện, làm việc đền tạ và tiếp tục lần chuỗi mỗi ngày. Đức Mẹ cũng muốn người ta phải xây một nhà nguyện dâng kính Đức Mẹ tại đây. Đức Mẹ nhắc nhở thế giới, đừng xúc phạm đến Chúa nữa, Người đã bị xúc phạm quá nhiều.Đức Mẹ cũng loan báo thế chiến thứ nhất sẽ sớm chấm dứt và yêu cầu những kẻ có tội hãy mau sám hối. Khi Đức Mẹ về trời thì mưa ngưng rơi, mặt trời xuất hiện trên bầu trời xanh biếc. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào mặt trời và thấy mặt trời nhảy múa, tung ra các chùm tia sáng nhiều màu. Mặt trời dường như xuống thấp gần trái đất, khiến đám đông sợ hãi. Việc lạ xảy ra trong 10 phút, sau đó mọi sự trở lại bình thường. Hiện tượng này được hầu hết đám đông chứng kiến, và một số người ở cách đó mấy dặm cũng nhìn thấy.
Trong thời gian này, các nhà khoa học trên thế giới không hề ghi nhận 1 hiện tượng khác thường nào của mặt trời.
Trong khi đó, riêng 3 em nhìn thấy Thánh Gia, rồi Đức Mẹ Sầu Bi, Chúa Hài Đồng Giêsu và sau hết là Đức Mẹ núi Carmêlô lần lượt xuất hiện như đã hứa trước với 3 em.
Phanxicô và Giaxinta chết sớm trong đợt dịch cúm Tây ban nha. Phanxicô chết năm 1919. Jancinta chết năm 1920. Cả 2 em đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nâng lên hàng đáng kính vào ngày 13-5-1989 và được phong Chân Phước vào ngày 13-5-2000. Mộ của 2 em hiện nằm trong lòng Vương cung thánh đường Fatima.Còn Lucia vào tu viện dòng Dorothea ở Pontevedra (Galicia, Tây ban nha) ngày 24-10-1925, sau đó khấn lần đầu ở Tuy (Tây ban nha) năm 1928. Năm 1925 và 1929, Lucia lại được Đức Mẹ hiện ra với mình. Tháng 10-1934, Lucia khấn trọn và lấy tu danh là nữ tu Đức Mẹ Maria Sầu Bi.
Sau nhiều năm điều tra, Đức Giám Mục Da Silva, cai quản Giáo phận Leiria, trong thư mục vụ ngày 13.10.1930 đã công nhận sự kiện Đức Mẹ hiện ra với 3 em ở Fatima và chính thức cho phép việc tôn sùng Đức Mẹ Fatima. Theo lệnh hàng giáo phẩm, Lucia đã viết các hồi ký về sự kiện trên gồm 4 bản: 1 bản năm 1935, 1 bản năm 1937, 1 bản năm 1941 và 1 bản đầu năm 1942. (wikipedia).
Năm 1946, nhân kỷ niệm 300 năm ngày dâng nước Bồ Đào Nha cho Đức Trinh Nữ Maria, vị sứ thần tòa thánh Vatican là Hồng Y Masella đã đội (vương miện) triều thiên lên tượng Đức Mẹ Fatima, với sự tham gia chứng kiến của khoảng 600.000 tín hữu hành hương. Vương miện này do các phụ nữ Bồ Đào Nha cung hiến để cảm tạ Đức Mẹ đã gìn giữ Bồ Đào Nha trong cuộc thế chiến thứ nhất.
Từ năm 1948, Lucia vào tu trong đan viện dòng kín Carmêlô ở Coimbra (Bồ Đào Nha), dưới tên nữ tu Lucia Trái Tim Vô nhiễm nguyên tội. Lucia qua đời ngày 14-2-2005 ở tuổi 97. Thánh lễ an táng được cử hành vào ngày 16-2-2005 tại Vương cung thánh đường Coimra. Sau khi Lucia qua đời, đức Hồng Y Joseph Ratzinger, Bộ Giáo Lý Đức Tin (sau này là Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI) cho niêm phong phòng của Lucia, có lẽ để điều tra trong tiến trình phong thánh cho Lucia.
3. Nhà Thờ Chúa Ba Ngôi Cực Thánh - Most Holy Trinity Church
Từ khách sạn, các khách hành hương sẽ đi qua quảng trường mênh mông. Đồng cỏ Cova da Iria ngày xưa nay trở thành quảng trường có tên Santuario. Đến Trung tâm mục vụ Centro Pastoral Paul VI với những lối đi bên hông. Trung tâm này cũng là ngôi Nhà thờ rất lớn có tên là Most Holy Trinity Church (tiếng Bồ Đào Nha là: Santissima Trindade). Có khi người ta gọi đây là Most Holy Trinity Church khi thì Paul VI Pastoral Centre.
Nhà thờ được ĐGH Bênêđictô XVI thánh hiến vào năm 2007, với chi phí 80 triệu Euro do khách hành hương dâng cúng. Viên đá đầu tiên được lấy từ mộ thánh Phêrô ở Roma.Trung tâm hay thánh đường là một tòa nhà hình khối tròn đường kính 125m, cao 18m, trần không có cột chống đỡ mà chỉ tựa vào 2 cây đà cực lớn nên trông rất rộng. Nội thất nhà thờ pha trộn kiểu đương đại, phục hưng và trung cổ, được chia làm hai ngăn bởi một bức tường di động cao 2m. Hướng dẫn viên cho biết Nhà thờ có 8,900 chỗ ngồi rộng thoải mái cùng với 76 chỗ cho người khuyết tật; cung thánh đủ chỗ cho100 vị đồng tế.
Cửa chính nhìn ra quảng trường là 4 tấm bằng đồng cao 8 mét, mỗi tấm nặng 3,200kg với những hình ảnh kể về công cuộc tạo dựng nên trời đất. Mái cổng vào là những tấm lưới sắt mô tả cảnh thiên thần ca hát mời gọi hãy đến thờ phượng Chúa khi khách hành hương tiến vào nhà thờ. Kiến trúc sư là người Chính thống giáo Hy Lạp nên nhiều kiến trúc chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Byzantine và Orthodox. Tôi nhận xét thấy Nhà thờ này có nét kiến trúc hiện đại tương tự như các Nhà thờ mới ở Rotoldo và Lộ Đức.
Nổi bật trên cung thánh là Chúa Giêsu trên cây Thánh giá rất lạ.Nữ điêu khắc gia người Anh không phải là Kitô hữu đã kết hợp ý tưởng văn hóa nhiều châu lục. Khuôn mặt Chúa Giêsu mang dáng vẻ Á Châu, đôi tay dáng Châu Mỹ, đôi chân dáng Châu Phi, gót chân dáng Châu Đại Dương và thân mình dáng Châu Âu. Bên trái bàn thờ có tượng Đức Mẹ Fatima màu trắng thanh thoát. Nổi bật trên bức phong cung thánh rộng 50m cao 10m bằng gạch terracota màu vàng kim phía sau Thánh giá là Con Chiên Thiên Đàng, hai bên với bức tranh nghệ thuật mosaic mạ vàng. Bên trái Đức Maria cùng với Phanxicô và Lucia và đông đảo chư thánh. Bên phải là thánh Gioan Tẩy Giả cùng với 12 Tông Đồ. Bên trong Nhà thờ được xây theo lối nhà hát có độ dốc xuôi đổ về phía cung thánh, hệ thống loa âm thanh nắm ở dưới nền nhà, phía hai bên có những vị trí dành cho hệ thống truyền thông truyền hình trực tiếp.
Trung tâm Mục vụ Phaolô VI được Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II khánh thành ngày 13-05-1982. Đây là trung tâm nghiên cứu và suy tư về Sứ điệp Fatima. Trung tâm có sức chứa 2.000 người và cho 400 khách hành hương trọ, và cũng có nhiều văn phòng mục vụ, nhiều nhà nguyện nhỏ, nhiều phòng giải tội và bảo tàng bên trong.Từ Trung tâm Mục vụ này, người ta kẻ một đường sơn đặc biệt rộng khoảng gần 1 mét kéo dài cho tới Nhà nguyện và lễ đài ngoài trời dài khoảng 500 mét dùng để cho khách hành hương đi bằng đầu gối cầu nguyện và sám hối. Phía bên trái trung tâm này là cây Thánh giá nghệ thuật được dựng nên kỷ niệm kết thúc Năm thánh 1951.
Cửa chính của Trung tâm mục vụ Phaolô VI hay Nhà thờ Chúa Ba Ngôi nằm thẳng đường với mặt tiền Vương cung Thánh đường Mân Côi tạo thành một tổng thể kiến trúc rộng và hài hòa. Hai bên là những hàng cây lá xanh đậm tạo nên bức tường làm cho quảng trường thánh địa trở thành một khu vực biệt lập nhưng lại có thể dễ dàng ra vào ở mọi hướng. Hai bên quảng trường cũng có nhiều tượng các thánh, nhiều kiến trúc với những di tích và kỷ niệm các biến cố xã hội tôn giáo.
4. Nguyện đường Hiện ra - Chapel of Apparitions
Từ trung tâm mục vụ các khách hành hương sẽ đi đến Nguyện đường Hiện ra để dâng lễ chiều. Đây là một gian nhà nhỏ, mái phẳng, trần lộ thiên, hai bên bằng kính trắng, có nhiều cửa ra vào rộng rãi. Nhà nguyện rất đơn sơ không có khung cảnh đồ sộ hay mang nét huyền bí, nhưng đây lại là địa chỉ thật linh thiêng vì là nơi Đức Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ vào năm 1917.
Năm 1919, một nguyện đường nhỏ đã được xây tại đây. Đến ngày 13-10-1921, thánh lễ đầu tiên được cử hành tại nhà nguyện này. Đã có nhiều lần tu bổ, nhưng nguyện đường vẫn giữ hình dáng cũ cho đến ngày nay. Giữa nhà nguyện có bệ cao khoảng 1 mét đặt tượng Đức Mẹ Fatima đầu đội triều thiên bằng vàng nặng 1,2 kg, gắn 313 viên ngọc trai và 2.679 viên đá quý. Sau này, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đã gắn viên đạn đồng bắn vào ngài lên trên vương miện Đức Mẹ. Nguyện đường Hiện ra mở cửa suốt ngày đêm, chẳng thấy có an ninh canh gác, nhưng không một ai đến phá hoại hay trộm cắp những vật quý trên vương miện.
Bên trái nhà nguyện là những dãy nhà dành cho người hành hương đốt nến kính Đức Mẹ. Sát bên phải nhà nguyện có cây sồi xanh với tên gọi là Large “Azinheira” sống trên 100 năm. Cây dáng cổ thụ lá xanh thẫm. Chính ba trẻ chăn chiên đã nói rằng, trên cây này vào ngày 13-5-1917, các em thấy tia chớp sấm sét thứ hai xảy ra và sau đó Đức Mẹ hiện ra. Và cũng chính dưới tàn cây này mà ba trẻ cùng cầu nguyện với những người đi theo các em trong khi chờ Đức Mẹ hiện ra. Cây sồi này là cây duy nhất còn lại. Năm 2007, Bộ Tài nguyên Lâm sản Bồ Đào Nha đã xếp cây này vào loại “cây có giá trị công ích”.
5. Vương cung Thánh Đường Mân Côi- Basilica of Our Lady of Fatima.
Ba trẻ chăn chiên kể lại, Đức Mẹ hiện ra đã nói với các em: “Ta muốn xây nơi đây một nguyện đường để kính Ta, vì Ta là Đức Mẹ Mân Côi”. Vì vậy, thánh đường này còn được gọi là “Basilica of Our Lady of Rosary”. Kiến trúc sư Hòa Lan Gerardus van Krieken vẽ bản nháp và Kiến trúc sư Joao Antunes đã hoàn tất.
Ngày 13-5-1928, Đức Tổng giám mục Manuel Santos làm phép đặt viên đá đầu tiên. Nhà thờ được thánh hiến vào tháng 10 năm 1953. Năm 1954, Đức Giáo Hoàng Piô XII nâng lên hàng vương cung thánh đường.
Nhà thờ có nét kiến trúc tân cổ điển với một ngọn tháp trung tâm cao 65m. Mặt tiền có tượng Đức Mẹ Fatima cao 4,73m nặng 13.000kg nằm ở phần lõm mặt tiền Nhà thờ trên lối vào chính. Một linh mục Dòng Đaminh người Mỹ là Thomas Mc Glynn đã dành nhiều thời giờ nói chuyện với thị nhân là Sr Lucia khi Sr diễn tả cho ngài từng chi tiết Đức Maria đã nhìn như thế nào lúc Mẹ hiện ra. Bức tượng là tác phẩm hợp tác giữa thị nhân và nhà điêu khắc để miêu tả chính xác nhất Đức Mẹ Fatima. Bức tượng này là món quà của người Công Giáo Hoa kỳ gửi đến Đền thánh Fatima năm 1958.
Nhà thờ có chiều dài 70,5m, rộng 37m. Trên tháp chuông là một vương miện bằng đồng nặng 7.000kg bên trên đặt cây thánh giá có chất lân tinh ban đêm có thể thấy từ xa. Bộ chuông gồm 62 cái và chuông lớn nhất nặng 3.000kg, quả chuông nặng 90kg.
Mặt tiền hai bên có đến 200 cột nối liền với các Tu viện và các tòa nhà của bệnh viện. Trên các cột trụ có tượng 17 vị thánh. Những hàng cột tạo thành một vòng cung ôm trọn một bề ngang của quảng trường. Ở ngoài hành lang bên trái có vườn cỏ dựng hai bức tượng thạch cao của hai trẻ đang cầm tràng chuỗi là Phanxicô và Giacinta. Giữa hành lang và cổng chính của nhà thờ là một lễ đài có mái che dùng để cử hành thánh lễ ngoài trời giống như ở quảng trường Thánh Phêrô.
Bên trong Nhà thờ gồm một gian chính, hai gian ngang. Cung thánh được ngăn cách bởi một bao lơn rước lễ ngày xưa. Phía bên trái có tượng Đức Mẹ Fatima Thánh Du (Pilgrim Virgin of Fatima), được Giám mục của Leiria đặt làm giống hình ảnh Đức Mẹ mà Lucia mô tả và được Tổng Giám mục Evora làm phép trọng thể vào ngày 13-5-1947, và sau đó tượng được rước đi khắp thế giới trong đó có Miền Nam Việt Nam. Bức tượng này, sau khi thánh du mọi nơi, đến năm 2003 đã được đem về đặt trên một bệ đá bên trái bàn thờ chính.
Phía trước cung thánh, phía cánh ngang bên phải là mộ của Phanxicô chết năm 1919. Cũng như người em gái, thi hài Phanxicô được chôn ở nghĩa trang giáo xứ Fatima. Năm 1952, di hài hai em được cải táng và đem về chôn trong Nhà thờ. Phía bên trái có phần mộ của Lucia và Giaxinta. Giaxinta chết năm 1920 lúc mới 9 tuổi. Lucia chết ngày 13-2-2005, an nghĩ tại tu viện Carmêlô ở Coimbra, sau đó được cải táng và đem về chôn bên cạnh người em họ của mình vào ngày 19-2-2006.
Gần bàn thờ, có mộ Đức Cha José Alves Correia da Silva, Giám Mục tiên khởi của Giáo phận Leiria. Chính ngài đã mở cuộc điều tra và đến năm 1930 tuyên bố sự kiện Fatima là “đáng tin” và cho phép việc tôn sùng.
Có 15 bàn thờ dâng kính 15 mầu nhiệm Kinh Mân Côi. 14 bàn thờ nhỏ nằm hai bên hông của gian chính, mỗi bàn thờ có một bức phù điêu bằng đồng mô tả 14 mầu nhiệm của Chuỗi Mân Côi. Mầu nhiệm thứ 15 là một bức hình đắp nổi cao bằng đá Chúa Ba Ngôi đội vương miện cho Đức Mẹ nằm trên vòm của bàn thờ chính, do Maximiano Alves và Stella Albuquerque thực hiện, nặng 65.000kg.
Một cây đàn đại phong cầm được thiết kế vào năm 1952 với 12 ngàn ống ở trên cao phía sau mặt tiền Nhà thờ. Bốn tượng của 4 vị đại Tông đồ cổ võ Kinh Mân Côi và lòng sùng kính Đức Maria được đặt ở 4 góc Đền thờ. Đó là Thánh Antôn Maria Claret, Thánh Đaminh, Thánh Gioan Eudes và Thánh Stêphanô vua nước Hunggary.
Và còn rất nhiều tác phẩm đủ loại do nhiều nghệ nhân thực thiện để làm cho vương cung thánh đường thêm uy nghi. Đó là những kỷ vật có thể do một giáo xứ hay một cộng đồng địa phương hay ngoại quốc dâng tặng để kính Đức Mẹ.
6. Sứ điệp Fatima.
Đức Mẹ Maria hiện ra với ba trẻ chăn chiên với mục đích là mang sứ điệp hòa bình chân chính đến cho nhân loại. Ăn năn đền tội và cầu nguyện là điều kiện để bảo đảm cho nền hòa bình thế giới và sự bình an của mỗi tâm hồn.
Bên cạnh Vương cung Thánh đường, có một mảng lớn của bức tường Bá linh.Người ta gọi đó là “bức tường ô nhục” vì nó được xây nên để phân cách nước Đức,chia ra thành Đông Đức và Tây Đức, làm cho anh em một nhà phải xa nhau. Bức tường ấy đã bị phá đổ ngày 9-11-1989, và một mảng tường lớn có chiều dài chừng7m, chiều rộng chừng 2,2m được đưa về đây, như một lời tạ ơn Đức Mẹ và như lời mời gọi, hãy phá bỏ những hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, các quốc gia, xây dựng và củng cố nền hòa bình đích thực.
Tháng 10 năm 1930, Ðức Cha Dom José Alves Correia, Giám Mục giáo phận Leiria, công nhận biến cố Mẹ hiện ra tại Fatima, và ban phép sùng kính Mẹ Fatima. Thôn làng nhỏ bé Fatima đã trở nên trung tâm hành hương thế giới. Khách thập phương tề tựu về bên Mẹ cầu khẩn, tạ ơn, xin ơn. Fatima trở thành động lực thúc đẩy mọi người hưởng ứng lời Mẹ nhắn nhủ: cầu nguyện và hy sinh cho tội nhân được ơn trở lại, nhất là nguyện cầu cho thế giới được hòa bình.
Sứ điệp hòa bình của Fatima rất hòa hợp với sứ điệp hòa bình của Phúc Âm. Hòa bình thật khẩn thiết và quan trọng biết bao cho cuộc sống nhân loại! Mọi người đều mong muốn hòa bình, khát khao được sống trong hòa bình. Mẹ Maria ban cho nhân loại một nền hòa bình chân chính và bền vững. Muốn được hưởng nền hòa bình đích thực ấy, nhân loại cần phải thực hiện những điều kiện hữu lý và hoàn toàn khả thi mà Đức Mẹ đưa ra, đó là:
- Sám hối ăn năn và cải thiện đời sống. Xưng tội rước lễ các ngày Thứ Bảy đầu tháng.
- Siêng năng cầu nguyện, hy sinh hãm mình đền tội và lần Chuỗi Mân Côi.
- Tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.
Sự kiện Fatima đã qua đi trọn vẹn trong năm 1917, cách đây đã 98 năm. Sứ điệp Fatima như lời mời gọi của Đức Mẹ bùng lên mãnh liệt khắp mọi miền trên thế giới. Sứ điệp Fatima, với lời kêu mời khẩn thiết để hoán cải và đền tội đã lôi kéo con người tới trọng tâm của Tin Mừng. Fatima chắc chắn là cuộc hiện ra mang tính chất tiên tri nhất trong thời hiện đại.
Mẹ Fatima là Mẹ Mân Côi. Mân Côi chính là hoa hồng. Mân Côi là bông hồng đẹp, viên ngọc quí. Bằng chuỗi Mân Côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền. Bằng cuộc sống hàng ngày, người tín hữu kết dệt nên những bông hoa thiêng liêng dâng kính Mẹ. Với ơn Mẹ, cuộc sống mọi người sẽ toả hương khoe sắc nhân đức và mang đến cho đời hòa bình và bình an. Xin Mẹ chúc lành cho đời sống chúng con.
(Theo tài liệu của lm. Nguyễn Hữu An)
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Có lẽ người Công Giáo Việt Nam nào cũng hát thuộc lòng bài ca “Năm xưa trên cây sồi làng Fatima xa xôi, có Đức Mẹ Chúa Trời hiện ra uy linh sáng chói. Mẹ nhắn nhủ người đời, hãy mau ăn năn đền bồi. Hãy tôn sùng Mẫu Tâm, hãy năn lần hạt Mân Côi...”. Hình ảnh Đức Mẹ Fatima luôn gắn liền với cây sồi. Đức Mẹ hiện ra “uy linh sáng chói” trên một cây sồi ở làng Fatima xa xôi. Trong đời, người tín hữu nào cũng mong muốn được ít là một lần hành hương đến Fatima cầu nguyện bên Mẹ.
Cũng như Lộ Đức, Fatima là trung tâm hành hương Đức Mẹ nổi tiếng trên thế giới. Tại làng Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra nhiều lần với ba trẻ chăn chiên Lucia, Phanxicô và Gianxita. Thời gian này đang xảy ra chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Các nước Châu Âu kinh hoàng và kiệt quệ vì chiến tranh. Giữa bối cảnh đau thương đó, Đức Mẹ đã đến thăm và can thiệp. Sứ điệp Đức Mẹ nhắn gửi đầu tiên qua ba trẻ là: “Các con hãy cầu nguyện! Hãy cầu nguyện thật nhiều!”. Ngày 19-8-1917, Đức Mẹ đề nghị: “Hãy hy sinh nhiều để xin ơn tha thứ cho các tội nhân. Có rất nhiều linh hồn đang sa xuống hỏa ngục, vì không có ai hy sinh đền tội và cầu nguyện cho họ”. Mỗi ngày 13, từ tháng 5 đến tháng 10, Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ. Người đến cầu nguyện mỗi ngày một đông hơn. Đức Mẹ hiện ra lần cuối cùng vào ngày 13-10-1917, và có một phép lạ hùng vĩ xảy ra như chính Mẹ đã hứa trước đó: trước đám đông hơn 70 ngàn người, mặt trời nhảy múa trên không trung. Những người có mặt lúc đầu lo sợ vì họ nghĩ ngày tận thế đã đến, sau đó họ vui mừng và quỳ gối lần hạt, nhiều người ăn năn khóc lóc sám hối tội lỗi của mình.
Từ Fatima, Đức Mẹ đã truyền đi thông điệp cho cả thế giới, như một điều kiện khẩn thiết để thế giới được hòa bình: “Hãy siêng năng lần hạt; hãy cải thiện đời sống; hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ”.
Chiến tranh thế giới kết thúc vào tháng 11-1918. Người ta tin chắc đó là do quyền năng của Đức Mẹ. Đất nước Bồ Đào Nha và Châu Âu được hòa bình. Fatima từ đó đã trở nên trung tâm hành hương quốc tế, mỗi ngày đón tiếp hàng ngàn tín hữu đến cầu nguyện.
Đức Giáo Hoàng Piô XI đã dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Năm 1942, Đức Giáo Hoàng Piô XII một lần nữa dâng thế giới cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã trao phó gia đình nhân loại cho Đức Mẹ sau ngày bế mạc Công đồng Vaticanô II (1964) và một lần nữa ngài dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.
Ngày 13-5-1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tới linh địa Fatima để tạ ơn Đức Mẹ (sau 1 năm ngài bị ám sát tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 13-5-1981). Ngài tin mình sống sót nhờ sự can thiệp trực tiếp của Đức Mẹ Vô Nhiễm. Chính Ali Agca, kẻ bắn Đức Thánh Cha, một tay bắn súng thiện xạ, cũng hết sức ngạc nhiên, không thể hiểu được vì sao ngài không chết. Sự kiện lạ thường ngoài sức tưởng tượng này đã xảy ra đúng vào ngày kính nhớ Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên với ba trẻ Phanxicô, Giacinta va Lucia ở Fatima, khiến Đức Thánh Cha nghĩ ngay đến Người Mẹ trên trời dấu yêu. Đức Thánh Cha kết luận: “Một người bắn, nhưng một người khác hướng dẫn đường đạn”. Và Đức Thánh Cha thêm: “Đức Mẹ Maria đã cứu sống tôi”. Do lòng biết ơn Đức Mẹ Fatima, kể từ sau ngày bị nạn, Đức Thánh Cha đã có nhiều nghĩa cử thánh thiện nhằm tôn vinh và tạ ơn Đức Mẹ. Chẳng hạn, ngày 13.5.1982, Đức Thánh Cha đã hành hương Fatima và đặt lên chiếc triều thiên của tượng Đức Mẹ tại đền thánh Fatima viên đạn lấy ra từ thân thể, như một lời khẳng định với thế giới rằng, Đức Mẹ đã che chở ngài.Tiến xa hơn nữa, trong nghĩa cử tỏ lộ lòng yêu mến Nữ Vương Fatima, đó là cuộc hành hương đền thánh Fatima dịp phong Á Thánh cho hai thánh trẻ Phanxicô và Giacinta năm 2000, cũng vào ngày 13-5, Đức Thánh Cha đã đặt dưới chân tượng Đức Mẹ Fatima chiếc nhẫn Giám mục quý giá do Đức Cố Hồng Y Stefan Wyszynski, Tổng Giám Mục Kracow dâng tặng lúc Đức Thánh Cha được bầu làm Giáo hoàng ngày 16-10-1978. Năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công bố ngày 13-5 hàng năm sẽ trở thành ngày lễ kính Đức Mẹ Fatima. Chưa hết, để diễn tả lòng yêu mến Đức Mẹ thẳm sâu của mình, Đức Thánh Cha đã viết tông thư “Kinh Mân Côi kính Đức Trinh Nữ Maria” và thêm vào chuỗi Mân Côi truyền thống mầu nhiệm Năm Sự Sáng. Ngài cũng công bố năm 2003 là Năm Thánh Mẫu Mân Côi, nhằm cổ súy việc đọc kinh truyền thống này để tôn vinh mầu nhiệm Mân Côi và các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Cứu Thế. Qua đó, Đức Thánh Cha khuyên dạy các tín hữu hãy yêu mến, hãy chú trọng nhiều đến chuỗi Mân Côi trong đời sống Kitô hữu của mình, hãy chuyên chăm cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã dâng hiến triều đại Giáo Hoàng của mình cho Đức Mẹ Fatima vào ngày 13-5-2013. Ngài đã hai lần yêu cầu Đức Hồng Y José da Cruz Policarpo, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Bồ Đào Nha dâng hiến sứ mệnh theo Thánh Phêrô của ngài lên Đức Mẹ Fatima.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Hàng mấy chục ngàn ngàn người đang sốt sắng lần chuỗi và lắng nghe suy niệm với tất cả lòng yêu mến Đức Mẹ.Từng đoàn hành hương đủ mọi màu da, ngôn ngữ, già trẻ, nam nữ. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp của một Giáo Hội cầu nguyện khiến chúng ta liên tưởng đến hình ảnh các Tông đồ cầu nguyện cùng Đức Mẹ, chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến.
Hầu hết những người hành hương này đến từ các quốc gia trên thế giới. Khi đến Fatima, nếu đi theo các đoàn du lịch quý vị và anh chị em sẽ được dẫn đi thăm những địa điểm di tích lịch sử, chẳng hạn như nơi Thiên thần hiện ra lần đầu với ba trẻ vào mùa xuân năm 1916 và lần 2 vào tháng 10.1916. Thiên thần chuẩn bị trước 1 năm cho sự kiện trọng đại Đức Mẹ hiện ra. Các khách hành hương sẽ đi theo chặng Đàng thánh giá Hungary gồm 14 nhà nguyện nhỏ dọc theo đường lót đá bằng phẳng, dài khoảng 2km, hai bên là vườn ô liu xanh mướt cho tới tượng đài Đức Kitô trên Thập giá bằng cẩm thạch. Rồi chúng ta đến với đến tượng Đức Mẹ đứng trên bệ có mái che, phía trước có tấm bảng ghi bằng ba thứ tiếng Bồ, Anh và Pháp: “Valinhos: nơi đây Đức Mẹ hiện ra vào ngày 19-8-1917, và nói: ‘Hãy cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều, và làm những việc hy sinh cho các kẻ có tội’”.Vahinhos là địa điểm Đức Mẹ hiện ra lần thứ 4 với ba trẻ.
Sau đó, các khách hành hương có thể đi xe bus khoảng 3km đến Aljustrel, thăm nhà của của ba trẻ chăn chiên. Phong cảnh yên bình và xanh tươi cây cỏ nơi đây gợi về ngôi làng nhỏ ngày xưa êm đềm. Căn nhà Lucia gạch mái ngói, tường bên ngoài tô xi măng màu trắng. Ông ngoại của Lucia sinh trưởng tại làng Aljustrel. Thân phụ mẫu của Lucia là Maria và Antonio Santos, gia đình có 7 con, 6 gái 1 trai. Lucia sinh năm 1907 và là con út. Bên trong căn nhà, những vật dụng cá nhân của Lucia và gia đình được lưu giữ cẩn thận, từ giường nệm, bàn tủ, máy may, khung dệt vải, nồi nêu soong chảo, các vật dụng cá nhân như giỏ mây, ly tách…và vẫn còn có người cháu gái của Lucia, nay cũng đã cao niên. Các khách hành hương sẽ thăm Nhà Bào tàng Aljustrel, có 12 phòng ghi lại cuộc sống của làng này từ mấy thế kỷ trước. Nhà Bảo tàng được khai trương vào ngày 19-8-1992 và là sở hữu của Thánh địa Fatima.
Đến Fatima, ai cũng muốn nhìn thấy cây sồi. Trước nhà Lucia có cây sồi bấc, một loại cây võ rất dày dùng làm nút bần. Cây sồi xanh quanh năm, thường trồng ở Nam Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Pháp và ở Bắc Phi như Morocco, Tunisia, Algeria. Cây sồi sống rất lâu năm, vỏ cây được lột cứ mỗi 10 năm một lần. Cây sồi là một biểu tượng của xứ Bồ Đào Nha. Ở xứ này, đốn cây sồi bấc là bất hợp pháp. Bồ Đào Nha là nước sản xuất đến 50% sồi bấc của cả thế giới.
Từ nhà Lucia, đi bộ chừng nửa cây số là đến nhà Phanxicô và Giaxinta. Căn nhà đơn sơ, nhỏ hẹp và mái thấp, nhà của gia đình nghèo, những vật dụng cá nhân của hai trẻ và gia đình được xếp đặt ngăn nắp.
Nếu chúng ta tiếp tục cuộc hành trình thì có thể đến thăm ngôi nhà thờ Giáo xứ của ba trẻ đã được rửa tội. Ra vùng ngoại ô Fatima viếng nơi chôn cất đầu tiên của hai trẻ Phanxicô và Giaxinta tại một nghĩa trang. Từ Fatima, chúng tôi đi 60km đến Santarem thăm Nhà thờ Phép Lạ Thánh Thể. Ban chiều trở về lại Fatima mua quà lưu niệm trong cửa hàng rất lớn rồi chúng tôi đi thăm các Thánh đường và dâng lễ ở Nhà nguyện được xây dựng chính nơi Đức Mẹ hiện ra tại cây sồi năm xưa. Ban tối tham gia giờ cầu nguyện và cung nghinh Đức Mẹ tại quảng trường.
1. Nguồn gốc của từ Fatima
Tên Fatima có nguồn gốc từ tiếng Ả rập. Đó là tên của một công chúa xứ Ả rập. Cô Fatima bị quân Công Giáo bắt làm con tin trong thời gian người Moro chiếm đóng Bồ Đào Nha. Sau đó, cô trở thành vị hôn thê của Bá tước Ourém. Cô đã trở lại đạo và lãnh nhận Bí tích Rửa tội trước khi thành hôn với Bá tước này vào năm 1158. Cô lấy tên là Oureana (Oriane), tên của thành phố Ourém ngày nay phát xuất từ chữ Oureana.
Làng Fatima nhỏ bé ngày xưa nay đã trở thành thị trấn sầm uất và là linh địa thuộc thành phố Ourém trong quận Santarém.
2. Đôi nét lịch sử
Năm 1917, Fatima là miền quê gồm khoảng 2.500 người cư ngụ rải rác trong khoảng 40 thôn xóm. Dân lao động làm ruộng nương rẫy. Trẻ em thường chăn dắt bò, dê, cừu...Phần lớn dân cư đều mù chữ, chỉ có khoảng 10% phụ nữ biết đọc, biết viết.
Các gia đình Dos Santos và Marto cư ngụ trong thôn Aljustrel, đây là một trong những thôn xóm xưa nhất của xứ đạo Fatima. Vào đầu thế kỷ XX, Aljustrel là một nơi chỉ có 25 gia đình sinh sống với khoảng 100 cư dân, làm nghề nông và chăn cừu, phần lớn mù chữ. Họ kiếm sống ở vùng đất khô cằn bằng cần cù làm việc. Ban tối cả gia đình quây quần bên lò sưởi dùng bữa và tạ ơn Chúa. Cuộc sống của dân quê chất phác. Gia đình Dos Santos có 1 bé gái, sinh ngày 22-3-1907. Gia đình người em họ Marto có 1 con trai là Francisco Marto, sinh ngày 11-6-1908 và 1 con gái là Jacinta Marto, sinh 11-3-1910. Ba em bé này thường chăn dắt đàn cừu tại bãi cỏ “Cova de iria” cách thôn chừng 2 km.
Vào ngày đầu tiên của năm 1916, trời mưa lớn, ba em nhỏ là Lucia 9 tuổi, và hai người em họ là Phanxicô 8 tuổi và Giaxinta 6 tuổi đang trú mưa tại một hang. Bỗng nhiên, một vầng sáng trắng xuất hiện trên đồng cỏ. Các em sửng sờ khi thấy một thanh niên trẻ đẹp trong y phục màu trắng đứng giữa vầng sáng. Người thanh niên trong vầng sáng ấy nói với các em rằng: "Ðừng sợ, ta là sứ thần hòa bình. Hãy cùng ta cầu nguyện". Ðoạn người quỳ xuống và cầu nguyện: "Lạy Chúa, con tin kính, con thờ lạy, con trông cậy và con yêu mến Chúa. Xin Chúa tha thứ cho những kẻ đã không tin kính, không thờ lạy, không trông cậy và không yêu mến Chúa". Thiên Thần lại cúi đầu sâu hơn, và cầu nguyện ba lần như vậy, các em cũng lập lại lời cầu nguyện này với Thiên Thần.
Rồi vào một ngày mùa hè, đang khi các em vui đùa, Thiên Thần lại hiện ra với các em và bảo: "Hãy cầu nguyện và cầu nguyện thật nhiều. Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim Mẹ Maria đã dành cho chúng con đầy lòng thương xót. Hãy tiếp tục dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện và những hãm mình. Hãy biến mọi việc làm thành những hy sinh dâng lên Thiên Chúa để đền bù tội lỗi đã xúc phạm đến Người, và cầu cho kẻ có tội ăn năn trở lại. Bằng phương thế này, hòa bình sẽ đến với quê hương các con... Ta là Thiên Thần bản mệnh của nước Bồ Ðào Nha. Hãy đón nhận và vui lòng chịu đựng mọi thử thách Chúa sẽ gửi đến cho các con.". Mùa thu năm ấy, Thiên Thần lại hiện đến cùng các em. Trong lần hiện ra thứ ba này các em thấy Thiên Thần một tay bưng một chén Thánh, một tay cầm Mình Thánh Chúa, các em đã nhìn thấy những giọt máu nhỏ xuống chén thánh. Ðể chén thánh và Mình Thánh Chúa lơ lửng trên không trung, Thiên Thần cung kính quỳ xuống đất và cầu nguyện: "Lạy Ba Ngôi Cực Thánh - Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần - con cung kính thờ lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa mình và máu thánh cực trọng, linh hồn và bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô đang ngự trong các nhà chầu trên khắp hoàn cầu để đền tạ vì những tội bội bạc, thờ ơ, xúc phạm đến Người. Cậy vì công nghiệp vô cùng của Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu và Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria, xin Chúa cho kẻ có tội được ăn năn trở lại.".
Sau hơn một năm, kể từ ngày Thiên Thần hiện ra lần đầu tiên cùng các em, vào ngày 13 tháng 5 năm 1917, Ðức Mẹ đã hiện ra cùng các em. Trong những tháng kế tiếp, ba trẻ trở lại đồi Cova da Iria theo lời dặn dò của Đức Mẹ, bất chấp những khó khăn ngoại cảnh như thời tiết bất thuận lợi hay khó khăn tinh thần như sự ngờ vực và cấm đoán của cả chính quyền lẫn giáo quyền. Vượt qua tất cả, các em vui mừng và hy vọng tiến đến điểm hẹn, vừa đi vừa lần hạt, lòng khát mong gặp lại Đức Mẹ. Chính Đức Mẹ luôn tôn trọng lịch gặp gỡ với các em như đã hẹn trước là ngày 13 mỗi tháng (trừ tháng 8 các em bị nhốt), khích lệ, trò chuyện, cầu nguyện, dạy dỗ, nâng đỡ, ủi an và mạc khải cho các em nhưng điều cần kíp do Đức Mẹ mong muốn hay hoàn cảnh đòi buộc.
a. Đức Mẹ hiện ra lần đầu
Ngày 13-5-1917, vào lúc trưa, 1 bà mặc áo trắng tinh hiện ra với 3 em bé chăn cừu, nói với các em là hãy lần chuỗi đọc kinh Mân Côi hàng ngày để cầu nguyện cho thế giới chấm dứt chiến tranh, được hòa bình. Trước khi biến đi, Bà bảo 3 em hãy trở lại nơi đây đúng giờ trưa ngày 13 tháng sau.
Giacinta quên giữ kín nên về nhà thuật lại sự việc cho cha mẹ nghe. Tin này loan truyền nhanh khắp làng. Mọi người tỏ ra không tin. Vị linh mục chính xứ hỏi Lucia, nhưng cũng không tin. Trong báo cáo gửi lên Đức Giám Mục Giáo Phận Leiria, cha xứ viết: cần phải xa lánh chuyện này.
b. Đức Mẹ hiện ra lần thứ hai
Ngày 13 tháng 6, đúng giờ trưa, 3 em lại tới nơi hẹn, theo sau có khoảng vài chục người tò mò đến xem sự thể ra sao. Mọi người lần chuỗi đọc kinh. Đức Mẹ hiện ra với 3 em, nhắc Lucia về tầm quan trọng của việc đọc kinh Mân Côi, đồng thời báo trước cái chết của 2 anh em Phanxicô và Gianxinta: “Ta sẽ sớm đưa Phanxicô và Gianxinta về trời, còn con, con sẽ ở lại thế gian một thời gian. Chúa Giêsu muốn dùng con để loan truyền cho mọi người biết ta và yêu mến ta”. Đức Mẹ cũng yêu cầu Lucia học chữ để dễ loan báo lời Đức Mẹ cho các người khác. Những người đi theo không nhìn và nghe thấy gì. Họ chỉ nhìn thấy cành cây nhỏ nơi Đức Mẹ đứng trĩu xuống dưới một sức nặng, rồi đột nhiên bật lên khi Đức Mẹ biến đi.
c. Đức Mẹ hiện ra lần thứ ba
Ngày thứ Sáu 13-7-1917, “bà mặc áo trắng” lại hiện ra với 3 em, có khoảng 4.000 người theo sau. Đức Mẹ vẫn nhắc Lucia việc đọc kinh Mân Côi mọi ngày, để chiến tranh mau chấm dứt. Lần này Đức Mẹ tiết lộ cho 3 em "bí mật" gọi là "bí mật Fatima". (Năm 1942, 2 bí mật đầu đã được công bố, còn bí mật thứ 3 thì mãi tới năm 2000, Giáo Hội mới công bố).
d. Đức Mẹ hiện ra lần thứ tư
Ngày 10-8-1917, viên chánh tổng, một người chống đối hàng giáo sĩ đòi 3 em tới để tra hỏi, nhưng không có kết quả. Ngày 13-8, ông ta nhốt 3 em vì làm rối loạn trật tự công cộng và tiếp tục tra hỏi, nhưng hoài công. Rốt cuộc, ngày 15-8, ông ta phải thả 3 em ra.
Tuy nhiên, ngày 13-8, có khoảng 18.000 người tới bãi chờ xem sự lạ, nhưng 3 em vắng mặt vì còn bị nhốt. Chúa Nhật 19-8, khi 3 em dẫn đàn cừu tới thả ở bãi Cova de iria, Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em, yêu cầu các em nói với mọi người cầu nguyện cho những người tội lỗi mau thống hối và hứa sẽ làm 1 phép lạ cho mọi người tin.
e. Đức Mẹ hiện ra lần thứ năm
Ngày 13-9, có khoảng 30.000 người tụ họp tại bãi Cova de iria, cầu nguyện cùng với 3 em. Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em và cho biết tháng sau, sẽ có Chúa, Đức Mẹ núi Carmêlô, thánh Giuse và Chúa Hài đồng Giêsu sẽ cùng tới.
f. Đức Mẹ hiện ra lần thứ sáu
Ngày 13-10-1917, mưa như trút nước trên bãi Cova da Iria. Một đám đông khoảng 70.000 người kể cả nhiều phóng viên chụp hình và các ký giả tụ tập tại đây lần chuỗi, đọc kinh cầu nguyện. Lúc giữa trưa, Đức Mẹ hiện ra với 3 em và tỏ cho các em biết, Bà chính là Đức Nữ Trinh Maria, Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Đức Mẹ mời gọi các em cầu nguyện, làm việc đền tạ và tiếp tục lần chuỗi mỗi ngày. Đức Mẹ cũng muốn người ta phải xây một nhà nguyện dâng kính Đức Mẹ tại đây. Đức Mẹ nhắc nhở thế giới, đừng xúc phạm đến Chúa nữa, Người đã bị xúc phạm quá nhiều.Đức Mẹ cũng loan báo thế chiến thứ nhất sẽ sớm chấm dứt và yêu cầu những kẻ có tội hãy mau sám hối. Khi Đức Mẹ về trời thì mưa ngưng rơi, mặt trời xuất hiện trên bầu trời xanh biếc. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào mặt trời và thấy mặt trời nhảy múa, tung ra các chùm tia sáng nhiều màu. Mặt trời dường như xuống thấp gần trái đất, khiến đám đông sợ hãi. Việc lạ xảy ra trong 10 phút, sau đó mọi sự trở lại bình thường. Hiện tượng này được hầu hết đám đông chứng kiến, và một số người ở cách đó mấy dặm cũng nhìn thấy.
Trong thời gian này, các nhà khoa học trên thế giới không hề ghi nhận 1 hiện tượng khác thường nào của mặt trời.
Trong khi đó, riêng 3 em nhìn thấy Thánh Gia, rồi Đức Mẹ Sầu Bi, Chúa Hài Đồng Giêsu và sau hết là Đức Mẹ núi Carmêlô lần lượt xuất hiện như đã hứa trước với 3 em.
Phanxicô và Giaxinta chết sớm trong đợt dịch cúm Tây ban nha. Phanxicô chết năm 1919. Jancinta chết năm 1920. Cả 2 em đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nâng lên hàng đáng kính vào ngày 13-5-1989 và được phong Chân Phước vào ngày 13-5-2000. Mộ của 2 em hiện nằm trong lòng Vương cung thánh đường Fatima.Còn Lucia vào tu viện dòng Dorothea ở Pontevedra (Galicia, Tây ban nha) ngày 24-10-1925, sau đó khấn lần đầu ở Tuy (Tây ban nha) năm 1928. Năm 1925 và 1929, Lucia lại được Đức Mẹ hiện ra với mình. Tháng 10-1934, Lucia khấn trọn và lấy tu danh là nữ tu Đức Mẹ Maria Sầu Bi.
Sau nhiều năm điều tra, Đức Giám Mục Da Silva, cai quản Giáo phận Leiria, trong thư mục vụ ngày 13.10.1930 đã công nhận sự kiện Đức Mẹ hiện ra với 3 em ở Fatima và chính thức cho phép việc tôn sùng Đức Mẹ Fatima. Theo lệnh hàng giáo phẩm, Lucia đã viết các hồi ký về sự kiện trên gồm 4 bản: 1 bản năm 1935, 1 bản năm 1937, 1 bản năm 1941 và 1 bản đầu năm 1942. (wikipedia).
Năm 1946, nhân kỷ niệm 300 năm ngày dâng nước Bồ Đào Nha cho Đức Trinh Nữ Maria, vị sứ thần tòa thánh Vatican là Hồng Y Masella đã đội (vương miện) triều thiên lên tượng Đức Mẹ Fatima, với sự tham gia chứng kiến của khoảng 600.000 tín hữu hành hương. Vương miện này do các phụ nữ Bồ Đào Nha cung hiến để cảm tạ Đức Mẹ đã gìn giữ Bồ Đào Nha trong cuộc thế chiến thứ nhất.
Từ năm 1948, Lucia vào tu trong đan viện dòng kín Carmêlô ở Coimbra (Bồ Đào Nha), dưới tên nữ tu Lucia Trái Tim Vô nhiễm nguyên tội. Lucia qua đời ngày 14-2-2005 ở tuổi 97. Thánh lễ an táng được cử hành vào ngày 16-2-2005 tại Vương cung thánh đường Coimra. Sau khi Lucia qua đời, đức Hồng Y Joseph Ratzinger, Bộ Giáo Lý Đức Tin (sau này là Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI) cho niêm phong phòng của Lucia, có lẽ để điều tra trong tiến trình phong thánh cho Lucia.
3. Nhà Thờ Chúa Ba Ngôi Cực Thánh - Most Holy Trinity Church
Từ khách sạn, các khách hành hương sẽ đi qua quảng trường mênh mông. Đồng cỏ Cova da Iria ngày xưa nay trở thành quảng trường có tên Santuario. Đến Trung tâm mục vụ Centro Pastoral Paul VI với những lối đi bên hông. Trung tâm này cũng là ngôi Nhà thờ rất lớn có tên là Most Holy Trinity Church (tiếng Bồ Đào Nha là: Santissima Trindade). Có khi người ta gọi đây là Most Holy Trinity Church khi thì Paul VI Pastoral Centre.
Nhà thờ được ĐGH Bênêđictô XVI thánh hiến vào năm 2007, với chi phí 80 triệu Euro do khách hành hương dâng cúng. Viên đá đầu tiên được lấy từ mộ thánh Phêrô ở Roma.Trung tâm hay thánh đường là một tòa nhà hình khối tròn đường kính 125m, cao 18m, trần không có cột chống đỡ mà chỉ tựa vào 2 cây đà cực lớn nên trông rất rộng. Nội thất nhà thờ pha trộn kiểu đương đại, phục hưng và trung cổ, được chia làm hai ngăn bởi một bức tường di động cao 2m. Hướng dẫn viên cho biết Nhà thờ có 8,900 chỗ ngồi rộng thoải mái cùng với 76 chỗ cho người khuyết tật; cung thánh đủ chỗ cho100 vị đồng tế.
Cửa chính nhìn ra quảng trường là 4 tấm bằng đồng cao 8 mét, mỗi tấm nặng 3,200kg với những hình ảnh kể về công cuộc tạo dựng nên trời đất. Mái cổng vào là những tấm lưới sắt mô tả cảnh thiên thần ca hát mời gọi hãy đến thờ phượng Chúa khi khách hành hương tiến vào nhà thờ. Kiến trúc sư là người Chính thống giáo Hy Lạp nên nhiều kiến trúc chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Byzantine và Orthodox. Tôi nhận xét thấy Nhà thờ này có nét kiến trúc hiện đại tương tự như các Nhà thờ mới ở Rotoldo và Lộ Đức.
Nổi bật trên cung thánh là Chúa Giêsu trên cây Thánh giá rất lạ.Nữ điêu khắc gia người Anh không phải là Kitô hữu đã kết hợp ý tưởng văn hóa nhiều châu lục. Khuôn mặt Chúa Giêsu mang dáng vẻ Á Châu, đôi tay dáng Châu Mỹ, đôi chân dáng Châu Phi, gót chân dáng Châu Đại Dương và thân mình dáng Châu Âu. Bên trái bàn thờ có tượng Đức Mẹ Fatima màu trắng thanh thoát. Nổi bật trên bức phong cung thánh rộng 50m cao 10m bằng gạch terracota màu vàng kim phía sau Thánh giá là Con Chiên Thiên Đàng, hai bên với bức tranh nghệ thuật mosaic mạ vàng. Bên trái Đức Maria cùng với Phanxicô và Lucia và đông đảo chư thánh. Bên phải là thánh Gioan Tẩy Giả cùng với 12 Tông Đồ. Bên trong Nhà thờ được xây theo lối nhà hát có độ dốc xuôi đổ về phía cung thánh, hệ thống loa âm thanh nắm ở dưới nền nhà, phía hai bên có những vị trí dành cho hệ thống truyền thông truyền hình trực tiếp.
Trung tâm Mục vụ Phaolô VI được Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II khánh thành ngày 13-05-1982. Đây là trung tâm nghiên cứu và suy tư về Sứ điệp Fatima. Trung tâm có sức chứa 2.000 người và cho 400 khách hành hương trọ, và cũng có nhiều văn phòng mục vụ, nhiều nhà nguyện nhỏ, nhiều phòng giải tội và bảo tàng bên trong.Từ Trung tâm Mục vụ này, người ta kẻ một đường sơn đặc biệt rộng khoảng gần 1 mét kéo dài cho tới Nhà nguyện và lễ đài ngoài trời dài khoảng 500 mét dùng để cho khách hành hương đi bằng đầu gối cầu nguyện và sám hối. Phía bên trái trung tâm này là cây Thánh giá nghệ thuật được dựng nên kỷ niệm kết thúc Năm thánh 1951.
Cửa chính của Trung tâm mục vụ Phaolô VI hay Nhà thờ Chúa Ba Ngôi nằm thẳng đường với mặt tiền Vương cung Thánh đường Mân Côi tạo thành một tổng thể kiến trúc rộng và hài hòa. Hai bên là những hàng cây lá xanh đậm tạo nên bức tường làm cho quảng trường thánh địa trở thành một khu vực biệt lập nhưng lại có thể dễ dàng ra vào ở mọi hướng. Hai bên quảng trường cũng có nhiều tượng các thánh, nhiều kiến trúc với những di tích và kỷ niệm các biến cố xã hội tôn giáo.
4. Nguyện đường Hiện ra - Chapel of Apparitions
Từ trung tâm mục vụ các khách hành hương sẽ đi đến Nguyện đường Hiện ra để dâng lễ chiều. Đây là một gian nhà nhỏ, mái phẳng, trần lộ thiên, hai bên bằng kính trắng, có nhiều cửa ra vào rộng rãi. Nhà nguyện rất đơn sơ không có khung cảnh đồ sộ hay mang nét huyền bí, nhưng đây lại là địa chỉ thật linh thiêng vì là nơi Đức Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ vào năm 1917.
Năm 1919, một nguyện đường nhỏ đã được xây tại đây. Đến ngày 13-10-1921, thánh lễ đầu tiên được cử hành tại nhà nguyện này. Đã có nhiều lần tu bổ, nhưng nguyện đường vẫn giữ hình dáng cũ cho đến ngày nay. Giữa nhà nguyện có bệ cao khoảng 1 mét đặt tượng Đức Mẹ Fatima đầu đội triều thiên bằng vàng nặng 1,2 kg, gắn 313 viên ngọc trai và 2.679 viên đá quý. Sau này, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đã gắn viên đạn đồng bắn vào ngài lên trên vương miện Đức Mẹ. Nguyện đường Hiện ra mở cửa suốt ngày đêm, chẳng thấy có an ninh canh gác, nhưng không một ai đến phá hoại hay trộm cắp những vật quý trên vương miện.
Bên trái nhà nguyện là những dãy nhà dành cho người hành hương đốt nến kính Đức Mẹ. Sát bên phải nhà nguyện có cây sồi xanh với tên gọi là Large “Azinheira” sống trên 100 năm. Cây dáng cổ thụ lá xanh thẫm. Chính ba trẻ chăn chiên đã nói rằng, trên cây này vào ngày 13-5-1917, các em thấy tia chớp sấm sét thứ hai xảy ra và sau đó Đức Mẹ hiện ra. Và cũng chính dưới tàn cây này mà ba trẻ cùng cầu nguyện với những người đi theo các em trong khi chờ Đức Mẹ hiện ra. Cây sồi này là cây duy nhất còn lại. Năm 2007, Bộ Tài nguyên Lâm sản Bồ Đào Nha đã xếp cây này vào loại “cây có giá trị công ích”.
5. Vương cung Thánh Đường Mân Côi- Basilica of Our Lady of Fatima.
Ba trẻ chăn chiên kể lại, Đức Mẹ hiện ra đã nói với các em: “Ta muốn xây nơi đây một nguyện đường để kính Ta, vì Ta là Đức Mẹ Mân Côi”. Vì vậy, thánh đường này còn được gọi là “Basilica of Our Lady of Rosary”. Kiến trúc sư Hòa Lan Gerardus van Krieken vẽ bản nháp và Kiến trúc sư Joao Antunes đã hoàn tất.
Ngày 13-5-1928, Đức Tổng giám mục Manuel Santos làm phép đặt viên đá đầu tiên. Nhà thờ được thánh hiến vào tháng 10 năm 1953. Năm 1954, Đức Giáo Hoàng Piô XII nâng lên hàng vương cung thánh đường.
Nhà thờ có nét kiến trúc tân cổ điển với một ngọn tháp trung tâm cao 65m. Mặt tiền có tượng Đức Mẹ Fatima cao 4,73m nặng 13.000kg nằm ở phần lõm mặt tiền Nhà thờ trên lối vào chính. Một linh mục Dòng Đaminh người Mỹ là Thomas Mc Glynn đã dành nhiều thời giờ nói chuyện với thị nhân là Sr Lucia khi Sr diễn tả cho ngài từng chi tiết Đức Maria đã nhìn như thế nào lúc Mẹ hiện ra. Bức tượng là tác phẩm hợp tác giữa thị nhân và nhà điêu khắc để miêu tả chính xác nhất Đức Mẹ Fatima. Bức tượng này là món quà của người Công Giáo Hoa kỳ gửi đến Đền thánh Fatima năm 1958.
Nhà thờ có chiều dài 70,5m, rộng 37m. Trên tháp chuông là một vương miện bằng đồng nặng 7.000kg bên trên đặt cây thánh giá có chất lân tinh ban đêm có thể thấy từ xa. Bộ chuông gồm 62 cái và chuông lớn nhất nặng 3.000kg, quả chuông nặng 90kg.
Mặt tiền hai bên có đến 200 cột nối liền với các Tu viện và các tòa nhà của bệnh viện. Trên các cột trụ có tượng 17 vị thánh. Những hàng cột tạo thành một vòng cung ôm trọn một bề ngang của quảng trường. Ở ngoài hành lang bên trái có vườn cỏ dựng hai bức tượng thạch cao của hai trẻ đang cầm tràng chuỗi là Phanxicô và Giacinta. Giữa hành lang và cổng chính của nhà thờ là một lễ đài có mái che dùng để cử hành thánh lễ ngoài trời giống như ở quảng trường Thánh Phêrô.
Bên trong Nhà thờ gồm một gian chính, hai gian ngang. Cung thánh được ngăn cách bởi một bao lơn rước lễ ngày xưa. Phía bên trái có tượng Đức Mẹ Fatima Thánh Du (Pilgrim Virgin of Fatima), được Giám mục của Leiria đặt làm giống hình ảnh Đức Mẹ mà Lucia mô tả và được Tổng Giám mục Evora làm phép trọng thể vào ngày 13-5-1947, và sau đó tượng được rước đi khắp thế giới trong đó có Miền Nam Việt Nam. Bức tượng này, sau khi thánh du mọi nơi, đến năm 2003 đã được đem về đặt trên một bệ đá bên trái bàn thờ chính.
Phía trước cung thánh, phía cánh ngang bên phải là mộ của Phanxicô chết năm 1919. Cũng như người em gái, thi hài Phanxicô được chôn ở nghĩa trang giáo xứ Fatima. Năm 1952, di hài hai em được cải táng và đem về chôn trong Nhà thờ. Phía bên trái có phần mộ của Lucia và Giaxinta. Giaxinta chết năm 1920 lúc mới 9 tuổi. Lucia chết ngày 13-2-2005, an nghĩ tại tu viện Carmêlô ở Coimbra, sau đó được cải táng và đem về chôn bên cạnh người em họ của mình vào ngày 19-2-2006.
Gần bàn thờ, có mộ Đức Cha José Alves Correia da Silva, Giám Mục tiên khởi của Giáo phận Leiria. Chính ngài đã mở cuộc điều tra và đến năm 1930 tuyên bố sự kiện Fatima là “đáng tin” và cho phép việc tôn sùng.
Có 15 bàn thờ dâng kính 15 mầu nhiệm Kinh Mân Côi. 14 bàn thờ nhỏ nằm hai bên hông của gian chính, mỗi bàn thờ có một bức phù điêu bằng đồng mô tả 14 mầu nhiệm của Chuỗi Mân Côi. Mầu nhiệm thứ 15 là một bức hình đắp nổi cao bằng đá Chúa Ba Ngôi đội vương miện cho Đức Mẹ nằm trên vòm của bàn thờ chính, do Maximiano Alves và Stella Albuquerque thực hiện, nặng 65.000kg.
Một cây đàn đại phong cầm được thiết kế vào năm 1952 với 12 ngàn ống ở trên cao phía sau mặt tiền Nhà thờ. Bốn tượng của 4 vị đại Tông đồ cổ võ Kinh Mân Côi và lòng sùng kính Đức Maria được đặt ở 4 góc Đền thờ. Đó là Thánh Antôn Maria Claret, Thánh Đaminh, Thánh Gioan Eudes và Thánh Stêphanô vua nước Hunggary.
Và còn rất nhiều tác phẩm đủ loại do nhiều nghệ nhân thực thiện để làm cho vương cung thánh đường thêm uy nghi. Đó là những kỷ vật có thể do một giáo xứ hay một cộng đồng địa phương hay ngoại quốc dâng tặng để kính Đức Mẹ.
6. Sứ điệp Fatima.
Đức Mẹ Maria hiện ra với ba trẻ chăn chiên với mục đích là mang sứ điệp hòa bình chân chính đến cho nhân loại. Ăn năn đền tội và cầu nguyện là điều kiện để bảo đảm cho nền hòa bình thế giới và sự bình an của mỗi tâm hồn.
Bên cạnh Vương cung Thánh đường, có một mảng lớn của bức tường Bá linh.Người ta gọi đó là “bức tường ô nhục” vì nó được xây nên để phân cách nước Đức,chia ra thành Đông Đức và Tây Đức, làm cho anh em một nhà phải xa nhau. Bức tường ấy đã bị phá đổ ngày 9-11-1989, và một mảng tường lớn có chiều dài chừng7m, chiều rộng chừng 2,2m được đưa về đây, như một lời tạ ơn Đức Mẹ và như lời mời gọi, hãy phá bỏ những hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, các quốc gia, xây dựng và củng cố nền hòa bình đích thực.
Tháng 10 năm 1930, Ðức Cha Dom José Alves Correia, Giám Mục giáo phận Leiria, công nhận biến cố Mẹ hiện ra tại Fatima, và ban phép sùng kính Mẹ Fatima. Thôn làng nhỏ bé Fatima đã trở nên trung tâm hành hương thế giới. Khách thập phương tề tựu về bên Mẹ cầu khẩn, tạ ơn, xin ơn. Fatima trở thành động lực thúc đẩy mọi người hưởng ứng lời Mẹ nhắn nhủ: cầu nguyện và hy sinh cho tội nhân được ơn trở lại, nhất là nguyện cầu cho thế giới được hòa bình.
Sứ điệp hòa bình của Fatima rất hòa hợp với sứ điệp hòa bình của Phúc Âm. Hòa bình thật khẩn thiết và quan trọng biết bao cho cuộc sống nhân loại! Mọi người đều mong muốn hòa bình, khát khao được sống trong hòa bình. Mẹ Maria ban cho nhân loại một nền hòa bình chân chính và bền vững. Muốn được hưởng nền hòa bình đích thực ấy, nhân loại cần phải thực hiện những điều kiện hữu lý và hoàn toàn khả thi mà Đức Mẹ đưa ra, đó là:
- Sám hối ăn năn và cải thiện đời sống. Xưng tội rước lễ các ngày Thứ Bảy đầu tháng.
- Siêng năng cầu nguyện, hy sinh hãm mình đền tội và lần Chuỗi Mân Côi.
- Tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.
Sự kiện Fatima đã qua đi trọn vẹn trong năm 1917, cách đây đã 98 năm. Sứ điệp Fatima như lời mời gọi của Đức Mẹ bùng lên mãnh liệt khắp mọi miền trên thế giới. Sứ điệp Fatima, với lời kêu mời khẩn thiết để hoán cải và đền tội đã lôi kéo con người tới trọng tâm của Tin Mừng. Fatima chắc chắn là cuộc hiện ra mang tính chất tiên tri nhất trong thời hiện đại.
Mẹ Fatima là Mẹ Mân Côi. Mân Côi chính là hoa hồng. Mân Côi là bông hồng đẹp, viên ngọc quí. Bằng chuỗi Mân Côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền. Bằng cuộc sống hàng ngày, người tín hữu kết dệt nên những bông hoa thiêng liêng dâng kính Mẹ. Với ơn Mẹ, cuộc sống mọi người sẽ toả hương khoe sắc nhân đức và mang đến cho đời hòa bình và bình an. Xin Mẹ chúc lành cho đời sống chúng con.
(Theo tài liệu của lm. Nguyễn Hữu An)