Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:20 18/05/2015
LẤY DÊ ĐỔI TRÂU
Lương Huệ vương ngồi trên điện chính, đúng lúc dưới điện có người dắt một con trâu đi ngang qua, Huệ vương hỏi:
- “Dắt trâu đi đâu vậy?”
Người dắt trâu trả lời:
- “Đi giết nó và lấy máu của nó bôi lên cái chuông.”
Huệ vương nói:
- “Tha cho nó đi, ta không nhẫn tâm nhìn thấy dáng run rẩy sợ hãi của nó, quá tội nghiệp!”
Người dắt trâu hỏi:
- “Như vậy không cần lấy máu bôi chuông nữa sao?”
Huệ vương vội vàng trả lời:
- “Sao lại không, giết con dê thay cho nó!”
( Mạnh tử)
Suy tư:
Cái tâm của Lương Huệ vương đúng là bất bình thường, hay nói đúng hơn, Lương Huệ vương có cái tâm thiên vị, nhìn dáng con trâu run rẩy sợ hãi và dáng vẻ con dê run rẩy sợ hãi thì có gì là khác nhau chứ ! Đúng là lòng “đạo đức” của các vua chúa.
Con người ta ai cũng có sự phán đoán, mà phán đoán trúng hay trật là do cách suy nghĩ của mỗi người, nhất là các linh mục, sự phán đoán của các ngài trong toà cáo giải rất là quan trọng, và cũng có khi trong cuộc sống đời thường sự phán đoán của các ngài làm cho giáo dân buồn hay vui, lo sợ hoặc vui mừng. Người sống theo giáo điều thì phán đoán theo nguyên tắc giáo điều; người sống theo hoàn cảnh thì phán đoán theo hoàn cảnh.
Cũng một vấn đề đó mà “linh mục hoàn cảnh” phán đoán rất tế nhị, hợp tình hợp lý cho bổn đạo, trái lại “linh mục giáo điều” thì lại làm cho bổn đạo lo sợ, bất an và thêm xa Chúa, bởi vì họ sợ Chúa phạt theo như sự phán đoán giáo điều của ngài.
“Giáo điều” hay “hoàn cảnh” đối với con chiên bổn đạo thì họ không cần qua tâm, họ chỉ biết rằng khi lương tâm của họ không ổn, có vấn đề cần giải quyết thì họ đi gặp linh mục, thế thôi.
“Giáo điều” hay “hoàn cảnh” không quan trọng, quan trọng chính là linh mục phán đoán theo lương tâm của Thiên Chúa hay lương tâm của cá nhân. Lương tâm của Thiên Chúa là bao dung, là hiền hòa, là tha thứ, mà lương tâm của cá nhân thì thiên vị, kiêu căng và hờn giận.
Tôi phải dùng lương tâm của Thiên Chúa để phán đoán theo hoàn cảnh của giáo dân, cũng giống như Đức Chúa Giê-su của chúng ta đã xuống thế làm người, để chia sẻ thân phận con người và để cứu độ trần gian khỏi những cám dỗ tội lỗi của ma quỷ.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Lương Huệ vương ngồi trên điện chính, đúng lúc dưới điện có người dắt một con trâu đi ngang qua, Huệ vương hỏi:
- “Dắt trâu đi đâu vậy?”
Người dắt trâu trả lời:
- “Đi giết nó và lấy máu của nó bôi lên cái chuông.”
Huệ vương nói:
- “Tha cho nó đi, ta không nhẫn tâm nhìn thấy dáng run rẩy sợ hãi của nó, quá tội nghiệp!”
Người dắt trâu hỏi:
- “Như vậy không cần lấy máu bôi chuông nữa sao?”
Huệ vương vội vàng trả lời:
- “Sao lại không, giết con dê thay cho nó!”
( Mạnh tử)
Suy tư:
Cái tâm của Lương Huệ vương đúng là bất bình thường, hay nói đúng hơn, Lương Huệ vương có cái tâm thiên vị, nhìn dáng con trâu run rẩy sợ hãi và dáng vẻ con dê run rẩy sợ hãi thì có gì là khác nhau chứ ! Đúng là lòng “đạo đức” của các vua chúa.
Con người ta ai cũng có sự phán đoán, mà phán đoán trúng hay trật là do cách suy nghĩ của mỗi người, nhất là các linh mục, sự phán đoán của các ngài trong toà cáo giải rất là quan trọng, và cũng có khi trong cuộc sống đời thường sự phán đoán của các ngài làm cho giáo dân buồn hay vui, lo sợ hoặc vui mừng. Người sống theo giáo điều thì phán đoán theo nguyên tắc giáo điều; người sống theo hoàn cảnh thì phán đoán theo hoàn cảnh.
Cũng một vấn đề đó mà “linh mục hoàn cảnh” phán đoán rất tế nhị, hợp tình hợp lý cho bổn đạo, trái lại “linh mục giáo điều” thì lại làm cho bổn đạo lo sợ, bất an và thêm xa Chúa, bởi vì họ sợ Chúa phạt theo như sự phán đoán giáo điều của ngài.
“Giáo điều” hay “hoàn cảnh” đối với con chiên bổn đạo thì họ không cần qua tâm, họ chỉ biết rằng khi lương tâm của họ không ổn, có vấn đề cần giải quyết thì họ đi gặp linh mục, thế thôi.
“Giáo điều” hay “hoàn cảnh” không quan trọng, quan trọng chính là linh mục phán đoán theo lương tâm của Thiên Chúa hay lương tâm của cá nhân. Lương tâm của Thiên Chúa là bao dung, là hiền hòa, là tha thứ, mà lương tâm của cá nhân thì thiên vị, kiêu căng và hờn giận.
Tôi phải dùng lương tâm của Thiên Chúa để phán đoán theo hoàn cảnh của giáo dân, cũng giống như Đức Chúa Giê-su của chúng ta đã xuống thế làm người, để chia sẻ thân phận con người và để cứu độ trần gian khỏi những cám dỗ tội lỗi của ma quỷ.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:22 18/05/2015
![]() |
| N2T |
27. Chỉ trong tâm khảm của mình, người thật yêu mến Thiên Chúa mới biết nói về sự ngọt ngào của Thiên Chúa toàn năng.
(Thánh Gregorius)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong “Cách ngôn thần học tu đức”
-----------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha khuyến khích các vị linh hướng không thánh chức
Lm. Trần Đức Anh OP
12:18 18/05/2015
VATICAN. ĐTC khuyến khích các Bề trên dòng nữ và tu huynh hãy cổ võ và huấn luyện các tu sĩ không có thánh chức đảm nhận vai trò linh hướng.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây sáng thứ bẩy 16-5-2015 trong buổi gặp gỡ hơn 7 ngàn tu sĩ nam nữ của giáo phận Roma nhân dịp Năm về Đời sống Thánh Hiến.
Cuộc gặp gỡ bắt đầu lúc 11 giờ sáng tại Đại thính đường Phaolô 6 và tiến hành qua 2 giai đoạn: trước tiên là cuộc sinh hoạt với phần cầu nguyện, thánh ca, chứng từ và trình diễn của các nhóm tu sĩ đến từ nhiều nơi trên thế giới, tiếp đến là buổi tiếp kiến của ĐTC từ lúc 12 giờ.
Trong lời chào mừng ĐTC đầu buổi gặp gỡ, ĐHY Giám quản Agostino Vallini nhắc đến các chiều kích của đời sống thánh hiến trong giáo phận của ĐGH: 30 ngàn người thánh hiến, 28 đan viện chiêm niệm, 1 phần 3 trong số 330 giáo xứ được ủy thác cho các linh mục dòng, những người giúp đỡ Giáo Hội địa phương trong việc loan báo Tin Mừng và thăng tiến nhân bản. ĐHY cũng nhấn mạnh rằng ”những người thánh hiến sống trong tình huynh đệ, như những vòng tròn đồng qui, cũng giúp đỡ các giáo hạt và giáo xứ, qua những chọn lựa can đảm và ngôn sứ của họ”.
Trả lời câu hỏi của một LM dòng nêu lên, ĐTC nói về việc linh hướng trong các cộng đoàn, nam cũng như nữ. Ngài nói: ”Việc linh hướng không phải là một đoàn sủng riêng của các linh mục; đó cũng là đoàn sủng của những người không có thánh chức! Trong đời đan tu sơ khai, những người không có thánh chức là những nhà đại linh hướng. Tôi đang đọc đạo lý về sự vâng phục của thánh Silvano, đan sĩ ở núi Athos. Đó là một người làm nghề thợ mộc, rồi trở thành người quản lý, và cũng chẳng phải là phó tế, nhưng thánh nhân là một nhà đại linh hướng.”
ĐTC nói: “Cần phải tìm kiếm các linh hướng và khi các bề trên thấy một người nam hoặc nữ, trong dòng hoặc trong tỉnh dòng có đoàn sủng làm linh hướng, thì hãy giúp huấn luyện họ để thi hành công tác phục vụ ấy.. thật không phải là điều dễ dàng. Làm linh hướng mà một chuyện, làm cha giải tội là một chuyện khác”.
Trong cuộc gặp gỡ, ĐTC khuyên các nữ tu chiêm niệm đừng sống khép kín đối với những vấn đề của thế giới và Giáo Hội bên ngoài. Ngài nói: ”Ơn gọi của chị em không phải là sống trong một nơi ẩn náu: nhưng là đi ra chiến trường, là chiến đấu, là gõ cửa trái tim Chúa cho thành phố này. Như Môisê giơ hai tay lên cao, cầu nguyện, trong khi dân chiến đấu. Bao nhiêu ơn lành đến từ Chúa trong sự căng thẳng giữa đời sống ẩn dật, kinh nguyện, và lắng nghe tin tức của dân chúng”.
ĐTC cũng trả lời một câu hỏi khác về sự cạnh tranh giữa các giáo xứ - triều và dòng-, dòng này cạnh tranh với dòng kia. Ngài nói:
”Một trong những điều khó khăn nhất đối với một giám mục là kiến tạo sự hài hòa trong giáo phận... Ở đây có vấn đề hiệp nhất giữa các đoàn sủng khác nhau, hiệp nhất của hàng linh mục, hiệp nhất với giám mục.. Và không dễ tìm được sự hiệp nhất ấy: mỗi người kéo theo chiều hướng ích lợi của mình, không phải bao giờ cũng thế, nhưng có xu hướng ấy, đó là chuyện thường tình của con người. Vì thế, Giáo Hội hiện đang nghĩ đến việc canh tân văn kiện về các tương quan giữa tu sĩ và giám mục.. Thượng HĐGM thế giới năm 1994 đã yêu cầu cải tổ Văn kiện này, văn kiện ”Mutuae Relationes” (Các quan hệ hỗ tương): đã bao nhiêu năm trôi qua, nhưng vẫn chưa thực hiện. Thật không dễ quan hệ giữa các tu sĩ và giám mục, với giáo phận hoặc với các linh mục triều. Nhưng ta phải làm việc chung.. Giám mục không được dùng các tu sĩ như những người để lấp đầy chỗ trống, nhưng các tu sĩ cũng không được dùng giám mục như thể ngài là chủ của một xí nghiệp cung cấp công việc.”. (SD 17-5-2015)
Ngài bày tỏ lập trường trên đây sáng thứ bẩy 16-5-2015 trong buổi gặp gỡ hơn 7 ngàn tu sĩ nam nữ của giáo phận Roma nhân dịp Năm về Đời sống Thánh Hiến.
Cuộc gặp gỡ bắt đầu lúc 11 giờ sáng tại Đại thính đường Phaolô 6 và tiến hành qua 2 giai đoạn: trước tiên là cuộc sinh hoạt với phần cầu nguyện, thánh ca, chứng từ và trình diễn của các nhóm tu sĩ đến từ nhiều nơi trên thế giới, tiếp đến là buổi tiếp kiến của ĐTC từ lúc 12 giờ.
Trong lời chào mừng ĐTC đầu buổi gặp gỡ, ĐHY Giám quản Agostino Vallini nhắc đến các chiều kích của đời sống thánh hiến trong giáo phận của ĐGH: 30 ngàn người thánh hiến, 28 đan viện chiêm niệm, 1 phần 3 trong số 330 giáo xứ được ủy thác cho các linh mục dòng, những người giúp đỡ Giáo Hội địa phương trong việc loan báo Tin Mừng và thăng tiến nhân bản. ĐHY cũng nhấn mạnh rằng ”những người thánh hiến sống trong tình huynh đệ, như những vòng tròn đồng qui, cũng giúp đỡ các giáo hạt và giáo xứ, qua những chọn lựa can đảm và ngôn sứ của họ”.
Trả lời câu hỏi của một LM dòng nêu lên, ĐTC nói về việc linh hướng trong các cộng đoàn, nam cũng như nữ. Ngài nói: ”Việc linh hướng không phải là một đoàn sủng riêng của các linh mục; đó cũng là đoàn sủng của những người không có thánh chức! Trong đời đan tu sơ khai, những người không có thánh chức là những nhà đại linh hướng. Tôi đang đọc đạo lý về sự vâng phục của thánh Silvano, đan sĩ ở núi Athos. Đó là một người làm nghề thợ mộc, rồi trở thành người quản lý, và cũng chẳng phải là phó tế, nhưng thánh nhân là một nhà đại linh hướng.”
ĐTC nói: “Cần phải tìm kiếm các linh hướng và khi các bề trên thấy một người nam hoặc nữ, trong dòng hoặc trong tỉnh dòng có đoàn sủng làm linh hướng, thì hãy giúp huấn luyện họ để thi hành công tác phục vụ ấy.. thật không phải là điều dễ dàng. Làm linh hướng mà một chuyện, làm cha giải tội là một chuyện khác”.
Trong cuộc gặp gỡ, ĐTC khuyên các nữ tu chiêm niệm đừng sống khép kín đối với những vấn đề của thế giới và Giáo Hội bên ngoài. Ngài nói: ”Ơn gọi của chị em không phải là sống trong một nơi ẩn náu: nhưng là đi ra chiến trường, là chiến đấu, là gõ cửa trái tim Chúa cho thành phố này. Như Môisê giơ hai tay lên cao, cầu nguyện, trong khi dân chiến đấu. Bao nhiêu ơn lành đến từ Chúa trong sự căng thẳng giữa đời sống ẩn dật, kinh nguyện, và lắng nghe tin tức của dân chúng”.
ĐTC cũng trả lời một câu hỏi khác về sự cạnh tranh giữa các giáo xứ - triều và dòng-, dòng này cạnh tranh với dòng kia. Ngài nói:
”Một trong những điều khó khăn nhất đối với một giám mục là kiến tạo sự hài hòa trong giáo phận... Ở đây có vấn đề hiệp nhất giữa các đoàn sủng khác nhau, hiệp nhất của hàng linh mục, hiệp nhất với giám mục.. Và không dễ tìm được sự hiệp nhất ấy: mỗi người kéo theo chiều hướng ích lợi của mình, không phải bao giờ cũng thế, nhưng có xu hướng ấy, đó là chuyện thường tình của con người. Vì thế, Giáo Hội hiện đang nghĩ đến việc canh tân văn kiện về các tương quan giữa tu sĩ và giám mục.. Thượng HĐGM thế giới năm 1994 đã yêu cầu cải tổ Văn kiện này, văn kiện ”Mutuae Relationes” (Các quan hệ hỗ tương): đã bao nhiêu năm trôi qua, nhưng vẫn chưa thực hiện. Thật không dễ quan hệ giữa các tu sĩ và giám mục, với giáo phận hoặc với các linh mục triều. Nhưng ta phải làm việc chung.. Giám mục không được dùng các tu sĩ như những người để lấp đầy chỗ trống, nhưng các tu sĩ cũng không được dùng giám mục như thể ngài là chủ của một xí nghiệp cung cấp công việc.”. (SD 17-5-2015)
Đức Thánh Cha khai mạc Đại Hội các Giám Mục Italia
Lm. Trần Đức Anh OP
08:52 18/05/2015
VATICAN. ĐTC kêu gọi các GM Italia thông truyền niềm vui, can đảm chống lại não trạng tham nhũng và các tệ đoan xã hội và gia tăng tình hiệp thông Giáo Hội.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong diễn văn tại buổi khai mạc Đại hội thứ 68 của HĐGM Italia nhóm họp từ chiều ngày 18-5 đến 21-5-2015 tại nội thành Vatican với chủ đề chính là: kiểm điểm sự đón nhận Tông huấn ”Niềm Vui Phúc Âm” ĐTC ban hành cách đây gần 2 năm.
ĐTC khẳng định rằng “ơn gọi Kitô và GM của chúng ta là đi ngược dòng, nghĩa là trở thành những chứng nhân vui tươi của Chúa Kitô Phục Sinh để thông truyền niềm vui và hy vọng cho tha nhân... Chúng ta được yêu cầu an ủi, giúp đỡ, khích lệ tất cả những anh chị em chúng ta đang bị đè bẹp dưới gánh nặng thập giá của họ, không phân biệt một ai, tháp tùng họ, và không hề mệt mỏi trong việc nâng họ dậy nhờ sức mạnh đến từ một mình Thiên Chúa”.
ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Thật là buồn khi thấy một người thánh hiến nản chí, rầu rĩ, không còn sức sống: họ giống như một cái giếng khô cạn, nơi mà dân chúng không còn tìm được nước để giải khát”.
ĐTC nhắc lại kinh nghiệm gặp gỡ từ 2 năm qua với các HĐGM trên thế giới và nhấn mạnh tầm quan trọng của điều mà ngài gọi là ”sự nhạy cảm Giáo Hội”, nghĩa là phải có cùng những tâm tình của Chúa Kitô, khiêm tốn, cảm thương, từ bi, cụ thể và khôn ngoan”.
ĐTC lần lượt giải thích sự ”nhạy cảm Giáo Hội” mà các vị GM phải có:
- Trước tiên là không nhút nhát hoặc dè dặt trong việc tố giác và khắc phục não trạng tham nhũng đang lan tràn trong lãnh vực công và tư, làm cho các gia đình, những người hồi hưu, các công nhân lương thiện, các cộgn đồng Kitô trở nên nghèo nàn, gạt bỏ người trẻ làm cho họ không còn hy vọng về tương lai, nhất là gạt ra ngoài lề những người yếu thế và túng thiếu.
- Sự nhạy cảm Giáo Hội thúc đẩy các vị chủ chăn ra khỏi mình, đi đến với Dân Chúa để bảo vệ họ chống lại những thứ thực dân ý thức hệ, khiến cho họ mất căn tính và nhân phẩm.
- Cũng sự nhạy cảm ấy làm cho các vị chủ chăn soạn những văn kiện cụ thể, dành cho dân Chúa chứ không phải cho các chuyên gia, chứa đựng những đề nghị cụ thể, dễ hiểu; tiếp đến là củng cố vai trò không thể thiếu được của giáo dân.
- Sự nhạy cảm Giáo Hội cũng được biểu lộ cụ thể qua đoàn thể tính giữa các GM và Linh mục, hiệp thông giữa các GM với nhau, giữa cac giáo phận giàu và giáo phận gặp khó khăn...
ĐTC ghi nhận trên thế giới tại một số nơi, đoàn thể tính bị suy yếu trong việc xác định các kế hoạch mục vụ, cũng như trong việc chia sẻ những dấn thân về mặt kinh tế tài chánh như chương trình đã được đề ra, thiếu sự kiểm soát việc tiếp nhận các chương trình và thực hiện các dự án..
Sau cùng, ĐTC kêu gọi các GM Italia đừng để bao nhiêu dòng tu, đan viện trở nên già nua đến độ hầu như không còn là những chứng tá Tin Mừng trung thành với đoàn sủng của vị sáng lập. Tại sao không dự trù gộp các dòng hoặc đan viện ấy lại trước khi quá trễ về bao nhiêu phương diện? (SD 18-5-2015)
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong diễn văn tại buổi khai mạc Đại hội thứ 68 của HĐGM Italia nhóm họp từ chiều ngày 18-5 đến 21-5-2015 tại nội thành Vatican với chủ đề chính là: kiểm điểm sự đón nhận Tông huấn ”Niềm Vui Phúc Âm” ĐTC ban hành cách đây gần 2 năm.
ĐTC khẳng định rằng “ơn gọi Kitô và GM của chúng ta là đi ngược dòng, nghĩa là trở thành những chứng nhân vui tươi của Chúa Kitô Phục Sinh để thông truyền niềm vui và hy vọng cho tha nhân... Chúng ta được yêu cầu an ủi, giúp đỡ, khích lệ tất cả những anh chị em chúng ta đang bị đè bẹp dưới gánh nặng thập giá của họ, không phân biệt một ai, tháp tùng họ, và không hề mệt mỏi trong việc nâng họ dậy nhờ sức mạnh đến từ một mình Thiên Chúa”.
ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Thật là buồn khi thấy một người thánh hiến nản chí, rầu rĩ, không còn sức sống: họ giống như một cái giếng khô cạn, nơi mà dân chúng không còn tìm được nước để giải khát”.
ĐTC nhắc lại kinh nghiệm gặp gỡ từ 2 năm qua với các HĐGM trên thế giới và nhấn mạnh tầm quan trọng của điều mà ngài gọi là ”sự nhạy cảm Giáo Hội”, nghĩa là phải có cùng những tâm tình của Chúa Kitô, khiêm tốn, cảm thương, từ bi, cụ thể và khôn ngoan”.
ĐTC lần lượt giải thích sự ”nhạy cảm Giáo Hội” mà các vị GM phải có:
- Trước tiên là không nhút nhát hoặc dè dặt trong việc tố giác và khắc phục não trạng tham nhũng đang lan tràn trong lãnh vực công và tư, làm cho các gia đình, những người hồi hưu, các công nhân lương thiện, các cộgn đồng Kitô trở nên nghèo nàn, gạt bỏ người trẻ làm cho họ không còn hy vọng về tương lai, nhất là gạt ra ngoài lề những người yếu thế và túng thiếu.
- Sự nhạy cảm Giáo Hội thúc đẩy các vị chủ chăn ra khỏi mình, đi đến với Dân Chúa để bảo vệ họ chống lại những thứ thực dân ý thức hệ, khiến cho họ mất căn tính và nhân phẩm.
- Cũng sự nhạy cảm ấy làm cho các vị chủ chăn soạn những văn kiện cụ thể, dành cho dân Chúa chứ không phải cho các chuyên gia, chứa đựng những đề nghị cụ thể, dễ hiểu; tiếp đến là củng cố vai trò không thể thiếu được của giáo dân.
- Sự nhạy cảm Giáo Hội cũng được biểu lộ cụ thể qua đoàn thể tính giữa các GM và Linh mục, hiệp thông giữa các GM với nhau, giữa cac giáo phận giàu và giáo phận gặp khó khăn...
ĐTC ghi nhận trên thế giới tại một số nơi, đoàn thể tính bị suy yếu trong việc xác định các kế hoạch mục vụ, cũng như trong việc chia sẻ những dấn thân về mặt kinh tế tài chánh như chương trình đã được đề ra, thiếu sự kiểm soát việc tiếp nhận các chương trình và thực hiện các dự án..
Sau cùng, ĐTC kêu gọi các GM Italia đừng để bao nhiêu dòng tu, đan viện trở nên già nua đến độ hầu như không còn là những chứng tá Tin Mừng trung thành với đoàn sủng của vị sáng lập. Tại sao không dự trù gộp các dòng hoặc đan viện ấy lại trước khi quá trễ về bao nhiêu phương diện? (SD 18-5-2015)
Điều tra tại Á Căn Đình: Nhà báo vu cáo Đức Thánh Cha hợp tác với chế độ quân sự lại chính là tay sai của chế độ ấy
Đặng Tự Do
22:36 18/05/2015
![]() |
Hôm thứ Hai 18 tháng 5, 2015, Gabriel Levinas và Sergio Serrichio là hai ký giả chuyên viết phóng sự điều tra đã họp báo giới thiệu cuốn sách mới sắp được bán rộng rãi là cuốn “Verbitsky: Con Dios y Con el Diabolo” (“Verbitsky: Với Thiên Chúa và với Quỷ sứ”).
Sau 14 tháng điều tra, hai vị ký giả này đã tìm ra những bằng chứng cho thấy Verbitsky đã ký một hợp đồng béo bở để làm việc với các lãnh đạo quân sự từ 1978 đến 1982. Verbitsky đã là người chuyên viết diễn văn cho Chuẩn Tướng Omar Domingo Rubens Graffigna, một thành viên chủ chốt của chính quyền quân sự và được lãnh lương hàng tháng.
Sau sự sụp đổ của chế độ quân sự, Verbitsky rũ bỏ ngay lập tức quá khứ hắc ám của mình và trở nên nổi bật trong việc tố cáo những vi phạm nhân quyền của chế độ quân sự Á Căn Đình. Nhờ những liên hệ chặt chẽ với chế độ, Verbitsky biết rất nhiều, rất chính xác và chi tiết về tội ác của cái chế độ mà ông ta đã từng hợp tác. Người dân Á Căn Đình rất tin tưởng Verbitsky. Tuy nhiên, cũng có những người tự hỏi vì sao Verbitsky có thể biết rõ nhiều chi tiết như thế.
Sau cuộc bầu cử Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Verbitsky tố cáo vị tân Giáo Hoàng vào thời Junta (chế độ quân sự Á Căn Đình) lúc đó là Cha Bergoglio, Giám Tỉnh Dòng Tên, đã phối hợp với chính quyền khi bịt miệng các linh mục dòng Tên chống đối chế độ.
Cuốn “Verbitsky: Con Dios y Con el Diabolo” trình diện trước công chúng Á Căn Đình nhiều bằng chứng không thể chối cãi được trong đó có 34 trang bản thảo viết tay một bài diễn văn cho tướng Omar Domingo Rubens Graffigna đã được các chuyên gia thư pháp của Á Căn Đình xác nhận đúng thật là nét chữ của Verbitsky. Bên cạnh đó là một hợp đồng viết lách cho các tướng lãnh được ký ngày 5 tháng 10 năm 1978 theo đó Verbitsky nhận được 700,000 pesos một tháng. Có cả những bằng chứng cho thấy Verbitsky đã hợp tác soạn ra cuốn “El Poder Aereo de los Argentinos” (nghĩa là "Các lực lượng không quân Á Căn Đình") để bốc thơm chế độ.
Quý vị và anh chị em muốn biết thêm chi tiết vụ này có thể xem tại đây:
http://vaticaninsider.lastampa.it/en/news/detail/articolo/41145/
![]() |
| "Vua bịp" Horacio Verbitsky |
Top Stories
Pope Francis: Homily for Mass and Canonization
Vatican Radio
16:36 18/05/2015
(Vatican 2015-05-17 ) Pope Francis canonized four women religious on Sunday, all 19th century nuns who worked in education. St Marie-Alphonsine and St Mary of Jesus Crucified were from the territory that made up historical Palestine; St Jeanne Emilie de Villeneuve was a French nun and foundress; and St Maria Cristina of the Immaculate Conception came from Italy.
“To abide in God and in His love, and thus to proclaim by our words and our lives the resurrection of Jesus, to live in unity with one another and with charity towards all – this is what the four women Saints canonized today did,” Pope Francis said in his homily. “Their luminous example challenges us in our lives as Christians.”
Below, please find the full English translation of Pope Francis’ homily for Holy Mass for the VII Sunday of Easter with the Rite of Canonization:
HOMILY OF HIS HOLINESS POPE FRANCIS
17 May 2015
The Acts of the Apostles have set before us the early Church as she elects the man whom God called to take the place of Judas in the college of the Apostles. It is has to do not with a job, but with service. Indeed, Matthias, on whom the choice falls, receives a mission which Peter defines in these words: “One of these men... must become a witness with us to his resurrection”, the resurrection of Christ (Acts 1:21-23). In this way Peter sums up what it means to be part of the Twelve: it means to be a witness to Jesus’ resurrection. The fact that he says “with us” brings us to realize that the mission of proclaiming the risen Christ is not an individual undertaking: it is to be carried out in common, with the apostolic college and with the community. The Apostles had a direct and overwhelming experience of the resurrection; they were eyewitnesses to that event. Thanks to their authoritative testimony, many people came to believe; from faith in the risen Lord, Christian communities were born and are born continually. We too, today, base our faith in the risen Lord on the witness of the Apostles, which has come down to us through the mission of the Church. Our faith is firmly linked to their testimony, as to an unbroken chain which spans the centuries, made up not only by the successors of the Apostles, but also by succeeding generations of Christians. Like the Apostles, each one of Christ’s followers is called to become a witness to his resurrection, above all in those human settings where forgetfulness of God and human disorientation are most evident.
If this is to happen, we need to remain in the risen Christ and in his love, as the First Letter of Saint John has reminded us: “He who abides in love abides in God, and God abides in him” (1 Jn 4:16). Jesus had repeated insistently to his disciples: “Abide in me… Abide in my love” (Jn 15:4, 9). This is the secret of the saints: abiding in Christ, joined to him like branches to the vine, in order to bear much fruit (cf. Jn 15:1-8). And this fruit is none other than love. This love shines forth in the testimony of Sister Jeanne Émilie de Villeneuve, who consecrated her life to God and to the poor, the sick, the imprisoned and the exploited, becoming for them and for all a concrete sign of the Lord’s merciful love.
A relationship with the risen Jesus is the “atmosphere” in which Christians live, and in which they find the strength to remain faithful to the Gospel, even amid obstacles and misunderstandings. “Abiding in love”: this is what Sister Maria Cristina Brando also did. She was completely given over to ardent love for the Lord. From prayer and her intimate encounter with the risen Jesus present in the Eucharist, she received strength to endure suffering and to give herself, as bread which is broken, to many people who had wandered far from God and yet hungered for authentic love.
An essential aspect of witness to the risen Lord is unity among ourselves, his disciples, in the image of his own unity with the Father. Today too, in the Gospel, we heard Jesus’ prayer on the eve of his passion: “that they may be one, even as we are one” (Jn 17:11). From this eternal love between the Father and the Son, poured into our hearts through the Holy Spirit (cf. Rom 5:5), our mission and our fraternal communion draw strength; this love is the ever-flowing source of our joy in following the Lord along the path of his poverty, his virginity and his obedience; and this same love calls us to cultivate contemplative prayer. Sister Mariam Baouardy experienced this in an outstanding way. Poor and uneducated, she was able to counsel others and provide theological explanations with extreme clarity, the fruit of her constant converse with the Holy Spirit. Her docility to the Spirit also made her a means of encounter and fellowship with the Muslim world. So too, Sister Marie Alphonsine Danil Ghattas came to understand clearly what it means to radiate the love of God in the apostolate, and to be a witness to meekness and unity. She shows us the importance of becoming responsible for one another, of living lives of service one to another.
To abide in God and in his love, and thus to proclaim by our words and our lives the resurrection of Jesus, to live in unity with one another and with charity towards all. This is what the four women Saints canonized today did. Their luminous example challenges us in our lives as Christians. How do I bear witness to the risen Christ? How do I abide in him? How do I remain in his love? Am I capable of “sowing” in my family, in my workplace and in my community, the seed of that unity which he has bestowed on us by giving us a share in the life of the Trinity?
When we return home, let us take with us the joy of this encounter with the risen Lord. Let us cultivate in our hearts the commitment to abide in God’s love. Let us remain united to him and among ourselves, and follow in the footsteps of these four women, models of sanctity whom the Church invites us to imitate.
“To abide in God and in His love, and thus to proclaim by our words and our lives the resurrection of Jesus, to live in unity with one another and with charity towards all – this is what the four women Saints canonized today did,” Pope Francis said in his homily. “Their luminous example challenges us in our lives as Christians.”
Below, please find the full English translation of Pope Francis’ homily for Holy Mass for the VII Sunday of Easter with the Rite of Canonization:
HOMILY OF HIS HOLINESS POPE FRANCIS
17 May 2015
The Acts of the Apostles have set before us the early Church as she elects the man whom God called to take the place of Judas in the college of the Apostles. It is has to do not with a job, but with service. Indeed, Matthias, on whom the choice falls, receives a mission which Peter defines in these words: “One of these men... must become a witness with us to his resurrection”, the resurrection of Christ (Acts 1:21-23). In this way Peter sums up what it means to be part of the Twelve: it means to be a witness to Jesus’ resurrection. The fact that he says “with us” brings us to realize that the mission of proclaiming the risen Christ is not an individual undertaking: it is to be carried out in common, with the apostolic college and with the community. The Apostles had a direct and overwhelming experience of the resurrection; they were eyewitnesses to that event. Thanks to their authoritative testimony, many people came to believe; from faith in the risen Lord, Christian communities were born and are born continually. We too, today, base our faith in the risen Lord on the witness of the Apostles, which has come down to us through the mission of the Church. Our faith is firmly linked to their testimony, as to an unbroken chain which spans the centuries, made up not only by the successors of the Apostles, but also by succeeding generations of Christians. Like the Apostles, each one of Christ’s followers is called to become a witness to his resurrection, above all in those human settings where forgetfulness of God and human disorientation are most evident.
If this is to happen, we need to remain in the risen Christ and in his love, as the First Letter of Saint John has reminded us: “He who abides in love abides in God, and God abides in him” (1 Jn 4:16). Jesus had repeated insistently to his disciples: “Abide in me… Abide in my love” (Jn 15:4, 9). This is the secret of the saints: abiding in Christ, joined to him like branches to the vine, in order to bear much fruit (cf. Jn 15:1-8). And this fruit is none other than love. This love shines forth in the testimony of Sister Jeanne Émilie de Villeneuve, who consecrated her life to God and to the poor, the sick, the imprisoned and the exploited, becoming for them and for all a concrete sign of the Lord’s merciful love.
A relationship with the risen Jesus is the “atmosphere” in which Christians live, and in which they find the strength to remain faithful to the Gospel, even amid obstacles and misunderstandings. “Abiding in love”: this is what Sister Maria Cristina Brando also did. She was completely given over to ardent love for the Lord. From prayer and her intimate encounter with the risen Jesus present in the Eucharist, she received strength to endure suffering and to give herself, as bread which is broken, to many people who had wandered far from God and yet hungered for authentic love.
An essential aspect of witness to the risen Lord is unity among ourselves, his disciples, in the image of his own unity with the Father. Today too, in the Gospel, we heard Jesus’ prayer on the eve of his passion: “that they may be one, even as we are one” (Jn 17:11). From this eternal love between the Father and the Son, poured into our hearts through the Holy Spirit (cf. Rom 5:5), our mission and our fraternal communion draw strength; this love is the ever-flowing source of our joy in following the Lord along the path of his poverty, his virginity and his obedience; and this same love calls us to cultivate contemplative prayer. Sister Mariam Baouardy experienced this in an outstanding way. Poor and uneducated, she was able to counsel others and provide theological explanations with extreme clarity, the fruit of her constant converse with the Holy Spirit. Her docility to the Spirit also made her a means of encounter and fellowship with the Muslim world. So too, Sister Marie Alphonsine Danil Ghattas came to understand clearly what it means to radiate the love of God in the apostolate, and to be a witness to meekness and unity. She shows us the importance of becoming responsible for one another, of living lives of service one to another.
To abide in God and in his love, and thus to proclaim by our words and our lives the resurrection of Jesus, to live in unity with one another and with charity towards all. This is what the four women Saints canonized today did. Their luminous example challenges us in our lives as Christians. How do I bear witness to the risen Christ? How do I abide in him? How do I remain in his love? Am I capable of “sowing” in my family, in my workplace and in my community, the seed of that unity which he has bestowed on us by giving us a share in the life of the Trinity?
When we return home, let us take with us the joy of this encounter with the risen Lord. Let us cultivate in our hearts the commitment to abide in God’s love. Let us remain united to him and among ourselves, and follow in the footsteps of these four women, models of sanctity whom the Church invites us to imitate.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo xứ Cẩm Trường: rước kiệu và dâng hoa kính Đức Mẹ
Jos. Trọng Tấn
09:48 18/05/2015
Giáo xứ Cẩm Trường: rước kiệu và dâng hoa kính Đức Mẹ
Giáo Hội dành riêng tháng 5 để bày tỏ lòng tôn kính, mến yêu đặc biệt dành cho Đức Maria. “Đây tháng hoa, chúng con trung thành thật thà. Dâng tiến hoa lòng mến dâng lời cung chúc. Hương sắc bay tỏa ngát nhan Mẹ diễm phúc. Muôn tháng qua lòng mến yêu Mẹ không nhòa…”
Xem Hình
Những ca từ này đã trở nên rất đỗi thân quen đối với mỗi người Công Giáo Việt Nam từ bao đời nay mỗi độ tháng Hoa về. Trong tháng này, đoàn con cái hái những cánh hoa khoe sắc về dâng lên Mẹ, bởi thế, người Công Giáo Việt Nam, còn gọi tháng Năm với cái tên bình dị “tháng Hoa”. Hợp cùng những đóa hoa mà Giáo Hội đang tiến dâng lên Mẹ, đoàn con cái giáo xứ Cẩm Trường đã tổ chức cung nghinh và dâng hoa kinh Mẹ vào tối thứ 7, 16/5/2015.
Lúc 19h00, bà con giáo dân đã tề tựu đông đủ tại khuôn viên nhà thờ của giáo họ mình. Sau đó, từng giáo họ đã làm việc kính Đức Mẹ trọng thể, rồi khởi hành đoàn rước tiến lên nhà thờ xứ, hợp đoàn cùng với các giáo họ khác. Đoàn rước dài gần 2km, với 4 kiệu cung nghinh Mẹ của 4 giáo họ. Đoàn người nối tiếp nhau, trên tay cầm những đóa hoa tươi xinh và nến sáng, bước theo Mẹ trên lộ trình vòng quanh giáo xứ dài hơn 3km. Đoàn rước cung nghinh Mẹ hôm nay hội tụ đông đủ các thành phần trong giáo xứ: Cha quản xứ Fx. Phan Đình Giáo, quý tu sĩ nam nữ, các ban ngành, đoàn thể và mọi người trong giáo xứ, điều đó thể hiện lòng yêu mến mà đoàn con cái dành cho Mẹ. Dọc 2 bên đường trên suốt lộ trình cung nghinh, có rất nhiều bàn thờ kính Mẹ đã được bà con chuẩn bị và trang trí. Ở mỗi bàn thờ như thế, đoàn con cái lại có cơ hội được chiêm ngắm lại dung nhan và nhân đức của Mẹ, để rồi cùng cất cao lên bài ca ngợi khen Mẹ – người phụ nữ có phúc vượt trên hết thảy những người nữ. Đoàn rước bước đi trong bầu khí linh thánh và trang nghiêm, với những tràng chuỗi mân côi và những bài suy niệm về cuộc đời Mẹ để hướng đoàn con cái noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ.
Cuộc cung nghinh được kết thúc bằng phần diễn nguyện dâng hoa kính Mẹ tại tiền sảnh nhà thờ xứ. Những điệu múa nhịp nhàng uyển chuyển theo những khúc ca tung hô Mẹ. Từng làn khói trầm tỏa hương bay cuộn về Thiên quốc nơi Mẹ đang đoái nhìn đoàn con đang lữ hành dưới thế. Những ánh nến lung linh như đốt lên lòng yêu mến mà đoàn con cái dành cho Mẹ. Những cánh hoa thắm xinh như muôn lời ngợi khen ca vang các nhân đức cao vời của Mẹ: một đời tín trung như sắc tím, khiết trinh như màu hoa trắng ngần, rực cháy tình yêu như đóa hồng đỏ thắm và xanh ngát một màu tin yêu hi vọng nơi Thiên Chúa. Kế tiếp phần diễn nguyện, cha quản xứ, quý tu sĩ nam nữ, các ban ngành, đoàn thể cùng cộng đoàn đã dâng lên cho Mẹ những đóa hoa thắm xinh.
Buổi cung nghinh và dâng hoa kính Mẹ đã khép lại, những gì đọng lại trong mỗi người con Cẩm Trường là tình yêu mến và tôn sùng Mẹ. Ước mong, mọi người con Cẩm Trường sẽ luôn chạy đến cùng Mẹ trong những cơn thử thách, nương tựa Mẹ trong những lúc hoạn nạn, để rồi Mẹ sẽ đồng hành và nâng đỡ cho đời sống đức tin của mỗi người. Nhờ đó cuộc đời mỗi người cũng sẽ được tươi nở cùng muôn hoa để ca mừng mến yêu Mẹ và cùng với Mẹ gieo vãi ươm trồng những nụ hoa muôn sắc: đó là những việc lành phúc đức, những hy sinh bác ái trong âm thầm và khiêm tốn.
Jos. Trọng Tấn
Giáo Hội dành riêng tháng 5 để bày tỏ lòng tôn kính, mến yêu đặc biệt dành cho Đức Maria. “Đây tháng hoa, chúng con trung thành thật thà. Dâng tiến hoa lòng mến dâng lời cung chúc. Hương sắc bay tỏa ngát nhan Mẹ diễm phúc. Muôn tháng qua lòng mến yêu Mẹ không nhòa…”
Xem Hình
Những ca từ này đã trở nên rất đỗi thân quen đối với mỗi người Công Giáo Việt Nam từ bao đời nay mỗi độ tháng Hoa về. Trong tháng này, đoàn con cái hái những cánh hoa khoe sắc về dâng lên Mẹ, bởi thế, người Công Giáo Việt Nam, còn gọi tháng Năm với cái tên bình dị “tháng Hoa”. Hợp cùng những đóa hoa mà Giáo Hội đang tiến dâng lên Mẹ, đoàn con cái giáo xứ Cẩm Trường đã tổ chức cung nghinh và dâng hoa kinh Mẹ vào tối thứ 7, 16/5/2015.
Lúc 19h00, bà con giáo dân đã tề tựu đông đủ tại khuôn viên nhà thờ của giáo họ mình. Sau đó, từng giáo họ đã làm việc kính Đức Mẹ trọng thể, rồi khởi hành đoàn rước tiến lên nhà thờ xứ, hợp đoàn cùng với các giáo họ khác. Đoàn rước dài gần 2km, với 4 kiệu cung nghinh Mẹ của 4 giáo họ. Đoàn người nối tiếp nhau, trên tay cầm những đóa hoa tươi xinh và nến sáng, bước theo Mẹ trên lộ trình vòng quanh giáo xứ dài hơn 3km. Đoàn rước cung nghinh Mẹ hôm nay hội tụ đông đủ các thành phần trong giáo xứ: Cha quản xứ Fx. Phan Đình Giáo, quý tu sĩ nam nữ, các ban ngành, đoàn thể và mọi người trong giáo xứ, điều đó thể hiện lòng yêu mến mà đoàn con cái dành cho Mẹ. Dọc 2 bên đường trên suốt lộ trình cung nghinh, có rất nhiều bàn thờ kính Mẹ đã được bà con chuẩn bị và trang trí. Ở mỗi bàn thờ như thế, đoàn con cái lại có cơ hội được chiêm ngắm lại dung nhan và nhân đức của Mẹ, để rồi cùng cất cao lên bài ca ngợi khen Mẹ – người phụ nữ có phúc vượt trên hết thảy những người nữ. Đoàn rước bước đi trong bầu khí linh thánh và trang nghiêm, với những tràng chuỗi mân côi và những bài suy niệm về cuộc đời Mẹ để hướng đoàn con cái noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ.
Cuộc cung nghinh được kết thúc bằng phần diễn nguyện dâng hoa kính Mẹ tại tiền sảnh nhà thờ xứ. Những điệu múa nhịp nhàng uyển chuyển theo những khúc ca tung hô Mẹ. Từng làn khói trầm tỏa hương bay cuộn về Thiên quốc nơi Mẹ đang đoái nhìn đoàn con đang lữ hành dưới thế. Những ánh nến lung linh như đốt lên lòng yêu mến mà đoàn con cái dành cho Mẹ. Những cánh hoa thắm xinh như muôn lời ngợi khen ca vang các nhân đức cao vời của Mẹ: một đời tín trung như sắc tím, khiết trinh như màu hoa trắng ngần, rực cháy tình yêu như đóa hồng đỏ thắm và xanh ngát một màu tin yêu hi vọng nơi Thiên Chúa. Kế tiếp phần diễn nguyện, cha quản xứ, quý tu sĩ nam nữ, các ban ngành, đoàn thể cùng cộng đoàn đã dâng lên cho Mẹ những đóa hoa thắm xinh.
Buổi cung nghinh và dâng hoa kính Mẹ đã khép lại, những gì đọng lại trong mỗi người con Cẩm Trường là tình yêu mến và tôn sùng Mẹ. Ước mong, mọi người con Cẩm Trường sẽ luôn chạy đến cùng Mẹ trong những cơn thử thách, nương tựa Mẹ trong những lúc hoạn nạn, để rồi Mẹ sẽ đồng hành và nâng đỡ cho đời sống đức tin của mỗi người. Nhờ đó cuộc đời mỗi người cũng sẽ được tươi nở cùng muôn hoa để ca mừng mến yêu Mẹ và cùng với Mẹ gieo vãi ươm trồng những nụ hoa muôn sắc: đó là những việc lành phúc đức, những hy sinh bác ái trong âm thầm và khiêm tốn.
Jos. Trọng Tấn
Thông Báo
Thông cáo về VietCatholic videos trên YouTube
J.B. Đặng Minh An
08:30 18/05/2015
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Trong mấy ngày vừa qua, chúng tôi có xung đột với YouTube về các videos của VietCatholic phát trên YouTube có quảng cáo và tiếp theo sau một số phàn nàn của quý vị và anh chị em. Khi phát trực tiếp trên YouTube tự nhiên sẽ có các videos quảng cáo khác kèm theo chung quanh mà những videos này đôi khi không phù hợp với đường lối và chủ chương của người Công Giáo. Lập trường của chúng tôi là không chấp nhận quảng cáo, bất cứ là quảng cáo cái gì, không chấp nhận cảnh “thiên đàng địa ngục hai bên" - có nghĩa là videos của VietCatholic nằm giữa các videos không thích hợp!
Trong tiến trình giải quyết xung đột, tạm thời chúng tôi không thể upload lên kênh YouTube thường lệ mà phải upload lên một kênh YouTube khác. Xin quý vị và anh chị em thông cảm cho chúng tôi trong hoàn cảnh khó khăn này.
Muốn xem các videos mới của VietCatholic, xin xem ở đây:
https://www.youtube.com/c/giaoHoiNamChau
Trong tuần này, chúng tôi đã đưa các videos sau lên YouTube
1. Thế Giới Nhìn Từ Vatican 07/05 – 13/05/2015: Đội Vệ binh Thụy Sĩ
https://www.youtube.com/watch?v=QL3fpjwS8jI
2. Suy niệm cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô: 07/05 - 13/05/2015
https://www.youtube.com/watch?v=mRKuegGzG5k
3. Thánh lễ khai mạc Đại Hội Đồng Caritas Thế Giới lần thứ 20
https://www.youtube.com/watch?v=yxSPqQ5PXD4
4. Video Thánh Ca: Mộng Đời - Trình bày: Ca Sĩ Như Ý
https://www.youtube.com/watch?v=-5OsjTXa11Y
5. Giáo Hội Năm Châu: 05/05 –11/05/2015: Nepal điêu tàn vì động đất
https://www.youtube.com/watch?v=lsLW92pzYC8
Muốn xem các videos cũ của VietCatholic, xin xem ở đây: https://www.youtube.com/user/vietcatholicnews
Khó khăn trong khi xem các videos trên Net là hồng ân thị lực Chúa ban cho chúng ta thay vì củng cố đức tin, gia tăng lòng mến, thăng tiến nhân bản, hướng thượng tâm hồn lại có thể là nguyên cớ vấp phạm trước trào lưu suy thoái luân lý và các chuẩn mực đạo đức trên các phương tiện truyền thông. Ý thức về điều đó, nên chúng tôi không chấp nhận “monetization“ để có tiền, mà còn phải bỏ tiền thêm để mướn một kênh phát hình là Vimeo để chắc chắn rằng không có một thứ quảng cáo nào trên các videos của mình.
Chúng tôi đặc biệt khích lệ quý vị và anh chị em xem các videos của VietCatholic trên Vimeo, tại địa chỉ https://vimeo.com/vietcatholic/videos. Quý vị và anh chị em có thể thấy là videos được download xuống rất nhanh và xem một cách trôi chảy, không bị khựng lại giữa chừng, đặc biệt là khi xem bằng Ipad và Iphone.
Ngoài ra, nếu phải dùng YouTube, xin quý vị và anh chị em vào trang chính VietCatholic http://vietcatholic.net và xem các videos từ VietCatholic thay vì trực tiếp từ YouTube để hạn chế các loại quảng cáo.
Xin kính chào quý vị và anh chị em và xin cầu nguyện thêm cho chúng tôi.
J.B. Đặng Minh An
Phó Giám Đốc VietCatholic Network
Trong mấy ngày vừa qua, chúng tôi có xung đột với YouTube về các videos của VietCatholic phát trên YouTube có quảng cáo và tiếp theo sau một số phàn nàn của quý vị và anh chị em. Khi phát trực tiếp trên YouTube tự nhiên sẽ có các videos quảng cáo khác kèm theo chung quanh mà những videos này đôi khi không phù hợp với đường lối và chủ chương của người Công Giáo. Lập trường của chúng tôi là không chấp nhận quảng cáo, bất cứ là quảng cáo cái gì, không chấp nhận cảnh “thiên đàng địa ngục hai bên" - có nghĩa là videos của VietCatholic nằm giữa các videos không thích hợp!
Trong tiến trình giải quyết xung đột, tạm thời chúng tôi không thể upload lên kênh YouTube thường lệ mà phải upload lên một kênh YouTube khác. Xin quý vị và anh chị em thông cảm cho chúng tôi trong hoàn cảnh khó khăn này.
Muốn xem các videos mới của VietCatholic, xin xem ở đây:
https://www.youtube.com/c/giaoHoiNamChau
Trong tuần này, chúng tôi đã đưa các videos sau lên YouTube
1. Thế Giới Nhìn Từ Vatican 07/05 – 13/05/2015: Đội Vệ binh Thụy Sĩ
https://www.youtube.com/watch?v=QL3fpjwS8jI
2. Suy niệm cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô: 07/05 - 13/05/2015
https://www.youtube.com/watch?v=mRKuegGzG5k
3. Thánh lễ khai mạc Đại Hội Đồng Caritas Thế Giới lần thứ 20
https://www.youtube.com/watch?v=yxSPqQ5PXD4
4. Video Thánh Ca: Mộng Đời - Trình bày: Ca Sĩ Như Ý
https://www.youtube.com/watch?v=-5OsjTXa11Y
5. Giáo Hội Năm Châu: 05/05 –11/05/2015: Nepal điêu tàn vì động đất
https://www.youtube.com/watch?v=lsLW92pzYC8
Muốn xem các videos cũ của VietCatholic, xin xem ở đây: https://www.youtube.com/user/vietcatholicnews
Khó khăn trong khi xem các videos trên Net là hồng ân thị lực Chúa ban cho chúng ta thay vì củng cố đức tin, gia tăng lòng mến, thăng tiến nhân bản, hướng thượng tâm hồn lại có thể là nguyên cớ vấp phạm trước trào lưu suy thoái luân lý và các chuẩn mực đạo đức trên các phương tiện truyền thông. Ý thức về điều đó, nên chúng tôi không chấp nhận “monetization“ để có tiền, mà còn phải bỏ tiền thêm để mướn một kênh phát hình là Vimeo để chắc chắn rằng không có một thứ quảng cáo nào trên các videos của mình.
Chúng tôi đặc biệt khích lệ quý vị và anh chị em xem các videos của VietCatholic trên Vimeo, tại địa chỉ https://vimeo.com/vietcatholic/videos. Quý vị và anh chị em có thể thấy là videos được download xuống rất nhanh và xem một cách trôi chảy, không bị khựng lại giữa chừng, đặc biệt là khi xem bằng Ipad và Iphone.
Ngoài ra, nếu phải dùng YouTube, xin quý vị và anh chị em vào trang chính VietCatholic http://vietcatholic.net và xem các videos từ VietCatholic thay vì trực tiếp từ YouTube để hạn chế các loại quảng cáo.
Xin kính chào quý vị và anh chị em và xin cầu nguyện thêm cho chúng tôi.
J.B. Đặng Minh An
Phó Giám Đốc VietCatholic Network
Văn Hóa
Lá thư Canada: Cụ B.95
Trà Lũ
17:14 18/05/2015
Lá thư Canada: Cụ B.95
Tôi mới đi California thăm bạn bè. Chuyến đi thật tuyệt vời, được gặp bao nhiêu bạn cũ, được nói bao nhiêu chuyện xưa. Suốt ngày rong chơi. Các nhà hàng VN hình như mỗi ngày mỗi nhiều hơn, các món ăn mỗi ngày mỗi phong phú hơn. Bên Canada có thứ gì thì bên Cali cũng có những thứ đó mà còn nhiều hơn và rẻ hơn nữa. Litlle Saigon ở Nam Cali quả là kinh đô tỵ nạn của chúng ta.
Nhưng có một thứ bên Nam Cali có mà bên Canada này không có, các cụ biết là thứ gì không ? Thưa, đó là cây phượng hoa màu tím. Xưa nay thì hoa phượng bao giờ cũng màu đỏ, riêng Nam Cali cây phượng trổ bông màu tím. Tôi sang Cali vào đầu mùa xuân, hoa phượng tím tràn lan, nhất là các trường học.
Một số bạn già đưa tôi đi là cà đủ nơi, thấy tôi mê Cali, từ thời tiết khí hậu, tới các nhà hàng, tới các cửa tiệm, tới cây phượng tím thì rủ tôi di cư sang Cali. Tôi lắc đầu ngay. Tôi cám ơn lòng qúy hóa của bằng hữu nhưng tôi không thể bỏ miến đất quê hương thứ hai thân yêu này được. Lý do ư? Nhiều lắm. Một lý do rất cá nhân và chủ quan là ở Canada tôi có làng An Lạc, nơi tôi đang được sống trong hạnh phúc
Ngày tôi rời Cali về lại miền đất thiên đàng này là ngày giữa mùa xuân. Trời đất cỏ cây như chào đón tôi. Đồi dốc sau nhà là rừng phong, lá phong đã xanh mượt mà, màu xanh mạ non rất mát mắt. Vườn hoa lily trước cửa đã mọc lên lớp lá đầu tiên báo cho tôi biết rằng chẳng bao lâu nữa chúng sẽ trổ ra những bông hoa hình chuông trắng muốt và sẽ gửi hương thơm nhè nhẹ vào phòng tôi. Mùa xuân đang về thật, tôi yêu mùa xuân này quá.
Trong xấp thư bưu điện đem tới, tôi thích nhất bức thư của cậu con trại cụ B.95 mời dự lễ Hiền Mẫu. À, lâu quá tôi không nói về ông con trai đáng yêu hết sức này. Chuyện này dài lắm, xin cho tôi kể từ từ nha.
Cụ B.95, bây giờ kêu là cụ chứ vào thập niên 1950 thì cụ mới 30, đang thời nhan sắc. Lớp trai trẻ Hà Nội hồi đó ai cũng sôi lòng yêu nước, ai cũng rủ nhau lên Việt Bắc tham gia kháng chiến. Chồng cụ cũng lên Việt Bắc. Đến năm 1954 đình chiến, cụ bà chờ cụ ông về để đi Nam. Cụ chờ hoài mà không thấy ông về. Sợ hụt chuyến tàu chót, cụ đành giao cậu con trai 6 tuổi cho ông em để di cư vào Nam trước. Rồi cụ ông đã không về mà tin dữ báo tử đã về. Cụ ông đã bỏ mình trong một trận công đồn đánh Pháp.Thế là chương trình di cư vào Nam của cụ hỏng cả vì mọi sự đã trễ. Cụ khóc hết nước mắt. Cụ phải nhắm mắt về quê làm ruộng nín thở sống qua ngày. Sau năm 1975, cụ vào Nam tìm em tìm con. Nhưng mọi sự lại trễ một lần nữa. Em cụ và con cụ đã vượt biên tỵ nạn. Sau một thời gian dài hỏi thăm tin tức, cụ đã liên lạc được với em với con. Em đã tìm ra chị, con đã tìm ra mẹ. Việc con bảo lãnh mẹ đã tiến hành, và ngày hạnh phúc đã xảy ra trong năm 1995. Thật là một phép lạ, cụ đã bay thẳng từ Hà Nội sang Canada vào đúng ngày lễ Phục Sinh.
Cụ B.95 kể chuyện mẹ con gặp nhau sau 41 năm xa cách mà nước mắt ròng ròng. Cụ bảo tôi nhập đạo Công Giáo trong lể Phục Sinh vừa qua để ghi nhớ ngày tôi được sống lại, các bạn ạ. Chúa đã làm phép lạ. Tôi nghĩ mình đã chết từ lâu rồi. Năm 1954, tôi mất chồng và nghĩ rằng cũng mất con luôn. Ai ngờ tôi được sống lại để sống một đời mới trên đất Canada thần tiên này. Ngày xưa còn bé có ông thày tướng bảo tôi có hậu vận vàng son. Khi còn ở VN sống khổ cực với CS tôi nghĩ ông thày nói sai hoàn toàn, nay tôi mới thấy ông thày tướng nói đúng mọi sự. Tôi thật có đại phước vì có đứa con chí hiếu, vợ nó là một cô con dâu tuyệt vời, và một đàn cháu nội dễ thương vô vàn.
Trên đây là lời cụ B.95 kể. Còn ông con trai, tên Hiếu, nay đã ngoài 60, cũng kể chuyện trong nước mắt. Anh bảo nếu năm 1954 mà mẹ không can đảm gửi anh đi theo ông cậu vào Nam, mà cứ giữ anh lại miền Bắc thì bây giờ chắc anh là một tên cán bộ tàn ác, tham nhũng và dối trá. Anh cho biết sau 1954, ở Saigon anh được ông cậu nuôi nấng cho ăn học đàng hoàng, vào đại học rồi đi lính, rồi bị VC bỏ tù, rồi vượt biên. Bữa nay anh muốn mời cả làng An Lạc tới dự bữa cơm gia đình ngày lễ Hiền Mẫu, để anh được công khai cám ơn Mẹ và được cám ơn Làng đã giúp cho mẹ anh sống những ngày già thần tiên.
Anh Hiếu, từ ngày mẹ sang, đã đổi nhà hai lần. Một lần vì nhà ở ngoại ô. Một lần vì nhà không có vườn cho mẹ trồng rau. Bây giờ thì mẹ con và một đàn cháu ở một căn nhà rộng, phía trước có miếng đất nhỏ để cụ trồng hoa, phía sau có vườn để cụ trồng rau. Vợ anh là người Công Giáo, có học và sống đạo, đã làm anh cảm mến đạo rồi anh tự động nhập Công Giáo. Anh quả là một hiếu tử, đúng như tên bố mẹ đã đặt cho anh.
Và ngày lễ Hiền Mẫu đã tới, dân làng đều hăm hở đến nhà anh Hiếu, cũng là nhà Cụ B.95. Tôi cứ quen niệng gọi là anh chứ anh Hiếu đã 65, đã ăn tiền già, đáng lẽ phải gọi là ông hay là cụ mới đúng, phải không cơ. Làng An Lạc của tôi đúng là một làng cao niên, ai cũng trên 60 cả rồi, thế mà chúng tôi vẫn quen miệng anh anh em em. Cụ Chánh tiên chỉ bảo ta cứ gọi như thế cho nó thân. Xin vâng.
Bữa ăn được tổ chức ngay giữa phòng khách. Anh Hiếu chủ nhà cùng mẹ vui sướng chào đón mọi người, còn vợ con anh thì tất bật nấu cỗ trong bếp. Vì Cụ B.95 quê Hà Nội chính gốc nên đàn con anh nói tiếng Việt rất giỏi và giọng Bắc Kỳ rặt. Vợ anh gốc Saigon nhưng cũng ‘được’ Bắc Kỳ hóa. Bữa nay là cỗ Bắc Kỳ. Anh Hiếu nói mở đầu chào mừng và lý do có bữa ăn. Anh ôm lấy mẹ nói lời cám tạ công ơn sinh thành và nuôi nấng lúc bé rồi gửi anh di cư vào Nam năm 1954, nếu không có việc đi Nam này thì không có bữa ăn hôm nay. Lời anh trộn với nước mắt. Mắt cụ B.95 cũng ngấn lệ. Cụ Chánh lên tiếng ngay: Bài diễn văn của Anh Hiếu quá hay và đã nói đủ rồi. Bây giờ tôi xin mọi người cùng đứng lên, chúng ta nắm tay nhau đọc kinh ‘Lạy Cha’ để tạ ơn Chúa về bữa ăn đặc biệt này.
Và bữa ăn ‘Bắc Kỳ’ bắt đầu. Đầu bếp bữa nay là cô con dâu. Các cụ có đoán ra thực dơn bữa nay không ? Thưa, món đầu tiên là món miến gà. Cô con dâu thưa ngay: Tiếng là cháu chủ bếp nhưng mẹ cháu là người chỉ đạo. Mỗi người được phục vụ một tô miến. Lâu lắm rồi tôi mới được ăn cái món rất Bắc Kỳ này. Thường thì món miến này ta quen nấu với nước giùng, với miến, với thịt gà, với hành ngò, sang trọng chút nữa thì có thêm miếng lobster. Bữa nay thi chúng tôi được ăn ngon hơn thế nữa. Ngoài miến và thịt gà, chúng tôi còn thấy mấy lát tim gà, mấy quả trứng non, và đặc biệt có miếng tiết gà, cộng với rau răm. Ông ODP ăn xong tô miến rồi nức nở: Tôi như vừa ăn quê hương vào lòng !
Và món thứ hai là món ‘bún chả Hà Nội’. Công phu nhất là miếng thịt lợn nướng cháy cạnh trên than hồng. Phải gọi là thịt lợn vì đó là tiếng Hà Nội, chứ không phải là thịt heo, Cụ B.95 vừa cười vừa bảo cả làng thế. Tôi đi chợ mua được miếng thịt rất tươi, đem về ướp ngay với hành tiêu tỏi húng lìu nước mắm và dầu olive, bỏ tủ lạnh qua đêm, trước đây một tiếng mới bỏ ra, rồi xiên vào que tre, nướng trên than hồng. Mời các cụ gắp thịt bỏ vào bát nước mắm, thêm bún, thêm rau sống, thêm rau thơm, thêm củ cải cà rốt. Mời các cụ xơi. Cụ nào cắn được chút ớt tươi nữa thì thật là tuyệt cú mèo. Và một tớp bia lạnh nữa nha. Cụ có thấy bóng dáng Hà Nội trước 1954 hiện ra trên đầu lưỡi không?
Món ăn ngon quá đã làm mọi người mải mê nhậu mà quên nói chuyện, mãi sau Cụ B.95 mới lên tiếng: Hôm nay là đại lễ Hiền Mẫu, xin cụ Chánh tiên chỉ cho dân làng nói chuyện cười xả láng nha. Anh Hiếu là người lên tiếng đầu tiên ủng hộ ý kiến này của mẹ. Anh bảo mẹ anh thường kể cho anh nghe những chuyện vui trong các buổi họp làng, anh mới chỉ được nghe mẹ kể lại mà đã thấy hay quá sức rồi, vậy bữa nay xin cho cháu được nghe trực tiếp nha, xin mọi người kể thoải mái nha. Rồi anh đưa mắt nhìn anh John. Hình như theo thông lệ, anh John là ngươi khai mào các chuyện cười, xin mời anh.
Anh John không khách sáo này kia mà kể ngay một chuyện của chính anh khi bắt đầu học tiếng Việt lúc anh chưa biết phát âm rõ ràng, chưa phân biệt dấu huyền dấu sắc.
Rằng bữa đó tôi đến họp làng trễ, tôi hỏi mọi người: các bạn đã ăn buồi tôi chưa?”. Tôi thấy mọi người nghe xong thì ai cũng ngơ ngác. Tôi phải lập lại câu hỏi lần nữa ‘các bạn đã ăn buồi tôi chưa?’. Nghe xong, phe các ông thì phá ra cười, phe các bà thì đỏ mặt. Vợ tôi bảo tôi đã nói tục vì đã nói sai dấu ! Thật là tầm bậy cái miệng của tôi. Vợ tôi bảo anh phải nói cho đúng dấu như thế này: Các bạn đã ăn buổi tối chưa?”
Mọi người nghe xong, hiểu ra cái tôi nói sai dấu huyền dấu sắc, mới phá ra cười. Để mọi người cười hả hê xong, anh xin kể tiếp về cái tuyệt diệu của tiếng Việt trong lối ‘nói lái’. Tuần vừa qua tôi nói chuyện với anh Hiếu đây. Anh có vẻ vui sống, vì lúc nào cũng có mẹ có vợ có con ở chung quanh. Anh bảo ‘ Tôi chả lo gì!’, nói rồi anh cười hì hì. Cụ B.95 nghe anh nói xong mà thấy tôi không có phản ứng gì liền bảo tôi: thắng Hiếu nó nói lái đấy anh ạ. ‘Chả lo gì’ tức là ‘chỉ lo già’. Cả làng cười xong dều gật gù khen cái anh con rể Canada này giỏi tiếng Việt thật sự. Và mọi người muốn nghe anh nói nữa. Thấy phe các bà trong làng thích nghe chuyện nên anh được hứng bèn xin nói tiếp về cái hay của tiếng VN, như sau:
. Tiêng VN hễ nói về phái nữ thì thường dùng những từ tốt đẹp thanh nhã,
- như nói về một cô gầy thì không chê gầy mà khen là ‘ thon thả, mảnh mai’
- nói về một cô béo mập thì khen là ‘đầy đặn, có da có thịt’
- nói về một cô cao nghều thì khen là ‘dong dỏng, mình hạc xương mai’
- một cô thấp lùn thì khen là ‘nhỏ nhắn’
Trong khi đó, nói về anh con trai thì khác hẳn, chả khen mà toàn chê,
- con trai gầy thì chê là ‘ gầy giơ xương’
- con trai béo thì chê là ‘ mập như heo nọc’
- con trai cao thì chê là ‘ cao kều như tre miễu’
- con trai lùn thì chê là ‘ lùn tịt’.
Dân làng nghe xong ai cũng gật gù. Anh John này có lý, phải không các cụ?.
Rồi anh John quay vào ông ODP: Đàn em hết chữ rồi, xin nhường diễn đàn cho huynh trưởng. Ông ODP thấy đề tài nói về liền ông liền bà đang hấp dẫn nên xin tiếp sức anh John ngay.
Rằng ông trời sinh ra đàn ông và đàn bà tính nết khác nhau, nên đàn bà thường bênh đàn bà, đàn ông thường bênh đàn ông, do vậy mới sinh ra chuyện này: có một cặp vợ chồng kia rất đông bạn. Một hôm bà vợ giận chồng, bỏ nhà ra đi. Ông chồng thấy trời đã khuya mà vợ vẫn chưa về bèn nhấc điện thoại gọi cho các bà bạn của vợ hỏi xem vợ mình có đến đó xin ngủ nhờ không. Ông gọi tới 10 bà mà bà nào cũng nói y như nhau:
-Không, chị ấy không hề đến đây, nếu có đến thì tôi sẽ bắt chị ấy về với anh ngay.
Đấy là chuyện các bà bạn của vợ. Còn các ông bạn của ông chồng thì lại khác. Ông chồng giận vợ bỏ đi, khuya không thấy chồng về, bà vợ nhấc máy hỏi các người bạn, thì ông nào cũng rối rít trả lời giống như nhau: Có, anh ấy đang ngủ say như chết ở đây. Có ông còn nói thêm: Chị có muốn tôi đánh thức anh ấy dậy để nói chuyện với chị không?
Chính vì vậy, muốn cho gia đình êm ấm, không ai phải đi hoang, các ông chồng thường nhịn vợ, nhịn quá nên bị coi là sợ vợ. Do đó mới sinh ra câu chuyện này. Rằng có cậu con trai kia còn vị thành niên, một hôm cậu này hỏi bố:
-Bố ơi, có phải mai mốt con lớn lên thì con sẽ được tự do đi đây đi đó tùy ý, đi với ai và đến nhà ai cũng được, về nhà giờ nào cũng được, không phải xin phép mẹ nữa, phải không cơ ?
Ông bố bèn thở dài rồi đáp ngay: Nếu cứ theo các điều con nói thì bây giờ bố vẫn còn là vị thành niên, con ạ !
Phe các ông trong làng, vì là các nhà quân tử, nên ai cũng gật gù, còn phe các bà thì im lặng.
Rồi ông ODP kết luận: Mấy chuyện tôi vừa kể thì toàn là chuyện liền ông liền bà ghét nhau. Thực ra không phải thế. Đó là mặt tiêu cực, và rất nhỏ. Chứ mặt kia, mặt tích cực, là cả một trời biển mênh mông, đàn ông đàn bà hút nhau. Đó là âm dương. Đó là tình yêu. Đó là hạnh phúc. Trời sinh ra thế. Nhiều khi âm dương hút nhau mạnh quá, nhiều quá khiến các nhà mô phạm đạo đức phải nhăn mặt.
Hai cô Huế Tôn Nữ và Cao Xuân thấy đề tài này hấp dẫn nên giả bộ ngây thơ, hỏi Ông ODP:
- Nhăn mặt là sao cơ?
- Là ‘ Bánh mì phải có patê, Làm trai phải có máu dê trong người !’
Cô Tôn Nữ yêu đề tài này quá nên giả bộ ngây thơ hỏi tiếp:
- Máu dê là sao cơ?
Anh H.O. tưởng cô này ngây thơ thật, bèn chen vào nói ngay: Là anh con trai thấy cô gái đẹp thì nghĩ ngay tới cái giường ! Rồi từ cái giường mới sinh ra chuyện tiếp theo:
Gió đưa bụi chuối sau hè, Giỡn chơi một chút ai dè có con !
Nghe tới việc ‘ có con’ thì ông ODP lại xin kể một chuyện vui khác. Rằng có một bà mẹ thấy cô con gái của mình hay đi chơi khuya với bạn trai nên bà lo lắm. Bà chỉ sợ con gái có bầu rồi đẻ hoang. Bà mới dặn con gái phải khôn ngoan. Rằng đứa nào tấn công con mà sắp quá mức an toàn thì con phải hãm nó lại. Một trong những cách hãm anh con trai là con hỏi nó ‘ Chúng ta sẽ đặt tên cho đứa con là gì ?’. Quả là câu thần chú. Nhiều anh chàng nghe tới có con là hạ hỏa liền. Thế nhưng cô đã gặp một võ lâm cao thủ. Nghe cô hỏi về tên đứa con, chàng này không hạ hỏa mà còn làm tới đích. Tới xong, chàng dũng sĩ mới trả lời: Anh đã đề phòng, bận áo mưa hẳn hoi. Nếu mà còn có con thì đứa con này sẽ mang tên là ‘David Copperfield’ !
Nghe đến đây thì chỉ có phe liền ông trong làng và Chị Ba Biên Hòa là vỗ tay rồi bò ra cười, còn phe các bà thì ai cũng ngơ ngác. Chị Ba Biên Hòa hiểu chuyện nên chị quay vào phe các bà rồi cắt nghĩa: Cái anh chàng David Copperfield mà bác ODP vừa nhắc tới trong chuyện là cái anh chàng ảo thuật người Mỹ nổi tiếng quốc tế. Anh đã biểu diễn những màn gay cấn vô cùng, như cưa đôi một người, như biến một người đàn ông thành một người đàn bà, như đi xuyên qua một bức tường. Mấy năm trước đây, anh sang tận Trung Hoa biểu diễn một màn nghẹt thở trước con mắt của cả thế giới là anh đã đi xuyên qua bức tường của Vạn Lý Trường Thành. Cái việc đi xuyên qua tường áp dụng vào câu chuyện trên có nghĩa rằng nếu cô gái có bầu tức là con tinh trùng cũa dũng sĩ kia đã đi xuyên qua được bao cao su như chàng Copperfield đi xuyên qua Vạn Lý Trường Thành vậy.
Nghe xong phe các bà mới ồ lên một tiếng rồi cười bò. À, hóa ra muốn thấy cái hay thấm thía của các chuyện cười, ta phải có trình độ văn hóa cao.
Trong khi cả làng còn đang bàn về chuyện cười thấp với cao thì anh John và Cụ chánh từ trong nhà bếp bưng ra một đồng bánh lớn. Cụ Chánh nhìn mọi người rồi nói:
- Theo truyền thống của làng ta thì phe các ông bao giờ cũng làm cơm đãi phe các bà ngày lễ Hiền Mẫu. Năm nay Cụ B.95 và anh Hiếu tranh mất việc này, nên phe liền ông chúng tôi phải tranh đấu mãi mới dành được việc làm món tráng miệng. Bữa nay chúng tôi xin đãi các bà món bánh Tiramisu. Bánh này gốc bên Ý, hương vị thơm ngon đậm đà. Làng ta đã làm bánh này cách đây mấy năm trong ngày Lễ Tạ Ơn, đã đem đến biếu nhà thờ Cha Paolo và được cả nhà thờ khen nức nở. Tên đồng bánh mang nghĩa rất hay. Tira = hãy kéo, mi = tôi, su=lên. Tiramisu là ‘hãy kéo tôi lên’. Cụ B.95 được con bảo lãnh sang Canada, lại mới nhập đạo Công Giáo lễ Phục Sinh vừa qua, chúng tôi thấy cụ đã được Chúa kéo lên thiên đàng. Sống ở Canada, sống giữa đất nước gấm hoa, giữa làng An Lạc hạnh phúc này, đúng là thiên đàng.
Bà Cụ B.95 thấy Cụ Chánh nói đúng lòng của mình quá, đã vỗ tay to nhất và thốt lên 2 tiếng của nhà thờ: Amen, Alleluia ! Hai cô Huế Tôn Nữ và Cao Xuân lần đầu tiên nghe ngôn ngữ lạ, đã hỏi ngay: Cụ nói gì vậy? Cụ trả lời ngay: Đó là 2 tiếng Do Thái cổ ngày xưa thời Chúa Giêsu còn sống tại thế, và được giữ lại trong lễ nhà thờ, hai tiếng này có nghĩa là ‘ Tôi tin như vậy, ta hãy vui mừng lên !
Các cụ đã ăn bánh Tiramisu chưa ? Ngon lắm các cụ ạ. Ăn món này rồi nhâm nhi với ly cà phê nóng thì sướng không chịu được.
Bữa nay Cụ Chánh vui vẻ khác thường. Cụ thấy anh John chưa kể chuyện thời sự, cụ bèn làm thay. Cụ kể về 2 trận động đất lớn ở xứ Nepal khiến gần 10 ngàn người chết, và khắp nơi trên thế giới đều gửi tiền bạc và người đến tiếp cứu. Đồng bào VN ta ở Canada cũng như ở Hoa Kỳ đang hô hào quyên góp và lập sổ vàng cho Nepal.
Anh H.O. giơ tay xin phụ đề 2 chuyện liên quan tới biến cố này: Chuyện thứ nhất là có một nhóm cán bộ VN đang tham dự khóa huấn luyện về động đất ở Nepal thì trận dộng đất thật sự xảy ra. Thay vì ở lại tại chỗ để cứu các nạn nhân thì nhóm VN này đã cao chạy xa bay, trốn về nước ngay. Một mợ về tới VN còn khoe với báo chí tấm ảnh mình chụp trước cảnh đổ nát, trong hình mợ giơ tay chỉ và miệng cười toe. Khắp nơi đã lên tiếng chửi bới việc này. Chuyện thứ hai, báo chí quốc tế cũng cho biết là trước trận động đất thì xứ Nepal có lễ hội giết súc vật, ít nhất họ đã giết hơn 6 ngàn con trâu. Các tấm ảnh cho thấy xác 6 ngàn con trâu bị chém đầu nằm la liệt trên mấy cái sân vận động lớn. Nhiều người cho rằng hồn các con vật bị giết vô tội này đã báo oán, đã làm cho động đất.
Cụ Chánh đáp ngay: Lão tin rằng có sự báo oán. Nói gì đâu xa, CSVN đã giết mấy triệu đồng bào qua bao nhiêu năm máu lửa hận thù nên bọn giặc đỏ này có ngóc đầu lên được đâu. Chúng đưa dân VN xuống vực thẳm. Chỗ nào cũng thấy VN mình xuống dốc. Lão mới đọc một bài về các bằng sáng chế của Liên Hiệp Quốc. Nhật Bản dân số 127 triệu người có 46.130 bằng sáng chế, Singapore dân số 5 triệu người có 647 bằng sáng chế. Mã Lai dân số 28 triệu có 161 bằng sáng chế, Thái Lan dân số 68 triệu có 53 bằng sáng chế, còn Việt Nam dân số 89 triệu có 00 bằng sáng chế. Nhục nhã chưa, đồng bào ơi !
Chuyện làng An Lạc của tôi còn dài lắm, xin hẹn các cụ thư sau.
TRÀ LŨ
Tin Vui: Tác giả Trà Lũ đã viết xong bộ ‘Chuyện Cưởi Trà Lũ Toàn Tập’ gồm 4 cuốn 300, 400, 500, 600, tổng cộng hơn 1800 chuyện cười khác nhau. Đây là món quà trang nhã nhất để tặng chính bạn và thân hữu. Bạn sẽ cười quanh năm. Giá sách và bưu phí là $95. Xin liên lạc trực tiếp với tác giả: petertralu@gmail.com
Tôi mới đi California thăm bạn bè. Chuyến đi thật tuyệt vời, được gặp bao nhiêu bạn cũ, được nói bao nhiêu chuyện xưa. Suốt ngày rong chơi. Các nhà hàng VN hình như mỗi ngày mỗi nhiều hơn, các món ăn mỗi ngày mỗi phong phú hơn. Bên Canada có thứ gì thì bên Cali cũng có những thứ đó mà còn nhiều hơn và rẻ hơn nữa. Litlle Saigon ở Nam Cali quả là kinh đô tỵ nạn của chúng ta.
Nhưng có một thứ bên Nam Cali có mà bên Canada này không có, các cụ biết là thứ gì không ? Thưa, đó là cây phượng hoa màu tím. Xưa nay thì hoa phượng bao giờ cũng màu đỏ, riêng Nam Cali cây phượng trổ bông màu tím. Tôi sang Cali vào đầu mùa xuân, hoa phượng tím tràn lan, nhất là các trường học.
Một số bạn già đưa tôi đi là cà đủ nơi, thấy tôi mê Cali, từ thời tiết khí hậu, tới các nhà hàng, tới các cửa tiệm, tới cây phượng tím thì rủ tôi di cư sang Cali. Tôi lắc đầu ngay. Tôi cám ơn lòng qúy hóa của bằng hữu nhưng tôi không thể bỏ miến đất quê hương thứ hai thân yêu này được. Lý do ư? Nhiều lắm. Một lý do rất cá nhân và chủ quan là ở Canada tôi có làng An Lạc, nơi tôi đang được sống trong hạnh phúc
Ngày tôi rời Cali về lại miền đất thiên đàng này là ngày giữa mùa xuân. Trời đất cỏ cây như chào đón tôi. Đồi dốc sau nhà là rừng phong, lá phong đã xanh mượt mà, màu xanh mạ non rất mát mắt. Vườn hoa lily trước cửa đã mọc lên lớp lá đầu tiên báo cho tôi biết rằng chẳng bao lâu nữa chúng sẽ trổ ra những bông hoa hình chuông trắng muốt và sẽ gửi hương thơm nhè nhẹ vào phòng tôi. Mùa xuân đang về thật, tôi yêu mùa xuân này quá.
Trong xấp thư bưu điện đem tới, tôi thích nhất bức thư của cậu con trại cụ B.95 mời dự lễ Hiền Mẫu. À, lâu quá tôi không nói về ông con trai đáng yêu hết sức này. Chuyện này dài lắm, xin cho tôi kể từ từ nha.
Cụ B.95, bây giờ kêu là cụ chứ vào thập niên 1950 thì cụ mới 30, đang thời nhan sắc. Lớp trai trẻ Hà Nội hồi đó ai cũng sôi lòng yêu nước, ai cũng rủ nhau lên Việt Bắc tham gia kháng chiến. Chồng cụ cũng lên Việt Bắc. Đến năm 1954 đình chiến, cụ bà chờ cụ ông về để đi Nam. Cụ chờ hoài mà không thấy ông về. Sợ hụt chuyến tàu chót, cụ đành giao cậu con trai 6 tuổi cho ông em để di cư vào Nam trước. Rồi cụ ông đã không về mà tin dữ báo tử đã về. Cụ ông đã bỏ mình trong một trận công đồn đánh Pháp.Thế là chương trình di cư vào Nam của cụ hỏng cả vì mọi sự đã trễ. Cụ khóc hết nước mắt. Cụ phải nhắm mắt về quê làm ruộng nín thở sống qua ngày. Sau năm 1975, cụ vào Nam tìm em tìm con. Nhưng mọi sự lại trễ một lần nữa. Em cụ và con cụ đã vượt biên tỵ nạn. Sau một thời gian dài hỏi thăm tin tức, cụ đã liên lạc được với em với con. Em đã tìm ra chị, con đã tìm ra mẹ. Việc con bảo lãnh mẹ đã tiến hành, và ngày hạnh phúc đã xảy ra trong năm 1995. Thật là một phép lạ, cụ đã bay thẳng từ Hà Nội sang Canada vào đúng ngày lễ Phục Sinh.
Cụ B.95 kể chuyện mẹ con gặp nhau sau 41 năm xa cách mà nước mắt ròng ròng. Cụ bảo tôi nhập đạo Công Giáo trong lể Phục Sinh vừa qua để ghi nhớ ngày tôi được sống lại, các bạn ạ. Chúa đã làm phép lạ. Tôi nghĩ mình đã chết từ lâu rồi. Năm 1954, tôi mất chồng và nghĩ rằng cũng mất con luôn. Ai ngờ tôi được sống lại để sống một đời mới trên đất Canada thần tiên này. Ngày xưa còn bé có ông thày tướng bảo tôi có hậu vận vàng son. Khi còn ở VN sống khổ cực với CS tôi nghĩ ông thày nói sai hoàn toàn, nay tôi mới thấy ông thày tướng nói đúng mọi sự. Tôi thật có đại phước vì có đứa con chí hiếu, vợ nó là một cô con dâu tuyệt vời, và một đàn cháu nội dễ thương vô vàn.
Trên đây là lời cụ B.95 kể. Còn ông con trai, tên Hiếu, nay đã ngoài 60, cũng kể chuyện trong nước mắt. Anh bảo nếu năm 1954 mà mẹ không can đảm gửi anh đi theo ông cậu vào Nam, mà cứ giữ anh lại miền Bắc thì bây giờ chắc anh là một tên cán bộ tàn ác, tham nhũng và dối trá. Anh cho biết sau 1954, ở Saigon anh được ông cậu nuôi nấng cho ăn học đàng hoàng, vào đại học rồi đi lính, rồi bị VC bỏ tù, rồi vượt biên. Bữa nay anh muốn mời cả làng An Lạc tới dự bữa cơm gia đình ngày lễ Hiền Mẫu, để anh được công khai cám ơn Mẹ và được cám ơn Làng đã giúp cho mẹ anh sống những ngày già thần tiên.
Anh Hiếu, từ ngày mẹ sang, đã đổi nhà hai lần. Một lần vì nhà ở ngoại ô. Một lần vì nhà không có vườn cho mẹ trồng rau. Bây giờ thì mẹ con và một đàn cháu ở một căn nhà rộng, phía trước có miếng đất nhỏ để cụ trồng hoa, phía sau có vườn để cụ trồng rau. Vợ anh là người Công Giáo, có học và sống đạo, đã làm anh cảm mến đạo rồi anh tự động nhập Công Giáo. Anh quả là một hiếu tử, đúng như tên bố mẹ đã đặt cho anh.
Và ngày lễ Hiền Mẫu đã tới, dân làng đều hăm hở đến nhà anh Hiếu, cũng là nhà Cụ B.95. Tôi cứ quen niệng gọi là anh chứ anh Hiếu đã 65, đã ăn tiền già, đáng lẽ phải gọi là ông hay là cụ mới đúng, phải không cơ. Làng An Lạc của tôi đúng là một làng cao niên, ai cũng trên 60 cả rồi, thế mà chúng tôi vẫn quen miệng anh anh em em. Cụ Chánh tiên chỉ bảo ta cứ gọi như thế cho nó thân. Xin vâng.
Bữa ăn được tổ chức ngay giữa phòng khách. Anh Hiếu chủ nhà cùng mẹ vui sướng chào đón mọi người, còn vợ con anh thì tất bật nấu cỗ trong bếp. Vì Cụ B.95 quê Hà Nội chính gốc nên đàn con anh nói tiếng Việt rất giỏi và giọng Bắc Kỳ rặt. Vợ anh gốc Saigon nhưng cũng ‘được’ Bắc Kỳ hóa. Bữa nay là cỗ Bắc Kỳ. Anh Hiếu nói mở đầu chào mừng và lý do có bữa ăn. Anh ôm lấy mẹ nói lời cám tạ công ơn sinh thành và nuôi nấng lúc bé rồi gửi anh di cư vào Nam năm 1954, nếu không có việc đi Nam này thì không có bữa ăn hôm nay. Lời anh trộn với nước mắt. Mắt cụ B.95 cũng ngấn lệ. Cụ Chánh lên tiếng ngay: Bài diễn văn của Anh Hiếu quá hay và đã nói đủ rồi. Bây giờ tôi xin mọi người cùng đứng lên, chúng ta nắm tay nhau đọc kinh ‘Lạy Cha’ để tạ ơn Chúa về bữa ăn đặc biệt này.
Và bữa ăn ‘Bắc Kỳ’ bắt đầu. Đầu bếp bữa nay là cô con dâu. Các cụ có đoán ra thực dơn bữa nay không ? Thưa, món đầu tiên là món miến gà. Cô con dâu thưa ngay: Tiếng là cháu chủ bếp nhưng mẹ cháu là người chỉ đạo. Mỗi người được phục vụ một tô miến. Lâu lắm rồi tôi mới được ăn cái món rất Bắc Kỳ này. Thường thì món miến này ta quen nấu với nước giùng, với miến, với thịt gà, với hành ngò, sang trọng chút nữa thì có thêm miếng lobster. Bữa nay thi chúng tôi được ăn ngon hơn thế nữa. Ngoài miến và thịt gà, chúng tôi còn thấy mấy lát tim gà, mấy quả trứng non, và đặc biệt có miếng tiết gà, cộng với rau răm. Ông ODP ăn xong tô miến rồi nức nở: Tôi như vừa ăn quê hương vào lòng !
Và món thứ hai là món ‘bún chả Hà Nội’. Công phu nhất là miếng thịt lợn nướng cháy cạnh trên than hồng. Phải gọi là thịt lợn vì đó là tiếng Hà Nội, chứ không phải là thịt heo, Cụ B.95 vừa cười vừa bảo cả làng thế. Tôi đi chợ mua được miếng thịt rất tươi, đem về ướp ngay với hành tiêu tỏi húng lìu nước mắm và dầu olive, bỏ tủ lạnh qua đêm, trước đây một tiếng mới bỏ ra, rồi xiên vào que tre, nướng trên than hồng. Mời các cụ gắp thịt bỏ vào bát nước mắm, thêm bún, thêm rau sống, thêm rau thơm, thêm củ cải cà rốt. Mời các cụ xơi. Cụ nào cắn được chút ớt tươi nữa thì thật là tuyệt cú mèo. Và một tớp bia lạnh nữa nha. Cụ có thấy bóng dáng Hà Nội trước 1954 hiện ra trên đầu lưỡi không?
Món ăn ngon quá đã làm mọi người mải mê nhậu mà quên nói chuyện, mãi sau Cụ B.95 mới lên tiếng: Hôm nay là đại lễ Hiền Mẫu, xin cụ Chánh tiên chỉ cho dân làng nói chuyện cười xả láng nha. Anh Hiếu là người lên tiếng đầu tiên ủng hộ ý kiến này của mẹ. Anh bảo mẹ anh thường kể cho anh nghe những chuyện vui trong các buổi họp làng, anh mới chỉ được nghe mẹ kể lại mà đã thấy hay quá sức rồi, vậy bữa nay xin cho cháu được nghe trực tiếp nha, xin mọi người kể thoải mái nha. Rồi anh đưa mắt nhìn anh John. Hình như theo thông lệ, anh John là ngươi khai mào các chuyện cười, xin mời anh.
Anh John không khách sáo này kia mà kể ngay một chuyện của chính anh khi bắt đầu học tiếng Việt lúc anh chưa biết phát âm rõ ràng, chưa phân biệt dấu huyền dấu sắc.
Rằng bữa đó tôi đến họp làng trễ, tôi hỏi mọi người: các bạn đã ăn buồi tôi chưa?”. Tôi thấy mọi người nghe xong thì ai cũng ngơ ngác. Tôi phải lập lại câu hỏi lần nữa ‘các bạn đã ăn buồi tôi chưa?’. Nghe xong, phe các ông thì phá ra cười, phe các bà thì đỏ mặt. Vợ tôi bảo tôi đã nói tục vì đã nói sai dấu ! Thật là tầm bậy cái miệng của tôi. Vợ tôi bảo anh phải nói cho đúng dấu như thế này: Các bạn đã ăn buổi tối chưa?”
Mọi người nghe xong, hiểu ra cái tôi nói sai dấu huyền dấu sắc, mới phá ra cười. Để mọi người cười hả hê xong, anh xin kể tiếp về cái tuyệt diệu của tiếng Việt trong lối ‘nói lái’. Tuần vừa qua tôi nói chuyện với anh Hiếu đây. Anh có vẻ vui sống, vì lúc nào cũng có mẹ có vợ có con ở chung quanh. Anh bảo ‘ Tôi chả lo gì!’, nói rồi anh cười hì hì. Cụ B.95 nghe anh nói xong mà thấy tôi không có phản ứng gì liền bảo tôi: thắng Hiếu nó nói lái đấy anh ạ. ‘Chả lo gì’ tức là ‘chỉ lo già’. Cả làng cười xong dều gật gù khen cái anh con rể Canada này giỏi tiếng Việt thật sự. Và mọi người muốn nghe anh nói nữa. Thấy phe các bà trong làng thích nghe chuyện nên anh được hứng bèn xin nói tiếp về cái hay của tiếng VN, như sau:
. Tiêng VN hễ nói về phái nữ thì thường dùng những từ tốt đẹp thanh nhã,
- như nói về một cô gầy thì không chê gầy mà khen là ‘ thon thả, mảnh mai’
- nói về một cô béo mập thì khen là ‘đầy đặn, có da có thịt’
- nói về một cô cao nghều thì khen là ‘dong dỏng, mình hạc xương mai’
- một cô thấp lùn thì khen là ‘nhỏ nhắn’
Trong khi đó, nói về anh con trai thì khác hẳn, chả khen mà toàn chê,
- con trai gầy thì chê là ‘ gầy giơ xương’
- con trai béo thì chê là ‘ mập như heo nọc’
- con trai cao thì chê là ‘ cao kều như tre miễu’
- con trai lùn thì chê là ‘ lùn tịt’.
Dân làng nghe xong ai cũng gật gù. Anh John này có lý, phải không các cụ?.
Rồi anh John quay vào ông ODP: Đàn em hết chữ rồi, xin nhường diễn đàn cho huynh trưởng. Ông ODP thấy đề tài nói về liền ông liền bà đang hấp dẫn nên xin tiếp sức anh John ngay.
Rằng ông trời sinh ra đàn ông và đàn bà tính nết khác nhau, nên đàn bà thường bênh đàn bà, đàn ông thường bênh đàn ông, do vậy mới sinh ra chuyện này: có một cặp vợ chồng kia rất đông bạn. Một hôm bà vợ giận chồng, bỏ nhà ra đi. Ông chồng thấy trời đã khuya mà vợ vẫn chưa về bèn nhấc điện thoại gọi cho các bà bạn của vợ hỏi xem vợ mình có đến đó xin ngủ nhờ không. Ông gọi tới 10 bà mà bà nào cũng nói y như nhau:
-Không, chị ấy không hề đến đây, nếu có đến thì tôi sẽ bắt chị ấy về với anh ngay.
Đấy là chuyện các bà bạn của vợ. Còn các ông bạn của ông chồng thì lại khác. Ông chồng giận vợ bỏ đi, khuya không thấy chồng về, bà vợ nhấc máy hỏi các người bạn, thì ông nào cũng rối rít trả lời giống như nhau: Có, anh ấy đang ngủ say như chết ở đây. Có ông còn nói thêm: Chị có muốn tôi đánh thức anh ấy dậy để nói chuyện với chị không?
Chính vì vậy, muốn cho gia đình êm ấm, không ai phải đi hoang, các ông chồng thường nhịn vợ, nhịn quá nên bị coi là sợ vợ. Do đó mới sinh ra câu chuyện này. Rằng có cậu con trai kia còn vị thành niên, một hôm cậu này hỏi bố:
-Bố ơi, có phải mai mốt con lớn lên thì con sẽ được tự do đi đây đi đó tùy ý, đi với ai và đến nhà ai cũng được, về nhà giờ nào cũng được, không phải xin phép mẹ nữa, phải không cơ ?
Ông bố bèn thở dài rồi đáp ngay: Nếu cứ theo các điều con nói thì bây giờ bố vẫn còn là vị thành niên, con ạ !
Phe các ông trong làng, vì là các nhà quân tử, nên ai cũng gật gù, còn phe các bà thì im lặng.
Rồi ông ODP kết luận: Mấy chuyện tôi vừa kể thì toàn là chuyện liền ông liền bà ghét nhau. Thực ra không phải thế. Đó là mặt tiêu cực, và rất nhỏ. Chứ mặt kia, mặt tích cực, là cả một trời biển mênh mông, đàn ông đàn bà hút nhau. Đó là âm dương. Đó là tình yêu. Đó là hạnh phúc. Trời sinh ra thế. Nhiều khi âm dương hút nhau mạnh quá, nhiều quá khiến các nhà mô phạm đạo đức phải nhăn mặt.
Hai cô Huế Tôn Nữ và Cao Xuân thấy đề tài này hấp dẫn nên giả bộ ngây thơ, hỏi Ông ODP:
- Nhăn mặt là sao cơ?
- Là ‘ Bánh mì phải có patê, Làm trai phải có máu dê trong người !’
Cô Tôn Nữ yêu đề tài này quá nên giả bộ ngây thơ hỏi tiếp:
- Máu dê là sao cơ?
Anh H.O. tưởng cô này ngây thơ thật, bèn chen vào nói ngay: Là anh con trai thấy cô gái đẹp thì nghĩ ngay tới cái giường ! Rồi từ cái giường mới sinh ra chuyện tiếp theo:
Gió đưa bụi chuối sau hè, Giỡn chơi một chút ai dè có con !
Nghe tới việc ‘ có con’ thì ông ODP lại xin kể một chuyện vui khác. Rằng có một bà mẹ thấy cô con gái của mình hay đi chơi khuya với bạn trai nên bà lo lắm. Bà chỉ sợ con gái có bầu rồi đẻ hoang. Bà mới dặn con gái phải khôn ngoan. Rằng đứa nào tấn công con mà sắp quá mức an toàn thì con phải hãm nó lại. Một trong những cách hãm anh con trai là con hỏi nó ‘ Chúng ta sẽ đặt tên cho đứa con là gì ?’. Quả là câu thần chú. Nhiều anh chàng nghe tới có con là hạ hỏa liền. Thế nhưng cô đã gặp một võ lâm cao thủ. Nghe cô hỏi về tên đứa con, chàng này không hạ hỏa mà còn làm tới đích. Tới xong, chàng dũng sĩ mới trả lời: Anh đã đề phòng, bận áo mưa hẳn hoi. Nếu mà còn có con thì đứa con này sẽ mang tên là ‘David Copperfield’ !
Nghe đến đây thì chỉ có phe liền ông trong làng và Chị Ba Biên Hòa là vỗ tay rồi bò ra cười, còn phe các bà thì ai cũng ngơ ngác. Chị Ba Biên Hòa hiểu chuyện nên chị quay vào phe các bà rồi cắt nghĩa: Cái anh chàng David Copperfield mà bác ODP vừa nhắc tới trong chuyện là cái anh chàng ảo thuật người Mỹ nổi tiếng quốc tế. Anh đã biểu diễn những màn gay cấn vô cùng, như cưa đôi một người, như biến một người đàn ông thành một người đàn bà, như đi xuyên qua một bức tường. Mấy năm trước đây, anh sang tận Trung Hoa biểu diễn một màn nghẹt thở trước con mắt của cả thế giới là anh đã đi xuyên qua bức tường của Vạn Lý Trường Thành. Cái việc đi xuyên qua tường áp dụng vào câu chuyện trên có nghĩa rằng nếu cô gái có bầu tức là con tinh trùng cũa dũng sĩ kia đã đi xuyên qua được bao cao su như chàng Copperfield đi xuyên qua Vạn Lý Trường Thành vậy.
Nghe xong phe các bà mới ồ lên một tiếng rồi cười bò. À, hóa ra muốn thấy cái hay thấm thía của các chuyện cười, ta phải có trình độ văn hóa cao.
Trong khi cả làng còn đang bàn về chuyện cười thấp với cao thì anh John và Cụ chánh từ trong nhà bếp bưng ra một đồng bánh lớn. Cụ Chánh nhìn mọi người rồi nói:
- Theo truyền thống của làng ta thì phe các ông bao giờ cũng làm cơm đãi phe các bà ngày lễ Hiền Mẫu. Năm nay Cụ B.95 và anh Hiếu tranh mất việc này, nên phe liền ông chúng tôi phải tranh đấu mãi mới dành được việc làm món tráng miệng. Bữa nay chúng tôi xin đãi các bà món bánh Tiramisu. Bánh này gốc bên Ý, hương vị thơm ngon đậm đà. Làng ta đã làm bánh này cách đây mấy năm trong ngày Lễ Tạ Ơn, đã đem đến biếu nhà thờ Cha Paolo và được cả nhà thờ khen nức nở. Tên đồng bánh mang nghĩa rất hay. Tira = hãy kéo, mi = tôi, su=lên. Tiramisu là ‘hãy kéo tôi lên’. Cụ B.95 được con bảo lãnh sang Canada, lại mới nhập đạo Công Giáo lễ Phục Sinh vừa qua, chúng tôi thấy cụ đã được Chúa kéo lên thiên đàng. Sống ở Canada, sống giữa đất nước gấm hoa, giữa làng An Lạc hạnh phúc này, đúng là thiên đàng.
Bà Cụ B.95 thấy Cụ Chánh nói đúng lòng của mình quá, đã vỗ tay to nhất và thốt lên 2 tiếng của nhà thờ: Amen, Alleluia ! Hai cô Huế Tôn Nữ và Cao Xuân lần đầu tiên nghe ngôn ngữ lạ, đã hỏi ngay: Cụ nói gì vậy? Cụ trả lời ngay: Đó là 2 tiếng Do Thái cổ ngày xưa thời Chúa Giêsu còn sống tại thế, và được giữ lại trong lễ nhà thờ, hai tiếng này có nghĩa là ‘ Tôi tin như vậy, ta hãy vui mừng lên !
Các cụ đã ăn bánh Tiramisu chưa ? Ngon lắm các cụ ạ. Ăn món này rồi nhâm nhi với ly cà phê nóng thì sướng không chịu được.
Bữa nay Cụ Chánh vui vẻ khác thường. Cụ thấy anh John chưa kể chuyện thời sự, cụ bèn làm thay. Cụ kể về 2 trận động đất lớn ở xứ Nepal khiến gần 10 ngàn người chết, và khắp nơi trên thế giới đều gửi tiền bạc và người đến tiếp cứu. Đồng bào VN ta ở Canada cũng như ở Hoa Kỳ đang hô hào quyên góp và lập sổ vàng cho Nepal.
Anh H.O. giơ tay xin phụ đề 2 chuyện liên quan tới biến cố này: Chuyện thứ nhất là có một nhóm cán bộ VN đang tham dự khóa huấn luyện về động đất ở Nepal thì trận dộng đất thật sự xảy ra. Thay vì ở lại tại chỗ để cứu các nạn nhân thì nhóm VN này đã cao chạy xa bay, trốn về nước ngay. Một mợ về tới VN còn khoe với báo chí tấm ảnh mình chụp trước cảnh đổ nát, trong hình mợ giơ tay chỉ và miệng cười toe. Khắp nơi đã lên tiếng chửi bới việc này. Chuyện thứ hai, báo chí quốc tế cũng cho biết là trước trận động đất thì xứ Nepal có lễ hội giết súc vật, ít nhất họ đã giết hơn 6 ngàn con trâu. Các tấm ảnh cho thấy xác 6 ngàn con trâu bị chém đầu nằm la liệt trên mấy cái sân vận động lớn. Nhiều người cho rằng hồn các con vật bị giết vô tội này đã báo oán, đã làm cho động đất.
Cụ Chánh đáp ngay: Lão tin rằng có sự báo oán. Nói gì đâu xa, CSVN đã giết mấy triệu đồng bào qua bao nhiêu năm máu lửa hận thù nên bọn giặc đỏ này có ngóc đầu lên được đâu. Chúng đưa dân VN xuống vực thẳm. Chỗ nào cũng thấy VN mình xuống dốc. Lão mới đọc một bài về các bằng sáng chế của Liên Hiệp Quốc. Nhật Bản dân số 127 triệu người có 46.130 bằng sáng chế, Singapore dân số 5 triệu người có 647 bằng sáng chế. Mã Lai dân số 28 triệu có 161 bằng sáng chế, Thái Lan dân số 68 triệu có 53 bằng sáng chế, còn Việt Nam dân số 89 triệu có 00 bằng sáng chế. Nhục nhã chưa, đồng bào ơi !
Chuyện làng An Lạc của tôi còn dài lắm, xin hẹn các cụ thư sau.
TRÀ LŨ
Tin Vui: Tác giả Trà Lũ đã viết xong bộ ‘Chuyện Cưởi Trà Lũ Toàn Tập’ gồm 4 cuốn 300, 400, 500, 600, tổng cộng hơn 1800 chuyện cười khác nhau. Đây là món quà trang nhã nhất để tặng chính bạn và thân hữu. Bạn sẽ cười quanh năm. Giá sách và bưu phí là $95. Xin liên lạc trực tiếp với tác giả: petertralu@gmail.com
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Đến Với Mẹ
Diệp Hải Dung, Australia
21:51 18/05/2015
![]() |
Ảnh của Diệp Hải Dung, Australia
Trời tháng năm, chuyển mình vào hạ
Gió đong đưa câu kinh vãn Đức Bà
Chuông nhà thờ giục giã gọi tháng hoa
Đoàn con cái rộn ràng về với Mẹ.
(Trích thơ của Mic. Cao Danh Viện)



