Ngày 10-06-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:21 10/06/2009
KHÓ MUA ĐƯỢC BÌNH AN

N2T


- “Khí sắc của anh có khác lạ, này anh bạn, có gì không vừa ý phải không ?”

- “Không có gì, chỉ là sáng sớm hôm nay tôi đi làm mới về nhà, đang thay áo quần thì vợ tôi tỉnh dậy và hỏi tôi: có phải ông thức dậy sớm quá không ?- Tôi dứt khoát mặc áo quần đàng hoàng, trở lại công việc, như thế tránh được một trận tranh cãi.”


(Trích: Bài ca của loài ếch)

Suy tư:

Người chồng khôn ngoan thì hiểu được tính tình của vợ mình, thế là thà mình chịu thiệt thòi còn hơn là tranh cãi với vợ làm mất đi hạnh phúc gia đình.

Bởi vì thời xưa và thời nay có những ông chồng thường cho mình cái uy quyền cai quản vợ, hống hách và coi vợ mình như là một công cụ sinh đẻ hoặc như người đầy tớ giúp việc nhà, chứ không coi vợ mình là người bạn đường, cùng chia sẻ với mình những vui buồn trong cuộc sống gia đình như mục đích của bí tích hôn phối mà Chúa Giê-su đã lập ra: yêu thương, chia sẻ và chung thủy với nhau cho đến hết cuộc đời của cả hai người.

Nhẫn nại và tha thứ là hai trái quả thơm ngọt được sinh ra bởi tình yêu thương trong đời sống vợ chồng, và nhờ nhẫn nại, tha thứ của vợ chồng mà hạnh phúc gia đình được nhân lên mãi không thôi.

Chúng nó (nhẫn nại và tha thứ) cũng là yếu tố để đem lại bình an cho gia đình, khỏi mất công đi mua bình an giả tạo bên ngoài.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:22 10/06/2009
N2T


8. Tự nguyện không đứng trên đầu bất cứ người nào, nhưng chỉ muốn vinh dự vác thập giá đi theo Chúa Cứu Thế.

(Thánh Francis of Assisi)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:24 10/06/2009
N2T


141. Bản thân của cuộc sống, so với tất cả tư tưởng thì mãi mãi đều là thông minh, càng có lực thuyết phục.

 
Những Lời Nói Của Tín Hữu Trưởng Thành
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
11:16 10/06/2009
Cảm nghiệm Sống # 86:

NHỮNG LỜI NÓI CỦA TÍN HỮU TRƯỞNG THÀNH

A - Nên nói - Đừng nói:

1- Nên nói: Tôi lên nhà thờ để cùng dâng lễ cầu nguyện.

2-Đừng nói: Tôi đi nhà thờ để xem lễ, để giữ luật Hội thánh.

3- Nên nói: Ngày chết là ngày trở về Nhà Cha, ngày Sống lại.

4- Đừng nói: Thật là mất mát to lớn, thật vô cùng đau đớn...

5- Nên nói: Chết không phải là hết; nhưng là biến đổi.

6- Đừng nói: Đây là mất mát to lớn cho ông bà, anh chị...

7- Nên nói: Thật là thương tiếc, xin Chúa bù đắp, thêm ơn...

8- Đừng nói: Xin Chúa trả công vô cùng bội hậu cho quý vị.

Vì mình chỉ là đầy tớ vô ích, chẳng có gì để Chúa trả công.

9- Nên nói: Xin Chúa ban nhiều ơn lành khác cho quý vị.

10- Đừng nói: Xin cha làm phép Hôn phối cho con. Vì chính

hai người phải làm phép Hôn phối cho nhau.

11- Nên nói: Xin Cha chủ sự lễ nghi Hôn phối cho con.

12-Đừng làm: Say mê việc nhà thờ, tông đồ, mà bỏ vợ chồng, con

cháu nheo nhóc, thì Chúa không chấp nhận.

13- Nên làm: Săn sóc vợ chồng con cháu đầy đủ đã, rồi vợ

chồng cùng lên nhà thờ dâng lễ, tạ ơn, cầu nguyện...

B - Tu luyện - Thực hành:

1- Hàng ngày: Cầu nguyện, bàn hỏi,gặp gỡ, tâm sự với Chúa.

2- Hàng ngày: Đọc Kinh Thánh, Cảm nghiệm Sống Lời Chúa.

3- Hàng ngày: Ap dụng Lời Chúa vào bản thân, gia đình...

4- Hàng ngày: Thăm hỏi người nghèo khó, bệnh tật, neo đơn.

5- Hàng ngày: Chu toàn bổn phận gia đình trước khi ra ngoài.

6- Hàng tuần: Nên tham gia sinh hoạt đoàn thể, nhóm chia sẻ Lời

Chúa, nhóm Gia trưởng Liên kết, các bà mẹ CG, thiện nguyện...

7-TRÁNH CỒ BẠC, RƯỢU CHÈ, TRAI GÁI, NGHIỆN HÚT.

Phó tế: JB Nguyễn Định * Johndvn@yahoo.com
 
Thơ: Tâm tình tháng Sáu
Trầm Thiên Thu
16:37 10/06/2009
TÂM TÌNH THÁNG SÁU

Đời con độc mộc chênh vênh
Lênh đênh sóng cả mông mênh biển đời
Gia nan ngày tháng ngược xuôi
Khát khao an nghỉ trong Ngài sớm hôm
Tâm tình tháng Sáu thâm trầm
Con tìm về suối Thánh Tâm ngọt ngào
Dù con tội lỗi rất nhiều
Nhưng con tha thiết tin yêu Tình Ngài

ĐƯỜNG THẬP GIÁ

Con đường Thập giá cheo leo
Gian nan, vất vả, nhọc lao, gập ghềnh
Ai lo giữ mạng sống mình
Thì rồi sẽ mất – Đời thành trầm luân
Ai vì Chúa, vì Phúc âm
Hy sinh mạng sống được phần quang vinh
Chúa cho hưởng phúc trường sinh
Đời đời bên Chúa ca tình tri âm

Cuộc đời Thiên Chúa trao ban
Sự sống rất cần, đừng phí một giây
Xin cho con biết vì Ngài
Sống cho xứng đáng tháng ngày hồng ân

NỖI LÒNG

Bỏ Ngài con biết theo ai
Trước sau chỉ thấy mình Ngài mà thôi

Nhìn trời từng vạt mây trôi
Bất chợt bồi hồi ngày tháng tiếp năm
Vơi đầy những nỗi băn khoăn
Độc hành một chuyến trở trăn sớm chiều

Bóng đời trôi dạt liêu xiêu
Đôi khi khờ dại gieo neo thăng trầm
Nhiêu khê cuộc sống miên man
Hoang vu như những tiếng ngân chuông chiều

Thiếu Ngài, con đẫm ưu sầu
Thuyền con vô định, ba đào cứ xô
Con đâu làm được điều gì
Nếu không có Chúa độ trì đỡ nâng.
 
Thánh Perpetua: Người phụ nữ của đức tin
Jos. Tú Nạc,NMS
16:56 10/06/2009
Câu chuyện kể về một thiếu phụ Bắc Phi. Tên cô là Perpetua. Cô sống cách đây vào khoảng 2,000 năm. Nhưng ngày nay người ta vẫn thường kể về cuộc đời của cô. Vào thời của Perpetua, một phần của Bắc Phi thuộc đế quốc La Mã. Người dân bản xứ phải tuân thủ những điều luật La Mã và theo cách ứng xử của La Mã. Đây là một thực tế trong mọi lĩnh vực cuộc sống – bao gồm cả tôn giáo.

Thời đó, những nhà lãnh đạo đế chế La Mã, hoàng đế, Septimius Severus. Severus cũng từ là người Bắc Phi. Thuc ra, ông cũng chỉ là hoàng đế Phi Châu trong lịch sử La mã! Ông đã tranh giành với những ứng viên khác để trở thành hoàng đế. Ông là người cầm quyền tàn bạo, hung ác.

Mọi công dân phải tôn thờ hoàng đế. Điều này chỉ ra rằng họ là hoàng tộc đối với hoàng đế. Hoàng đế này thôn chiếm nhiều đất nước khác. Cư dân ở những nơi đó đã có những truyền thống tôn giáo riêng của họ. Nhưng họ cũng sẵn sàng tôn thờ hoàng đế. Hoàng đế coi vấn đề này là một giải pháp hữu hiệu để duy trì đế chế trở thành một khối thống nhất.

Septimius severus biết tầm quan trọng của một đế chế yên ổn. Và ông ta đã phải để ý đến việc những tôn giáo khác có thể phân chia quyền lực đế chế. Nên vào năm 202, ông đã đề ra một điều luật tôn giáo mới cấm mọi người không được theo Do Thái giáo và Ki-tô giáo. Vào thời điểm đó, Ki-tô giáo đang trong giai đoạn mới mẻ và niềm tin vào Ki-tô giáo đang gây ảnh hưởng đến nhiều người trong xã hội La Mã. Những người Ki-tô giáo tin rằng chỉ một Thiên Chúa là Thiên Chúa thật. Họ tin rằng họ không được phép tôn thờ một con người của sự sống nào khác. Và họ tin rằng họ sẽ được sống cùng Thiên Chúa trong thiên đàng sau khi chết. thế nên những Ki-tô hữu trong đế quốc La Mã từ chối thi hành bất cứ đạo luật hoàng gia nào đối với hoàng đế. Ông hoàng này tin rằng họ đã đe dọa đến quyền lực của mình – điều mà ông ta phải tiêu diệt họ.

Perpetua là một tín đồ Ki-tô giáo. Cô và vài người bạn đã từ chối tham gia những nghi lễ tôn thờ hoàng đế. Vì thế, chính quyền La Mã bắt họ vào tù. Nhưng gia đình Perpetua không phải là người Ki-tô giáo. Và họ không hiểu cách đối xử của cô. Nhất là khi cô có một cháu trai yêu quí. Trong khi ở trong tù, Perpetua đã viết một cuốn nhật ký – ghi chép lại những gì đã xảy đến với cô. Một phần của cuốn nhật ký mà Perpwtua đã viết:

Bạn tôi và tôi vẫn bị giam giữ. Bố tôi đến thăm tôi. Tôi biết bố tôi rất yêu thương tôi. Và ông đã cố gắng thuyết phục tôi thay đổi suy nghĩ.
- Này bố, tôi nói, ‘bố có nhìn thấy cái thùng đựng nước ở đây không?’
- Có, bố thấy.
- Nó có thể được gọi bằng cái tên bất kỳ nào khác được không?
- Không, ông trả lời.
- ‘Vâng, cũng vậy con không thể đựơc gọi bằng bất cứ cái tên nào khác hơn rằng con là một Ki-tô hữu.
- Cái từ “Ki-tô giáo” đã làm cho bố tôi rất giận. Ông tiến về phía tôi và như ông nhìn thấy nước mắt tôi rưng rưng. Nhưng ông không nói thêm điều gì với tôi. Đoạn, ông bỏ đi.

Vài ngày sau chúng tôi nghe thêm một số tin tức. Chúng tôi sẽ ra trước hội đồng La Mã. Bố tôi cũng từ thành phố đến, đầy ưu tư, lo lắng. Ông lại đến gặp tôi vẫn ý tưởng ông khuyên tôi thay đổi ý định.

‘Náy con gái,’ ông nói, ‘hãy thương bố… nghĩ về các anh của con, nghĩ về mẹ của con… nghĩ về con trai của con. Nó sẽ không thể sống một khi con vĩnh viễn ra đi. Đừng quá tự hào! Con sẽ giết chết tất cả chúng ta!’

Tôi cảm thấy buồn cho bố tôi. Tôi cố gắng làm cho ông cảm thấy yên tâm, tôi nói: ‘Tất cả mọi điều xảy ra đều do Thánh Ý Chúa. Bố có thể chắc rằng chúng ta đang sống không phải là do chúng ta. Mà chúng ta đang sống trong tất cả quyền năng của Người.’ Rồi bố tôi bỏ đi – tâm hồn ông chất chứa một nỗi buồn vời vợi.”

Perpetua và bạn bè cô sau đó phải ra trước những viên chức chính quyền địa phương để chịu xét xử. Cô viết:

“Hilarianus người chánh án nói với tôi:
- Hãy thương đến bố cô; hãy thương đến đứa con trai bé bỏng của cô. Hãy hiến dâng sự hy sinh cho hoàng đế.
- Sẽ không bao giờ, tôi trả lời.
- cô là tín đồ Ki-tô giáo phải không? Hilarianus hỏi tôi.
- Phải, tôi là một Ki-tô hữu,’ tôi trả lời.

Rồi Hilarianus tuyên án tất cả chúng tôi. Ông lên án chúng tôi phải chịu chết. chúng tôi sẽ phải đối diện với những dã thú tại hý trường công cộng. chúng tôi trở lại nhà tù. Chúng tôi đã vinh dự trải qua vì đức tin của mình.”

Trong những ngày sau đó, Perpetua cùng bạn bè dọn mình để lãnh nhận cái chết. Họ không sợ mất đi sự sống. thay vì, họ đón mừng cơ hội để được sống cùng Thiên Chúa kính yêu của họ.

Thời gian sống trong tù, Perpetua có vài lần nằm mơ. Trong những giấc mơ đó, Thiên Chúa đã cho cô biết cô và bạn bè cô sẽ phải chịu đau đớn. Nhưng họ sẽ chết một cách dũng cảm. Và với những hành động về đức tin của họ cổ vũ nhiều Ki-tô hữu. Perpetua không thể viết trong nhật ký về ngày chết của cô. Nhưng một vài người khác đã viết lại về những gì đã xảy ra. Nhân chứng này đã miêu tả những bạn trẻ đối phó với ngày cuối cùng của họ ở trần gian can đảm tuyệt vời như thế nào.

“Ngày vinh quang của họ đã đến. Họ bước đều với niềm hân hoan từ nhà tù đến hý trường công cộng – như thể họ đang đi đến thiên đàng. Những người lính dẫn họ đến khu vực trung tâm của hý trường.”

Ở đó, hai người nữ và bốn ngừoi nam đương đầu với những dã thú khác – đám đông hoan hô ầm ĩ khi những con vật tấn công họ. Nhưng Perpetua và bạn bè cô tràn đầy sức mạnh của Thiên Chúa. Họ đã bị thương tích. Nhưng họ ai nấy đều sống sót. Cuối cùng nhà cầm quyền đã ra lệnh cho những nguời lính giết những bạn trẻ này bằng gươm – ngay trước đám đông. Nhân chứng viết:

“Và những người bạn đứng dậy đi về phía những người lính. Họ trao nhau nụ hôn bình an. Bạn bè của Petpetua bình thản nhận những nhát gươm. Tuy nhiên, perpetua đã trải qua sự đau đớn nhiều hơn. Lưỡi gươm của những người lính đã chạm phải xương của cô. Và cô đã hét lên. Sau đó, cô đến bắt tay người lính trẻ và đặt lưỡi gươm của hắn vào cổ mình.”

Và thế là ngày bảy tháng Ba năm 203, các bạn trẻ này đã bước đến cái chết. Nhưng họ đã biết rằng họ sẽ gặp Thiên Chúa trên chốn thiên đàng. Ngày nay, vẫn còn đài kỷ niệm tại trung tâm hý trường nơi họ tử nạn. Điều này muốn nói đến sự hy sinh của Perpetua, Felicitas, Revocatus, Saturninus, Secundulus, Saturus, và Rusticus. Câu chuyện về đức tin và lòng can đảm của họ sống mãi với thời gian.

(“A Woman of Faith” – R. Jones}
 
Mầu nhiệm đức tin
LM. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
17:49 10/06/2009
Mầu nhiệm đức tin

Trong mỗi Thánh Lễ, sau khi linh mục truyền phép: bánh và rượu trở thành Mình Máu Thánh

Chúa Giêsu, ông giới thiệu cùng cộng đoàn dân Chúa: Đây là Mầu nhiệm đức tin.

Phải hiểu mầu nhiệm đức tin như thế nào đây?

1.Bữa tiệc với những người tội lỗi

Linh mục Sieger Koeder, một họa sĩ về nghệ thuật thánh, đã vẽ bức tranh „bữa tiệc với những người tội lỗi“ dựa theo tường thuật trong Phúc âm Thánh Marcô 2, 15-17). Bức tranh vẽ diễn tả những người ngồi quanh bàn bữa tiệc gồm đủ mọi thành phần, và hầu như họ không có chút gì liên quan hay biết về Bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu.

Đó là lớp người trí thức học cao suy nghĩ nhiều về khoa học thực dụng hơn là về mầu nhiệm Thánh Thể trừu tượng. Đó là lớp người sống hoài nghi luôn luôn đặt thắc mắc về những điều mắt thấy tai nghe. Đó là một cô gái điếm, mà cả phố đều nghe biết về đời sống lang thang bê bối tội lỗi. Đó là một người theo Do Thái giáo luôn luôn còn hằng mong chờ Đấng Cứu Thế đến. Đó là lớp người đến từ Phi Châu vẫn còn mang nặng tâm hồn đời sống với niềm tin tôn giáo địa phương bộ tộc của mình...

Trên bàn ăn là bánh mì và chén rượu, dấu chỉ Bí tích Thánh Thể. Ngoài ra hình ảnh Chúa Giêsu không nhìn thấy ở đây. Nhưng ở đầu bàn ăn là hình hai bàn tay đang dang mở ra hướng về phía mọi người ngồi quanh bàn.

Nhìn qua thì như vậy. Nhưng nhà họa sĩ muốn trình bày điều căn bản của bức tranh, mà hầu như người xem không mấy để ý tới: Bí tích Thánh Thể trình bày trong bức vẽ đây không là phần thưởng cho người đạo đức. Nhưng muốn mang đến cho người yếu hèn bé nhỏ sự củng cố tâm hồn, giúp họ vượt qua những thử thách trong đời sống. Tất cả mọi người muốn tham dự bữa tiệc, đều được đón tiếp. Không ai bị loại khỏi bàn tiệc. Chúa Giêsu, người chủ nhà của Bí tích Thánh Thể, mời mọi người đến dự tiệc. Bí tích Thánh Thể không đặt ra ranh giới chu vi nào. Nhưng ranh giới được nới mở rộng cho hết mọi người.

Ngắm nhìn bức tranh trong suy tư chúng ta đặt thắc mắc: ai là người xứng đáng gặp gỡ Chúa. Cùng trong Thánh Lễ chúng ta đã từng cầu nguyện“ Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con“.

Nhưng có lẽ không nên qúa chú trọng đến câu hỏi: Ai xứng đáng hay tôi có xứng đáng tiếp nhận Tấm Bánh chén rượu Bí tích Thánh Thể, mà chú ý hơn đến thắc mắc điều gì đã diễn ra trong bàn tiệc Bí tích Thánh Thể trong bức tranh này.

Đôi bàn tay giang mở ra hưóng về mọi người trong bức tranh vẽ có thể là một chỉ dẫn tìm ra câu trả lời cho thắc mắc đó.

2. Hình ảnh ẩn hiện trong đôi mắt

Với con mắt và trí hiểu thông thường của con người, mầu nhiệm Bí tích Thánh Thể vượt qúa tầm nhìn cùng suy hiểu của trí khôn.

Chúng ta không thể hiểu nổi tại sao, Chúa Giêsu lại có thể ẩn mình trong một miếng tấm bánh mì hay trong một chén rượu nho được? Tại sao Chúa Giêsu lại có thể biến đổi tấm miếng bánh mì, chén rượu nho thành thân xác và máu của Ngài, và để làm gì vậy?

Một ví dụ. Linh mục Giuse Nguyễn trọng Tước trong buổi giảng ở Đại hội Công Giáo bên Đức ngày 31.05.2009, khi nói về Bí tích Thánh Thể, đã dùng hình ảnh tấm bánh của một người mẹ mang về cho con mình, cắt nghĩa về Tấm bánh Thánh Thể.

“Một bà mẹ biết con thích ăn bánh, nên hằng tuần vào ngày thứ ba khoảng ba bốn giờ chiều, sau khi hội họp với các bà mẹ Công Gíao trong xứ đạo, bà đều mang theo về một gói qùa cho con đang chơi ngoài hàng hiên trước nhà. Nhận được gói qùa có chiếc bánh ngọt, em vui mừng ăn ngon lành. Mẹ em cũng vui mừng hãnh diện. Mẹ con cười nói kể cho nhau nghe những mẩu chuyện về con gà, con chó, luống rau ngoài vườn…

Nhưng dần dà em bé bỗng nảy sinh thắc mắc, làm sao mẹ mình hằng tuần vào ngày thứ ba khoảng ba bốn giờ chiều đi chợ về luôn có gói qùa với tấm bánh như mọi khi mang về cho mình ăn, ở đâu mẹ có như vậy??? Em thắc mắc và càng thắc mắc. Thắc mắc nhưng em vẫn nhận từ nơi mẹ em món qùa tấm bánh ăn ngon miệng.

Bỗng một hôm em nảy ra ý nghĩ xem mẹ đi đâu mà mua bánh như vậy. Vào đúng ngày thứ ba, Mẹ em đi rồi. Em nấp đàng sau bụi cây hàng dậu trước nhà xem mẹ đi tới đâu. Em khám phá ra, mẹ em đi đến phòng họp nhà xứ hội họp với các bà mẹ khác. Em hồi họp đi theo xa xa, và cúi mình nấp ở đàng sau nhà hội, cố đưa mắt nhìn xem như thế nào…

Sau những màn chào hỏi, đến mục uống nước ăn bánh. Khi đĩa bánh chuyền tới mẹ em, mẹ em một mặt cứ cười nói, một tay khéo léo kín đáo gạt miếng bánh xuống bên dưới lòng mình dưới ghế ngồi. Xong xuôi bà lại cẩn thận lấy miếng giấy sạch gói miếng bánh lại, và lại kín đáo bỏ vào túi mang về.

Tận mắt nhìn thấy cảnh tượng như thế, em vụt chạy về nhà trước. Em lại ra sân ngoài hiên chơi như mọi khi chờ mẹ về. Khi thấy mẹ về, em chạy ra ôm mẹ. Mẹ em lại cho em gói qùa như lần trước. Em vui mừng cám ơn mẹ. Sau đó em chạy ra đàng sau nhà ẩn khuất sau bức tường mở gói qùa ra ăn, nhưng em thắc mắc, tại sao mẹ lại không ăn mà lại kín đáo gói mang về cho em?

Việc cứ tiếp tục xảy ra như thế. Khi đã biết được như vậy, em nhận tấm bánh của mẹ và ăn bánh mẹ em trao cho với lòng nghẹn ngào biết ơn mẹ mình đã hy sinh nhịn ăn để có bánh mang về cho con ở nhà thích ăn bánh. Xưa kia em ăn bánh mẹ cho với lòng vui tươi của trẻ thơ ngon miệng. Nay em ăn bánh với lòng thổn thức, cảm động, nước mắt chảy thành dòng trên gò má. Em cảm thấy ngon miệng và no không phải vì bánh có mùi thơm ngon của bột của đường như lúc trứơc nữa, nhưng bây giờ chất chứa tràn đầy lòng hy sinh cùng tình yêu của mẹ em trong đó.

Em cầm tấm bánh mẹ cho trên đôi bàn tay như báu vật. Em ăn bánh với tâm tình thương nhớ mẹ. Lòng biết ơn của em kết tụ lại thành những giọt nước mắt cảm động lăn trên đôi gò má của trẻ thơ... “

Trong Bí tích Thánh Thể, qua hình tượng tấm Bánh và chén Rượu, Chúa Giêsu chỉ cho con người hình ảnh cùng cách sống lòng yêu mến và khiêm nhượng sâu thẳm. Qua hình ảnh tấm Bánh Bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa muốn chỉ cho con người nhìn ra, Ngài đã yêu mến con người như thế nào, nên đã hạ mình ẩn hiện trong tấm bánh trong giọt rượu.

Chúng ta được phép tiếp nhận tấm Bánh Thánh Thể, trong đó ẩn chứa hình ảnh Thiên Chúa. Và tình yêu của Ngài được mở ra cho con người qua đó, như Thánh Gioan trong sâu thẳm của đức tin đã viết để lại: Thiên Chúa là tình yêu ( 1 Ga 4,16)

3. Thiên Chúa ở đâu

Từ xưa nay, hầu như con người chúng ta đều suy nghĩ rằng Thiên Chúa và trần gian con người xa nhau diệu vợi. Thiên Chúa, Đấng ở trên trời cao thẳm, còn dưới đất trần thế này là chỗ cư ngụ của con người. Thiên Chúa ở bên phía bờ bên kia, con người ở bên bờ bên này.

Nhưng càng như đẩy xa Thiên Chúa lên tít trời cao thẳm, con người chúng ta lại càng quay trở về mình. Càng quay trở về mình, khát vọng hướng về sức mạnh và sự tự lập lại càng nảy sinh thêm nơi con người. Lằn ranh ngăn chia cách không có bình an hạnh phúc như thế giữa với Thiên Chúa với con người làm phát sinh nơi con người ước vọng thống trị. Chính điều này gây nên cùng gieo rắc đầy dẫy những bất hạnh cho trần gian.

Trái lại, Bí tích Thánh Thể nói với con người chúng ta: Thiên Chúa không ở xa con người. Ngài không ở bờ phía bên kia, không ở trên chốn trời cao thẳm, nhưng Ngài ở sát gần con người. Gần sát hơn nữa, chúng ta không thể cắt nghĩa sự gần gũi của Thiên Chúa qua lương thực tấm bánh Bí tích Thánh Thể, mà chúng ta tiếp nhận.

Thiên Chúa luôn hằng ở sát bên con người, cả trong thời gian khủng hoảng, thời điểm sống trong nghi hoặc, sợ hãi lo âu, thời kỳ gặp đau khổ. Khi gặp thập gía đau khổ chăng ngang lối cuộc đời, con người chúng ta đâu cần phải cậy vào sức lực riêng của mình, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa trong đời sống giúp tinh thần vững mạnh vượt qua lúc khốn khó đau khổ.

Bí tích Thánh Thể kêu mời con người chúng ta tin tưởng vào sự gần gũi sát gần của Thiên Chúa.

*********

Meister Eckhard nói lên kinh nghiệm đời sống tinh thần: “Nơi nào có đổ nát hoang tàn, nơi đó ẩn chứa niềm hy vọng vươn lên như một kho tàng qúy gía. Tại sao lại không đi tìm kiếm kho tàng tình yêu Thiên Chúa trong trái tim khô cứng hoàng tàn nơi chính trái tim lòng mình?”

Bức tranh “ Bữa tiệc với những người tội lỗi” của Sieger Koeder cắt nghĩa phần nào: Thiên Chúa cũng đi vào tận trái tim tâm hồn đổ nát hoang tàn. Khung cảnh sinh ra nơi hang chuồng súc vật Bethlehem của Chúa Giêsu nói lên Chúa đã làm người giữa trần gian như thế nào!

Lễ kính Bí tích Mình Máu Thánh Chúa Giêsu
 
Trao ban đến tận cùng
LM Inhaxiô Trần Ngà
17:51 10/06/2009
Lễ Mình Máu thánh Chúa (Mác-cô 14, 12-16. 22-26)

Tình thương là động cơ chính thúc đẩy người ta ban tặng cho nhau.

Vì tình yêu thương có nhiều cấp độ hơn kém khác nhau nên việc trao ban cũng có nhiều mức độ nhiều ít khác nhau.

1. Trao ban những thứ dư thừa

Khi gặp một người ăn xin xa lạ trên đường phố chìa tay tìm sự giúp đỡ, khách bộ hành dừng lại, tần ngần mở ví, tìm đồng tiền nhỏ nhất trao cho người ấy.

Khi gặp người lỡ bước không chỗ tạm trú qua đêm, người chủ của căn nhà sang trọng chỉ nhường cho người đó một xó nhỏ ngoài hành lang nhà mình.

Khi có nạn nhân những vùng bị lũ quét cuốn trôi hết gia tài sản nghiệp, người dư ăn dư mặc chỉ chia sẻ cho họ những bộ áo quần cũ kỹ, mặc không vừa ý…

Vì tình thương đối với những người hoạn nạn ấy rất nhỏ nhoi nên người ta chỉ trao tặng họ những của dư thừa.

2. Trao ban những điều cần thiết

Khi tình yêu dành cho người khác lớn hơn, người ta sẽ ban tặng cho họ những thứ cần thiết hơn. Hai người bạn tù thương mến nhau đang sống trong cảnh tù đày thiếu đói, người nầy sẵn sàng bẻ đôi miếng bánh đang ăn để chia sớt cho người kia cùng chịu cảnh tù tội đói khát với mình.

3. Trao ban cả bản thân

Cao cả hơn hết là trao ban chính bản thân mình.

Đó là khi người có đôi mắt tinh tường sẵn sàng hiến một con mắt của mình cho người bị nạn hỏng cả hai mắt; người có hai quả thận hoạt động tốt, hiến cho người bị hư thận hoàn toàn một quả; người có hai lá phổi lành lặn, hiến cho người bị ung thư hai buồng phổi một lá; người có hai cánh tay khoẻ mạnh tình nguyện hiến nguyên cả một cánh tay của mình cho người bị tai nạn nghề nghiệp đứt lìa hai chi trên.

Chỉ khi nào người ta yêu mến nạn nhân hết lòng hết sức, yêu nạn nhân còn hơn cả bản thân mình, người ta mới hiến tặng những chi thể trong thân mình cho họ. Vì thế, những nghĩa cử cao đẹp đó rất hiếm hoi trên cõi đời ô trọc nầy.

Chỉ có Chúa Giê-su mới trao ban cả thân xác và mạng sống của Người cho chúng ta.

Người đời nghèo thiếu tình yêu nên cũng rất bủn xỉn trong việc trao ban. Chúa Giê-su yêu thương chúng ta hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự nên Người trao ban cho chúng ta tất cả không tiếc nuối điều gì, thậm chí còn ban cả bản thân và mạng sống của Người cho chúng ta.

Khi nhân loại ngụp lặn trong đại dương chết chóc mong ước có một “Tấm Phao” thần diệu cứu họ khỏi đắm chìm trong biển chết hãi hùng, Chúa Giê-su từ trời gieo mình xuống và trở nên “Phao Cứu Sinh” cho họ.

Khi nhân loại khao khát thứ bánh thần thiêng mang lại sự sống đời đời, Chúa Giê-su hiến ban Thân Mình Người làm bánh trường sinh mang lại sự sống vĩnh cửu cho thế nhân.

Khi loài người cần máu của Con Thiên Chúa đổ ra tẩy rửa tội lỗi ngút ngàn của họ, Chúa Giê-su sẵn sàng trút máu mình ra không tiếc nuối.

Khi con người cần sinh mạng của Ngôi Hai Thiên Chúa để đổi mạng cho mình, Chúa Giê-su vui lòng dâng hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân…

Chúa Giê-su luôn đáp ứng tất cả những nhu cầu sâu xa nhất, bức thiết nhất của chúng ta cho dù Người phải thiệt mất mạng sống.

Chúa Giê-su trao ban hết tất cả những gì Người có và ban chính bản thân Người vì yêu thương chúng ta.

“Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Gioan 15,13)

Lạy Chúa Giê-su,
Không ai trên cõi đời nầy yêu thương chúng con bằng Chúa.
Dù chúng con có phản bội, có thờ ơ hờ hững với Chúa thì Chúa vẫn trọn đời yêu quý chúng con.
Vậy mà tiếc thay, nhiều người trong chúng con không nhận ra tình yêu cao vời ấy.
Xin đừng để chúng con trở nên người bội bạc vong ân vì không cảm nhận được tình yêu của Chúa và không biết đáp đền tình yêu trời bể Chúa dành cho chúng con.
 
Ăn và Uống
Lm Giacôbê Tạ Chúc
18:02 10/06/2009
Nhu cầu thiết yếu của con người là: ăn và uống. Khi hai điều này không tồn tại đối với mỗi con người, thì cũng có nghĩa là ta không còn sống nữa. Bản năng sinh tồn của con người và các con vật là đói ăn khát uống, nhưng con người thì khác hơn ở chỗ có lý trí để nhận ra phải ăn gì uống gì.

Một trong những vấn đề khá nhạy cảm của con người trong thế giới văn minh là ăn gì và uống gì. Trên trang báo thanh niên online có đăng bài của tác giả Tùng Châu Nam Hiền, trong đó nói lên những bức xúc về vấn đề ngộ độc thực phẩm trong tình trạng báo động. Tác gỉa nhận định:”Vì vậy không khó hiểu khi ngộ độc do thực phẩm không đảm bảo liên tục xảy ra (trong năm qua, cả nước xảy ra 205 vụ ngộ độc thực phẩm, với gần 8.000 người phải vào viện cấp cứu, trong đó 60 người tử vong). Điều đáng nói, nhiều vụ ngộ độc nghiêm trọng nhưng không tìm được nguyên nhân. Trong 19 vụ ngộ độc (2.089 người bị ngộ độc) xảy ra năm 2007 tại TP.HCM có đến 13 vụ không xác định được nguyên nhân; năm 2008 số vụ ngộ độc không xác định được nguyên nhân là 9 trong tổng số 22 vụ ngộ độc”. Người ta sợ ăn phải những thực phẩm bị nhiễm độc, vì như thế sẽ vô tình đưa các chất độc vào cơ thể để tự giết mình. Xem ra lương thực vật chất rất cần thiết cho con người lúc này như con dao hai lưỡi, có khi lại hại chính thân chủ mình. Đức Giêsu cũng ăn uống với các môn đệ của Ngài, lương thực của Ngài ban chính là Mình và Máu, con người ăn và uống không sợ ngộ độc bao giờ. Trái lại còn đem lại cho họ một cuộc sống bất tử:”Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời…Ai ăn Thịt và uống máu Tôi, thì được sống đời đời…người ấy luôn kết hợp với Tôi và Tôi luôn kết hợp với người ấy”(Ga 6,51.54.56). Mỗi lần rước lễ, người Kitô hữu nhận được nguồn sống sung túc từ gia tài vĩnh cửu trên trời, qua Hy tế Tạ Ơn bằng Mình và Máu Chúa Kitô. Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bằng Thánh Thể, lương thực mỗi ngày trong thánh lễ thể hiện sự phong phú và ân sủng trong tình yêu vô biên của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Thánh Thể Ngài như liều thuốc giải độc hiệu nghiệm giúp chúng con khỏi lâm vào những”ngộ độc”: giả dối, hận thù, kiêu căng, ích kỷ, dâm ô… Trong một xã hội mà đời sống con người phải đương đầu với nhiều khó khăn, xin cho chúng con trở nên những lương thực sạch hầu có thể phục vụ cho nhu cầu của mọi người. Amen.
 
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô
Lm Ignatiô Hồ Thông
22:41 10/06/2009
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki tô đã được thiết định vào thế kỷ thứ mười ba. Lễ nầy phát xuất từ giáo phận Liège, vào năm 1246. Vào năm 1264, được Đức Thánh Cha Urbano IV phổ biến cho toàn thể Giáo Hội, và vào năm 1312 được Đức Thánh Cha Clément V khẳng định.

Kinh nguyện, các bài đọc cũng như phụng tự được gán cho Thánh Tô-ma A-qui-nô. Những cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa qua các ngã đường xưa kia đem lại cho ngày lễ nầy một sự rực rỡ lớn lao.

Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay nêu bật giá trị của giao ước được đóng ấn bởi máu của tế vật.

Xh 24: 3-8: Sách Xuất Hành giới thiệu nghi thức Giao Ước được ký kết giữa Đức Chúa và dân Do thái. Giao Ước được đóng ấn bởi máu của tế vật, máu nầy được rảy trên hai phía ký kết: Đức Chúa, được biểu tượng bởi bàn thờ, và mười hai bộ tộc quy tụ ở chân núi Xi-nai, đối diện với bàn thờ.

Dt 9: 11-15: Thư gởi tín hữu Do thái cho thấy sự cao vời của hy tế Đức Ki tô trên các hy tế Cựu Ước, vì Đức Ki tô đã hiến dâng máu của chính mình.

Mc 14: 12-16, 22-26: Đoạn Tin Mừng Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su thiết lập bí tích Thánh Thể, hy tế Giao Ước mới.

BÀI ĐỌC I (Xh 24: 3-8)

Sách Xuất Hành tường thuật không chỉ cuộc “xuất hành ra khỏi” đất Ai-cập, nhưng còn kinh nghiệm tôn giáo mà dân Do thái đã kinh qua trong sa mạc. Kinh nghiệm không thể chối cãi nầy xác minh kinh nghiệm mà các tổ phụ xưa kia của họ đã được hưởng.

Chính khởi đi từ giây phút nầy mà dân Do thái đã không còn cảm thấy mình là một dân mất gốc, nhưng ý thức mình là dân được Thiên Chúa đích thân che chỡ phù trợ. Tất cả những ai, sau khi có một mặc khải huyền nhiệm, sống mặc khải nầy trọn cuộc đời của mình như thế nào, dân Ít-ra-en đã luôn luôn quy chiếu đến những biến cố Xuất Hành để hiểu lịch sử của mình và những mối liên hệ ưu tiên của mình với Thiên Chúa như vậy.

Họ đã ghi lại những mối liên hệ nầy bằng những thuật ngữ giao ước, theo cách thức mà nhân loại ký kết ở giữa họ: Thiên Chúa đề nghị che chỡ bảo vệ họ và đòi hỏi họ vài điều kiện của Ngài (những đòi hỏi của Thiên Chúa cốt yếu được chứa đựng trong Thập Giới). Phía họ phải cam kết tôn trọng những điều kiện nầy.

Tất cả mọi truyền thống liên quan đến Giao Ước Xi-nai đều định vị Giao Ước trong khung cảnh uy nghi và trình bày Giao Ước như một phụng vụ.

Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay tường thuật việc ký kết Giao Ước long trọng, theo một dị bản phát triển nhất trong số những dị bản. Đây là dị bản mà Đức Giê-su sẽ quy chiếu khi thiết lập hy tế Giao Ước mới. Dị bản nầy, thuộc chứng liệu Ê-lô-hít (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên), được tường thuật ở Xh 24: 3-8. Một truyền thống khác thuộc chứng liệu Gia-vít (thế kỷ thứ mười và thứ chín trước Công Nguyên), được tường thuật ở Xh 24: 1-2 và 9-11. Trong khi truyền thống Gia-vít gợi lên việc ký kết Giao Ước qua một bữa ăn thánh trên núi Xi-nai trước sự hiện diện của Đức Chúa cùng với ông Mô-sê, ông A-ha-ron, các con trai của ông A-ha-ron và bảy mươi kỳ mục của dân Ít-ra-en, thì truyền thống Ê-lô-hít được trích dẫn hôm nay nhấn mạnh nghi thức rẩy máu trên bàn thờ và trên dân. Diễn tiến của nghi thức nầy rất đáng chú ý: nó loan báo sơ đồ sẽ được chấp nhận để cử hành Thánh Thể: trước tiên, phụng vụ Lời Chúa, đoạn, phụng vụ hy tế.

1. Phụng vụ Lời Chúa:

Khi từ trên núi xuống, ông Mô-sê, xướng ngôn viên của Đức Chúa, tường thuật cho toàn thể cộng đồng quy tụ ở dưới núi “mọi lời của Chúa và mọi giới luật”. Dân chúng đồng thanh cam kết: “Mọi lời Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành”. Vì thế, “ông Mô-sê chép lại mọi lời của Chúa”.

“Mọi lời của Chúa” phải được hiểu là “Mười Lời” hay “Thập Giới”. Còn “mọi giới luật” chắc chắn quy chiếu đến các luật luân lý, xã hội và tế tự được trình bày trong các chương 20-23, được gọi dưới tên “Bộ Luật Giao Ước”, nhưng bộ luật nầy rõ ràng không được soạn thảo trong sa mạc; nó thuộc về thời kỳ đầu tiên định cư ở đất Ca-na-an; nó được tháp nhập sau nầy vào Thập Giới và cho Thập Giới những áp dụng thực tiễn.

Như chúng ta đã biết rồi, ông Mô-sê đã lớn lên trong cung của Pha-ra-on và đã được đào tạo thành các thư lại. Ấy vậy, một trong những chức năng của các thư lại là ghi chép những bản hiệp ước. Một cách nào đó, ông Mô-sê làm như vậy khi xác định bằng văn bản những khoản Giao Ước mà dân Ít-ra-en sẽ phải tôn trọng. Mọi hiệp ước ở Đông Phương xưa đều được viết bằng văn bản và phải được đọc theo định kỳ.

2. Phụng vụ hy tế:

Sáng hôm sau diễn ra hy lễ đóng ấn Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Chúa chọn.

Hai bên ký kết diện đối diện với nhau: bàn thờ đại diện Đức Chúa. Dân Ít-ra-en, quy tụ lại, hiện diện vừa hữu hình vừa biểu tượng bởi mười hai thạch trụ đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en.

Như vậy, những thạch trụ nầy sẽ là những chứng nhân bất khả hủy về lời cam kết của dân Ít-ra-en. Cũng vậy, ở đại hội Si-khem, sau khi dân vào Đất Hứa, khi mà Giao Ước được long trọng làm mới lại, ông Giô-su-ê sẽ dựng một tảng đá lớn ghi nhớ muôn đời lời thề hứa trung thành của toàn thể con cái Ít-ra-en (Gs 24: 26-27).

“Rồi ông Mô-sê sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa”. Vào thời ký nầy, chưa tổ chức chức vụ tư tế (ở Ít-ra-en, tư tế là chức vụ chứ không ơn gọi). Trong thời kỳ tiền quân chủ, người ta tự ý chọn các thanh niên thi hành chức vụ mà sau nầy sẽ dành riêng cho các tư tế Lê-vi (cf. Xh 33: 11; Tl 17: 5; 1Sm 3: 3; 7: 1).

Các thanh niên mà ông Mô-sê chỉ định thực hiện hai loại hy lễ:

- Trước hết “hy lễ toàn thiêu”. Như từ chỉ ra, tế vật được hoàn toàn hỏa thiêu. Đây là hình thức hy tế xưa nhất ở Ít-ra-en, tự nguồn gốc, mang đặc tính tạ ơn. Sau nầy, hy tế nầy trở nên thông thường; sẽ có lễ toàn thiêu hằng ngày ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.

- Tiếp đó, “hy lễ hiệp thông” theo đó hai bò tơ được sát tế. Nét đặc trưng của hy lễ hiệp thông là một bữa ăn giữa những người tham dự trước thánh nhan Thiên Chúa. Loại hy tế nầy nhằm thiết lập lại những mối quan hệ tốt đẹp giữa Thiên Chúa và các tín hữu của Ngài.

3. Nghi thức rảy máu:

Nghi thức được mô tả tiếp theo là duy nhất trong toàn bộ Cựu Ước.

Những súc vật bị cắt cổ cho máu hoàn toàn chảy ra hết. Điều nầy rất phù hợp với phong tục đặc biệt của dân Ít-ra-en. Nhưng máu nầy, thay vì được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa như trong tất cả những hy tế khác, lại được tách riêng thành hai phần, được rảy trên hai bên ký kết giao ước. Trước hết, ông Mô-sê rảy phần nữa máu trên bàn thờ đại diện Đức Chúa; phần còn lại ông rảy trên dân chúng, sau khi đã lập lại lời hứa cam kết trung thành của họ: “Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời nầy”.

Việc đóng ấn sự thỏa thuận bằng máu, chỗ của sự sống, và chung chung được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa, chính là đem lại cho sự thỏa thuận này hình thức trang trọng nhất, cực thánh nhất mà người ta có thể tưởng tượng được.

Cử chỉ của Đức Giê-su ban máu của chính Ngài để đóng ấn Giao Ước mới mặc lấy một sự trang trọng còn lớn lao hơn nhiều, vì Đức Ki tô không chỉ là Đấng Trung Gian như ông Mô-sê, Ngài đồng thời là tế vật nữa. Không thể nào có một sự cam kết tận căn về phía Thiên Chúa đối với nhân loại đến như thế, không lời hứa nào, không một nghi thức hiệp thông nào giữa Thiên Chúa và nhân loại, lớn lao hơn nghi thức của Giao Ước Mới được thực hiện trong bí tích Thánh Thể.

BÀI ĐỌC II (Dt 9: 11-15)

Thư gởi tín hữu Do thái là bản văn Tân Ước duy nhất giới thiệu Đức Ki tô là Thượng Tế đích thật.

Ngài là Thượng Tế nhưng cũng là tế vật. Vào ngày lễ Mình và Máu Chúa Ki tô nầy, phụng vụ dâng hiến cho chúng ta một đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái ở đó tác giả cho thấy máu của Đức Ki tô cao vời khôn sánh so với máu của súc vật bị sát tế dưới Giao Ước Cũ. Nhưng còn hơn nữa, tác giả nhấn mạnh rằng hy tế của Đức Ki tô thuộc bản chất khác: một của lễ tiến dâng tự nguyện thuộc trật tự tinh thần và tính hiệu lực tinh thần của nó.

Chúng ta không biết tác giả lẫn người nhận. Ông chắc chắn là một môn đệ hay người bạn đồng hành của thánh Phao-lô; người nhận là những Ki tô hữu gốc Do thái, kỳ cựu trong đức tin, nhưng mất can đảm bởi những bách hại mà họ là đối tượng. Dường như họ vẫn ôm ấp nỗi nhớ về những nghi lễ uy nghi và trang trọng trong Đền Thờ. Đối với họ, nghi lễ Thánh Thể chắc chắn xem ra quá đơn giản.

1. Đức Ki tô, vị Thượng Tế của Giao Ước Mới:

Tác giả đối chiếu chức tư tế của vị Thượng Tế Cựu Ước và chức tư tế của Đức Ki tô. Những điểm so sánh của ông cốt yếu được vay mượn ở nơi nghi lễ của đại lễ Toàn Xá xảy ra một năm một lần. Vào ngày duy nhất nầy, vị Thượng Tế bước vào nơi cực thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và với máu của tế vật ông tiến hành các nghi thức xá tội để xin tha thứ tội lỗi của chính ông và của toàn dân.

So sánh với sứ vụ của vị Thượng Tế nầy, sứ vụ của Đức Ki tô thì cao vời khôn sánh, vì Đức Ki tô là “vị Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai”.

Tác giả sắp mô tả và cho thấy những phúc lộc của thế giới tương lai nầy mà Đức Ki tô đã đạt được là thế nào: đó là những phúc lộc muôn đời bền vững, đã được hứa ban và từ nay đã đạt được một lần thay cho tất cả; những phúc lộc thần thiêng chứ không vật chất và bên ngoài.

Sự cao cả của sứ vụ của Đức Ki tô xem ra ngay từ đầu do bởi sự cao cả của cung thánh. Trái với vị Thượng Tế Cựu Ước, để gặp gỡ Thiên Chúa, Đức Ki tô không đi qua một đền thờ “do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo nầy”.

Dường như tác giả nhắm đến thân thể của Đức Ki tô được tôn vinh. Việc gặp gỡ Thiên Chúa như vậy là dứt khoát, không cần lập đi lập lại mỗi năm một lần. Đức Ki tô đã mở ra một lần thay cho tất cả một con đường dẫn đến Chúa Cha. Tác giả viết sau nầy: “Chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10: 10).

Vị Thượng Tế Cựu Ước rảy máu trên bàn thờ, đó không phải máu của chính ông nhưng máu của những tế vật thụ động. Trái lại, Đức Ki tô đã dâng hiến chính máu của mình trong hiến lễ có ý thức và tự nguyện. Vị Thượng Tế Cựu Ước chỉ đạt được ơn tha thứ tội lỗi tạm thời; Đức Ki tô đạt được sự giải thoát dứt khoát.

Những tế vật phải là vô tì vết. Đức Ki tô là tế vật vẹn toàn, tuyệt mức thanh sạch và thánh thiện; vì thế, hy tế của Ngài cũng tác sinh tính hiệu lực tuyệt mức. Việc rảy máu súc vật đem lại sự thanh sạch nghi thức trong khi máu của Đức Ki tô đem lại sự thanh sạch nội tâm.

2. Tính hiệu lực của hy tế Đức Ki tô.

Tại sao hy tế của Đức Ki tô lại cao vời như vậy? Tại sao hy tế của Ngài đem lại tính hiệu lực như vậy? Vì ở nơi Đức Ki tô có Chúa Thánh Thần. Tác giả nói “Thánh Thần hằng hữu” để làm nổi bật sự tương phản đáng kinh ngạc: cái chết của Đức Giê-su đạt được những phúc lộc vĩnh viễn.

Với tư cách là hiến lễ thần linh, hiến lễ tinh thần, hy tế của Đức Giê-su tái sinh nền tảng ngay cả của lương tâm. Những ai đã được thanh tẩy như thế mới có thể dâng lên Thiên Chúa lễ tế xứng với Ngài.

Nên đọc lại toàn bộ thư gởi tín hữu Do thái, vì hiến lễ của Đức Ki tô được gợi lên ở đây không chỉ là hiến lễ đẩm máu của Thập Giá, nhưng là hiến lễ của toàn bộ cuộc sống trần thế của Đức Giê-su từ khi Ngài nhập thể. Tác giả áp dụng cho Đức Giê-su những câu Thánh Vịnh 40: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa nầy con đây, con đến đẻ thực thi ý Ngài” (Dt 10: 5-7).

Tác giả thư gởi tín hữu Do thái gợi lên những nghi lễ Đền Thờ hiện nay, như một phụng vụ vẫn còn sống động (điều nầy khiến nghĩ rằng ông viết thư nầy trước năm 70, năm đánh dấu Đền Thờ bị phá hủy); ông ngỏ lời với các Ki tô hữu gốc Do thái, và muốn cho họ thấy rằng những nghi thức của Giao Ước Cũ chỉ là tiên trưng; chúng chỉ có giá trị tương đối. Thực tế, chính hy tế của Đức Ki tô đã xóa hết “tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ”.

Từ đây, những ai đã nhận lời hứa phúc lộc đời đời đã đạt được nhờ Giao Ước Mới.

TIN MỪNG (Mc 14: 12-16, 22-26)

Đoạn Tin Mừng Mác-cô nầy được trích từ bài Thương Khó vào Chúa Nhật lễ Lá và Khổ Nạn. Chúng tôi quy chiếu đến bài chú giải nầy.

1. Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16):

"Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua". Hai ngày đại lễ nầy từ lâu được cử hành cùng một cặp song đôi với nhau: vào lễ Vượt Qua, lễ của những người chăn nuôi, họ giết một con chiên tơ, và lễ Bánh Không Men, lễ của những người trồng trọt, họ dâng hiến những sản phẩm đầu mùa và làm bánh không men với những hạt lúa mạch đầu tiên. Việc hiệp nhất hai lễ nầy đã trở nên dể dàng hơn vì bữa ăn lễ Vượt Qua cũng bao gồm bánh không men.

Lễ Vượt Qua buộc phải được cử hành ở Giê-ru-sa-lem; bữa ăn con chiên bị sát tế trong khuôn viên Đền Thờ, "phải được ăn ở trong thành". Điều nầy khiến các môn đệ bận tâm. Đức Giê-su là một tôn sư lưu động không nơi cố định; thêm nữa, Ngài là người Ga-li-lê. Vì thế, họ hỏi Ngài: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?".

Hoạt cảnh theo sau giống đến kỳ lạ với hoạt cảnh trước đó khi Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a: Đức Giê-su sai hai môn đệ đi trước, họ sẽ gặp thấy mọi việc như Ngài đã mô tả cho họ. Trong trường hợp thứ nhất: một con lừa con đang cột sẳn ở đó; còn ở đây, một người mang vò nước đến gặp hai ông. Cả hai lần, những biến cố xảy ra đúng như Chúa Giê-su mong muốn: người ta để cho hai ông dắt con lừa đi; người mang vò nước dẫn hai môn đệ vào nhà và chỉ cho hai ông một phòng đã được chuẩn bị sẳn sàng cho Ngài với các môn đệ cử hành lễ Vượt Qua. Thánh ký muốn nói rằng Đức Giê-su đã dự liệu tất cả, chính Ngài tổ chức lễ Vượt Qua sau cùng nầy như trước đây Ngài đã tổ chức cuộc khải hoàn tiến vào thành Giê-ru-sa-lem.

2. Thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể (14: 22-26):

Lễ Vượt Qua Do thái, mà Đức Giê-su cử hành với các môn đệ thành bữa Tiệc Ly, biến thành lễ Vượt Qua Ki tô giáo bởi việc thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể: vừa nối tiếp vừa đoạn tuyệt: song đối sâu xa và mới mẻ tận căn.

Lễ Vượt Qua Do thái tưởng niệm cuộc giải phóng dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhờ vào máu con chiên được bôi trên cửa nhà của người Do-thái. Nhờ dấu hiệu nầy, Thiên Chúa đã nhận ra dân của Ngài nên đã tha chết cho họ.

Đức Giê-su loan báo cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ tội lỗi nhờ máu Ngài "đổ ra vì muôn người". Về phương diện lịch sử, cuộc giải phóng khỏi Ai-cập đã hình thành nên dân Ít-ra-en như dân Chúa chọn và cuộc tuyển chọn nầy đã được hiến thánh trên núi thánh Xi-nai, bởi Giao Ước Cũ.

Nhờ ân ban thân thể của Ngài và máu của Ngài, được chia sẻ ở giữa mọi người, Đức Giê-su thiết lập một dân Chúa chọn mới; Giao Ước Mới được đóng dấu trong máu của Ngài. Ở nơi bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su tham dự trước vừa cuộc Tử Nạn của Ngài vừa cuộc Phục Sinh của Ngài.

Nếu khung cảnh lễ Vượt Qua soi sáng sự biến đổi kỳ diệu của việc cử hành xưa như vậy, thì bữa ăn nầy cũng là bữa tiệc ly, mặc khải tất cả khía cạnh thống thiết của nó: Đức Giê-su sắp từ biệt các môn đệ của mình, những người mà Ngài yêu thương, những người mà Ngài trao phó truyền đạt sứ điệp của Ngài; Ngài không muốn để họ lại một mình; Ngài gặp thấy phương tiện để ở lại với họ, bằng cách thiết lập quà tặng kỳ diệu này, quà tặng của chính bản thân mình, nhờ đó các Tông Đồ cũng như những người kế nghiệp các ngài có thể lưu truyền mãi mãi. Chỉ duy một mình Thiên Chúa mới có thể vừa ra đi vừa ở lại.

Thánh Mác-cô cũng nhấn mạnh "giá trị cánh chung" của "bàn tiệc Thánh Thể". Bàn tiệc này là một sự tiếp cận, một sự tham dự trước bàn tiệc Thiên Quốc: "Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa".

Cuộc sống tương lai thường thường được biểu thị như bàn tiệc; và rượu nho như một trong những dấu chỉ của "niềm vui thời Mê-si-a" và niềm vui muôn đời của thế giới sắp đến. Đây đã là một trong những ý nghĩa của dấu lạ tiệc cưới Ca-na, tự nó là khúc dạo đầu của phép lạ bàn tiệc Thánh Thể. Nước biến thành rượu đáp ứng với rược biến thành máu.

Đoạn văn này chứa đựng một chi tiết quý báu: "Hát Thánh vịnh xong…" Đây chính là thánh thi tạ ơn được gọi "Hallel", mà người ta hát sau bữa ăn Vượt Qua. Bài thánh thi tạ ơn này được trích từ các thánh vịnh 113-118 (một trong những Thánh vịnh nầy đã được trích dẫn rồi trong bữa ăn); như vậy, bữa Tiệc Ly của Đức Giê-su đích thực là bữa ăn Vượt Qua, ít ra theo các Tin Mừng Nhất Lãm.
 
Chuẩn bị tiệc vượt qua và khai mạc giao ước
Lm Vũ Phan Long, ofm
22:45 10/06/2009
Lễ Mình và Máu Thánh Chúa (Máccô 14,12-16.22-26)

1.- Ngữ cảnh

Phụng vụ hôm nay đưa chúng ta đến bữa ăn cuối cùng Đức Giêsu chia sẻ với các môn đệ. Đây là một trong nhiều sự cố đã xảy ra kể từ khi Đức Giêsu đến Giêrusalem (x. 11,1). Tuy nhiên, bữa ăn này có một giá trị đặc biệt, vì đây là một bữa tiệc Vượt Qua, trong đó Đức Giêsu sẽ ký kết giao ước mới trước khi đi vào cuộc Thương Khó.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Chuẩn bị tiệc Vượt Qua (14,12-16);
2) Khai mạc giao ước (14,22-26).

3.- Vài điểm chú giải

- Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua (12): Theo truyền thống Kinh Thánh, lễ Vượt Qua (Pesach) được cử hành vào chiều ngày 14 Nisan (“Nisan” là tháng thứ nhất của năm) và chính ngày lễ là 15 Nisan, còn lễ Bánh Không Men (lễ Matzoth), kéo dài thành bảy ngày, lại bắt đầu vào đúng ngày 15 Nisan. Vì hai đại lễ này quá gần nhau, chẳng mấy chốc lễ Bánh Không Men đã được gọi là lễ Vượt Qua, và kéo dài trong bảy ngày và bắt đầu với đêm lễ Vượt Qua, và phụng vụ cũng gọi đêm lễ Vượt Qua ấy là “lễ Bánh Không Men”. Chiên và bánh không men là lương thực biểu tượng của lễ mùa xuân. Cả hai thứ này nói lên sự tái sinh và đời sống mới.

Truyền thống kinh sư quy định việc sát tế chiên bắt đầu sau khi đã dâng hy lễ chiều ngày vọng, nghĩa là vào khoảng 14g30, tức trước khi ngày thứ nhất bắt đầu vào lúc mặt trời lặn. Nếu lễ Vượt Qua rơi vào ngày thứ bảy, thì bắt đầu sát tế chiên sớm hơn 1 giờ. Nhưng tác giả Mc quan tâm đến độc giả gốc ngoại giáo, ông cho bắt đầu ngày bằng ban sáng (14,17: “chiều đến”, các ngài dùng bữa), “ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men”, tức là đúng ngay ngày 15 Nisan.

Nhận định tổng hợp là: Bản văn Mc xác định Bữa Tiệc cuối cùng chính là bữa tiệc Vượt Qua, tức đúng ngày 15 Nisan; các tác giả Nhất Lãm khác cũng theo thời gian biểu của Mc. Còn Ga 19,14 lại đặt cái chết của Đức Giêsu vào chiều ngày 14 Nisan và như thế làm cho bữa ăn tối cuối cùng trở thành một bữa ăn tiền-Vượt Qua. Thời gian biểu của Gioan có lẽ đúng hơn, bởi vì khó mà cho rằng các thượng tế và các kinh sư lại hành động như ta đã biết vào ngày thứ nhất của lễ Vượt Qua. Khi biến bữa Ăn tối cuối cùng thành một bữa tiệc Vượt Qua, Mc nhắm kéo cái chết của Đức Giêsu vào gần hơn nữa với các đề tài lớn của lễ Vượt Qua là hiến tế và giải phóng.

- dọn cho Thầy ăn lễ (12): Có nhiều việc phải làm: tìm một nơi thích hợp, giết chiên, chuẩn bị bánh không men, sắm các đồ dùng vào bữa tiệc. Các dân cư Giêrusalem rất sẵn sàng giúp cho các khách hành hương có chỗ mà ăn lễ. Nhưng ở đây, Mc không muốn nói tới điểm này, ngài muốn nêu ra một chuyện lạ lùng.

- một người mang vò nước (13): Các môn đệ được cho một dấu chỉ để có thể chu toàn nhiệm vụ, nhưng đây lại là một dấu chỉ của đời thường: một người mang vò nước thì ta có thể gặp bất cứ lúc nào trong Giêrusalem. Tuy nhiên dấu chỉ này cho hiểu rằng hành trình đưa Đức Giêsu đến cuộc Thương Khó được tiên liệu đến từng chi tiết.

- một phòng rộng rãi trên lầu (15): Khi cử hành lễ Vượt Qua, ít ra có khoảng mười người họp lại với nhau, nên sách Mishna quy định là phải có một không gian 10x10 “khuỷu tay” (tức khoảng 23m2). Khi ăn tiệc, người ta nằm dài để diễn tả là dân chúng đã ra khỏi kiếp nô lệ Ai-cập và đã được tự do; ngay cả người nghèo nhất cũng ăn tiệc Vượt Qua trong tư thế này.

- dâng lời chúc tụng (22): Với cách hành động này, ta có thể nói đây là bữa tiệc Vượt Qua hay bữc tiệc bằng hữu cũng được. Trong bữa tiệc Vượt Qua, phải có trước tiên lời chúc tụng về ngày lễ, rồi chén rượu đầu tiên, các món khai vị là rau đắng và trái cây, suy niệm về lễ Vượt Qua, rồi chén rượu thứ hai. Phần chính của bữa ăn bắt đầu với lời chúc tụng trên bánh không men. “Cầm lấy, dâng lời chúc tụng, bẻ ra” là những từ ngữ chuyên môn của lời kinh người Do-thái đọc trước khi ăn. Rất có thể người Do-thái nghĩ rằng miếng bánh được trao cho họ, do ông chủ bẻ ra từ tấm bánh lớn, đưa lại phúc lành cho mình.

- đây là mình Thầy… Đây là máu Thầy (22.24): Vì từ ngữ “mình” (sôma) là một từ nói quanh để chỉ bản thân con người, câu này có thể diễn lại là: “Đây là chính Thầy”. Những ai ăn tiệc thì được hiệp thông cách mới mẻ với Đức Giêsu. Dựa vào c. 24 nói về chén rượu, ta hiểu là đây là sự hiệp thông với Đấng đang đi tới cái chết. Từ ngữ sôma, vì ở trong thế song đối với “máu đổ ra”, có nghĩa là thân thể dâng làm hy lễ.

- Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn (23): Trong tiệc Vượt Qua, giữa lời chúc tụng trên bánh và lời chúc tụng trên rượu, có việc ăn thịt chiên. Theo sách nghi thức, đây là chén rượu thứ ba. Ta lưu ý là Mc đã chuyển đi từ “dâng lời chúc tụng (eulogein)” sang “dâng lời tạ ơn (eucharistein)”, trong khi trong bữa tiệc Do-thái, cả hai lần đều là “lời chúc tụng”. Có thể công thức này đã được chọn vì người ta đã nghĩ tối kết thúc bữa ăn. Nhưng rất có thể tác giả muốn gợi tới bữa tiệc Thánh Thể (eucharistia).

- tất cả đều uống (23): Chi tiết này đến quá sớm, vì sau đó Đức Giêsu còn giải thích ý nghĩa của rượu. Trong một ngữ cảnh rộng hơn, từ “tất cả” đây nhìn tới trước tình cảnh “tất cả” sẽ vấp ngã (14,27.50). Việc tham dự vào bữa tiệc không giữ cho người ta khỏi vấp ngã vào giờ quyết định.

- máu giao ước, đổ ra vì muôn người (24): “Máu giao ước” nhắc đến Xh 24,8. Trong đoạn văn này, sau khi dân đã cam kết giữ luật và sau hy lễ, Môsê rảy máu các tế vật lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này”. Ngay sau đó ông dùng một bữa tiệc huynh đệ với các vị kỳ mục của dân (Xh 24,11). Nhờ cái chết của Đức Giêsu, một giao ước mới được thiết lập, thay thế giao ước thứ nhất. Máu Đức Giêsu đi vào thế đối lập tiên trưng với máu giao ước cũ. Theo Dcr 9,11, các tù nhân được phóng thích “nhờ máu của giao ước này”. Việc khai trương giao ước đưa lại sự cứu chuộc và cứu độ. “Máu đổ ra” đồng nghĩa với “bị giết”, bởi vì theo một quan niệm của Kinh Thánh, máu được coi là mang sự sống và sức sống. Từ đó ta hiểu rằng chén được dâng đảm bảo có sự hiệp thông với Chúa, Đấng hiến mình trong cái chết. “Đổ ra”, ekchêô, được dùng thường xuyên để nói về máu con vật được đổ ra (Lv 4,7.18.25.30.34…) và việc rưới rượu (Is 57,6).

Câu “đổ ra vì muôn người” (dịch sát là “đổ ra vì nhiều người”) nhắc đến Is 53,12 và đưa lại cho hành vi một chiều kích hy tế. Hai đoạn văn Cựu Ước này được dùng để diễn tả cái chết của Đức Giêsu như là một hy lễ vì những người khác. Cụm từ hyper pollôn, “vì nhiều người”, dựa trên kiểu nói sê-mít đặc biệt của Is 53,12 (rab), có nghĩa là “tất cả” / đoàn người đông đảo”, chứ không chỉ là “một số người”; đây là toàn thể thế giới ngoại giáo (x. Người Tôi Trung được gọi là “ánh sáng cho các dân” [x. Is 42,6; 49,7t]). Như vậy, “nhiều” đây không đối lập với “tất cả”, nhưng có nghĩa là “tất cả là nhiều”.

- chẳng bao giờ Thầy còn uống … trong Nước Thiên Chúa (25): Câu kết thúc này đặt Bữa Tiệc Ly trong khung cảnh là bữa tiệc thiên sai (x. 6,35-44; 8,1-10). Thay vì coi bữa tiệc cuối cùng này (và Tiệc Thánh Thể) là một biến cố cô lập, cần phải liên kết nó với các bữa ăn Đức Giêsu đã chia sẻ trước đây với những người thu thuế và tội lỗi (x. 2,16) và với bữa tiệc cánh chung tương lai.

- Hát thánh vịnh xong (26): Đây là khối Tv 113–118, thường được gọi là Tập Hallel nhỏ. Tập Hallel này này có một vị trí đặc biệt trong ba đại lễ Vượt Qua, Ngũ Tuần và Lều.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Chuẩn bị tiệc Vượt Qua (12-16)

Bữa tiệc có một tầm quan trọng lớn lao trong Tin Mừng. Tác giả Mc thường xuyên cho thấy Đức Giêsu ngồi vào bàn ăn với các môn đệ, với những người tội lỗi và với dân chúng. Biến cố cuối cùng trước Thương Khó cũng vẫn là một bữa tiệc: Đức Giêsu cùng với Nhóm Mười Hai cử hành tiệc Vượt Qua. Trong sự hiệp thông đức tin và đạo giáo Israel, các ngài cử hành lễ trọng nhất của dân tộc mình. Bằng bữa tiệc Vượt Qua, dân Israel nhắc lại cách Thiên Chúa đối xử với các tổ phụ và được canh tân trong niềm tin đầy tri ân, vui tươi và vững vàng đặt nơi Thiên Chúa.

Các môn đệ được phái đi chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ trên bối cảnh là bữa tiệc và nội dung của đại lễ Vượt Qua như thế.

Các môn đệ đã đi vào thành và gặp một người mang vò nước đón mình. Các ông đã chuyển giao sứ điệp: “Thầy nhắn: «Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?»”. Đây là lần duy nhất danh xưng “Thầy” (didaskalos) được Đức Giêsu dùng để nói về mình, vừa với nghĩa là “vị thầy truyền đạt kiến thức”, vừa theo nghĩa là “bậc đáng kính”; điều này còn được khẳng định bởi cụm từ “các môn đệ của tôi” chỉ được dùng duy nhất ở đây. Tuy nhiên, chi tiết “người mang vò nước” lại chứng tỏ rằng hành trình đưa Đức Giêsu đến cuộc Thương Khó đã được tiên liệu trong từng chi tiết: Người biết và Người vâng phục (x. 11,1t). Như thế, bên cạnh sự cao cả của Người, là sự hạ mình khiêm nhường của Người. Ông chủ nhà sẽ dành cho các môn đệ một phòng lớn trên lầu trên (thường đây là phòng rộng nhất của căn nhà). Các môn đệ thấy mọi sự đúng y như Đức Giêsu đã nói trước.

* Khai mạc giao ước (22-26)

Tại bữa tiệc, trong bánh và rượu, Đức Giêsu ban cho các môn đệ thân mình và máu của Người. Đây là bữa tiệc từ biệt. Đức Giêsu sẽ bị giao nộp và bị giết, Người sẽ không đi đi lại lại trong xứ cùng với các ông, cũng không ăn tiệc với các ông như lâu nay nữa. Tuy nhiên, Người sẽ ở giữa các ông trong bánh và rượu; trong tương lai, đây sẽ là cách thức hiện diện của Người. Đức Giêsu từ biệt, tuy vậy, Người vẫn ở lại đó.

Máu mà Đức Giêsu hiến dâng trong chén rượu là máu của giao ước, được đổ ra vì muôn người. Tiếp nối vào cuộc giải phóng khỏi đất Ai-cập, được nhắc lại trong tiệc Vượt Qua, là việc ký giao ước tại núi Sinai. Đây không phải là một giao ước giữa các partner ngang nhau. Trước tiên giao ước này có đặc điểm là Thiên Chúa tự ràng buộc và tự cam kết là Thiên Chúa nhân ái của dân (x. Xh 20,1); và giao ước này hàm chứa cam kết của dân là tuân giữ các điều răn (x. Xh 20,3-17). Giao ước được đóng ấn, khi Môsê rảy máu tế vật lên bàn thờ và dân chúng (Xh 24,6-8). Với máu của Đức Giêsu, giao ước mới và vĩnh viễn được đóng ấn. Trong máu Người, trong hành vi hiến tặng mạng sống của Người, tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian được tỏ bày (x. Ga 3,16); nhờ máu Người đổ ra, “một đoàn lũ đông đảo” được giải thoát khỏi tội lỗi. Đức Giêsu không chỉ ở lại với các môn đệ, mà còn đặt nền tảng và đóng ấn cho sự hiệp thông của họ với Thiên Chúa.

Đức Giêsu tạng ban cho họ mình và máu Người. Mình và máu là toàn thể bản thân một người. Việc Người tặng ban mình và máu phải mãi mãi nhắc nhớ đến việc Người hiến tặng mạng sống, cái chết của Người trên thập giá. Đàng khác, bánh là lương thực hằng ngày nuôi sống con người, còn rượu chính là tiệc mừng trong niềm vui. Để sống được, loài người chúng ta cần lương thực. Khi ban tặng chính mình trong bánh và rượu, Đức Giêsu cho ta thấy rằng nhờ sự hiện diện của Người giữa chúng ta và nhờ sự hiệp thông của chúng ta với Người, chúng ta có sự sống ở mức viên mãn và trong niềm vui.

Trong những lời kết thúc (c. 25), Đức Giêsu lại nhấn mạnh rằng sự hiệp thông mà Người đã sống cho đến lúc này với các môn đệ đã đến lúc kết thúc: Người sẽ không uống thứ rượu trong tiệc mừng với họ như lâu nay Người vẫn làm nữa. Đồng thời, Đức Giêsu nói đến sự hoàn tất của sự hiệp thông này trong Nuớc Thiên Chúa, khi Thiên Chúa sẽ thiết lập và tỏ bày vĩnh viễn quyền chúa tể của Ngài ra.

+ Kết luận

Khi tường thuật truyện Đức Giêsu mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ, Mc đã cho thấy Đức Giêsu đã trung thành đi theo ý muốn của Thiên Chúa trong từng chi tiết. Do đó, bài tường thuật không chỉ để ghi nhận các sự kiện, nhưng mang tính tín lý. Tác giả đã liên kết Thương Khó với tiệc cuối cùng; với bữa tiệc này, cuộc Thương Khó đã bắt đầu vào lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu được ghi dấu ấn là cuộc Thương Khó của Người. Rất có thể từ ngữ pascha khiến Mc nghĩ đến ý nghĩa của từ Hy-lạp paschô (“đau khổ”); dĩ nhiên về từ nguyên thì không đúng, nhưng về thực tại thì có lý.

Đức Giêsu cũng bày tỏ sự trung thành với các môn đệ cho đến cùng, qua việc hiến tặng mình và máu Người trong bánh và rượu. Sự trung thành của Đức Giêsu, được tỏ hiện trong tất cả mọi hình thức hiện diện của Người, là điểm vững chắc duy nhất trong tương quan hỗ tương giữa Người với các môn đệ. Đức Giêsu luôn ở cùng chúng ta và cho chúng ta được hiệp thông của Người như cho một quà tặng.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đến cuối thời gian hoạt động, Đức Giêsu lại chia sẻ bữa tiệc Vượt Qua này với các môn đệ: bữa tiệc này nhắc lại lịch sử của quan hệ của Thiên Chúa với Israel và đưa tới chỗ hoàn tất. Đức Giêsu lại ăn tiệc với các môn đệ, như cách hiệp thông riêng tư với các ông. Tại đây mọi sự được quay hướng về các hình thái khác của sự hiện diện của Người giữa các môn đệ, về sự hiệp thông không cùng của họ với Người. Tuy nhiên, các môn đệ không thể tự ru ngủ mình trong sự an toàn; chính họ đã thấy định mệnh của Đức Giêsu là một chướng kỳ; chính họ đã không đủ sức liên kết với Người.

2. Trên thập giá, Đức Giêsu đã đổ máu ra; bằng cái chết của Người, Người đã thiết lập giao ước mới, tạo điều kiện cho có sự hiệp thông vĩnh viễn của Thiên Chúa với loài người. Đức Giêsu sẽ mãi mãi ở với họ và sẽ là Đấng Chịu đóng đinh đã hiến tặng mạng sống cho họ. Cho đến nay, Người đã ở giữa họ theo cách thấy được rõ ràng bằng mắt thường, kể từ nay, Người sẽ ở giữa họ trong bánh và rượu, trong tư cách Đấng Chịu đóng đinh, trong tư cách dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa và sự sống. Tất cả những điều này sẽ tới mức viên mãn khi Nước Thiên Chúa được tỏ hiện.

3. Hôm nay chúng ta đã quen coi truyền thống về bữa tiệc ly như là một thành phần thuộc cuộc Thương Khó. Điều này chính Mc đã nhắm: bữa tiệc này được quy hướng về thập giá và Phục Sinh. Bữa tiệc này kết thúc các bữa tiệc Đức Giêsu dùng với các người tội lỗi (2,15tt) và với dân chúng (6,35tt; 8,1tt) và đưa các môn đệ vào cuộc Thương Khó. Người Kitô hữu khi tham dự vào bữa tiệc Thánh Thể thì cũng đã được đặt trên cùng một nẻo đường.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha nói với giới trẻ: Hãy làm nhân chứng cho tình yêu Chúa Kitô
Bùi Hữu Thư
03:38 10/06/2009

Đức Thánh Cha nói với giới trẻ: Hãy làm nhân chứng cho tình yêu Chúa Kitô



Gửi điện văn cho 80,000 người trẻ tụ họp tại Ba Lan.

LEDNICA, Ba Lan, ngày 9 tháng 6, 2009
(Zenit.org).- Đức Thánh Cha Benedict XVI kêu gọi giới trẻ lựa chọn Chúa Kitô trong một điện văn ngày Chúa Nhật gửi cho 80.000 tham dự viên trong một đại hội hàng năm của giới trẻ tại Lednica.

Điện văn của Đức Thánh Cha được gửi cho Đức Tổng Giám Mục Henryk Muszynski of Gniezno, Tổng Giáo Phận có thành phố Lednica, đây là điạ điểm theo truyền thống có vị vua đầu tiên theo đạo Công Giáo năm 966 và đưa đến “Phép Rửa của Nước Ba Lan."

Đài phát thanh Vatican thông báo ngày Chúa Nhật như sau, Đức Thánh Cha kêu gọi giới trẻ làm nhân chứng cho tình yêu của Chúa Kitô trong mọi lãnh vực cuả đời sống, kể cả khi còn học trong các lớp tiểu học, trung học và đại học.

Ngài nói, "Hãy chọn Chúa Kitô để cho trong mọi giây phút của cuộc đời các bạn – dù là hạnh phúc hay khó khăn – các bạn sẽ có niềm xác tín trong tim là Người đang gìn giữ các bạn bằng ân sủng và quyền năng của Chúa Thánh."

Đức Thánh Cha cũng khẳng định rằng giới trẻ Công Giáo được mời gọi để tái thiết việc lựa chọn Chúa Giêu là “giá trị tối cao của đời sống."

Ngài tiếp, sự lựa chọn này, phải tiếp tục trở nên “có ý thức, trưởng thành hơn và có trách nhiệm hơn."

Đức Thánh Cha Benedict XVI nhắc đến vị tiền nhiệm của Ngài là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đấng được giới trẻ thế giới coi là “một hướng dẫn viên không ai sánh bằng” và vẫn tiếp tục là một nguồn gợi hứng cho họ.

Ngày Thứ Tư vừa qua, trong buổi tiếp kiến chung tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đặc biệt chào mừng các giới trẻ sẽ đi từ Rôma đến tham dự Đại Hội Giới Trẻ tại Lednica, ngài khuyến khích họ kết hợp với Chúa Kitô qua Phép Rửa và chọn Người “một cách có ý thức là con đường và là đích điểm của lữ hành cuộc đời."

Đại Hội Giới Trẻ Lednica đã được khởi sự từ năm 1997.
 
Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Mauro Piacenza, Tổng thư ký Bộ Giáo Sĩ về Năm Linh Mục
Linh Tiến Khải
04:58 10/06/2009
VATICAN - Chiều ngày 19 tháng 6 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ chủ sự buổi hát Kinh Chiều trọng thể trong đền thờ thánh Phêrô để khai mạc Năm Linh Mục. Năm Linh Mục sẽ được Giáo Hội cử hành trên toàn thế giới cho tới ngày 19 tháng 6 năm tới 2010. Trong thư gửi các Linh Mục toàn thế giới nhân Năm Linh Mục Đức Hồng Y Claudio Hummes, Tổng trưởng Bộ Giáo Sĩ nói: ”Các Linh Mục quan trọng không phải chỉ vì công việc làm của các vị, mà cũng quan trọng vì con người của các vị nữa. Và dân Chúa muốn trông thấy các Linh Mục hạnh phúc, thánh thiện và tươi vui trong công tác tông đồ”.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Mauro Piacenza, Tổng thư ký Bộ Giáo Sĩ, về Năm Linh Mục.

Hỏi: Thưa Đức Cha đâu là các mục tiêu mà Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nhắm tới khi tuyên bố Năm Linh Mục?

Đáp: Chúng ta đều biết Đức Thánh Cha đặc biệt chú ý đến cuộc sống, nền tu đức, việc thánh hóa và sứ mệnh của các Linh Mục. Trong phiên họp khoáng đại của Bộ Giáo Sĩ Năm Linh Mục đã được loan báo với một đề tựa khá tổng hợp là ”Căn cước truyền giáo của linh mục trong Giáo Hội, chiều kích nội tại của việc thi hành ba bổn phận của linh mục”. Chính vì thế phải cấp thiết trung thành nhắc lại cho các linh mục cũng như cho dân Chúa biết sự cao đẹp, tầm quan trọng, và sự cần thiết của chức thừa tác linh mục trong Giáo Hội đối với ơn cứu rỗi của các linh hồn. Đó là lý do tại sao Đức Thánh Cha đã muốn có một năm để giúp mọi thành phần Giáo Hội đào sâu và tái khám phá ra chức linh mục công giáo, cùng cầu nguyện với và cho các linh mục. Đây là thiện ích đối với sứ mệnh của Giáo Hội vì nó gắn liền với căn cước và hoạt động của hàng giáo sĩ. Sứ mệnh của Giáo Hội được diễn tả ra trong chức thừa tác thánh, và được chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: đó là tính cách tông truyền. Săn sóc sự thánh thiện của hàng giáo sĩ, đặc tính và sự toàn vẹn trong chức thừa tác của các vị có nghĩa là lo lắng cho toàn công trình rao giảng Tin Mừng. Đã đến lúc tất cả chúng ta phải ý thức được điều này. Ngoài ra sẽ chỉ có các giáo dân tốt và các giám mục tốt, khi có các linh mục tốt. Đó là lý do giải thích tại sao tất cả chúng ta đều được lôi cuốn tham dự vào việc cử hành Năm Linh Mục.

Hỏi: Như thế chúng ta có thể coi Năm Linh Mục như là năm kéo dài Năm Thánh Phaolô, có đúng thề không thưa Đức Cha?

Đáp: Vâng, đúng vậy. Giáo Hội luôn sống sự liên tục trong bất cứ lãnh vực nào. Năm Thánh Phaolô sẽ kết thúc vào ngày 29 tháng 6 này và chuyển qua Năm Linh Mục, sẽ được Đức Thánh Cha khai mạc trong buổi hát kinh chiều trọng thể ngay ngày 19 tháng 6, trong một lộ trình quan phòng mang dấu vết của sự tiếp tục và đào sâu một trong các điều cấp thiết nhất của thời đại ngày nay: đó là sứ mệnh và việc tái truyền giảng Tin Mừng. Trong dịp kỷ niệm 150 năm sinh nhật thánh Gioan Vianney, Cha Sở họ Ars, Giáo Hội quây quần chung quanh các Linh Mục của mình để tái khám phá ra sự hiện diện phong phú và để nói lên nhiệm vụ nòng cốt và bản thể khác biệt của các Linh Mục bên trong sứ mệnh chung của Giáo Hội liên quan tới mọi tín hữu đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Sức mạnh của việc truyền giáo chỉ nảy sinh từ một con tim được canh tân bởi việc gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh, như đã xảy ra cho thánh Phaolô. Đó là một cuộc gặp gỡ, trong đó Chúa Giêsu không chỉ được hiểu biết một cách hăng say hay chỉ được tiếp nhận trên bình diện trí thức, mà thực sự được kinh nghiệm như là câu trả lời không thể thấy trước được và hấp đẫn ngoại thường, mà Thiên Chúa Cha đáp trả cho tất cả mọi chờ mong của trái tim con người tuy bị thương tích, nhưng nhận ra sự hiện diện trong nhân tính và thiên tinh của Đấng Cứu Thế. Nó là câu trả lời thích hợp duy nhất cho nhu cầu nhiệm mầu vô biên được cứu rỗi của con người. Con tim của thánh Phaolô bị vẻ đẹp của Chúa Kitô gây thương tích, con tim của các thánh mục tử phải luôn đập nhịp trong mọi trái tim linh mục.

Hỏi: Thưa Đức Cha Piacenza, đâu là hình ảnh linh mục mà Đức Thánh Cha đề nghị với con người ngày nay trong Năm Linh Mục này?

Đáp: Đó là hình ảnh linh mục muôn thuở mà Giáo Hội và giáo huấn tinh tuyền của Giáo Hội đã luôn luôn đề nghị, và chúng ta tìm thấy tổng hơp tuyệt diệu trong gương mặt của Chúa Chiên Lành như kể trong Phúc âm. Dĩ nhiên trong thời đại chúng ta ngày nay, với các khác biệt giữa thế giới tây phương bị tục hóa và duy tương đối và các phần khác của thế giới, trong đó ý thức về sự thánh thiêng vẫn còn mạnh mẽ, chắc chắn có các căng thẳng gặm nhấm chức thừa tác linh mục, vì thế nó rất cần được sửa chữa với sự trợ giúp của Năm Linh Mục. Chẳng hạn tôi nghĩ tới cám dỗ duy hoạt động, khiến cho nhiều linh mục tuy rất quảng đại, nhưng có nguy cơ đánh mất đi chính ơn gọi của mình hay sự hữu hiệu của công tác tông đồ, nếu các vị không sống ổn định trong tương quan sống động với Chúa Kitô. Tương quan này được dưỡng nuôi bằng lời cầu nguyện, bằng sự thinh lặng suy tư, bằng việc đọc hiểu Kinh Thánh và áp dụng vào cuộc sống, và nhất là bằng việc sốt sắng cử hành thánh lễ mỗi ngày, cũng như thờ lậy Chúa Giêsu Thánh Thể. Trong buổi nói chuyện ngày 16 tháng 3 năm nay chính Đức Thánh Cha đã nhắc nhở cho các linh mục biết rằng không ai loan báo hay mang chính mình - nhưng bên trong và qua bản tính nhân loại của mình - mỗi một linh mục phải ý thức mình mang một người khác, tức là chính Thiên Chúa đến cho thế giới. Thiên Chúa là sự giầu có duy nhất mà con người ước mong tìm thấy nơi một linh mục. Vì thế chính từ sự tràn đầy của cái có bên trong, của điều mà chúng ta thu nhận được trong lời cầu nguyện, có thể trào ra trong một hoạt động không còn là khuynh hướng duy hoạt động nữa, mà một hoạt động thực sự xây dựng và lôi cuốn người khác.

Hỏi: Trong thế giới ngày càng bị tục hóa và duy cá nhân chủ nghĩa ngày nay, làm sao vị linh mục có thể trở thành dấu chỉ của mâu thuẫn được, thưa Đức Cha?

Đáp: Bằng cách là chứng nhân của Đấng Tuyệt Đối, giữa tất cả những gì mau qua này. Ngày nay cái mâu thuẫn đích thật đó là không phải kiếm tìm các điều độc đáo hời hợt, khơi dậy sự chú ý ngắn ngủi mau qua, như có lẽ đã xảy ra trong nhiều giai đoạn qua khứ.

Do đó theo tôi thì cần phải loại trừ các thái độ mị dân và thói bắt chước tinh thần của thế gian này đi. Chúng ta hãy nhìn các linh mục thánh thiện như Gioan Vianney, Don Bosco, Maximiliano Kolbe, cha Pio Pietrelcina để bắt chước các ngài. Rất may là có rất nhiều linh mục thánh thiện, mỗi vị mỗi vẻ, rất khác biệt nhau như là người, và có lịch sử khác nhau, nhưng tất cả đều hiệp nhất một cách ngoại thường trong tình yêu và chứng tá cho Chúa Kitô và trở thành các dấu chỉ của sự mâu thuẫn một cách thật là ngôn sứ. Chúng ta không thể là dấu chỉ, nếu chúng ta im lặng không nói về Chúa Kitô, nếu chúng ta san bằng chức thừa tác, nếu chúng ta nghĩ rằng ơn cứu độ chỉ là điều nội tại. Trái lại phải chỉ cho mọi người thấy trời với các lời nói và cuộc sống.

Hỏi: Thưa Đức Cha Năm Linh Mục này sẽ được sống như thế nào?

Đáp: Năm Linh Mục không phải chỉ là năm dành cho các linh mục, mà dành cho toàn thể Giáo Hội. Dưới ánh sáng của sứ mệnh truyền giáo, mọi thành phần Giáo Hội phải cảm thấy mình được mời gọi khám phá ra ơn cao cả, mà Chúa đã muốn để lại cho mình với chức Linh Mục. Còn hơn thế nữa, mọi giáo dân đều phải ý thức rằng với ơn linh mục Chúa Giêsu đã để lại cho họ sự hiện diện tươi mát của Chúa Kitô: không phải một kỷ niệm, mà sự hiện diện thực sự của Ngài. Chúng ta hãy nghĩ tới bí tích Hòa Giải, bí tích Thánh Thể, tới việc giảng dậy vv... Chính trong viễn tượng đó mà đề tài Đức Thánh Cha lựa chọn cho Năm Linh Mục cũng rất là ý nghĩa: ”Sự trung thành của Chúa Kitô, sự trung thành của linh mục”, để ám chỉ quyền tối thượng tuyệt đối của ơn thánh, như thánh Gioan nhắc nhở cho chúng ta biết: ”Chúng ta yêu thương bởi vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4,19). Đồng thời cũng để nhấn mạnh trên sự gắn bó tự do của tình yêu thương đó: trong thời gian thì tình yêu thương đó gọi là ”lòng trung thành”. Như thế đây không phải là một biến cố ngoạn mục bề ngoài, nhưng là việc canh tân bên trong, giúp khám phá ra căn cước tươi vui và riêng tư của chúng ta, giúp khám phá ra tình huynh đệ trong chức linh mục và trong giáo phận, cũng như tương quan bí tích với giám mục của mình và tính cách hôn phu với các tín hữu và với cộng đoàn.

Hỏi: Năm Linh Mục cống hiến cho Giáo Hội những hoa trái nào thưa Đức Cha?

Đáp: Đĩ nhiên là các hoa trái mà Thiên Chúa muốn. Trước hết Năm Linh Mục cho chúng ta dịp tốt bầy tỏ sự kinh ngạc của chúng ta đối với công việc Chúa làm là thành lập bí tích Thánh Thể và chức Linh Mục thừa tác gắn liền Thánh Thể là tột định và suối nguồn cuộc sống của toàn Giáo Hội. Như thế Năm Linh Mục là năm khám phá ra vẻ đẹp và tầm quan trọng của chức linh mục và các chức thánh khác, bằng cách gia tăng ý thức của toàn dân Chúa, các người sống đời thánh hiến, các gia đình kitô, các người đau yếu và nhất là người trẻ, là những người nhậy cảm đối với các lý tưởng cao đẹp và giúp tất cả sống lòng tin hăng say và trung thành với Chúa. Trong huấn từ loan báo Năm Linh Mục Đức Thánh Cha nhẳc lại cho chúng ta biết rằng ”phải cấp thiết tái chiếm được ý thức thúc đẩy các linh mục hiện diện, có thể nhận diện và nhận biết vì phán xử lòng tin, cũng như vì các nhân đức cá nhân và tu phục của các vị, trong các môi trường văn hóa và bác ái, đà luôn luôn là trọng tâm sứ mệnh của Giáo Hội. Như thế Năm Linh Mục cũng giúp chúng ta khẩn nài Cháu Thánh Thần ban cho các hoa trái của sự hiện diện hữu hình này.

Hỏi: Thưa Đức Cha tại sao trong Năm Linh Mục này Giáo Hội lại cho phát thành cuốn ”Cảm nang” cho các cha giải tội và các cha linh hướng?

Đáp: Các báo cáo từ nhiều nơi cho thấy từ vài thập niên qua bí tích Giải Tội gặp khủng hoảng nghiêm trọng, ít nhất là trên bình diện con số người đi xưng tội. Rồi càng ngày xem ra càng có nhiều người không biết phân biệt lành dữ thiện ác, sự thật và dối trá, tội lỗi và nhân đức là gì nữa. Hậu qủa là người ta không muốn lãnh bí tích hòa giải nữa. Nếu chúng ta không có ý thức về tội lỗi thì dĩ nhiên là không muốn xưng tội và hòa giải, và khi đó chúng ta lẫn lộn bí tích hòa giải với chiếc giường trong phòng mạch của một bác sĩ tâm lý hay bác sĩ tâm thần. Thế rồi tại nhiều quốc gia cũng có các hiểu lầm về hoạt động mục vụ, nên khó mà tìm ra một linh mục sẵn sàng lắng nghe và ngồi hàng giờ để giải tội cho tín hữu. Vì thế cuốn ”Cẩm nang” cho các cha giải tội và các cha linh hướng muốn giúp chúng ta tất cả - vị linh mục giải tội cũng như hối nhân - tái khám phá ra vẻ đẹp của việc cử hành bí tích Hòa Giải, là bí tích đang kêu to lên cho chúng ta biết lòng xót thương của Thiên Chúa. Đặc biệt nó giúp chúng ta hiểu mối dây liên kết chức Linh Mục thừa tác với lệnh truyền của Chúa Kitô: ”Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai người ấy sẽ được tha tội, các con cầm buộc ai người ấy sẽ bị cầm buộc” (x. Ga 20,19.23). Nghĩa là cẩm nang giúp chúng ta hiểu biết và hăng say tiến tới với bí tích Hòa Giải.

Hỏi: Thưa Đức Cha đây là Năm Linh Mục chứ không phải là Năm Ơn Gọi. Nhưng mà Năm Linh Mục có đặc biệt trợ giúp gia tăng ơn gọi chủng sinh linh mục hay không?

Đáp: Tôi tin rằng mục vụ ơn gọi là một mục vụ toàn diện, vì trong các giáo xứ càng có sự hăng say hơn, thì lại càng có các nhóm người trẻ sinh hoạt hơn; và dĩ nhiên các sinh hoạt đó giúp người trẻ lắng nghe tiếng Chúa gọi và lôi kéo họ. Do đó càng trông thấy các linh mục tươi vui hăng say xác tín hơn, thì người trẻ lại càng dễ có cảm tình với chức linh mục hơn. Và chính bí tích Hòa Giải và việc hướng dẫn linh hướng giúp bước đi theo chương trình của Thiên Chúa, là những dụng cụ hữu hiệu giáo dục lương tâm biết lắng nghe tiếng Chúa, là Đấng luôn luôn mời gọi con cái Ngài. Ngày nay số các chủng sinh trên thế giới gia tăng... Dĩ nhiên ở Âu châu cũng có, nhưng ít hơn. Các Ngày Quốc Tế Giới Trẻ luôn luôn ghi dấu ơn gọi gia tăng. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại của sự triệt để luôn hấp dẫn đối với người trẻ. Do đó trong Năm Linh Mục này, chính vì các môi trường khó khăn nên lại càng phải gióng to lên hơn nữa tiếng gọi này. Như Đức Thánh Cha đã nói: ”Ý thức về các thay đổi tận gốc rễ xảy ra trong xã hội trong các thập niên qua phải huy động được các năng lực tốt đẹp nhất của Giáo Hội để săn sóc việc đào tạo các ứng viên cho chức thừa tác. Sứ mệnh truyền giáo đặc biệt đâm rễ sâu trong việc đào tạo tốt, được phát triển trong sự hiệp thông với truyền thống không ngưng nghỉ của Giáo Hội, không cắt xén cũng không gián đoạn. Trong nghĩa đó thật là điều quan trọng giúp các linh mục và giới trẻ tiếp nhận một cách đúng đắn các văn bản của Công Đồng Chung Vaticăng II, được giải thích dưới ánh sáng của toàn hành trang giáo lý của Giáo Hội. Chúng ta phải thắp sáng trở lại ba ngọn đèn pha và đào tạo tín hữu dưới ánh sáng cả ngọn pha đó là Bí Tích Thánh Thể, Đức Trinh Nữ Vô Nhiệm Nguyên Tôi, Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội”. Đó là các điểm thu hút tích tụ. Dĩ nhiên là phải trình bầy chúng với tất cả sức hấp dẫn nữa. (RG 2-6-2009)
 
Lưu trữ tế bào gốc cuống rốn: quan điểm đạo đức sinh học
Vũ Văn An
06:54 10/06/2009
Kathleen Naab đã được cha Alfred Cioffi, một linh mục của tổng giáo phận Miami và hiện là một nhà đạo đức sinh học làm việc tại Trung Tâm Quốc Gia Đạo Đức Sinh Học Công Giáo, dành cho một cuộc phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn đã được hãng tin Zenit phổ biến vào cuối tuần qua.

Cha Cioffi đậu tiến sĩ tại đại học Gregoriana ở Rôma với luận án "The Fetus as Medical Patient: Moral Dilemmas in Prenatal Diagnosis." Sau đó, ngài còn đậu bằng tiến sĩ thứ hai tại đại học Purdue, với luận "The VWG Hypothesis: Predicting Distinct Chromatin Structures from the DNA Sequence."

Một tin vui được cha tiết lộ trong cuộc phỏng vấn này là khả năng sử dụng các tế bào gốc của cuống rốn, vốn có tiềm năng của các tế bào gốc phôi thai, để nghiên cứu mà không đi ngược nguyên tắc bảo vệ sự sống con người từ lúc tượng thai cho đến lúc chết tự nhiên.

Nghiên cứu tế bào gốc

Trước khi đi vào chi tiết tin vui trên, cha Cioffi nói với Kathleen Naab một số chi tiết chung quanh vấn đề nghiên cứu tế bào gốc. Theo cha, tế bào là đơn vị căn bản của sự sống trên hành tinh này. Mọi sinh vật đều được cấu thành bởi các tế bào. Thân thể con người được cấu thành bởi hàng tỉ tỉ tế bào: tế bào xương, tế bào da, tế bào gan, tế bào óc v.v… Tế bào gốc là những tế bào sản xuất ra các tế bào khác. Bởi thế, khi chúng ta đang phát triển hay bị bệnh hay bị thương, tế bào gốc phải làm việc để tạo ra các tế bào mới, hoặc để cấu tạo một bộ phận hay một mô, hoặc để sửa chữa một bộ phận hay một mô bị hư hại.

Việc nghiên cứu tế bào gốc sử dụng các tế bào gốc trong phòng thí nghiệm để cố gắng chữa lành các bộ phận và các mô bị hư hại trong cơ thể con người. Nó làm thế bằng việc tìm cách biến các tế bào gốc của người trở thành các tuyến tế bào (cell lines). Cơ thể con người được cấu thành nhờ khoảng 220 tuyến tế bào: tế bào xương, tế bào bắp thịt, tế bào óc, tế bào gan v.v…

Căn cứ theo nguồn gốc, ta thấy có hai loại tế bào gốc: tế bào gốc phôi thai và tế bào gốc trưởng thành. Tế bào gốc phôi thai lấy từ phôi thai; tế bào gốc trưởng thành lấy từ “người trưởng thành”, nghĩa là người đã sinh ra đời. Như thế, các em bé mới sinh cũng có tế bào gốc “trưởng thành”, vì các em đã sinh ra đời rồi. Cho tới nay, chỉ có các tế bào gốc trưởng thành đã đem lại kết quả mà thôi. Cha Cioffi cho rằng: lý do của việc ấy rất dễ giải thích.

Các tế bào gốc phôi thai hiện nay có quá nhiều tiềm năng; tại sao? Vì mọi bộ phận và mô của phôi thai đều từ các tế bào gốc phôi thai mà ra, nghĩa là toàn bộ phôi thai đều được cấu tạo từ các tế bào gốc phôi thai. Như thế, khi các tế bào gốc phôi thai được đem cấy (transplanted) vào một bộ phận hay một mô hư hại, chúng phát triển một cách không kiểm soát nổi, rất nhanh và rất nhiều. Kết quả sau cùng là một cục bướu: ung thư. Tại sao? Vì, xét một cách chủ yếu, toàn bộ phôi thai muốn được lớn lên tại bộ phận hay mô mà tế bào gốc phôi thai đã được cấy vào.

Muốn lấy đượ tế bào gốc phôi thai, người ta phải giết, phải diệt phôi thai đi. Đó là lý do tại sao Giáo Hội Công Giáo, và nhiều người có lương tâm khác, chống đối việc nghiên cứu tế bào gốc phôi thai.

Trái lại, tế bào gốc trưởng thành, lấy từ các bộ phận và mô trong cơ thể ta, thì thuần thục hơn, và không phát triển quá nhanh và quá nhiều như thế. Tại sao? Xét một cách chủ yếu, vì khi muốn chữa một bộ phận nào đó, thí dụ như bị một vết cắt ở da chẳng hạn, thì chỉ cần dùng tế bào gốc trưởng thành của tuyến tế bào da để chúng tạo đủ da thay thế cho chỗ da hư hại mà thôi. Nói cách khác, các tế bào gốc này đã được tiền thảo chương để thay thế các bộ phận và các mô khác nhau trong cơ thể ta, mỗi thứ theo loại của nó.

Để lấy được tế bào gốc trưởng thành, không ai bị giết hay bị diệt cả. Ngoài ra, các tế bào gốc này còn có thể lấy từ cùng một bệnh nhân, như thế không sợ bị phản ứng loại bỏ (immune rejection). Chính vì thế, Giáo Hội Công Giáo khuyến khích ngành nghiên cứu này.

Thất bại trong ý đồ

Nhận định về việc Barack Obama cho rằng hành động bãi bỏ lệnh cấm của tổng thống Bush đối với việc dùng ngân khoản liên bang tài trợ cho ngành nghiên cứu tế bào gốc phôi thai là một chiến thắng của khoa học, cha Cioffi cho rằng quả ông ta đã thất bại trong ý đồ. Theo cha: đáng buồn là quyết định đó đã chỉ do ý thức hệ mà có, một ý thức hệ đặt một nghị trình đặc thù trước bất cứ một chứng cớ khoa học nào. Độc giả có thể vào trang mạng www.stemcellresearch.org, để thấy hàng tá trường hợp dùng tế bào gốc trưởng thành để chữa bệnh, chứ chưa thấy trường hợp chữa bệnh nào bằng tế bào gốc phôi thai cả. Tất cả đều là những bài vở lấy từ các tập san khoa học.

Theo cha Cioffi, lý do khiến người ta vẫn lưu tâm đến việc dùng tế bào gốc phôi thai để nghiên cứu có ba. Đó là các lý do tài chánh, sinh học lý thuyết, và ý thức hệ.

Lý do tài chánh

Điều đáng buồn là có vấn đề tiền bạc ở đây. Chẳng qua chỉ vì mấy cái bằng sáng chế mà ra. Bây giờ thì đã rõ: vì hiện có quá nhiều thành công trong ngành nghiên cứu tế bào gốc trưởng thành, nên thực tế mọi bằng sáng chế đã bị các chuyên viên kỹ thuật sinh học và bào chế học lấy mất cả rồi. Mặt khác, vì hiện chưa có mấy kết quả trong ngành nghiên cứu dùng tế bào gốc phôi thai, nên chỉ cần một thành công nhỏ trong lãnh vực này cũng được cấp bằng sáng chế, bởi thế, thị trường bằng sáng chế rất mở rộng ở đây. Chắc chắn, ngành nghiên cứu này có tính đầu cơ cao, có khuynh hướng đem lại lời lãi nhiều dù mới chỉ có một chút hy vọng thành công. Vào thời điểm kinh tế khó khăn, những vụ đầu tư có tính đầu cơ cao này quả là những cơn cám dỗ rất lớn, đem lại những giải đáp nhanh chóng cho những người mong chờ, giúp họ thực hiện được những vố mua bán lớn. Chỉ cần đưa thí dụ sau đây: năm 2004, các nhà ý thức hệ ủng hộ nghiên cứu tế bào gốc phôi thai đã thuyết phục dân chúng California chịu chi 3 tỷ Mỹ Kim tiền đóng thuế của họ vào ngành nghiên cứu này, một việc mà họ đánh trống đánh phách là chữa được tận gốc nạn phá sản tài chánh của tiểu bang.

Lý do sinh học lý thuyết

Về phương diện lý thuyết, các tế bào gốc phôi thai có khả năng tái sinh và thay thế cho tất cả 220 tuyến tế bào cấu thành các bộ phận và mô trong cơ thể con người. Tại sao? Vì chúng phát xuất từ Khối Nội Tế Bào (Inner Cell Mass) của chính phôi thai nhân bản ở giai đoạn đầu (blastocyst: vào khoảng 1 tới 2 tuần lễ đầu) và toàn bộ phôi thai phát triển từ Khối Nội Tế Bào này. Tuy nhiên, trên thực tế, như đã nói ở trên, những tế bào này có quá nhiều tiềm năng, kết quả là chúng phát triển một cách không sao kiểm soát được, và do đó tạo nên những cục bướu. Bởi thế, một số khoa học gia bảo rằng: “hãy cho chúng tôi đủ thì giờ và tiền bạc, thì chúng tôi sẽ thuần thục hóa các tế bào gốc phôi thai quá ‘hoang’ để chúng chịu chỉ phát triển thành các tuyến tế bào cần đến mà thôi.Và dĩ nhiên, nếu họ may mắn thành công, thì việc ấy chỉ tổ khuyến khích nhiều khoa học gia hơn nữa nhào vô lãnh vực hạ sát các phôi thai nhân bản để lấy được các tế bào gốc thèm muốn kia.

Lý do ý thức hệ

Việc nghiên cứu tế bào gốc phôi thai vừa không ăn nhằm gì vừa hết sức ăn nhằm với việc hợp pháp hóa nạn phá thai. Không ăn nhằm, vì không có việc mang thai ở đây. Nghĩa là, các phôi thai ở giai đoạn đầu này (blastocysts) được đông lạnh một cách đặc thù trong hyđrô lỏng (cryopreserved) tại các bệnh xá thụ thai trong ống nghiệm, và bị cha mẹ chúng coi là “dư thừa” (excess), vì họ đã có thai và sinh được bé thơ họ muốn rồi. Nếu không mang thai, thì đâu có chuyện mâu thuẫn giữa bà mẹ và đứa con chưa sinh ra. Nhưng mặt khác, nó lại hết sức ăn nhằm với việc hợp pháp hóa nạn phá thai. Tại sao? Vì khi nhìn nhận tư cách nhân bản cho các phôi thai nhân bản bị đông lạnh này, thì não trạng phá thai hình như không còn đứng vững nữa. Cho nên não trạng này mới chủ trương: các phôi thai ấy không phải là những con người. Nói cách khác, lực lượng phò phá thai trong xã hội ta cương quyết chống lại bất cứ gợi ý nào nhìn nhận tính người nơi các phôi thai nhân bản ở giai đoạn đầu tiên ấy. Trong tâm trí những nhà ý thức hệ này, điều chủ yếu là cổ vũ quan điểm cho rằng những phôi thai nhân bản kia chẳng qua “chỉ là một mớ tế bào”, nên được dùng để chữa các bệnh y khoa nan giải.

Tế bào gốc lấy từ máu cuống rốn

Sau đó, cha Cioffi đề cập tới một loại tế bào gốc hết sức có ý nghĩa đó là các tế bào gốc của máu cuống rốn. Theo cha, về phương diện đạo đức sinh học, đây là một loại tế bào gốc đặc biệt. Người ta mới khám phá ra máu trong cuống rốn cũng có chứa tế bào gốc. Vì cuống rốn xuất phát từ phôi thai người (hay bào thai), nên các tế bào gốc này cũng là các tế bào gốc phôi thai. Cuống rốn thường bị vứt bỏ khi em bé sinh ra, nhưng người ta có thể lấy các tế bào gốc phôi thai này từ cuống rốn mà không gây hại chi tới chính thai nhi hết. Nói đại cương, đây là điều tốt cho cả hai bên. Vì một đàng, các tế bào gốc của cuống rốn cũng có tính tạo hình cao và khả năng chữa trị có phẩm chất lớn như các tế bào gốc phôi thai, và mặt khác, chắc chắn em bé không cần bị giết mới có thể có được các tế bào gốc ấy.

Về vấn đề các sách thai nghén cũng như các bác sĩ sản khoa ai cũng tỏ ra không ủng hộ việc lưu trữ các cuốn rốn, nhiều người còn chống đối việc ấy nữa, cha Cioffi cho hay: trở ngại đối với việc sử dụng tế bào gốc của cuống rốn phần lớn chỉ là tài chánh, vì lấy được các tế bào gốc từ chúng là chuyện khá tốn phí. Tại Mỹ, phí tổn vào khoảng 1 ngàn dollars. Rồi lại còn lệ phí hàng tháng nữa, vào khoảng 100 dollars, để lưu trữ chúng. Chúng có thể lưu trữ trong bao lâu? Theo nguyên tắc, là suốt đời hay cho tới lúc người mới sinh bị bệnh hay bị đau. Và hy vọng, vết thương hay căn bệnh đó có thể chữa lành bằng tế bào gốc của cuống rốn trên.

Bởi thế, muốn lưu trữ các tế bào gốc loại này, cần phải xem sét một số yếu tố: tốn phí bao nhiêu, bây giờ và về lâu về dài? Thực tiễn có bao nhiêu cơ may chữa trị, và trong khoảng thời gian thế nào? Vì ngành nghiên cứu tế bào gốc cuống rốn hiện là một ngành kỹ nghệ chỉ vừa mới bắt đầu, có lẽ chỉ các cặp vợ chồng đã có một con sinh ra với một chứng bệnh nào đó và căn bệnh này có cơ chữa lành bằng tế bào gốc của anh chị em ruột mình thì mới có lợi hơn cả mà thôi.

Còn về lâu về dài, thì ngành nghiên cứu dùng tế bào gốc của cuống rốn hứa hẹn rất nhiều tiềm năng to lớn, nên vợ chồng nào có khả năng tài chánh nên tham gia chương trình nghiên cứu này. Tại sao? Theo cha Cioffi, vì ngoài cái lợi đối với chính con cái sơ sinh của họ, anh em ruột của chúng cũng như thân nhân gần gũi ra, việc này sẽ giúp đẩy mạnh ngành kỹ nghệ còn non trẻ này, một ngành kỹ nghệ rõ ràng phò sự sống, và cần rất nhiều hỗ trợ để có thể phát triển.

Cha Cioffi nhận định rằng: nếu các cặp vợ chồng có khả năng tài chánh, họ nên tạo ‘áp lực một cách thân ái” lên các công ty bảo hiểm sức khỏe để các công ty này chịu bảo trợ một phần phí tổn ấy. Cần làm cho các công ty bảo hiểm này hiểu rằng việc đầu tư của họ vào ngành lưu trữ tế bào gốc cuống rốn, về lâu về dài, sẽ mang lại cho họ nhiều lợi điểm về tài chánh. Tại sao? Vì nhờ càng ngày càng có nhiều chữa trị xẩy ra cho lãnh vực này, nên tính trung bình, mỗi ngày các khách hàng của họ càng được lợi nhờ các vụ chữa trị đó. Thí dụ, một thiếu niên bị thương tích, nhờ cuống rốn của em được lưu trữ, nên em được chữa lành mau hơn và tốt hơn, nhờ thế sẽ giảm thiểu được thời gian nằm bệnh việc và chi phí chữa trị, và do đó, chi phí bảo hiểm sức khỏe cũng giảm theo.
 
Đức Hồng Quốc Vụ Khanh khuyến khích giáo dục giới trẻ theo mẫu gương Thánh Gioan Boscô
Nguyễn Hoàng Thương
13:58 10/06/2009
Rôma (CNA) - Sắp đến kỷ niệm 200 năm ngày sinh Thánh Gioan Bosco, Đức Hồng y Tarcisio Bertone, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã đưa ra lời nhấn mạnh đến công việc giáo dục cho giới trẻ theo cách thế đã được hoàn thiện bởi dòng tu mà vị thánh người Ý sáng lập.

Trong Thánh Lễ tại Hang toại đạo Thánh Callisto, nơi được đặt dưới sự trông giữ của các tu sĩ Salediêng, Đức Hồng y cho hay: “Linh đạo của Thánh Don Bosco đã ngấm vào máu thịt của hàng ngàn con trai và con gái của ngài, những người quyết định dấn thân chăm sóc cho trẻ em qua những nhánh khác nhau của gia đình Salêdiêng”. Những người hành hương thánh tích của Thánh Gioan Bosco cũng tham dự thánh lễ này.

Theo Vatican Radio, Đức Hồng y Bertone, bản thân ngài cũng là một tu sĩ Salêdiêng Don Boscô, đã được Chúa Thánh Thần tác động, đã mở cửa tâm hồn ngài bằng cách thế ngoại thường để chào đón những người trẻ bị bỏ rơi và bị đe dọa nhất.

Ngài cho hay thêm: “Hài cốt của Thánh Gioan Boscô đang được thăm viếng ở nơi này nhằm xác nhận sự cống hiến và hy sinh của tất cả những người ở khắp nơi trong nhiều năm đã ghé qua đây, để canh tân tất cả nhiệt tình trẻ trung của họ, người già và người trẻ, để cổ võ sự dấn thân không mệt mỏi nhằm giáo dục giới trẻ và hướng chúng ta hơn bao giờ hết vào việc chăm sóc cho xã hội ngày nay”.

Thánh tích của vị sáng lập Dòng Salêdiêng bắt đầu chuyến vòng quanh thế giới khởi đầu từ Rôma và sẽ đến các thành phố khác trên khắp thế giới.
 
Hồng y Hummes nói về Tình yêu của Hội Thánh đối với các linh mục
Lm. Phan Du Sinh
16:20 10/06/2009
Phỏng vấn Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ về Năm Thánh do Carmen Elena Villa

RÔMA, 4/6/2009 (Zenit.org).- Các linh mục cần biết rằng Hội Thánh yêu mến họ và hãnh diện về họ, đó là lý do tại sao Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI đã mở Năm linh mục, theo lời Bộ trưởng Bộ Giáo sĩ.

Cuộc cử hành này sẽ bắt đầu trong vòng hai tuần nữa, với Kinh Chiều lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, 19/6/2009 và sẽ bế mạc vào tháng 6/2010.

ZENIT phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Giáo sĩ, Hồng y Cláudio Hummes, về nội dung của năm này và lý do tại sao Đức Giáo hoàng quyết định triệu tập.

ZENIT: Đâu là mục tiêu chính của Năm linh mục?

Hồng y Hummes: Trước tiên, hoàn cảnh: Đây sẽ là Năm thánh kỷ niệm 150 năm ngày qua đời của thánh Gioan Maria Vianney, thường được biết đến là Cha sở thánh thiện họ Ars. Đó là cơ hội, nhưng lý do nền tảng là Đức Giáo hoàng muốn dành cho các linh mục một tầm quan trọng đặc biệt và nói lên rằng ngài yêu họ biết bao, ngài muốn giúp họ sống ơn gọi và sứ vụ trong niềm vui và nhiệt tình.

Sáng kiến này của Đức Giáo hoàng xảy ra trong một thời điểm mà nền văn hóa mới lan rộng: ngày hôm nay một nền văn hóa hậu cận đại, với chủ thuyết tương đối, phát triển tại thành thị, chủ trương đa nguyên, trần tục hóa, đề cao giáo dân đang chiếm ưu thế. Trong nền văn hóa đó các linh mục phải sống ơn gọi và sứ vụ của mình.

Thách đố là hiểu biết làm thế nào để trở nên một linh mục trong thời đại mới, không lên án thế gian nhưng cứu vớt thế gian, giống như Chúa Giêsu, Ngài đến không để lên án thế gian nhưng để cứu độ.

Linh mục phải thực hiện điều đó khởi từ con tim, với tinh thần hết sức cởi mở mà không nguyền rủa xã hội. Ngài phải đi vào trong xã hội với niềm vui truyền giáo, muốn đem Đức Giêsu Kitô cho con người của xã hội này.

Cần có cơ hội này để mỗi người cầu nguyện với và cho các linh mục, triệu tập các linh mục để cầu nguyện, thực hiện điều đó theo cách thức tốt nhất trong xã hội hiện tại và hơn nữa, đi đến những sáng kiến để các linh mục có thể có những điều kiện tốt hơn mà sống ơn gọi và sứ vụ của mình.

Đây là một năm tích cực và mang tính đề nghị. Trước tiên, không phải là để khiển trách các linh mục. Vẫn luôn có những vấn đề cần sửa chữa và Hội Thánh không thể làm ngơ, nhưng chúng ta biết rằng phần đông các linh mục đầy phẩm hạnh và gắn bó với thừa tác vụ và ơn gọi của mình. Các ngài hiến tặng cuộc sống cho ơn gọi mà các ngài đã tự nguyện đón nhận.

Tiếc thay những vấn đề mà chúng ta biết đến trong những năm gần đây nổi lên, liên quan đến ấu dâm và những tội ác tính dục trầm trọng khác, nhưng điều đó chỉ có thể áp dụng nhiều nhất cho khoảng 4% các linh mục. Hội Thánh muốn nói với 96% còn lại rằng chúng tôi hãnh diện vì họ, họ là những con người của Thiên Chúa và chúng tôi muốn trợ giúp họ và nhìn nhận tất cả những gì họ làm là chứng tá đời sống.

Đây cũng là một thời cơ để tăng cường và đi sâu vào vấn đề là các linh mục phải nên như thế nào trong thế giới đang thay đổi mà Chúa đã đặt chúng ta đối diện để cứu độ.

ZENIT: Tại sao Đức Giáo hoàng giới thiệu thánh Gioan Maria Vianney làm mẫu gương cho các linh mục?

Hồng y Hummes: Bởi vì đã lâu rồi ngài là bổn mạng các linh mục coi xứ. Ngài là thành viên của giới giáo sĩ. Chúng tôi cũng muốn khuyến khích các quốc gia, các Hội đồng giám mục và các Giáo hội địa phương chọn ra một và1 linh mục kiểu mẫu của địa phương và giới thiệu cho thế giới và cho giới trẻ: những con người và những linh mục có thể là những mẫu gương đích thực, những vị có thể gợi hứng và canh tân xác tín về phẩm giá cao cả và tầm quan trọng của thừa tác vụ linh mục.

ZENIT: Đối với ngài trong tư cách là một linh mục, đâu là khía cạnh đẹp nhất của ơn gọi?

Hồng y Hummes: Câu hỏi này gợi ra trong tâm trí tôi một điều gì đó phát xuất từ thánh Phanxicô Assisi. Thánh nhân đã từng nói: "Nếu tôi gặp trên đường một linh mục và một thiên thần, trước tiên tôi sẽ bái chào linh mục, sau đó mới chào thiên thần. Tại sao? Bởi vì linh mục là người ban phát cho chúng ta Đức Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể.” Đó là điều căn bản và kỳ diệu nhất: linh mục nhận được quà tặng và ân huệ của Thiên Chúa để trở thành thừa tác viên của mầu nhiệm vĩ đại là bí tích Thánh Thể.

Chức linh mục được Đức Giêsu Kitô thiết lập trong bữa Tiệc ly. Khi Ngài nói: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy,” Ngài ban cho các tông đồ lệnh truyền và đồng thời quyền năng để làm điều đó, làm cùng một điều mà Đức Giêsu đã làm trong bữa Tiệc ly. Và các Tông đồ đến lượt mình đã truyền lại thừa tác vụ và quyền năng thần thiêng này cho những con người là giám mục và linh mục.

Đó là điều quan trọng nhất và nằm ở trung tâm. Thánh Thể là trung tâm của Hội Thánh. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói rằng Giáo hội sống nhờ Thánh Thể. Linh mục là thừa tác viên của bí tích lớn lao này, vốn là tưởng niệm cái chết của Đức Giêsu.

Và chúng ta cũng có bí tích Hòa giải. Đức Giêsu nói: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Ngài đến để hòa giải thế gian với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Người đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ khi thổi hơi trên họ.

Ngài ban cho các Tông đồ, nhân danh Thiên Chúa và nhân danh Ngài, điều mà Ngài đã đạt được nhờ máu và cuộc sống trên thánh giá, khi biến đổi bạo lực thành một hành vi tình yêu để tha thứ tội lỗi. Và Ngài nói với các tông đồ rằng họ sẽ là thừa tác viên của ơn tha thứ. Điều ấy là cơ bản cho tất cả mọi người. Mọi người đều muốn được tha thứ tội lỗi của mình, được sống an bình với Thiên Chúa và với người khác. Tác vụ hòa giải rất quan trọng trong đời sống người linh mục.

Còn nhiều hoạt động khác, chẳng hạn việc phúc âm hóa, loan báo Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, và vương quốc của Ngài. Thế gian có quyền được biết và học hỏi về Đức Giêsu Kitô và mọi điều liên quan đến Nước Thiên Chúa. Cũng là một thừa tác vụ đặc biệt khi cùng với giám mục và giáo dân loan báo Lời Chúa, và dẫn đưa dân Chúa đến gặp gỡ cách nồng nhiệt và thân tình với Đức Giêsu Kitô.

ZENIT: Theo ngài đâu là những khó khăn lớn nhất và những thách đố mới mẻ nhất mà người trẻ phải đối diện ngày hôm nay khi muốn trở thành linh mục?

Hồng y Hummes: Tôi muốn nhắc lại rằng chúng ta không nên nguyền rủa nền văn hóa đương đại đang lan rộng ngày một một hơn và đang trở thành nền văn hóa thống trị trên toàn thế giới, dù có sự hiện diện của các nền văn hóa khác.

Nền văn hóa mới này không còn muốn có tính cách kitô giáo hay tôn giáo. Nó muốn là trần tục và từ chối hay muốn từ chối mọi quy chiếu tôn giáo. Những thanh niên và giới trẻ thấy mình đang trong một hoàn cảnh khác với hoàn cảnh chúng ta đã sống, chúng ta đã sinh ra trong một nền văn hóa mang nặng tính cách tôn giáo và được nhìn nhận là mang tính kitô giáo và công giáo. Giờ thì không còn như thế.

Tôi nghĩ rằng đối với người thanh niên và giới trẻ, quả là khó khăn hơn để có được sự can đảm chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa, vốn nảy sinh từ bên trong. Đáp trả ngày hôm nay thì phức tạp hơn, bởi vì xã hội không còn đề cao chức linh mục. Trước kia, xã hội lại đề cao. Tuy nhiên, công việc của đức tin và phúc âm hóa vẫn luôn có thể xảy ra, bởi vì Thiên Chúa ban mọi ơn cần thiết khi Người kêu gọi.

Các giáo xứ cần trao ban cho các người trẻ và thanh niên cơ hội để nói về điều họ ấp ủ trong lòng, về lời kêu gọi ấy, bởi vì nếu người ta không có cơ hội để nói với ai đó mà họ tin tưởng, tiếng nói ấy sẽ dần dà mất đi. Ở đây thừa tác vụ về ơn gọi phải ra tay hành động, điều mà chúng ta rất cần.

Một giáo xứ được tổ chức tốt có khả năng đi gặp người trẻ và thanh niên và cho họ cơ hội được nói về ơn gọi mà họ cảm nghiệm. Cũng vậy, cầu nguyện cho các ơn gọi càng cần thiết hơn trong ngày hôm nay hơn là trong quá khứ.

Một lý do khác cho việc có ít ứng sinh là các gia đình thu nhỏ lại. Người ta có ít hoặc không có con. Điều đó làm vấn đề trở nên khó khăn hơn. Số các linh mục trong một vài quốc gia đã xuống quá thấp. Chúng tôi xem xét hoàn cảnh này với nhiều quan tâm.

ZENIT: Theo cha việc huấn luyện các chủng sinh phải như thế nào về phương diện nhân bản, tâm linh, trí thức và phụng vụ? Đâu là những yếu tố mà không thể thiếu?

Hồng y Hummes: Hội Thánh nói đến bốn chiều kích cần được trau dồi nơi ứng sinh.

Trước tiên, chiều kích nhân bản, cảm xúc – toàn thể con người -- bản tính, phẩm giá và trưởng thành tình cảm. Điều này quan trọng vì nó là nền tảng.

Sau đó là chiều kích tâm linh. Ngày hôm nay chúng ta thấy mình đứng trước một nền văn hóa không còn mang tính kitô giáo hay tôn giáo. Vì thế càng cần thiết việc phát triển đời sống tâm linh của ứng sinh.

Kế đến là chiều kích tri thức. Cần học triết học và thần học để các linh mục ngày hôm nay có thể nói và loan báo Đức Giêsu Kitô và sứ điệp của Ngài, hầu tất cả sự phong phú của cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí con người nổi lên. Thiên Chúa là Logos của mọi người và Đức Giêsu Kitô là lời giải thích.

Sau đó rõ ràng là chiều kích tông đồ, nghĩa là các ứng sinh cần được chuẩn bị để trở nên mục tử trong thế giới ngày hôm nay. Trong lãnh vực mục vụ ngày nay, căn tính truyền giáo rất quan trọng. Các linh mục không những cần chuẩn bị nhưng còn cần có một động lực mạnh mẽ để không giới hạn việc tiếp đón và phục vụ cho những ai đến gặp họ, nhưng cần ra đi để tìm kiếm những con người không đến với Hội Thánh, trước hết những người đã được rửa tội nhưng đã lìa xa vì không được phúc âm hóa cho đủ, và những người có quyền được phúc âm hóa, vì chúng ta đã hứa đem Đức Kitô cho họ, giáo dục họ trong đức tin.

Điều này đã không được thực hiện hay được thực hiện rất ít. Linh mục cần ra đi truyền giáo và chuẩn bị cộng đoàn của mình ra đi loan báo Đức Giêsu Kitô cho dân chúng, ít là cho những người đang sống trên phần đất của giáo xứ, nhưng cũng cần vượt xa hơn nữa.

Ngày hôm nay chiều kích truyền giáo rất quan trọng. Người môn đệ trở thành nhà truyền giáo nhờ sự gắn bó nhiệt thành và hân hoan với Đức Kitô, có khả năng dâng hiến vô điều kiện toàn thể cuộc đời cho Ngài. Chúng ta phải nên giống các môn đệ: nhiệt thành, có tinh thần truyền giáo, hân hoan. Đó là chìa khóa, là bí mật.

ZENIT: Đâu là những hoạt động đặc biệt đã được hoạch định trong năm này, cho cả giới trẻ lẫn cho các linh mục?

Hồng y Hummes: Sẽ có những sáng kiến ở bình diện Giáo hội toàn cầu, nhưng Năm linh mục cũng cần được cử hành ở bình diện địa phương. Nghĩa là, trong các Giáo hội địa phương, các giáo phận và các giáo xứ, bởi vì các linh mục là thừa tác viên của dân chúng, và cũng bao hàm các cộng đoàn.

Các giáo phận cần đưa ra những sáng kiến để đi sâu hơn lẫn cử hành, hầu đem đến cho các linh mục sứ điệp là Hội Thánh yêu mến họ, tôn trọng họ, thán phục họ và hãnh diện về họ.

Đức Giáo hoàng sẽ khai mạc Năm linh mục vào ngày 19/6, lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, bởi vì đây là ngày thế giới cầu nguyện cho sự thánh hóa các linh mục. Sẽ có Kinh chiều trọng thể cử hành tại Vương cung thánh đường Vatican, thánh tích của Cha sở họ Ars sẽ hiện diện. Trái tim của ngài sẽ đặt trong Vương cung thánh đường như là dấu chỉ nói lên tầm quan trọng mà Đức Giáo hoàng muốn đặt để nơi các linh mục. Chúng tôi hi vọng sẽ có nhiều linh mục hiện diện.

Bế mạc sẽ diễn ra vào năm sau. Vẫn chưa xác định một ngày cho cuộc gặp gỡ lớn lao giữa Đức Giáo hoàng và các linh mục, tất cả các giáo phận đều được mời tham dự. Sẽ có nhiều sáng kiến khác nữa. Chúng tôi cũng đã nghĩ đến việc tổ chức một hội nghị thần học quốc tế trong những ngày trước lúc bế mạc. Cũng sẽ có những cuộc linh thao. Chúng tôi cũng hi vọng có thể lôi kéo các đại học công giáo để họ đi sâu vào ý nghĩa của chức linh mục, thần học về chức linh mục và tất cả các chủ đề quan trọng đối với các linh mục.

ZENIT: Cha có thể nói với chúng tôi về các thách đố mà các linh mục phải đối diện trong xã hội khá đối nghịch với tôn giáo này? Theo cha, các linh mục có thể trung thành với ơn gọi của mình như thế nào?

Hồng y Hummes: Trước tiên, Hội Thánh, qua các chủng viện và các nhà huấn luyện, cần tuyển lựa kỹ càng các ứng sinh. Sau đó, cần đến một công cuộc đào tạo tốt, cơ bản về các chiều kích nhân bản, tâm linh, trí thức, mục vụ và truyền giáo. Cần nhớ rằng linh mục là môn đệ của Đức Giêsu Kitô và cần bảo đảm rằng người ấy đã có một sự gặp gỡ thâm sâu, cá nhân và cộng đoàn với Đức Giêsu Kitô, Đấng mà người ấy đã hiến dâng cách quảng đại. Mỗi Thánh lễ là một cao điểm cho sự gặp gỡ ấy. Nhưng cũng cần đến việc suy gẫm Lời Chúa.

Như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói, có rất nhiều cơ hội làm chứng cho sự gặp gỡ với Đức Giêsu Kitô. Quả là căn bản việc trở nên một nhà truyền giáo, có khả năng canh tân lòng nhiệt thành linh mục, cảm giác hân hoan và xác tín về sứ vụ, và xác tín rằng điều đó có một ý nghĩa cơ bản đối với Hội Thánh và đối với thế giới.

Tôi luôn nói rằng linh mục không chỉ quan trọng bởi vì khía cạnh tôn giáo trong lòng Hội Thánh. Linh mục cũng thực hiện một công việc rất lớn lao trong xã hội, vì ngài cổ võ những giá trị nhân bản lớn lao, ngài rất gần gũi với người nghèo trong tình liên đới, chú ý đến quyền con người. Tôi tin rằng chúng ta cần giúp đỡ các linh mục để các ngài sống ơn gọi trong niềm vui, hết sức trong sáng và với tấm lòng, để các ngài được hạnh phúc, biết rằng người ta có thể hạnh phúc trong hi sinh và mệt nhọc.

Sống hạnh phúc không có mâu thuẫn với đau khổ. Đức Giêsu không bất hạnh trên thập giá. Ngài trải qua đau khổ dữ dội, nhưng hạnh phúc, vì Ngài biết rằng điều ngài đang làm vì tình yêu và điều ấy có một ý nghĩa cơ bản cho việc cứu độ trần gian. Đó là một cử chỉ trung thành với Chúa Cha.

ZENIT: Đâu là những vị thánh khác mà cha nghĩ rằng có thể là gương mẫu cho các linh mục hôm nay?

Hồng y Hummes: Rõ ràng lý tưởng cao cả vẫn luôn là Đức Giêsu Kitô, vị Mục tử nhân lành. Trong trường hợp các Tông đồ, trước nhất là thánh Phaolô. Chúng ta đã cử hành Năm thánh Phaolô. Rõ ràng ngài là khuôn mặt ấn tượng và có thể luôn là một gợi hứng lớn lao cho các linh mục, nhất là trong một xã hội không còn mang tính kitô giáo nữa. Ngài vượt qua biên giới của Israen để trở thành tông đồ cho dân ngoại, cho lương dân. Trong một thế giới đang muốn rời xa mọi biểu lộ tôn giáo, gương mẫu của ngài là cơ bản. Thánh Phaolô luôn ý thức điều này: Đức Giêsu đã đến để cứu độ chứ không lên án. Đó là cùng một ý thức mà chúng ta cần có khi chúng ta phải đối diện với thế giới hôm nay.
 
Top Stories
Another monastery demolished in Vietnam
CathNews Australia
00:25 10/06/2009
Vietnamese authorities have demolished another monastery in a move that observers say may signal a new harsh policy on church properties.

The monastery of the Congregation of the Brothers of The Holy Family of Banam (Frères de la Sainte Famille de Banam, FSF) in Long Xuyen, South Vietnam has shared the same fate of the Sisters of St Paul of Chartres' in Vinh Long which was pulled down not long ago, VietCatholic reports.

Last week, "the government of An Giang province has abruptly demolished the two storey building which once housed the priests and religious of the Holy Family Order," a spokesperson for diocese of Long Xuyen said.

The monastery, built in 1971, was still in such good condition that the sudden demolition surprised Catholic officials. To date, local government has not announced its intention for the future use of the land, nor informed the diocese of its decision to tear down the building.

The altar and religious statues were also discarded in a rubbish dump without informing the diocese or the religious order being asked to come and retrieve those items.

Meanwhile, Redemptorist Fr Le Quang Uy, a well known prolife advocate and critic of a government bauxite mining plan in the central highlands was detained at Tan Son Nhat airport on June 6.

Fr Le said his luggage had been searched meticulously and his laptop was confiscated by the airport security and customs agents. The priest was later released with a citation that required him to come to the Office of Cultural Inspection for a follow up meeting.

And in another story, a Catholic teacher has been fired from her job and may face criminal charges for allegedly encouraging her students to access to websites containing "politically sensitive materials."

Miss Nguyen Thi Bich Hanh, 28, has been accused of "taking advantages of her teaching position to disseminate counter revolution thoughts, speaking ill of communist leaders and distorting their images in the heart of children, seriously offending state policy on education, and advertising for anti-communist websites which spread slanders against the government," the People's Public Security Newspaper reported on June 1.

Speaking to Radio Free Asia, Ms Hanh said she did nothing wrong to be fired and she was sacked due in good part to her Catholic background.
 
Un’ insegnante cattolica licenziata per aver invitato gli studenti a informarsi sul web
Asia-News
14:33 10/06/2009
L’accusa è di aver diffuso “pensieri controrivoluzionari” e pubblicizzato “siti anticommunisti”. In realtà ha incoraggiato i giovani a leggere racconti e poesie scritti prima dell’avvento del regime. Hanoi controlla strettamente internet, per Reporters sans frontieres è uno dei 15 “nemici” di internet e Amnesty International riferisce di persone arrestate per la loro attività nella rete.

Hanoi (AsiaNews) – Una insegnante cattolica vietnamita è stata allontanata dalla sua scuola e rischia di essere ncriminata per aver incoraggiato i suoi studenti a visitare siti internet contenenti “materiali politicamente sensibili”. L’accusa contro Nguyen Thi Bich Hanh, una giovane di 28 anni (nella foto), è stata lanciata l’1 giugno dal giornale della polizia, il People's Public Security, secondo il quale l’insegnante “approfittando della sua posizione di docente diffonde pensieri controrivoluzionari, parla male dei leader comunisti e distorce le loro immagini nelle menti dei bambini, offende gravemente la politica educativa statale e pubblicizza siti anticomunisti che diffondono calunnie contro il governo”.

Il giornale specifica che Hanh, insegnante di letteratura alla Nguyen Binh Khiem, scuola speciale per studenti dotati, a Tam Ky, nella centrale provincia di Quang Nam, è stata inquisita dopo che i suoi studenti hanno cominciato a cercare informazioni su siti classificati “antirivoluzionari”. L’insegnante, parlando a Radio Free Asia, ha affermato di non aver fatto nulla di illegale e di essere perseguitata in gran parte a causa della sua formazione cattolica. Sono sempre di più, ha spiegato, i giovani vietnamiti che vanno su internet per giocare, scaricare musica, scambiarsi e-mail, chattare e cose simili. Lei semplicemente ha voluto discutere con i suoi studenti dei benefici e delle trappole che internet può presentare. Come docente, si sentiva obbligata a educare i suoi studenti su come usare in modo costruttivo internet per ricerche, analisi e informazioni corrette. Sulla base della sua personale esperienza, li ha incoraggiati a cercare racconti, poemi ed altri scritti pubblicati prima del periodo comunista, quando gli scrittori vietnamiti erano liberi di esprimere i loro pensieri e i loro sentimenti. Opere che è estremamente difficile trovare in patria, ma che sono disponibili sulla rete.

In Vietnam internet sta conoscendo una vasta diffusione: a novembre, secondo dati del Vietnam Internet Network Information Center esso aveva 20.669.285 utenti, il 24% della popolazione, e il governo ha annunciato un piano per portarli al 35% entro il 2010. Insieme al piano per far aumentare il numero degli internauti, il governo applica una politica di stretta censura politica. Misure giuridiche e tecniche sono utilizzate per filtrare siti contenenti materiale giudicato pericoloso dal Partito comunista. Reporters sans frontieres pone il Vietnam tra i 15 “nemici” di internet e Amnesty International riferisce di persone arrestate per la loro attività nella rete. Sono bloccati numerosi sono siti occidentali o tenuti da vietnamiti all’estero.

Non lo erano quelli indicati da Hanh ai suoi studenti. Ma, ha spiegato, “le autorità mi hanno accusato di avere una mentalità diversa, risultato del mio essere cattolica, con una formazione discutibile”. L’insegnante ha poi rivelato che già suo padre ha trascorso più di 20 anni in un campo di rieducazione, a causa della sua attività apostolica e della sua difesa del cattolicesimo. Famoso matematico, Nguyen Quoc Anh, anche in prigione ha scritto articoli che gli hanno valso inviti alla università di Hanoi, ma che non sono mai stati pubblicati dal Ministero dell’educazione.

Quanto alla giovane Hanh, dopo un corso di perfezionamento post-laurea all’università di Dalat, è stata assunta nel 2002 dal Dipartimento provinciale per l’educazione di Quang Nam – Da Nanag nell’ambito di un programma speciale per il reclutamento di persone di talento. Sebbene considerata uno degli insegnanti più stimati della scuola, non ha mai avuto alcun riconoscimento, né promozioni, in quanto è una catechiesta della sua parrocchia.

La vicenda di Hanh è stata vista dai cattolici vietnamiti come segno di un percorso difficile che si apre, un tempo di difficoltà e sofferenza per i cattolici che lavorano nei servizi pubblici. La diffusione della notizia del suo licenziamento da parte del giornale della polizia è ritenuta un avvertimento minaccioso del governo per tutti gli insegnanti che hanno legami con le religioni.
 
VIETNAM: Une enseignante catholique dans une école d’Etat a été révoquée pour avoir exercé l’esprit critique de ses élèves
Eglises d'Asie
16:34 10/06/2009
Au début du mois, la presse officielle a rapporté l’histoire d’une jeune enseignante catholique dans une école du Quang Nam. Melle Nguyên Thi Bich Hanh est titulaire d’une maîtrise de lettres, obtenue à l’université de Da Lat avec un mémoire sur le poète vietnamien Hoàng Câm (né en 1922). Après ses études, elle avait elle-même choisi d’aller enseigner dans une école du centre du Vietnam. Elle vient d’être démise de ses fonctions par les autorités académiques de la province, accusée d’« avoir utilisé sa chaire de professeur pour diffuser des idées contraires à la ligne politique de l’Etat ».

Melle Nguyễn Thị Bích Hạnh
Elle-même s’est confiée à une radio étrangère (1) après que sa révocation eut été rapportée par un certain nombre de journaux. Durant son enseignement, elle avait conseillé à ses élèves de ne pas perdre leur temps avec les jeux vidéo mais de le consacrer plutôt à la consultation d’Internet où ils trouveraient une abondante documentation sur les questions et les auteurs traités en classe. Elle leur avait ainsi présenté un certain nombre de sites littéraires indépendants, animés par des Vietnamiens de la diaspora. L’enseignante avait cependant mis en garde ses élèves contre certains textes mis en ligne sur Internet, qu’il fallait lire avec un esprit critique. Elle avait ainsi évoqué un article d’un spécialiste de la littérature vietnamienne affirmant que Hô Chi Minh n’était pas l’auteur de l’œuvre Journal de prison pourtant signée de lui. Elle avait aussi mentionné le bruit selon lequel l’actuel secrétaire général du Parti communiste serait le fils naturel de Hô Chi Minh. Elle avait souligné l’humanité du père de la nation. Son intention, a-t-elle ajouté, était surtout d’exercer l’esprit critique de ses élèves et de faire grandir leur indépendance d’esprit.

Ces propos rapportés à la Commission provinciale de propagande et d’éducation du Parti (Ban Tuyên Giao) lui valurent une sévère condamnation de celle-ci. Les responsables de l’orthodoxie idéologique lui reprochaient d’avoir attribué un enfant naturel à l’oncle Hô, d’avoir nié qu’il soit l’auteur de deux de ses œuvres, la Déclaration d’indépendance de 1945 et Journal de prison, d’avoir déclaré qu’il ne fallait pas canoniser Hô Chi Minh. Après de longues délibérations, les autorités prononcèrent la révocation de l’enseignante pour avoir abaissé le prestige des dirigeants et de s’être alliée aux forces étrangères hostiles dans leur tentative d’« évolution pacifique ». D’autres accusations ont aussi été formulées contre elle: propagande pour des sites Internet réactionnaires, attitude en anti-pédagogique, etc.

Réagissant à la décision prise contre elle, Melle Bich Hanh a protesté en mettant en valeur le sérieux de son enseignement et sa passion pour la littérature. Selon elle, la décision de révocation a été prise sans enquête sérieuse préalable et au mépris des droits de l’intéressée. Les autorités se sont contentées d’écouter des informations colportées par des élèves ou des agents de la Sûreté. Toute l’enquête a été menée par les agents de la Sûreté sans que jamais les responsables ne l’interrogent et lui demandent son avis. Melle Nguyên Thi Bich Hanh ne veut pas que les choses en restent là et compte faire entendre son point de vue auprès des pouvoirs publics.

(1) Radio Free Asia, émission en vietnamien, 4 juin 2009. Voir aussi VietCatholic News, le 6 juin 2009.

(Source: Eglises d'Asie, 10 juin 2009)
 
Catholic teacher fired for encouraging students to get information on the web
Asia-News
16:35 10/06/2009
Literature teacher is accused of spreading “anti-revolutionary” ideas and promoting anti-Communist websites. In reality she encouraged her students to read stories and poems written before the advent of the Communist regime. In fact Vietnamese authorities are tightening the screws around Internet. A group like Reporters without Borders considers Vietnam one of the main “enemies” of internet, whilst Amnesty International has reported the arrest of people for their online activities

Hanoi (AsiaNews) – A Catholic teacher has been fired from her school for encouraging her students to visit “politically sensitive internet sites,” and might even face criminal charges for her action.

The People's Public Security Newspaper, which is published by Vietnam’s police force, accused Nguyen Thi Bich Hanh (pictured), 28, of “taking advantages of her teaching position to disseminate counter-revolution thoughts, speaking ill of Communist leaders and distorting their images in the heart of children, seriously offending state policy on education, and advertising for anti-communist Web sites which spread slanders against the government.”

The newspaper also reported that Hanh, a literature teacher at Nguyen Binh Khiem Special High school for Gifted Students in Tam Ky, Quang Nam, a province in central Vietnam, was harassed after her students started looking for information on websites deemed “anti-revolutionary” by Vietnamese authorities.

Speaking to Radio Free Asia, Hanh said she did nothing wrong and that she was sacked due in good part to her Catholic background.

In her version of the facts, she just wanted to discuss with her students the benefits and pitfalls of the internet as more and more young people in Vietnam go online to play games, download music, write blogs, send e-mail or use instant messaging services to chat on a daily basis.

As a teacher, she felt duty-bound to educate her young students on how to use the internet in a constructive way, and how to search for, gather and analyse useful and correct information found online.

Inspired by her own experience, Hanh encouraged her students to look for stories, poems, and other writings published prior to the Communist era when Vietnamese authors were free to express their thoughts and emotions. With her students she shared the belief that freedom is the essential condition for artists’ creative work. Many of the writings in question are not available in Vietnam, but can be accessed online.

Internet is indeed going through an exponential growth in Vietnam. Last November, a report from the Vietnam Internet Network Information Center reported almost 21 million internet users in the country (24 per cent of the population).

Another report said that Vietnam government is planning to increase the country’s internet penetration to 35 per cent by 2010.

Along with the plans to increase internet users, Vietnamese authorities are also planning to enforce strict online political censorship. The extensive regulation of internet access using both legal and technical means has filtered out sites that contain sensitive materials that might undermine the Communist Party's hold on power.

While Reporters without Borders considers Vietnam one of 15 "internet enemies", Amnesty International reported many instances of internet activists being arrested for their online activities.

Most websites run by overseas Vietnamese, and most Western Catholic media outlets, have been blocked by the government. However, the sites Hanh introduced to her students can still be accessed in Vietnam.

“The local authority had accused me of having such a different mentality as a result of being a Catholic, with a questionable background,” she said.

She also said that her father had been sent to a Communist re-education camp for his apostolic activities and Catholic faith.

A gifted Mathematician Hanh’s father, Nguyen Quoc Anh, wrote articles relating to linear differential equations, which were so thought-provoking that he was invited to speak at Hanoi University. Never the less, his thesis has never been publicly acknowledged by the Education Ministry for the same political charged reason.

Having outstandingly completed a postgraduate degree in Vietnamese Literature at Dalat University, Hanh was hired by the Provincial Education Department of Quang Nam–Da Nang under a special policy of talented people recruitment in 2002.

Even though she was regarded as one of the most respected teachers at her school, she did not receive any recognition or promotion because she was an active catechist in her parish.

For many Catholics in Vietnam incident is a sign of the tough road they must face, evidence of the difficulty and hardship Catholics must face when they work in the public sector.

Under normal circumstances the firing of a high school teacher would not make the headlines. However, the fact that the People's Public Security Newspaper and other state media outlets reported the news of her termination is the Vietnamese government’s way to send a threatening message to all teachers with ties to religions.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Năm Linh Mục: Thư mục vụ gửi Cộng đoàn Dân Chúa hai giáo phận Thanh Hóa và Phát Diệm
+ GM Giuse Nguyễn Chí Linh
05:14 10/06/2009
Thanh hóa ngày 01-06-2009

Anh chị em thân mến,

Năm nay, nhân kỷ niệm 150 năm ngày qua đời của Thánh Gioan Maria Vianney, quan thầy các cha xứ, nhằm đề cao “mẫu gương mục tử đích thực” của vị thánh này, đồng thời “tạo điều kiện cho việc hướng các linh mục đến sự hoàn thiện thiêng liêng”, Đức Thánh cha Bênêđitô XVI, trong diễn từ khai mạc Hội nghị Khoáng đại của Bộ Giáo Sĩ ngày 16-03-2009, đã công bố mở một "Năm Linh Mục" đặc biệt từ ngày 19/06 tới đến ngày 19/06/2010. Ngài kêu gọi các giám mục địa phận và các bề trên dòng tu hãy tìm kiếm những “sáng kiến thiêng liêng và mục vụ đa dạng” để đào sâu ý nghĩa và “tầm quan trọng của vai trò và sứ mệnh của linh mục trong Giáo Hội và trong xã hội đương thời”.

Hưởng ứng lời kêu gọi đó, tôi muốn cùng với anh chị em vận dụng hết khả năng của chúng ta để tổ chức, cử hành và sống năm linh mục một cách tích cực. Dựa vào những định hướng Đức Thánh Cha và Đức Hồng Y Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ đề ra, tôi xin anh chị em thực hiện ba việc cụ thể sau đây:

1. Học hỏi

Càng xác tín về ơn gọi của mình, linh mục càng chu toàn sứ mệnh cách tốt đẹp hơn. Vì thế, tôi kêu gọi các linh mục trong giáo phận hãy coi năm linh mục làm cơ hội thuận lợi để “đào sâu căn tính và thần học về chức linh mục Công Giáo” bằng cách tăng cường việc tham khảo sách vở, trau dồi kiến thức, bằng nỗ lực bản thân hoặc bằng “những cuộc hội thảo, học hỏi, những ngày suy tư, tĩnh tâm chuyên biệt”, làm thế nào để biến năm linh mục thành “một năm canh tân linh đạo của hàng linh mục và của mỗi linh mục”; Tôi cũng kêu gọi các chủng sinh hãy nghiên cứu, nghiền ngẫm thấu đáo hơn về thiên chức và đời sống linh mục mà họ đang đeo đuổi, ngõ hầu ý thức cách sâu sắc về “ý nghĩa đặc biệt của ơn gọi và sứ mạng linh mục trong Giáo Hội và trong xã hội”. Tôi cũng kêu gọi anh chị em giáo dân hãy tham gia những sinh hoạt tìm hiểu đúng đắn về mối tương quan của linh mục với cộng đoàn Dân Chúa, để họ có thể yêu mến, nâng đỡ linh mục cách thiết thực và hiệu quả hơn.

2. Cầu nguyện.

Thế giới và cách riêng xã hội Việt Nam đang thay đổi từng ngày, kéo theo muôn vàn hậu quả tích cực cũng như tiêu cực, ảnh hưởng sâu rộng đến các cộng đoàn Giáo Hội và công cuộc đào tạo linh mục, làm cho sứ mệnh của các vị mục tử càng lúc càng khó khăn. Chỉ có Chúa mới có thể giúp chúng ta chu toàn được sứ mệnh Ngài trao phó trong một thế giới phức tạp như thế. Vậy chúng ta hãy xem năm linh mục như “một năm đặc biệt cầu nguyện của các linh mục, với các linh mục và cho các linh mục”. Tôi kêu gọi các giáo xứ và các cộng đoàn trong giáo phận hãy quan tâm tổ chức nhiều hình thức cử hành đặc biệt để lãnh ân xá đặc biệt năm linh mục, nhất là để thờ lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Thánh Thể chính là “trung tâm linh đạo linh mục”. Xin Chúa Giêsu Linh Mục Thượng Phẩm ban ơn thánh hóa các linh mục để các ngài trở nên muối men cuộc đời mỗi lúc một mặn nồng hơn, nên ánh sáng trần gian mỗi lúc một chiếu tỏa hơn.

3. Hành động.

“Năm Linh Mục phải là một năm tích cực và có chủ đích” nên không thể chỉ là năm học hỏi và cầu nguyện mà thôi. Năm linh mục còn phải là năm của hành động: hành động để “phát triển tình hiệp thông thân hữu” giữa các linh mục với nhau và “với cộng đoàn được ủy thác cho các vị”. Tôi kêu gọi các linh mục hãy tăng cường nhịp độ thăm viếng, chia xẻ vật chất lẫn tinh thần giữa linh mục với nhau và giữa linh mục với giáo dân. Tôi mong sao năm linh mục sẽ là năm mọi người chúng ta quan tâm hơn đến các linh mục đang khó khăn, các giáo xứ và các cộng đoàn đang thiếu thốn. Đã nói đến Giáo Hội và linh mục là phải nói đến người nghèo. Hình ảnh đẹp nhất của người môn đệ Chúa Giêsu vẫn là hình ảnh người lên đường không mang theo “túi tiền, bao bị, giầy dép” (Lc 22, 35). Chúng ta phải hành động để xóa đi hình ảnh linh mục giàu sang phú quý, giáo dân không biết chia xẻ.

Anh chị em thân mến,

Tương lai của Giáo Hội tùy thuộc phẩm chât của linh mục trong Giáo Hội. Trong năm linh mục này, chúng ta cũng hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho trên bốn trăm ngàn linh mục khắp nơi trên thế giới. Ước gì tất cả các ngài đều là những “linh mục tận tụy với sứ vụ, những con người cầu nguyện và có lòng bác ái mục tử, hiến trọn cuộc sống để thi hành ơn gọi và sứ mạng”.

Cuối cùng tôi cũng xin anh chị em cầu nguyện cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, theo quy định của giáo luật, sẽ đi Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô từ ngày 22-06-2009 đến 04-07-2009. Xin cho chuyến đi này đem lại lợi ích thiêng liêng cho các bậc chủ chăn và cho Giáo Hội Việt Nam.

Xin Chúa ban phúc lành cho anh chị em

Thân ái trong Chúa Kitô
Giám mục giáo phận Thanh hóa.
Giám quản tông tòa giáo phận Phát Diệm
 
Cáo Phó: Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ vừa tạ thế tại Long Xuyên
VP Tòa GM Long Xuyên
16:03 10/06/2009
Trong niềm tín thác vào Chúa Kitô tử nạn và Phục sinh
Tòa Giám Mục Long Xuyên kính báo

ĐỨC CHA MICAE NGUYỄN KHẮC NGỮ
Giám Mục Tiên Khởi Giáo Phận Long Xuyên
đã được Chúa gọi về lúc 11g ngày 10 tháng 06 năm 2009, thọ 100 tuổi

Đức Cha Micae:
* Sinh ngày 02/02/1909 tại Vạn Đồn, huyện Thụy Anh, Thái Bình.
* 1922: Nhập Tiểu Chủng Viện Mỹ Sơn, Lạng Sơn.
* 1928: Du học tại Đại Chủng Viện Lucon, Pháp.
* 29/6/1934: Thụ phong Linh Mục tại Đại Chủng Viện Lucon, Pháp.
* 1934-1938: Giáo sư Tiểu Chủng Viện Mỹ Sơn, GP. Lạng Sơn.
* 1938-1939: Thư ký Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh tại Huế,
kiêm Giám đốc tòa báo Sacerdos Indosinenses.
* 1940-1943: Coi Tiểu Chủng Viện Mỹ Sơn, GP. Lạng sơn.
* 1943-1951: Chánh xứ Lộc Bình và xứ Mỹ Sơn, GP. Lạng sơn.
* 1951: Tổng Đại Diện/ Cha Chính Giáo phận Lạng Sơn.
* 1954-1960: Chánh xứ Lạng Sơn, Xóm Mới, Gò Vấp và Quản Hạt Gò Vấp.
* 1957: Đặc ủy phó Công Giáo Tiến Hành Việt Nam.
* 1958: Xử lý thường vụ Công Giáo Tiến Hành Việt Nam.
* 8/1960: Phó Giám đốc kiêm Giáo sư môn Giáo Phụ và
Công Giáo Tiến Hành tại Đại Chủng Viện Lê Bảo Tịnh, Sàigòn.
* 24/11/1960: Tòa Thánh bổ nhiệm Giám Mục tiên khởi Giáo Phận Long Xuyên.
* Khẩu hiệu Giám mục: “Christus In Vobis” (Chúa Kitô trong Anh Chị Em).
* 22/01/1961: Lễ tấn phong Giám Mục tại Vương Cung Thánh
Đường Đức Bà Sàigòn do Đức TGM Pierre- Martin Ngô Đình Thục chủ phong
với sự thụ phong của hai Đức Cha Jean Cassaigne, M.E.P., và Thadeus Lê Hữu Từ, O. Cist.
* 04/04/1961: Nhậm chức Giám Mục Giáo Phận Long Xuyên.
* 30/12/1997: Hưu dưỡng tại Long Xuyên sau hơn 36 năm cai
quản Giáo Phận.
* 10/06/2009: Về nhà Cha lúc 11giờ. Thọ 100 tuổi.

CHƯƠNG TRÌNH TANG LỄ:

+ Ngày 10/06/2009: 19g00 Thánh lễ - Nghi thức tẩm liệm
+ Ngày 11/06/2009: Các lễ viếng do hạt Vĩnh Thạnh phụ trách
+ Ngày 12/06/2009: Các lễ viếng do hạt Tân Hiệp phụ trách
+ Ngày 13/06/2009: Các lễ viếng do hạt Rạch Giá phụ trách
+ Ngày 14/06/2009: Các lễ viếng do hạt Chợ Mới và Long Xuyên
phụ trách
+ Ngày 15/06/2009: 09g30 THÁNH LỄ AN TÁNG

* Các ngày 11,12,13,14 có Thánh Lễ vào các giờ: 8g, 10g, 12g, 14g, 16g
Xin hiệp ý cầu nguyện cho linh hồn Đức Cha được mau chóng về hưởng Tôn Nhan Chúa.

Kính báo
 
Văn tế: Công Phụ Mỹ Sơn (Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ)
Bùi Nghiệp
16:09 10/06/2009

VĂN TẾ CÔNG PHỤ MỸ SƠN
Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ, Giám Mục tiên khởi Giáo Phận Long Xuyên,
đã về nhà Chúa lúc 11 giờ VN, ngày 10-06-2009, tại Tòa Giám Mục Long Xuyên. Thượng thọ 100 tuổi



Cha ơi!
Mãn phần nhân thế!
Hồi đáo thiên đàng.

Hình thương khẩu thay dời khuôn vân ảnh,
Bóng bạch câu lướt thóang cửa nhân gian.
Ngưu Đẩu mịt mù sa núi bắc!
Khuê Tinh nhòa nhạt đẫm sông nam.
Hạc thọ thiên niên giờ khuất bóng!
Qui linh bách tuế bỗng xa xăm.

Ngàn đồ đệ bơ vơ cõi thế,
Triệu con chiên lạc lõng gian trần.
Hồng hộc cao bay, ngàn xa về đất tổ,
Ngựa cưu xe cói, lăn bánh biệt điền tang.

Linh xuân nhất chu lão!
Đan quế ngũ chi hương !!

Sách rằng:
Danh xưng: KHẮC - NGỮ.
Thánh hiệu: MỸ - SAN.
Niên canh tuất, đất Thái Bình - nhập gia đình nhân lọai,
Tuổi mười ba, miền Cao Lạng - vào chủng viện hiến dâng.

Rừng Nhu biển Thánh,
Lẽ Triết lý Thần.
Ân cần tụ hùynh tạc bích!
Mài miệt chí thiện chí nhân.

Hai lăm tuổi, tại Pháp quốc trao hàm linh mục,
Năm mươi ngòai, từ Rô Ma phong chức chủ chăn.
Câu nguyện ước phụng thờ Thiên Chúa,
Lời thề nguyền yêu mến tha nhân.

“CHRISTUS IN VOBIS.”
Ngôi Lời trong anh em.

Từ thư ký Khâm sai, giáo sư chủng viện,
Đến bề trên quản hạt, giáo phụ nhà tràng.
Từ quê bắc lo bề Hùynh Vũ,
Đến xứ nam canh cánh Tỷ Khang.

Lòng như trăng sáng,
Chí tựa đá vàng.
Ba địa lợi hợp thành giáo phận,(*)
Bốn nhân hòa liên kết cư an.(**)

Bảy triền núi đúc hun hùng khí,
Chín bờ sông nung nấu tâm can.
Sông sâu rộng dẫy đầy tôm cá,
Đồng mênh mông ăm ắp lúa vàng.
Cha dốc sức vun bồi, dù bao phen khổ trí,
Cha quyết lòng đào tạo, dẫu lắm lúc lao tâm.

Xây chủng viện ươm mầm truyền giáo,
Dựng thánh đường giảng dậy chư dân.
Đèn khêu tỏ cho danh Cha cả sáng,
Muối ướp nồng để đạo Chúa tỏa lan.

Cố công tích minh hồ kim thạch.
Bất yếu chu môn bất yếu lâm.
Bóng tang du hạc cao tuổi thọ!
Thớt nhân sinh thuyền đã êm giầm.

Lạc thiên tri mệnh!
Tâm nguyệt cửu giang.

Gởi thánh ấn cho người tài trí,
Trao trượng quyền đến bậc tùng quân.
Thung dung dưỡng dư nhật.
Thủ lạc vu du tang.

Thương ôi!
Tiếng tử qui năm canh chày nhịp gõ!
Giọt đồng hồ sáu khắc nhỏ thời gian.
Từ ngựa trúc áo hoa nơi Thái – Lạng,
Đến bích ngô thê lão chốn An- Giang.

Thương tang …– Thương hải!
Phù thế …– Phù vân!

Xác nằm xuống giã từ trần thế!
Hồn bay lên hội ngộ vĩnh hằng.
Cả giáo phận lạy cha vạn lạy!
Tòan giáo dân đẫm lệ đôi hàng.

Nay chúng con:
Đương môn đệ ghi son bố đại!
Cựu chủng sinh khóan sắt tri ân!
Điếm nguyệt cầu sương,
Qụy bái giai thành!

Bùi Nghiệp
Lớp Khai phá 1964

____________________________________
(*) Long xuyên, Châu đốc, Rạch giá.
(**) Công giáo, Phật giáo, Cao đài, Hòa hảo.
 
Khóc Đức Cha Nguyễn Khắc Ngữ: Người Đi Mở Lối Thiên Đường
Hoàng Quang
22:41 10/06/2009

Người đi mở lối Thiên Đường



Khi tiếng chuông mười một giờ vừa điểm,
Ngày 10 tháng 6 năm 2009
Trái tim Long Xuyên ngất lịm!
Tháng sáu kính Trái tim Chúa Giêsu từ khiết,
Hồn Đức Cha Micae NGUYỄN KHẮC NGỮ
Giã biệt trần gian!!!
Ôi thương nhớ thay – Ôi đau đớn thay!
Từ rày,
Đà vắng đi VỊ CHỦ CHĂN NHÂN ÁI!!!
Từ rày,
Đàn chiên của Cha thốt lời TỪ LY là mãi mãi…
Chia tay NGƯỜI THẦY VĨ ĐẠI khóc mấy cho vừa!…

Kính lạy Đức Cha,
Đã đến lúc Thiên Chúa chúc lành tuổi già yên nghỉ,
Đã hoàn tất cuộc trần gian vẹn tròn thế kỷ,
Đã toàn lực toàn tâm ý nguyện mở nước trời!
Để Người thảnh thơi
Đề Người mỉm cười “lãnh thưởng”!
Đề chúng con vui mừng và tin tưởng,
NGƯỜI ĐI MỞ LỐI THIÊN ĐƯỜNG!!!

Trong tâm tình yêu thương luyến nhớ,
Bức xúc nỗi vắng xa, cồn cào hơi thở,
Lớp Khai Phá chúng con đồng hướng về Ngài,
Một lạy này kính cẩn trước quan tài
Một lạy này xin tỏ bày “hiếu – kính”
Một lạy này cung thỉnh bước Người đi!!!

Kính lạy Tổng Lãnh Thiên Thần MICAE
Xin hãy đón Linh Hồn Micae VỀ BÊN CHÚA!

Hoàng Quang
Lớp Khai Phá 1964
(10 tháng 6 năm 2009)
 
Khóc Đức Cha Nguyễn Khắc Ngữ: Cha Ơi
Lãng Tử
22:50 10/06/2009
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Thơ: Sáng mắt sáng lòng
lykhách
16:59 10/06/2009
Còn chờ đến bao nhiêu lâu nữa
Đảng mới cho sáng mắt sáng lòng
Phải mất bao nhiêu đất biển nữa
Mới hay rằng nước đang bị ngoại xâm?

Cứ vui đi, rượu bày và thơ nhạc
Coi phim Tàu và cứ hát nhạc Tây
Điệu kích động vui, hoặc buồn ướt át
Cười ngã nghiêng biết đâu giặc cũng say?

Ai cho quyền chúng sống trên cao
Ăn cơm nhân dân, cỡi cổ dân nghèo
Cả dân tộc đảng bao nhiêu triệu?
Phản động là ai? Là đảng hay số nhiều?

Cứ an phận đi đời ai nấy lo
Chấp nhận từng ngày với cơ chế xin cho
Tranh dành chà đạp nhau để có
Nhiều tiền, thây kệ ai khốn khó

Cứ vùi quên đi trong rượu say, ân ái
Sướng riêng thân chẳng hại chi ai
Sống vô tư cho tuổi già trẻ lại
Còn mấy mươi năm đâu có chi dài

Cứ xài sang tiền vung tay quá trán
Mặc áo quần cho đúng mốt thời trang
Thây kệ ai nghèo ai hoạn nạn
Miễn riêng thân luôn được bình an

Cứ lặng thinh việc chi phải nói
Chấp nhận coi như mọi chuyện xong rồi
Chuyện gì tới thì nó sẽ tới
Chuyện nước non chỉ bàn lúc nhậu thôi

Mất ít đất hay là chút biển
Còn là hơn lo chinh chiến với Tàu
Một ngàn năm chọi cùng kẻ xấu
Thôi nhận anh em đồng chí cũng chả sao

Cứ tham nhũng của chung cần ai khóc
Đảng ưu tiên hơn dân tộc Việt-Nam
Chức càng cao càng có máu tham lam
Ai mở miệng tống giam cho câm miệng

Trâu chết để da, người ta chết để tiếng
Đảng sống để thi ân cho đảng viên kiếm tiền
Tiền thuế dân hay tiền trợ viện
Đảng chăm dân nên đảng phải ưu tiên

Thế kỷ này chỉ còn bốn đồng chí
Đồng chí Tàu, đồng chí Cu-ba, đồng chí Triều-Tiên
Tình đồng chí với Việt-Nam là bất biến
Bỏ độc đảng à? Rồi dẫy chết sao, đồ điên!

Cũng may còn có tiếng cụ Hồ
Còn nằm dài ngay ở giữa thủ đô
Để lộng kiếng tóc râu da xương còn đủ bộ
Để dạy dân đen biết ngõ mà tung hô

Thần thánh cụ đạo đức dầy vô số
Ngang với cụ Mao, cụ Mác, chỉ...cụ Hồ
Những cha già đã đưa dân cùng khổ
Tới vinh quang tột đỉnh của khổ cùng

Nghĩa là chẳng ai khổ một mình
Khổ đều nhau vì sự nghiệp quang vinh
Chủ nghĩa xã hội khi còn chưa tới đỉnh
Thì nhân dân mọi tầng lớp phải hy sinh

Nhân dân làm chủ nhưng mà đảng lãnh đạo
Đảng đầy tớ thôi nhưng đầy tớ cấp cao
Nhà nước quản lý nhưng phải nghe đảng bảo
Quốc hội phải thông qua mọi điều đảng...báo cáo

Mẹ Việt Nam ơi vài đứa con lếu láo
Mẹ sinh chúng ra hay chúng đến từ đâu?
Sao chúng ngu dân đói cơm rách áo
Chúng chẳng sợ chi, lại sợ lũ Tàu?

Mẹ nghe không, sau khi mất bao biển đảo
Chúng chỉ mở mồm: “khẳng định trước sau
Của dân Việt”... bao lần như con vẹt...
Mà dân thấy đau lên tiếng, chúng cầm tù!

Giờ lũ Tàu lại cấm dân mình đánh cá
Lấy cường quyền cướp cả biển quê nhà
Mà đảng cầm quyền miệng câm thế mới lạ
Chúng là đảng của Tàu, hay đảng từ đâu ra?

Non sông gấm vóc một giải sơn hà
Dần dần cứ thế chắc tiêu ma
Mười năm nữa, thêm hai mươi năm nữa
Chắc đất nước này phải nhận giặc làm cha!
 
Một linh mục Công giáo bị nhà cầm quyền huyện Lăk tĩnh Đăk Lăk ra lệnh cấm làm mục vụ
Hoàng Dũng
17:13 10/06/2009
ĐĂK LẮK - Ngày 30/5/2009 vừa qua linh mục Phêrô Nguyễn Văn Phương, tu sĩ Dòng Đaminh Việt Nam đã bị cấm làm việc mục vụ tại một số địa điểm thuộc huyện Lắk là Đắk Phơi, Yên Thành, Buôn Triết và Buôn Lê lần lượt thuộc các xã Đắk Phơi, Đắk Nuê, Buôn Triết và thị trấn Liên Sơn, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.

Trong văn thư trả lời đơn đề nghị của LM. Nguyễn Văn Phương, ông Nguyễn Văn Trung, chủ tịch UBND huyện Lắk viết những đoạn gây bức xúc cho bà con giáo dân Công giáo sống trong huyện Lắk: “UBND huyện Lắk không chấp nhận đơn đề nghị của linh mục Nguyễn Văn Phương… và LM. Nguyễn Văn Phương phải chấm dứt việc mục vụ kể từ ngày 30/5/2009 trên địa bàn huyện Lắk…”. Lý do là những nơi trên “chưa có cơ sở tôn giáo, không có nhu cầu tôn giáo, giáo dân 4 xã này chỉ tu tại gia,…” .

Huyện Lắk (từ năm 1976, trước kia là quận Lạc Thiện), nằm ở phía đông-nam tỉnh Đắk Lắk, cách thành phố Buôn Ma Thuột 50km. Trước 1975 huyện Lắk đã có 3 nhà nguyện là Quảng Trạch, Quảng Trụ và Lạc Thiện. Hai trong ba nhà nguyện này đã bị chiến tranh tàn phá nên đã xuống cấp, riêng nhà nguyện Lạc Thiện (thuộc thị trấn Liên Sơn) hiện đang bị chiếm dụng làm Viện Kiểm Sát huyện Lắk.

Hiện nay vùng này có 2000 giáo dân Công giáo mà không có linh mục nào dâng thánh lễ cho họ. Giáo dân nhiều lần làm đơn để phục hồi các các sở tôn giáo đã xuống cấp nhưng đều bị từ chối. Họ không được phép phục hồi các cơ sở tôn giáo đã có trước đây. Còn linh mục Phêrô Nguyễn Văn Phương tuy đã có giấy giới thiệu của cha chính xứ Giang Sơn vào huyện Lắk làm việc mục vụ (chủ yếu là dâng thánh lễ) thì nhận được kết quả như trên sau hơn 2 tháng gửi đơn đề nghị và chờ đợi.

Xin anh chị em giúp đỡ bà con giáo dân tại Đắk Phơi, Yên Thành, Buôn Triết và Buôn Lê bằng lời cầu nguyện và hướng dẫn họ đi tìm công lý và tự do tôn giáo cho chính mình. Nhà cầm quyền địa phương đang cố tình hạn chế quyền tự do tôn giáo của giáo dân tại đây bằng những cản trở hết sức vô lý, viện dẫn những qui định trong Pháp lệnh Tín ngưỡng Tôn giáo, một pháp lệnh đi ngược lại quyền tự do tôn giáo của con người.

Đăk Lăk, ngày 10/6/2009
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Suối Mộng
Dominic Đức Nguyễn
06:31 10/06/2009

SUỐI MỘNG



Ảnh của Dominic Đức Nguyễn

Một thoáng mơ màng bên Suối Tiên

Anh như du khách đến tham thiền

Em như tiên nữ về khai hội

Ta dắt nhau qua biển muộn phiền.

(Trích thơ của Phan Văn Lai)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
 
Từ Điển Thuật Ngữ Công Giáo
Từ Điển Thuật Ngữ Báo Chí Công Giáo: Fifth Crusade - Forgiveness
Nguyễn Trọng Đa
16:31 10/06/2009
Fifth Crusade
Cuộc Thập tự chinh thứ năm. Là cuộc Thập tự chinh từ năm 1217 đến năm 1221 được Đức Giáo hòang Innocent III cổ vũ.
Fighting
Giao chiến, chiến đấu, đấu tranh. Là từ ngữ tổng quát để chỉ bất cứ trận đánh hoặc cuộc giao chiến nào. Luân lý tính của cuộc giao chiến cần được phán đóan theo các quy định thông thường. Không phải mọi cuộc chiến đấu đều bị cấm cả đâu, bởi vì sự tự phòng vệ có thể là hợp pháp và sự nổi giận chính đáng có thể được biện minh. Giao chiến bị cấm khi lý do cho chiến đấu là bất công, hoặc cuộc chiến có thể tránh được, hoặc các phương tiện chiến đấu là vô lý, hay cuộc chiến là không nhất thiết phải kéo dài.
Filial Fear
Thảo kính. Sự sợ một điều xấu sắp xảy ra dựa vào tình thương và sự kính trọng đối với một người mà mình sợ. Thực ra sự thảo kính gần gũi với tình thương, vốn sợ xúc phạm đến người mình thương. Như thế lòng thảo kính đối với Chúa là tương hợp với tình thương cao nhất của Chúa. Một con người, biết được sự yếu đuối luân lý của mình, sợ rằng mình có thể làm mất lòng hay phản bội người mình yêu mến. Đây là nỗi sợ vị tha. (Từ nguyên Latinh filial, trở nên con trong tương quan với cha mẹ.)
Filioque
Filioque, “Và bởi Chúa Con”. Từ ngữ này, trong nhiều thế kỷ, đã trở thành trung tâm cuộc tranh luận giữa các Giáo hội Đông phương ly khai với Roma và Giáo hội Công giáo. Trước tiên các Kitô hữu Đông Phương chống lại việc đưa từ ngữ này vào trong Kinh tin kính Nicea, vốn hiện nay đọc là “Đức Chúa Thánh Thần bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra”. Chữ Filioque không có trong bản gốc Kinh Tin kính, nhưng được đưa thêm vào sau đó, với sự chấp thuận của Tòa thánh. Sau thế kỷ thứ chín, các lãnh đạo Giáo hội Đông phương thách thức không chỉ vì việc thêm chữ này, mà còn cả tín lý nữa, vì tìn lý nói Chúa Thánh Thần không chỉ nhiệm xuất từ Chúa Cha mà còn nhiệm xuất từ Chúa Con nữa. Trong những năm mới đây, vấn đề đã trở nên lịch sử hơn là tín lý, bởi vì những ai tin vào thiên tính của Chúa Kitô, dù là Kitô hữu Roma hay Đông phương, đều chấp nhận sự kiện rằng Ngôi Ba nhiệm xuất từ Ngôi Con và Ngôi Nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa. Do niềm tin chung như vậy, sự diễn tả ngôn ngữ đã trở thành thứ yếu.
Filomteca Vaticana
Cơ quan Filomteca Vaticana, Cơ quan điện ảnh và truyền hình Vatican. Là cơ quan của Tòa thánh, được thành lập năm 1959, để thu thập và điều phối thông tin về các chương trình điện ảnh và truyền hình nào có ảnh hưởng đến đời sống Giáo hội. Cơ quan trực thuộc Ủy ban Truyền thông Xã hội.
Final Cause
Nguyên nhân cứu cánh. Là cứu cánh hay mục đích mà một hữu thể thông minh có, khi đang thực thi một hành động hay tạo ra một hiệu quả. Nói một cách chặt chẽ hơn, chỉ có các hữu thể được tạo dựng mới có một nguyên nhân cứu cánh trong việc họ làm. Chúa không thể bị tác động bởi bất cứ nguyên nhân nào, mặc dầu Chúa bị đổi thay và điều chỉnh bởi các hành động của Ngài một cách nào đó. Tuy nhiên Chúa hành động vì một mục đích, đó là sự tốt lành vô bờ của Chúa và đồng hóa với yếu tính của Ngài.
Final Consummation
Tận thế, chung cục thế giới. Là sự kết thúc của thế giới hiện nay và sự đổi mới của nó như là kết luận sau cùng của công nghiệp Chúa Kitô. Sau khi mọi kẻ thù quy phục Đức Kitô, chính Đức Kitô sẽ trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha (I Cr 15:24), nhưng không mất sự thống trị riêng của Ngài, vốn được thành lập trên ngôi hiệp. Với sự kết thúc của thế giới này, sẽ bắt đầu một vương quốc hoàn hảo của Chúa Ba Ngôi, vốn là đối tượng của việc tạo dựng toàn thể và ý nghĩa sau cùng của toàn lịch sử nhân lọai.
Finality
Cứu cánh, kết cuộc, mục đích. Là hoạt động được hướng tới một mục đích, hoặc hướng của bất cứ hoạt động nào quy tới một mục đích đã được quan niệm trước. Nguyên tắc của cứu cánh tính nói rằng “mọi người hành động vì một mục đích”, có nghĩa là không ai hành động mà không có mục đích, dù là ý thức hay vô thức, và dù được quyết định bởi chính bản thân người ấy hay bởi người khác.
Final Perseverance
Trung thành đến cùng, bền đỗ đến cùng. Là sự kiên định của một người trong sự lành cho đến lúc chết. Đây là công việc của ơn hiện sủng. Mặc dầu con người không xứng đáng hưởng ơn bền đỗ tới cùng, người ấy có thể, nhờ cầu nguyện liên lỉ và cộng tác với Chúa trong việc chống lại bao trò hề nhiều mặt trong đời mình, chắc chắn nhận lãnh từ Chúa ơn quan trọng nhất này, mà hạnh phúc đời đời tùy thuộc vào đó.
Finite
Hữu hạn. Bị giới hạn trong hữu thể, sự hoàn thiện, các hoạt động hoặc chiều kích. Áp dụng vào tạo vật, một tạo vật hữu hạn là bị hạn chế hay giới hạn bởi yếu tính của nó, bởi vì tạo vật được Chúa sáng tạo và tùy thuộc tuyệt đối vào Nguyên Nhân Đệ Nhất để nâng đỡ chúng trong hiện hữu và hoạt động.
Fioretti
Fioretti, Sách “Những Bông Hoa Nhỏ”, Tiểu Kỳ Hoa. Là cuốn “Nhưng bông hoa nhỏ của thánh Phanxicô”, một sưu tập cổ điển các truyện kể và truyền thuyết về thánh Phanxicô Átxidi (1181-1226) và các bạn thời đầu. Sách được viết bằng tiếng Ý vùng Tuscany vào khoảng năm 1322, và có thể được dịch từ các nguồn Latinh trước đó, trong đó có Hạnh thánh Phanxicô và các bạn của ngài.
Fire Of Hell
Lửa hỏa ngục. Là thực tại vật lý, ngòai con người, qua đó nhưng ai trong hỏa ngục bị luận phạt, ngoài việc mất quyền chiêm ngưỡng Chúa. Nó được gọi là lửa trong Kinh thánh để nhấn mạnh nỗi đau đớn hành hạ mà nó gây ra, và để nhận dạng lửa là tác nhân bề ngoài hành hạ nhưng người đã hư mất. Nhưng đó không phải là lửa thông thường, bởi vì nó không tiêu hủy những gì nó đốt cháy, và mặc dầu là vật chất, nó có thể ảnh hưởng đến bản chất thuần túy thiêng liêng của linh hồn.
Fire Of Purgatory
Lửa luyện ngục. Là nguồn gây đau khổ bề ngoài trong luyện ngục, ngoài hình phạt tạm là không được chiêm ngưỡng Chúa. Mặc dầu nhiều tác giả, khi giải thích câu nói của thánh Phaolô (I Cr 3:15), cho đó là lửa vật lý, giáo huấn chính thức của Giáo hội chỉ nói đến “các hình phạt thanh luyện” chứ không nói đến lửa thanh luyện (Denzinger 1304).
Firstborn
Con đầu lòng. Là trưởng nam được xem như là người thừa kế tinh thần và vật chất của người cha. Đặc biệt hãy xem trong trình thuật Kinh thánh về ông Jacob (Gia-cóp), người thuyết phục anh trai mình là ông Esau (Ê-xau) hãy nhượng quyền trưởng nam đổi lấy một chén cháo đậu (St 25:31-34). Để tưởng nhớ các con trai đầu lòng của người Do Thái được thoát chết tại Ai Cập, việc các trưởng nam ăn chay được quy định vào ngày mười bốn của tháng Nisan.
First Cause
Nguyên nhân đệ nhất, nguyên nhân thứ nhất. Chúa là nguyên nhân đầu tiên của mọi lòai, bởi vì Chúa là đầu tiên trong mọi lọai nguyên nhân. Chúa cũng đang họat động trong mọi nguyên nhân tính hữu hạn, và là nguyên nhân nền tảng mà mọi nguyên nhân khác liên tục lệ thuộc vào để họat động.
First Century Man
Con người của thế kỷ thứ nhất. Là từ ngữ mà các nhà phê bình văn thể của Tin Mừng dùng để mô tả con người văn hóa thấp kém trong thời Chúa Giêsu Nazareth. Con người này được cho là một người có trí khôn bình thường như người cùng tuổi thời đó, và sự sẵn sàng của người ấy để tin mọi sự làm cho người ấy rơi vào nét tiêu biểu chung của xã hội thời đó. Theo các nhà phê bình, điều này giải thích niềm tin ngây thơ vào các trình thuật Tin Mừng, chẳng hạn việc Đức Mẹ chịu thai Chúa mà vẫn còn đồng trinh, các phép lạ, việc trừ quỷ, và nhất là việc thân xác Chúa sống lại từ kẻ chết.
First Communion
Rước lễ lần đầu, rước lễ vỡ lòng. Là huấn chỉ của Giáo hội yêu cầu trẻ em hãy Rước lễ và Xưng tội, khi trẻ đến tuổi khôn. Công đồng chung Lateran IV (năm 1215) ban lệnh này đầu tiên, và tập tục đã bị gián đoạn trong nhiều thế kỷ, do sự xâm nhập của thuyết Jansen (đạo lý khắc khổ). Thánh Giáo hòang Piô X đã tái lập tập tục và nhắc lại huấn chỉ, trong khi Ngài cũng giải thích sự tương quan cần thiết ra sao giữa hai Bí tích Hòa giải và Thánh Thể. Ngài nói: “Tuổi khôn, cho cả hai bí tích Hòa giải và Thánh Thể, là tuổi khi trẻ em bắt đầu có trí khôn, biết lý luận.” Điều này có nghĩa là “một sự hiểu biết đầy đủ và hoàn tòan về giáo lý Kitô giáo không là cần thiết cho việc rước lễ vỡ lòng hay xưng tội lần đầu.” Hơn nữa, “nghĩa vụ của huấn chỉ về xưng tội lần đầu và rước lễ vỡ lòng, vốn ràng buộc đứa trẻ, cũng ràng buộc người chăm sóc trẻ, cụ thể là cha mẹ, cha giải tội, các giáo viên và mục tử” (Sắc lệnh Quam Singulari, ngày 8-8-1910).
First Confession
Xưng tội lần đầu. Là huấn chỉ của Giáo hội yêu cầu trẻ em hãy Xưng tội, khi trẻ đến tuổi khôn. Công đồng chung Lateran IV vào năm 1215 ban luật này đầu tiên, sau đó luật được Công đồng chung Trent khẳng định, và công đồng lên án những ai “bác bỏ rằng mỗi người và mọi người phải xưng tội ít nhất mỗi năm một lần” (Denzinger 1708). Quy định được nhắc lại và làm sáng tỏ bởi thánh Giáo hòang Piô X vào năm 1910, và Tòa thánh tái khẳng định vào năm 1973, khi ra lệnh chấm dứt các cuộc thử nghiệm vốn cho hõan việc xưng tội tới sau Rước lễ vỡ lòng. “Lệnh truyền này, được phép áp dụng trong tòan Giáo hội hòan vũ, đã mang lại và tiếp tục mang lại nhiều hoa trái cho đời sống Kitô hữu và sự trọn lành của tinh thần”.
First Crusade
Cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Đây chủ yếu là cuộc viễn chinh Pháp (1096-99) được Đức Giáo hòang Urban II gợi ý, kết thúc với việc chiếm giữ Jerusalem vào năm 1099. Godfrey of Bouillon (qua đời năm 1100), một trong các vị chỉ huy cuộc Thập tư chinh, được chọn làm nhà lãnh đạo của Jerusalem. Ông tự gọi mình là “Người bảo vệ Thánh Mộ”, và từ chối gọi mình là Vua hoặc đội Vương miện, “do kính trọng Đấng đã đội mũ gai tại nơi đây thay vì Vương miện.”
First Fridays
Các ngày thứ Sáu đầu tháng. Tập tục giữ quy định các ngày thứ Sáu đầu tháng, được Giáo hội khuyến khích, dựa vào một lời Chúa hứa với thành nữ Margaret Mary Alacoque (1647-90), nói rằng các ơn đặc biệt, chẳng hạn ơn bền đỗ tới cùng, sẽ được ban cho những ai Rước lễ trong chín ngày thứ Sáu đầu tháng liên tiếp nhau.
First Fruits
Của đầu mùa. Từ ngữ Kinh thánh dùng cho hoa quả tốt nhất và đầu mùa trong vụ thu họach, cả tự nhiên lẫn biến chế, lấy từ các nguồn như sân đập lúa, bể ủ nho, và thiết bị ép dầu (Đnl 18). Chúng là đặc biệt trong luật vì là của lễ dâng Chúa, và được quy định vào một số dịp lễ, như lễ Vượt Qua hay lễ Ngũ Tuần (Đnl 26).
First Grace
Ơn đầu tiên. Là ơn thánh hóa, được một số Bí tích ban cho một người không ở trong tình trạng ân sủng. Do đó Bí tích Rửa tội, Bí tích Hòa giải và (khi cần) bí tích Xức dầu Bệnh nhân ban ơn thánh hóa, với một số điều kiện tối thiểu được chu tòan.
First Mass
Thánh lễ mở tay. Là Hy tế Thánh lễ đầu tiên của một tân linh mục. Trong quy định ban ân xá mới, “ơn tòan xá được ban cho tân linh mục, là người cử hành thánh lễ mở tay, và mọi tín hữu tham dự thánh lễ ấy cách sốt sắng.”
First Parents
Cha mẹ nguyên khởi, nguyên tổ. Ông Adam (A-đam) và bà Eve (E-va) được xem là nguyên tổ của nhân lọai (Công đồng chung Vatican II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội Lumen Gentium, 2, 56).
First Plank
Tấm ván đầu tiên. Từ ngữ dùng để mô tả bí tích Rửa tội, như một “tấn ván thứ nhất” ném xuống cho người chìm thuyền, để cứu người ấy khỏi tội lỗi.
First Saturdays
Các thứ Bảy đầu tháng. Là việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ Maria vào năm ngày thứ Bảy đầu tháng liên tiếp, như một phần của các điều Đức Mẽ mặc khải tại Fátima, Bồ Đào Nha (năm 1917). Tín hữu phải đi Xưng tội, và vào mỗi thứ Bảy trong năm thứ Bảy đầu tháng liên tiếp phải Rước lễ, lần chuỗi Mân côi, và suy gẫm các mầu nhiệm ít là mười lăm phút.
Fish
Con cá. Là biểu tượng của Chúa Kitô, trước thế kỷ thứ năm. Chữ cá trong tiếng Hi Lạp viết là ichthus, gồm các mẫu tự đầu của Iesous, CHristos, THeou, Uios, Soter – tức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc. Con cá cũng là biểu tượng của các Tông đồ ngư phủ, là Anrê, Phêrô và các con ông Zebedee (Dê-bê-đê), mà Chúa Kitô biến các vị trở thành “những kẻ lưới người” (Mc 1:17). Tổng lãnh thiên thần Raphael được diễn tả bằng một con cá được đem về chữa mắt cho ông già Tobit.
Fisherman's Ring
Nhẫn Ngư phủ, Ấn của Giáo hoàng. Là chiếc nhẫn ấn của Đức Giáo hòang, dùng để ấn vào các văn kiện quan trọng, chẳng hạn các đỏan sắc Giáo hòang. Chiếc nhẫn vẽ hình thánh Phêrô đang đánh cá và mang tên Đức Giáo hòang. Khi Ngài băng hà, một văn kiện chính thức được sọan thảo để chứng thực là nhẫn Ngư phủ đã bị phá hủy. Việc này là nhằm ngăn chặn việc làm giả các đỏan sắc.
Fish With Bread
Cá với Bánh mì. Là một biểu tượng của Phép Thánh Thể, vốn được phát hiện sớm trong các hang tọai đạo, và nhắc nhớ việc Chúa Kitô nuôi sống đám đông đi theo Chúa. Trên con cá, tượng trưng Chúa Kitô, thường là một thúng bánh mì với ly rượu nho trong cái thúng trong suốt, đó là các yếu tố của Bí tích Thánh Thể.
Five Scapulars
Năm bộ áo Đức Bà. Là việc tôn sùng đặc biệt với năm trong mười tám bộ áo Đức Bà nổi tiếng nhất, được Giáo hội chuẩn y. Năm bộ áo này được mang chung với nhau. Năm bộ áo gồm có: bộ áo nâu của Đức Bà Núi Carmêlô, bộ áo đỏ của cuộc Khổ nạn Chúa Kitô, bộ áo đen của Bảy sự thương khó Đức Trinh Nữ, bộ áo xanh của Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và bộ áo trắng của Chúa Ba Ngôi.
Five Ways
Ngũ chứng đạo. Là năm lý luận cổ điển của thánh Tôma Aquinas để chứng minh sự hiện hữu của Chúa. Chúng là bằng chứng từ các hiệu quả được tạo ra trong thế giới, từ đó một tâm trí không thành kiến có thể kết luận cách hợp lý cho nguồn gốc từ Chúa. Được gọi là Quinque Viae (Ngũ đạo), chúng lý luận rằng: 1. sự biến dịch (thay đổi) trong thế giới hàm chứa một Nguyên Nhân Biến Động Đệ Nhất, là Đấng không biến động, tức không thay đổi; 2. một chuỗi nguyên nhân tác thành và hiệu quả của chúng, được quan sát trong thế giới, đòi hỏi một Nguyên Nhân Tác Thành Đệ Nhất; 3. sự hiện hữu các vật bất tất, tức các hữu thể tình cờ không cần hiện hữu, đòi hỏi phải có một Hữu Thể Tất Yếu, là Hữu thể không thể không hiện hữu; 4. các so sánh tổng quát mà con người làm ra (ít nhiều ‘chân’, ít nhiều ‘thiện’, ít nhiều ‘mỹ’ hay ít nhiều ‘thánh thiện’) đòi hỏi phải có một Hữu Thể Chí Thiện, là Đấng có mọi phẩm chất tốt lành và chân thật; 5. xu hướng của mọi lòai trên Trái đất, sinh vật hay bất động, là họat động hướng về một mục đích rõ ràng, đòi hỏi phải có một Nguyên nhân Cứu Cánh Đệ Nhất, tức một Hữu thể Thông Minh Vô Song, Đấng đang hướng dẫn mọi thụ tạo đi đến một mục đích tiền định.
Five Wounds
Năm dấu thánh, Năm thương tích. Là việc tôn kính cuộc Thương khó của Chúa Kitô bằng cách tập trung vào năm dấu thánh Chúa đã chịu trên bàn tay, trên bàn chân và cạnh sườn. Là sự tôn kính ưa thích của nhiều vị đại thánh, lễ kính Năm Dấu Thánh đã được cử hành ở một số quốc gia trong ngày thứ Sáu thứ tư của mùa Chay. Nó cũng được diễn tả trong Kinh Anima Christi (Kinh Linh hồn Chúa Giêsu), với lời cầu Chúa Kitô “Xin che giấu con trong thương tích Chúa” (Intra tua vulnera absconde me)
Fixed Altar
Bàn thờ cố định. Là một cấu trúc cố định bằng đá, gồm một cái bàn và chân đỡ, được cung hiến chung như một bàn thờ đầy đủ. Chúng không thể được tách rời ra khỏi bàn thờ mà không mất sự cung hiến.
Fixed Feasts
Lễ trọng cố định. Là các lễ có tầm quan trọng khác nhau vào một số ngày trong lịch phụng vụ. Một số lễ trọng là lễ Giáng Sinh, các lễ Đức Mẹ, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, và lễ của các vị Thánh, hoặc được mừng kính trong Giáo hội hòan vũ, như lễ các thánh Tông đồ, hoặc chỉ mừng trong một số quốc gia hay lãnh thổ, chẳng hạn lễ thánh nữ Elizabeth Seton ở Mỹ, hay lễ thánh Andrew Bobola ở Ba Lan.
Fl
Fl, Floruit – Thuở bình sinh.
Flagellants
Người hành xác bằng roi. Là các nhóm người cuồng tín tự hành xác bằng đánh roi nơi công cộng. Mặc dầu đã bị các Đức Giáo hòang lên án nhiều lần, thói tục này vẫn xuất hiện. Sự kỳ vọng thái quá của họ đã phát triển thành lạc giáo, nhất là vào cuối thời Trung Cổ. Trong thời đại ngày nay, việc tự đánh mình nơi riêng tư và vừa phải được nhìn nhận là một hình thức ăn năn đền tội và đạo đức. (Từ nguyên Latinh flagellare, đánh roi, quất roi.)
Flattery
Nịnh hót, nịnh bợ. Là sự ca ngợi giả tạo. Nịnh hót là khen ngợi ai một cách không thành thật. Đây là sự thiếu thành thật trong lời nói hay việc làm, thường với một người nhưng cũng có thể về người ấy, nhằm hưởng lợi ích hay tránh tai hại từ người được khen ngợi. Từ ngữ “nịnh bợ” cũng còn quy về một người được kính trọng bằng sự thừa nhận, mà không nhất thiết bao hàm rằng lời ca ngọi là đúng sự thật.
Flesh (Biblical)
Thân xác, xác thịt, nhục thể, người phàm. Là thân thể của một người như là đối lập với tinh thần của người ấy. Nhưng một cách đặc biệt hơn, xác thịt có nghĩa là một người tương phản với Chúa và tinh thần của Chúa, và do đó tượng trưng cho những gì là đặc trưng của con người, cụ thể là sự chết, yếu đuối và tội lỗi.
Fleur-De-Lis
Hoa huệ. Là một biểu tượng của Đức Trinh Nữ Maria. Là một biểu tượng thời Trung cổ tại Pháp trình bày hoa huệ như là tượng trưng cho lòng thanh sạch. Hoa huệ thường được thấy trong các tranh Truyền Tin, và trên các tranh tường ở đền thánh dâng kính Đức Mẹ.
Flood Or Deluge
Lũ lụt hay hồng thủy. Là từ ngữ Kinh thánh dùng cho việc tiêu diệt loài người bởi nước như là sự trừng phạt của Chúa. Mọi người bị tiêu diệt trừ ra một nhóm ít người được Chúa gìn giữ cách lạ lùng để phát sinh một nòi giống người mới (St 6, 7, 8, 9). Rõ ràng là Chúa gây ra trận hồng thủy bởi vì “ĐỨC CHÚA thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất” nên “ĐỨC CHÚA hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất” (St 6:5-7). Do đó, “ĐỨC CHÚA phán sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất con người mà Chúa đã sáng tạo". Chúa nói với ông Noah (Nô-ê), “là người công chính, hoàn hảo giữa những người đồng thời" (St 6: 9), lời cảnh báo và đưa ra các chỉ thị chi tiết về cách thức ông và gia đình cùng các loài chim và sinh vật, mỗi loài hai con, có thể được cứu bằng cách vào sống trên một con tàu, trong thời gian hồng thủy xảy ra. Nghiên cứu bằng chứng Kinh thánh cho thấy rằng, Trái đất bị ngập lụt trong khoảng một năm, trước khi ông Noah và những ai trong con tàu rời tàu an toàn, và bắt đầu cuộc sống mới. Trình thuật kết luận với việc Chúa thiết lập giao ước với ông Noah và con cái ông, cho họ làm chủ trái đất, và hứa sẽ không bao giờ có trận hồng thủy nào tiêu diệt thế giới nữa (St 9:7-11).
Flowering Rod
Gậy nở hoa. Là biểu tượng của thánh Giuse, cha nuôi của Chúa Giêsu. Thánh Giuse thường được vẽ kèm với với nhiều hoa huệ nở từ cây gậy, nhằm tôn vinh đức trinh khiết và khiết tịnh của ngài. Truyền thuyết nói rằng người bạn đường của Đức Maria đã được chọn theo cách này. Khoảng từ đầu thế kỷ thứ tư, chúng ta thấy thánh Giuse được trình bày với biểu tượng trên, trong khi phu quân của các người nữ khác, như ông Zechariah (Da-ca-ri-a), được vẽ hình cầm cây gậy cằn cỗi.
Flowers
Hoa. Hoa được sử dụng nhiều trong Giáo hội Công giáo để trang trí bàn thờ, đặt trước các ảnh tượng, và trưng bày trong các đền thánh hay địa điểm hành hương. Hoa không chỉ để trang trí, mà còn là hình thức hy sinh, vì chúng sẽ khô héo và được thay thế bằng hoa tươi khá. Việc trang trí hoa trên chân đèn nến, trên tường và cửa đền thờ đã được nhắc đến trong Kinh thánh (Xh 25:31; I V 6:18).
Flowers (Biblical)
Hoa (Kinh thánh). Các quy chiếu hướng dẫn đến hoa trong Kinh thánh là chủ yếu ám chỉ đến vẻ đẹp hấp dẫn của chúng, nhưng cũng ám chỉ đến bản tính chóng qua của chúng (Tv 103:15; Is 5:34; Mt 6:28-30). Vì vậy hoa tượng trưng cho tính cách nhất thời của các tạo vật xem ra hấp dẫn nhất và làm thích ý nhất trong thế giới này, để so sánh với vẻ đẹp vĩnh cửu và bất biến của Chúa.
Font
Giếng Rửa tội, bình nước thánh. Chỗ chứa nước rửa tội hay nước thánh, thường làm bằng đá, hiếm khi bằng kim loại hoặc bằng gỗ. Các giếng gỗ có phần chứa nước bằng kim loại hay bằng đá. Vào thời Giáo hội sơ khai, khi việc rửa tội người lớn thường được thực hiện bằng việc dìm trong nước, giếng rửa tội là một chậu lớn thấp hơn mặt đất, người tân tòng đứng trong đó và nước được đổ lên người ấy. Còn trong việc rửa tội trẻ em, giếng rửa tội cũng rộng và cao hơn mặt đất để trẻ em dễ được dìm trong nước. Khi việc rửa tội bằng đổ nước đã trở thành luật, các giếng rửa tội trở nên nhỏ hơn và cao hơn, được trang trí đẹp và dần dà có vóc dáng như hiện nay. Giếng được đậy bằng cái nắp. Trong nhiều nhà thờ, giếng rửa tội hoặc đứng riêng trong một nhà nguyện (đền rửa tội), hoặc được rào lại ở một phần riêng của nhà thờ. Các bình nước thánh được đặt trong khu vực tiền đình nhà thờ, hoặc bên trong nhà thờ, và đặt phù hợp ở các cửa ra vào nhà thờ, để cho tín hữu tự chúc lành cho mình khi vào và rời nhà thờ.
Forbidden Books
Sách cấm. Là các sách viết mà người Công giáo bị cấm đọc, trừ khi có lý do nghiêm trọng, bởi vì chúng trái với đức tin hay luân lý Kitô giáo. Danh sách sách cấm đã có từ các thế kỷ đầu tiên; chẳng hạn năm 417, Đức Giáo hòang Innocent cấm tín hữu đọc Kinh thánh ngụy thư. Danh sách khá đầy đủ đầu tiên, gọi là Index Librorum Prohibitorum (Danh sách Sách Cấm), được Tòa Thẩm Tra công bố năm 1557 dưới triều Đức Giáo hòang Phaolô IV. Năm 1571 thánh Giáo hòang Piô V thành lập Bộ Kiểm tra Sách cấm, và Bộ này tồn tại đến năm 1917, khi Đức Giáo hòang Benedict XV chuyển trao trách nhiệm bộ này vào Bộ Thánh Vụ. Khi Bộ Giáo luật được công bố vào năm 1918, có 21 điều riêng biệt (từ điều 1395 đến điều 1405) bàn đền vấn đề các sách cấm, và nhiều hình phạt nặng Giáo hội đặt ra cho những người cố tình bất tuân. Năm 1966 Thánh Bộ Giáo lý Đức tin tuyên bố rằng danh mục sách cấm và các hình phạt tương ứng không còn bị ràng buộc trong luật nữa. Tuy nhiên, không có thay đổi cơ bản nào trong thái độ của Giáo hội đối với việc đọc văn chương trái với chân lý mặc khải. Người công giáo vẫn buộc phải kìm hãm không đọc những gì có thể là nguy hiểm gần cho đức tin và đức hạnh Kitô giáo.
Force
Sức mạnh, thế lực, quyền lực, vũ lực. Trong thần học luân lý, sức mạnh là cái gì phát sinh từ một tác nhân bên ngòai nạn nhân, mà ý chí người này chống đối lại. Nó cũng giống như bạo lực, và bao hàm một tác nhân bên ngòai và sự đối kháng về phía nạn nhân. Do đó, nói cách chính xác, không ai có thể áp đặt vũ lực hay gây ra bạo lực cho mình hoặc cho kẻ khác. Như là luật cơ bản, sức mạnh chỉ có thể tác động các hành vi bên ngoài, chứ không thể tác động các hành vi bên trong của ý chí. Như vậy, các hành vi bên trong là quy về luân lý, dù cho người ấy phải chịu bạo lực bao nhiêu chăng nữa; các hành vi bên ngòai được thực hiện dưới áp lực là không quy về luân lý, miễn là cá nhân từ chối sự đồng ý bên trong.
Foreign Missions
Vùng truyền giáo ở nước ngoài. Là các vùng Phúc âm hóa giữa các dân tộc bên ngoài đất nước của mình. Từ ngữ này hàm ý là đem đức tin Công giáo đến cho người trong vùng đất không Kitô giáo. Nhưng chữ “ở nước ngòai” hiện nay đã bị bỏ đi, do sự giải hóa tính chất Kitô giáo lớn lao diễn ra tại các nước có truyền thống Kitô giáo, và sự phát triển mạnh của Giáo hội nơi các dân tộc mới được truyền giảng Tin Mừng.
Foreordination
Tiền định, tiên bài. Là một phần của định mệnh vốn khẳng định rằng, ngòai sự nhìn thấy tương lai, Chúa thật sự xác định tương lai. Nó tương hợp với sự định trước, và có thể áp dụng cho một sự chọn lựa tự do của con người để làm điều đã được quyết định trước rồi.
Forgery
Giả tạo, giả mạo, ngụy tạo. Là sự bắt chước giả mạo; là làm sai lệnh sự thật gây thiệt hại cho người thứ ba. Trong giáo luật, đây có thể là một lời nói, nhận định hay chứng tá giả tạo và sai sự thật; là câu viết giả mạo trong một văn kiện; trong hành động, là tác phẩm giả mạo hoặc tiền giả. Nó cũng có thể là cố ý sử dụng các sự giả tạo hay giả mạo như vậy.
Forgiveness
Tha thứ, tha tội. Là tha thứ cho một xúc phạm. Giáo hội Công giáo tin rằng tội lỗi được tha thứ là đã được thực sự lấy ra khỏi linh hồn (Ga 20), và không thuần túy được che phủ bởi các công nghiệp của Chúa Kitô. Chỉ có Chúa có thể tha thứ tội lỗi, bởi vì chỉ có Chúa mới tái lập được ơn thánh hóa cho một người đã phạm tội trọng, và bị mất tình trạng ân sủng. Chúa tha thứ tội lỗi cho người thật lòng ăn năn sám hối, qua hành vi ăn năn tội cách trọn, hoặc ngay tức thì qua một bí tích. Các bí tích được hướng chủ yếu vào sự tha thứ tội lỗi là bí tích Rửa tội và Bí tích Hòa giải, và bí tích hướng thứ yếu vào sự tha thứ tội lỗi, với một số điều kiện, là bí tích Xức dầu Bệnh nhân.