Ngày 25-06-2017
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tiểu sử chính thức của 5 vị Hồng Y được tấn phong ngày thứ Tư 28/6/2017
Đặng Tự Do
16:04 25/06/2017
Lúc 4 giờ chiều ngày thứ Tư 28 tháng 6, tại Đền Thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự Công Nghị Tấn Phong Hồng Y, trao mũ, nhẫn và nhà thờ hiệu tòa cho 5 vị tân Hồng Y.

Dưới đây là tiểu sử chính thức của 5 vị Hồng Y sắp được tấn phong.

1. Đức Cha Jean Zerbo - Tổng giám mục Bamako - Mali

Đức Cha Jean Zerbo sinh tại Segou vào ngày 27 tháng 12 năm 1943. Ngài được thụ phong linh mục ngày 10 tháng 7 năm 1971 tại Segou.

Sau khi được thụ phong linh mục, ngài tiếp tục học tại Lyon, bên Pháp; và sau đó theo học tại Học viện Kinh Thánh ở Rôma từ năm 1977 đến năm 1981, là năm ngài nhận được bằng Cao Học Kinh Thánh.

Từ năm 1982, ngài phục vụ trong tư cách một linh mục chánh xứ ở Markala và là một giảng viên tại đại chủng viện Bamako.

Ngài được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá của tổng giáo phận Bamako vào ngày 21 tháng 6 năm 1988.

Ngày 19 tháng 12 năm 1994, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm giám mục giáo phận Mopti. Bốn năm sau đó, vào ngày 27 tháng 6 năm 1998, ngài được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Bamako.

Đức Tổng Giám Mục đã đóng một vai trò tích cực trong các cuộc đàm phán hòa bình ở Mali. Ngài dành được sự kính trọng của người dân Mali bất kể lương giáo vì đã đi tiên phong trong cuộc chiến chống lại sự loại trừ, và trên hết, đã thúc đẩy hòa giải và liên đới giữa người Mali.

2. Đức Cha Juan José Omella – Tổng Giám Mục Barcelona - Tây Ban Nha;

Đức Cha Juan José Omella sinh tại Cretas ngày 21 tháng 4 năm 1946.

Ngài đã hoàn thành các chương trình triết học và thần học tại chủng viện Zaragoza và tại trung tâm đào tạo linh mục của Hội Truyền Giáo Phi Châu White Fathers ở Leuven và Jerusalem. Ngài được thụ phong linh mục vào ngày 20 tháng 9 năm 1970.

Giữa những năm 1990 và năm 1996, ngài làm cha phó, rồi cha xứ, trước khi được cử làm cha tổng đại diện giáo phận Zaragoza.

Sau đó, ngài sang truyền giáo ở Zaire trong một năm.

Ngày 15 tháng 7 năm 1996, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm giám mục phụ tá của Zaragoza.

Ba năm sau, ngày 27 tháng 10 năm 1999, ngài được bổ nhiệm làm giám mục chính tòa của giáo phận Barbastro-Monzón.

Từ ngày 24 tháng 8 năm 2001 đến ngày 19 tháng 12 năm 2003, ngài kiêm nhiệm giám quản Tông Tòa Huesca và từ ngày 19 tháng 10 năm 2001 đến ngày 19 tháng 12 năm 2003, kiêm nhiệm giám quản Tông Tòa Jaca.

Ngày 8 tháng 4 năm 2004, ngài được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Calahorra và La Calzada-Logrorio.

Ngày 6 tháng 11 năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm ngài là thành viên của Bộ Giám mục.

Ngày 26 tháng 12 cùng năm, ngài trở thành Tổng giám mục Barcelona.

Trong Hội Đồng Giám Mục Tây Ban Nha, Đức Cha đã là thành viên của Ủy ban mục vụ xã hội cho đến năm 1996, và giữ chức chủ tịch ủy ban này từ năm 2002 đến 2008, và sau đó thêm một nhiệm kỳ nữa từ năm 2014 đến năm 2017.

Ngài cũng là thành viên của Ủy ban Mục vụ, và Ủy ban Tông Đồ Giáo Dân.

Từ ngày 14 tháng 3 năm 2017 đến nay, ngài đã là thành viên của Ban chấp hành Liên Hội Đồng Giám Mục Âu Châu.

3. Đức Cha Anders Arborelius, O.C.D. - Giám mục Stockholm – Thụy Điển

Đức Cha Anders Arborelius, Dòng Cát Minh Nhặt Phép, sinh tại Sorengo vào ngày 24 tháng 9 năm 1949. Năm 20 tuổi, ngài mới gia nhập đạo Công Giáo.

Năm 1971, ngài gia nhập Dòng Cát Minh Nhặt Phép ở Norraby, và khấn trọn tại Bruges, bên Bỉ vào năm 1977.

Ngài đã hoàn thành các chương trình triết học và thần học ở Bỉ và tại Teresianum ở Rôma.

Đồng thời, ngài cũng theo học các ngôn ngữ hiện đại tại Đại học Lund.

Vào ngày 8 tháng 9 năm 1979, ngài được phong chức linh mục ở Malmö.

Ngày 29 tháng 12 năm 1998, ngài được tấn phong giám mục tại Stockholm và trở thành giám mục Công Giáo đầu tiên của Thụy Điển, là người Thụy Điển chính gốc, từ sau thời Cải cách Luther năm 1500.

Từ năm 2005 đến năm 2015, ngài là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Scandinavia. Sau khi hết nhiệm kỳ 10 năm, trong cuộc họp khoáng đại năm 2015, ngài được tái cử trong chức vụ phó chủ tịch.

Ngài đã từng là thành viên của Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình từ năm 2002 đến năm 2009.

Ngày 21 tháng Giêng vừa qua, ngài được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm cố vấn Bộ Giáo Dân, Gia Đình và Sự Sống.

4. Đức Cha Louis-Marie Ling Mangkhanekhoun - Đại diện Tông Tòa của Pakse - Lào

Đức Cha Louis-Marie Ling Mangkhanekhoun sinh ngày 8 tháng 4 năm 1944 tại Lào, thuộc tu hội Thánh Ý Thiên Chúa (Voluntas Dei). Ngài hoàn thành các chương trình triết học và thần học tại Lào và Canada; và được thụ phong linh mục vào ngày 5 tháng 11 năm 1972 tại miền Giám Quản Tông Tòa Viêng Chăn.

Bên cạnh tiếng Lào, là tiếng mẹ đẻ, ngài còn thông thạo tiếng Khmer, Pháp và Anh.

Sau khi được thụ phong linh mục, ngài chịu trách nhiệm về việc huấn luyện các giáo lý viên và phụ trách việc truyền giáo trên các vùng sơn cước của Lào; là hai nhiệm vụ cam go và đầy thử thách dưới thời cai trị của Pathet Lào.

Năm 1975, ngài được bổ nhiệm làm linh mục chính xứ và sau đó là tổng đại diện miền Giám Quản Tông Tòa Viêng Chăn.

Ngày 30 tháng 10 năm 2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm Đại diện Tông Tòa của Pakse và ngài được tấn phong Giám Mục ngày 22 tháng 4 năm 2001. Sau gần 17 năm cai quản Pakse, miền đất này đã có gần 13 ngàn tín hữu Công Giáo, với 6 linh mục giáo phận, 1 linh mục dòng, 12 chủng sinh, 9 tu huynh và 18 nữ tu.

Ngày 2 tháng 2 năm 2017, Đức Thánh Cha bổ nhiệm ngài kiêm nhiệm Giám quản Tông tòa Viên Chăn.

5. Đức Cha Gregorio Rosa Chávez - Giám mục phụ tá của Tổng Giáo phận San Salvador - El Salvador.

Đức Cha Gregorio Rosa Chávez sinh tại Sociedad vào ngày 3 tháng 9 năm 1942.

Ngài hoàn thành các chương trình triết học và thần học tại Đại Chủng viện San José de la Montaña ở San Salvador trong hai giai đoạn từ 1962 đến 1964, và từ 1966 đến 1969.

Năm 1965, ngài làm việc tại tiểu chủng viện của giáo phận San Miguel.

Ngài được phong chức linh mục vào ngày 24 tháng Giêng năm 1970, và từng làm thư ký Tòa Giám mục giáo phận San Miguel từ 1970 đến 1973; trong khi coi sóc giáo xứ Đức Mẹ Mân Côi, tại thành phố San Miguel.

Trong thời gian này ngài cũng đảm nhận chức vụ giám đốc truyền thông xã hội của giáo phận San Miguel; và làm tuyên úy cho nhiều hiệp hội và phong trào tông đồ giáo dân.

Sau đó, ngài theo học tại Đại học Công Giáo Leuven, Bỉ từ 1973 đến 1976, và đạt được bằng Cao Học về Truyền thông xã hội.

Ngoài tiếng mẹ đẻ là tiếng Tây Ban Nha, ngài nói thông thạo tiếng Pháp, và có kiến thức tổng quát về tiếng Anh, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Ý.

Sau khi trở về nước, năm 1977, ngài được Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero bổ nhiệm làm chánh văn phòng truyền thông của tổng giáo phận thủ đô San Salvador; và trực tiếp điều hành một đài phát thanh Công Giáo.

Bên cạnh đó, ngài còn là giám đốc đại chủng viện San José de la Montaña ở San Salvador từ 1977 đến 1982; và là thành viên hội đồng quản trị của Tổ chức Các Chủng Viện Mỹ Latinh từ 1979 đến 1982.

Ngài được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá của Tổng giáo phận San Salvador ngày 3 tháng Bảy năm 1982.

Ngài hiện là linh mục chính xứ giáo xứ San Francisco ở thủ đô San Salvador, và là chủ tịch của Caritas Mỹ Châu Latinh và vùng Caribê. Ngài cũng là giám đốc Caritas El Salvador.
 
TV Thời Sự Giáo Hội và Thế Giới Ngày Nay, Chúa Nhật 25/6/2017
VietCatholic Network
20:09 25/06/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây


VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền Hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:

1- Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha Chúa Nhật 25 tháng 6

2- ĐTC nói: “Chúng ta phải nhỏ bé lại thì mới nghe được tiếng Chúa.”

3- Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Serra nâng đỡ ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến.

4- Tổng tu nghị Dòng Chúa Phục Sinh.

5- ĐTC cảnh giác chống lại việc cám dỗ giáo sĩ tìm địa vị và sự kính trọng của xã hội.

6- Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ kêu gọi các tín hữu tham gia hai tuần cầu nguyện cho tự do tôn giáo.

7- Hội Đồng Giám Mục Phi Luật Tân công bố thư Mục Vụ về việc chống lại “tin giả”.

8- Giám mục Tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ không cho những người kết hôn đồng tính rước lễ và không làm phép tang cho họ.

9- Khủng bố Hồi Giáo ISIS nổ sập đền thờ Hồi Giáo al-Nuri để kích động hận thù tôn giáo.

10- Tòa án Liên bang Hoa Kỳ ra phán quyết ngưng lệnh trục xuất các Kitô hữu Iraq.

11- Đại Hội Song Nguyền Thế Giới kỳ 5 tại nhà thờ chánh tòa Giáo phận Orange.

12- Giới thiệu Thánh Ca: Ca Vang Tình Yêu Chúa.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hình ành lễ tuyên hưá LMTT Gx ĐMHCG Garland TX
Trần Mạnh Trác
20:28 25/06/2017
Chỉ̉ trong một tuần mà chúng tôi đã có dịp tường trình về nhiều biến cố xảy ra tại Gx ĐMHCG ở Garland, TX. Sở dĩ như vậy là vì Gx này đang chuẩn bị cho một cột mốc quan trọng: đó là kỷ niệm 25 năm thành lập vào tháng 7 năm 2018.

Tuy còn 1 năm nữa, nhưng cha xứ hình như muốn lợi dụng cơ hội này mà nâng cao lên lòng đạo đức cuả toàn thể giáo dân hơn nữa, cho nên trong tuần qua Gx đã thực hiện nhiều chương trình chuẩn bị tâm linh như tổ chức nhiều cuộc tĩnh tâm trước ngày phát động chương trình chuẩn bị, vào Chuá Nhật này trong dịp lễ ĐMHCG.

Thí dụ đoàn Liên Minh Thánh Tâm là một đoàn thể đã song hành với giáo xứ qua suốt chiều dài lịch sử cuả xứ đạo, lúc phồn thịnh cũng như lúc gian truân, đã có một buổi tĩnh tâm đặc biệt vào tuần trước để rồi chiều thứ Sáu hôm qua, cử hành lễ tuyên hứa cho 7 đoàn viên mới. Họ phần đông là những người tương đối mới gia nhập giáo xứ, nhưng cũng có những vị mà trong nhiều năm đã băn khoăn chưa gia nhập, nay mới quyết định.

Buổi tuyên hứa được thực hiện trong lễ kính Thánh Tâm, và thực hiện theo 'thể thức long trọng' dựa vào thủ bản, nghiã là rất dài, nhưng cũng rất cảm động.

Xin đính kèm hình ảnh cuả buổi tuyên hứa như sau đây:

Xem hình ảnh
 
Gx. Vĩnh Hòa: Mừng bổn mạng Thánh Gioan Baotixita
Văn Minh
08:03 25/06/2017
Gx. Vĩnh Hòa: Mừng bổn mạng Thánh Gioan Baotixita

“Là người Kitô hữu, chúng ta phải có bổn phận và trách nhiệm loan báo Tin mừng của Chúa đến cho mọi người giữa lòng thế giới hôm nay”.

Cha Vinh Sơn Trương Đức Vinh, phó xứ giáo xứ Chợ Đũi nhắn nhủ với cộng đoàn giáo xứ Vĩnh Hòa trong Thánh lễ mừng kính Thánh Gioan Baotixita – bổn mạng của giáo xứ Vĩnh Hòa (kỷ niệm 26 năm thành lập 1991 – 2017) diễn ra lúc 17g30 thứ Bảy, ngày 24.06.2017, do ngài chủ sự.

Xem Hình

Trước Thánh lễ, các em thiếu nhi trong các lớp giáo lý, đại diện các hội đoàn, cùng cha chủ tế cung nghinh tượng Thánh Gioan Baotixita xung quanh thánh đường, hòa trong tiếng kèn đồng rộn rã qua bài hát “Người đến từ Sa mạc”.

Bài giảng trong Thánh lễ, cha Trương Đức Vinh chia sẻ cho các em thiếu nhi cùng cộng đoàn: Ai trong chúng ta hiện diện ở trên đời này cũng đều có ngày “sinh nhật”, và tùy theo khả năng và điều kiện mỗi người trọn cách tổ chức về ngày sinh nhật cho riêng mình. Bên cạnh ngày sinh nhật, cái tên cũng được cha mẹ chọn đặt sao cho có ý nghĩa như; tên Phúc, mang đến phúc lộc dồi dào, tên Hiền, mang lại sự hiền hòa - hiếu thảo… Qua bài Tin Mừng (Lc 1, 57–66,80), ông Dacaria và bà Êlisabeth sinh hạ một con trai, và đặt tên là Gioan, nghĩa là “Thiên Chúa biểu lộ tình thương”. Ngài được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành người dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến giải thoát muôn dân.

Cha Vinh Sơn diễn giảng tiếp, nhìn lại giáo xứ Vĩnh Hòa qua hơn 25 năm, từ một giáo xứ nhỏ bé trước kia, thay vào đó hôm nay là một ngôi nhà thờ bằng đá khang trang bền vững. Bên cạnh đó, số giáo dân ngày một gia tăng từ 2700 năm 1991, đến nay đã gần 4000 nhân khẩu. Cũng từ nơi đây, giáo xứ Vĩnh Hòa đã sinh ra những hoa trái trong ơn gọi để phục vụ cho Giáo Hội, có quý cha giáo, quý cha chánh phó xứ, quý thầy đang theo học tại ĐCV cùng các nữ tu trong các nhà Dòng.

Mừng lễ kính Thánh Gioan Baotixita hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta: “Là người Kitô hữu, chúng ta phải có bổn phận và trách nhiệm loan báo Tin mừng của Chúa đến cho mọi người giữa lòng thế giới hôm nay”.

Thánh lễ nối tiếp với phần phụng vụ Thánh Thể.

Sau lời nguyện hiệp lễ, cha Vinh Sơn chúc mừng quý ông nhận Thánh Gioan Baotixita làm quan thầy bằng một tràng pháo tay giòn giã của cộng đoàn.

Thánh lễ khép lại lúc 18g30, cộng đoàn hân hoan lãnh nhận ơn bình an và ra đi với sứ vụ loan báo Tin Mừng.
 
Thánh Lễ Đặt Viên Đá Xây Dựng Nhà Thờ La Vang – Cần Giuộc
Người Giồng Trôm
08:13 25/06/2017
Thánh Lễ Đặt Viên Đá Xây Dựng Nhà Thờ La Vang – Cần Giuộc

Sáng hôm nay 25 tháng 6 năm 2017, niềm vui tan tỏa tại vùng đất hẻo lánh Cần Giuộc – Long An. Đơn giản vì rằng Cần Giuộc giờ đây có ngôi nhà thờ đầu tiên để thờ phượng Chúa.

Hồng ân Chúa quá bao la tuôn đổ trên vùng đất này. Cạnh đó phải kể đến công khó của Cha Lui Nguyễn Trí Hướng và của rất rất nhiều người. Mới được bài sai của Đức Giám Mục Giáo phận gửi về đây hơn một năm nhưng rồi vùng đất truyền giáo Cần Giuộc trổ sinh nhiều hoa trái, đặc biệt là niềm vui đặt viên đá đầu tiên xây dựng Thánh Đường La Vang hôm nay.

Xem Hình

9 g 30, Thánh Lễ đặt viên đá đầu tiên có đông đảo sự hiện diện của người thân cha chính xứ Lui Nguyễn Trí Hướng đến từ nhiều nơi. Đặt biệt hôm nay, Cha xứ Lui đã “kéo” được ca đoàn Mai Tâm xuống để phục vụ hát Thánh Ca Thánh Lễ. Cạnh đó, có sự hiện diện của đại diện tôn giáo bạn và chắc chắn là bà con giáo dân Cần Giuộc.

Chủ tế Thánh Lễ đặt viên đá đầu tiên hôm nay là Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm. Cùng đồng tế với Đức Cha Phêrô có một số linh mục vùng phụ cận.

Tưởng nghĩ cũng nên nhắc đến sự hiện diện hết sức đặc biệt của Cha Inhaxio Hồ Văn Xuân – Tổng Đại Diện giáo phận Sài Gòn. Đặc biệt, dù ở Sài Gòn phồn hoa đô thị nhưng long của Cha Inhaxio luôn hướng về những vùng nghèo và vùng truyền giáo. Chắc có lẽ không nói ra nhưng Mỹ Tho và Vĩnh Long là 2 giáo phận luôn ở trong con tim của Cha Inhaxio. Không quản ngại thời gian và đường sá, Cha Inhaxio đã hiện diện trong Thánh Lễ sang nay.

Trong bài chia sẻ, Đức Cha Phêrô mời gọi cộng đoàn rao giảng Tin Mừng qua câu chuyện trong sách Công Vụ Tông Đồ. Thánh Phaolo trong một bài giảng Ngài nói với dân vùng đó rằng tôi thấy an hem rất sung đạo. Tôi thấy nhiều bàn thờ kể cả có bàn thờ Kính Thần Vô Danh. Tôi xin giới thiệu cho An hem Đấng gọi là Thần Vô Danh. Mượn câu chuyện đó để gợi lên việc rao giảng Đấng Thần Linh mà cộng đoàn tin tưởng.

Đức Cha mời gọi công việc rao giảng Tin Mừng mà Chúa Giêsu sai 72 môn đệ cho nên không phải các tông đồ là các giám mục làm công việc này mà tất cả mọi người … Chúa dạy tiếp : các con hãy sai thợ gặt. Trước hết chúng ta hãy cầu nguyện. Ở đây có các cụ già ở đây đọc kinh cho các cụ là tốt rồi ! Teresa Hài Đồng Giêsu ở trong nhà kín nhưng cầu nguyện cho việc truyền giáo … cho nên trước hết là cầu nguyện, xin Chúa sai thợ gặt và cộng tác bằng nhiều cách.

Hết sức dễ thương và thực tế bày tỏ tình cảm vùng truyền giáo Cần Giuộc thân thương này, Đức Cha Phêrô đã ký quỹ 100 triệu góp phần vào việc xây dung Ngôi nguyện đường Đức Mẹ La Vang này. Cộng đoàn dân Chúa xin cảm ơn Đức Cha.

Thánh Lễ tạ ơn đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ La Vang khép lại. Bữa cơm thân mật được khoản đãi nhiều người đã không quản ngại đường xa đến với vùng truyền giáo nhỏ bé này. Xin Chúa thương tuôn đổ muôn ơn lành trên những ai bằng cách này hay cách khác đã góp phần xây dựng Thánh Đường La Vang.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giáo Hội Công Giáo Dưới Cái Nhìn của Một Ký Giả Hoa Kỳ (bài 14)
Vũ Văn An
19:07 25/06/2017
Chương Bốn: Sinh hoạt tâm trí

Bất chấp các tiên mẫu định sẵn mô tả người tôn giáo như là địch thủ của óc phê phán, phần lớn người Công Giáo thực sự hay suy tư về đức tin của mình. Hàng ngày, các linh mục tương lai và các người giáo dân tới các chủng viện và các đại học để học hỏi giáo huấn Công Giáo, trong khi man vàn người khác tham dự các nhóm học tập, hay đọc các tác phẩm của các bậc thầy thần học Công Giáo, hay thăm dò hệ thống Blog rất phổ biến của Công Giáo. Bất chấp làm gì, họ cũng dành khá nhiều thì giờ để nghiền ngẫm quanh các chủ đề như Thánh Mẫu Học (Mariology), tức ngành thần học nói về Trinh Nữ Maria, cánh chung học (eschatology) tức giáo huấn về cuối đời người, mà người ta hay văn vẻ gọi là tứ chung (4 điều sau hết) tức là chết, phán xét, thiên đàng, hỏa ngục, thần hoc tín lý hay tín lý học (các nguyên tắc cốt lõi của đức tin, như Thiên Chúa Ba Ngôi), và giáo huấn xã hội Công Giáo. Đây không hẳn là việc nhồi sọ ngu dân. Người Công Giáo duy trì nhiều quan điểm khác nhau về tất cả các vấn đề này, và có những cuộc tranh luận rất mạnh mẽ.

Thao tác trí thức hàng đầu của Giáo Hội được đặt tên là “thần học”, nói nôm na là môn học về Thiên Chúa. Các nhà phê bình đôi khi bác bỏ thần học coi nó như một thứ trừu tượng hóa vô nghĩa, như biếm họa thời danh về cuộc tranh luận xem bao nhiêu thiên thần có thể nhẩy múa trên đầu một cây kim. Ở đầu kia của thể liên tục, Thánh Tôma Aquinô, vị linh mục Dòng Đa Minh ở thế kỷ 12 được nhiều người coi là thần học gia vĩ đại nhất trong lịch sử Giáo Hội, có lần lý luận rằng thần học phải là “nữ hoàng” của các khoa học, là bộ môn mà quanh nó mọi bộ môn khác, nghệ thuật, văn chương, chính trị, toán học, và v.v… phải được tổ chức, vì thần học xử lý các sự thật sâu sắc nhất về vũ trụ và số phận tối hậu của đời người.

Dù sao, thần học Công Giáo cũng là một công trình học thuật thành hình hoàn toàn với đủ các chuyên ngành thông thường. Ngoài thần học, các bộ môn tiêu chuẩn khác trong tư duy Công Giáo bao gồm giáo luật, nghiên cứu Thánh Kinh, và lịch sử Giáo Hội. Chương này sẽ phác họa các bộ môn này, mô tả chúng một cách tổng quát qua các nét căn bản và trình bày một điển hình tranh luận liên quan tới chúng. Như sẽ thấy, bất chấp truyền thống 2,000 năm, và bất chấp các cố gắng lớn lao của giáo quyền muốn giải quyết mọi sự cho xong, người ta thấy hầu như đối với mọi vấn đề, các ý kiến vẫn rất khác nhau.

Đâu là các chủ đề lớn trong thần học Công Giáo?

Các phân ngành chính thường là những phân ngành sau đây:

Thần học Ba Ngôi, nghĩa là nghiên cứu công thức cổ điển của Kitô Giáo về “ba ngôi vị trong một Thiên Chúa”. Dù là một ý niệm xem ra đơn giản, Thiên Chúa Ba Ngôi đã phát sinh ra rất nhiều cuộc tranh luận hào hứng, như cuộc tranh luận chung quanh công thức nổi danh Filioque, một cuộc tranh luận một phần đã gây ra sự phân ly giữa các Kitô hữu Công Giáo và Chính Thống Giáo ở thế kỷ thứ mười một. Nó xoay quanh vấn đề Chúa Thánh Thần bởi một mình Chúa Cha mà ra hay bởi cả Chúa Con nữa. Kiểu nói La Tinh Filioque có nghĩa là “bởi cả Chúa Con nữa”, nói lên chủ trương của Công Giáo.

Thần học tạo thế, xem xét niềm tin tin cho rằng thế giới không tình cờ bước vào hiện hữu nhưng là sản phẩm của kế sách đầy yêu thương của Thiên Chúa. Các nhà thần học Công Giáo thường nói về “cuốn sách tạo thế”; họ cho rằng tạo thế tự nó là một nguồn mạc khải song song với Thánh Kinh, khiến xuất hiện ý niệm “luật tự nhiên”, nghĩa là các hiểu biết thấu suốt và các luật luân lý có thể diễn dịch từ việc suy tư tự nhiên về thiên nhiên. Về phương diện chính thức, người Công Giáo không phải là “những người duy tạo dựng” theo nghĩa Hoa Kỳ. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có lần nhắc tới biến hóa, coi nó “không phải chỉ là một giả thuyết” và nói chung, các nhà thần học Công Giáo cho hay họ không hề có vấn đề gì đối với ý niệm cho rằng Thiên Chúa làm việc qua bộ máy thông thường của thiên nhiên.

Kitô học, môn nghiên cứu về ngôi thứ hai của Thiên Chúa Ba Ngôi, tức Con Thiên Chúa. Các Kitô hữu tin rằng Con Thiên Chúa trở thành phàm nhân trọn vẹn trong con người của Chúa Giêsu thành Nadarét, được gọi là Chúa Kitô, một hạn từ Hy Lạp có nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu” hay “Mêxia”. Niềm tin này gọi là Nhập Thể, nghĩa là “trở thành xác thịt”. Các nguyên tắc cốt lõi khác của Kitô học bao gồm việc “đền tội” (atonement), tức ý niệm cho rằng cái chết của Chúa Kitô trên Thập Giá đền thay tội lỗi thế gian; Phục Sinh, tức niềm tin cho rằng Chúa Kitô sống lại từ cõi chết sau 3 ngày, cho thấy mọi người, sau này, đều được sống lại; và Thăng Thiên, tức niềm tin cho rằng sau một thời gian ngắn, Chúa Kitô phục sinh “đã lên trời”.

Thần khí học (Pneumatology), môn nghiên cứu về ngôi thứ ba của Thiên Chúa Ba Ngôi, tức Chúa Thánh Thần, Đấng được người Công Giáo tin vẫn tiếp tục hoạt động trên thế giới, dần dần lên khuôn lịch sử trong việc chu toàn kế hoạch của Thiên Chúa, dù luôn theo cách tôn trọng ý chí tự do của con người.Các chuyên viên trong thần học Công Giáo đôi khi nói đùa rằng Chúa Thánh Thần là ngôi bị bỏ quên của Thiên Chúa Ba Ngôi, vì trong nhiều thế kỷ, quá nhiều thì giờ và năng lực đã được dành cho việc xem xét Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Giêsu Kitô.

Cánh chung học (eschatology), nghĩa là số phận sau cùng của tạo thế, được cô đọng trong các tín điều như việc “đến lần thứ hai” của Chúa Kitô, phán xét chung, thiên đàng và hỏa ngục. Vì khuynh Công Giáo là thích phân biệt tỉ mỉ, nên không lạ gì khi Giáo Hội đã đẻ ra khá nhiều phạm trù trong các thế kỷ trước đây như “lâm bô” (limbo, được người bình dân hiểu là nơi dành cho các bé thơ chết mà chưa được rửa tội) và “luyện tội” (nơi thanh tẩy hay bị phạt tạm thời cho những ai chết trong trạng thái ơn thánh nhưng vẫn còn một vài vết tích của tội).

Giáo Hội học, ngành học về Giáo Hội. Lãnh vực này tập chú vào bản chất của cộng đồng do Chúa Kitô tạo lập, bao gồm các chức vụ, các cơ cấu, và các thực hành của Giáo Hội. Giáo Hội học có nhiều hệ quả quan trọng đối với “phong trào đại kết”, tức cố gắng tái lập sự hợp nhất mọi Kitô hữu, đưa gia đình Kitô giáo bị chia rẽ trở lại với nhau.

Thần học luân lý, đôi khi được gọi là “đạo đức học Kitô Giáo". Đây là cố gắng diễn dịch các hậu quả luân lý thực tiễn từ tự nhiên và từ mạc khải Thiên Chúa. Nó có khuynh hướng trở thành lãnh vực gây nhiều tranh cãi nhất trong thần học vì đây là nơi người ta tranh luận gay gắt xem thực ra Giáo Hội dạy gì liên quan tới các vấn đề nóng bỏng hiện nay, từ phá thai và đồng tính luyến ái tới chiến tranh và môi trường.

Vì các tín lý như Chúa Ba Ngôi đã được giải quyết từ nhiều thế kỷ trước, còn điều gì nữa để phải tranh cãi?

Dù các tín lý nền tảng trong đức tin Công Giáo đã được ấn định, luôn vẫn có sự căng thẳng giữa các nhà thần học về việc phải hiểu và áp dụng các tín lý này ra sao. Chẳng hạn, đang có cuộc tranh luận về việc người Công Giáo phải nghĩ như thế nào về các tôn giáo khác trên thế giới, nhất là vị trí của những người không phải là Kitô hữu trong kế hoạch của Thiên Chúa và họ đứng ở đâu trong ơn cứu chuộc giành được bởi Chúa Giêsu Kitô, Đấng vốn được Giáo Hội coi là vị cứu tinh duy nhất của vũ trụ.

Có thời, nhiều người Công Giáo tin rằng extra ecclesiam nulla salus (bên ngoài Giáo Hội, không hề có ơn cứu rỗi). Có phải đây là giáo huấn chính thức hay không vẫn là điều bị tranh cãi, nhưng rất nhiều thế hệ người Công Giáo vốn tin như thế. Ấy thế nhưng, vẫn luôn có luồng tư tưởng khác đi theo hướng ngược lại, với câu hỏi xem ra khá hiển nhiên: Thực sự có nghĩa lý chăng khi tin rằng Chúa Thánh Thần hướng dẫn hàng tỷ người vào các tôn giáo không hề có một chút giá trị thần học, và do đó, họ liều mình đánh mất linh hồn bất tử của họ?

Trả lời câu hỏi trên, một số nhà thần học hiện nay, như cố thần học gia Dòng Tên người Bỉ, Cha Jacques Dupuis, đã thúc đẩy để có một sự đánh giá tích cực hơn đối với các tôn giáo không phải là Kitô Giáo. Trong cuộc tranh luận này, các chuyên viên phân biệt ba lập trường khá rộng sau đây:

• “Độc chiếm” (exclusivism), nghĩa là chỉ các Kitô hữu mới được cứu rỗi mà thôi;
• “Bao gồm” (inclusivism), nghĩa là những người không phải là Kitô hữu cũng được cứu rỗi nhờ được bao gồm cách nào đó vào ơn cứu rỗi do Chúa Kitô ban phát;
• “Đa nguyên” (pluralism) nghĩa là những người không phải là Kitô hữu được cứu rỗi nhờ hệ thống tôn giáo riêng của họ không qui chiếu về Chúa Kitô.

Các người Công Giáo có óc canh tân thường ủng hộ lập trường “bao gồm”. Họ lý luận rằng không những lập trường này nhất quán với giáo huấn Công Giáo truyền thống, như ý niệm có từ thời các Giáo Phụ coi các tôn giáo ngoại đạo như mang “hạt giống Lời Chúa”, mà còn vì đây là điều kiện tiên quyết cho cuộc đối thoại liên tôn. Họ nói rằng nói chuyện chi nữa khi Giáo Hội đã có mọi câu trả lời? Các nhà thần học bảo thủ hơn, song song với Vatican, thì tỏ ra thận trọng đối với các lập luận này. Họ lo ngại rằng một quan điểm quá ư tô hồng đối với các tôn giáo khác có thể xâm hại tới niềm tin cho rằng Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Rỗi duy nhất của thế giới, vì coi Người cũng chỉ là một nhà sáng lập tôn giáo khác không hơn không kém, giống như Buddha hay Mohammad. Họ cũng sợ rằng lối suy nghĩ này có thể làm nhụt khí các cố gắng truyền giáo của Công Giáo. Nếu ai cũng o.k. vì là một người Ấn Giáo hay một người thực hành một tôn giáo bộ lạc nào đó, thì đâu còn cần phải cố gắng dẫn đạo họ vào Kitô Giáo làm chi?

Lập trường chính thức của Công Giáo đã được phát biểu trong một văn kiện năm 2000 của Vatican, tựa là Dominus Jesus (Chúa Giêsu). Văn kiện này dạy rằng bất chấp việc Giáo Hội rất tôn trọng tín hữu của các tôn giáo khác, nhưng “nói một cách khách quan, họ ở trong một trạng thái thiếu sót trầm trọng so với những người, ở bên trong Giáo Hội, có đầy đủ các phương tiện cứu rỗi”.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Long Lanh Bông Sứ
Richard Drysdale
18:45 25/06/2017
LONG LANH BÔNG SỨ
Ảnh của Richard Drysdale
Bông Sứ trắng lòng em cũng trắng
Để tôi về xanh lá tương tư …
Tôi gọi em và bông Sứ và, mưa
Những yêu dấu của một thời dĩ vảng
(Trích thơ của Trần Huy Sao)
 
VietCatholic TV
TV Thời Sự Giáo Hội và Thế Giới Ngày Nay, Chúa Nhật 25/6/2017
VietCatholic Network
20:10 25/06/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây


VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền Hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:

1- Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha Chúa Nhật 25 tháng 6

2- ĐTC nói: “Chúng ta phải nhỏ bé lại thì mới nghe được tiếng Chúa.”

3- Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Serra nâng đỡ ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến.

4- Tổng tu nghị Dòng Chúa Phục Sinh.

5- ĐTC cảnh giác chống lại việc cám dỗ giáo sĩ tìm địa vị và sự kính trọng của xã hội.

6- Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ kêu gọi các tín hữu tham gia hai tuần cầu nguyện cho tự do tôn giáo.

7- Hội Đồng Giám Mục Phi Luật Tân công bố thư Mục Vụ về việc chống lại “tin giả”.

8- Giám mục Tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ không cho những người kết hôn đồng tính rước lễ và không làm phép tang cho họ.

9- Khủng bố Hồi Giáo ISIS nổ sập đền thờ Hồi Giáo al-Nuri để kích động hận thù tôn giáo.

10- Tòa án Liên bang Hoa Kỳ ra phán quyết ngưng lệnh trục xuất các Kitô hữu Iraq.

11- Đại Hội Song Nguyền Thế Giới kỳ 5 tại nhà thờ chánh tòa Giáo phận Orange.

12- Giới thiệu Thánh Ca: Ca Vang Tình Yêu Chúa.
 
Giáo Hội Năm Châu 20-26/06/2017: Tình trạng các tín hữu Kitô tại Iraq và Syria
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
22:06 25/06/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Sứ Thần Tòa Thánh tại Syria nói các Kitô hữu vẫn đau khổ vô bờ bến

Dân Kitô tại Syria tiếp tục gánh chịu những đau khổ “vô bờ bến”. Sứ Thần Tòa Thánh tại quốc gia này, là Đức Hồng Y Mario Zenari, đã cho thông tấn xã AsiaNews biết như trên.

Đức Hồng Y nhận xét rằng trong khi bạo lực đã giảm dần phần nào trong khu vực xung quanh Damascus, giao tranh vẫn tiếp tục diễn ra ở những nơi khác tại Syria.

Ngài nói: “Điều rõ ràng là Syria đã và đang phải chịu đựng trong nhiều năm qua một cuộc chiến âm ỉ giữa các thế lực lớn trong khu vực và trên toàn cầu.”

Đức Hồng Y Zenari thừa nhận rằng “rất khó để có thể đánh giá các con số thống kê”, nhưng những con số khả quan nhất hiện nay vẫn cho thấy rằng “gần một nửa” các Kitô hữu Syria đã rời khỏi đất nước. Ngài nói rằng tại Aleppo, nơi các số liệu thống kê tương đối đáng tin cậy, có đến hai phần ba các gia đình Kitô đã phải bỏ trốn. Có “hơn 5 triệu người tị nạn” từ Syria ngày hôm nay, trong đó 1 triệu người đang hướng về châu Âu.

Đức Hồng Y nói rằng Kitô hữu trên thế giới nên viện trợ cho anh chị em Syria số “viện trợ gấp đôi”, nghĩa là cả những giúp đỡ vật chất và những lời cầu nguyện.

2. Đại sứ Đức tại Bắc Kinh yêu cần Trung Quốc trả tự do cho một Giám Mục bị bắt

Michael Clauss, đại sứ của Đức tại Trung Quốc, đã kêu gọi nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc phải trả tự do cho Đức Giám Mục Phêrô Thiệu Chúc Mẫn (Shao Zhumin) của Ôn Châu, bị cảnh sát bắt kể từ ngày 18 tháng 5 đến nay.

Trong tuyên bố của Tòa Đại sứ Đức tại Bắc Kinh, Đại Sứ Michael Clauss viết:

“Tự do cư trú và di chuyển của Đức Giám Mục Thiệu phải được phục hồi”. Vị Đại sứ cũng bày tỏ những lo ngại rằng các quy định mới của chính phủ đang ngăn chặn tự do tôn giáo.

Trong một thông cáo đưa ra hôm 21 tháng 9 năm ngoái 2016, Tòa Thánh khẳng định rằng Đức Cha Phêrô Thiệu Chúc Mẫn (Shao Zhumin) là giám mục kế vị hợp pháp của Giáo phận Ôn Châu, sau khi Đức Giám Mục Vincent Chu Duy Phương (Zhu Weifang) qua đời.

Một thời gian ngắn trước khi vị giám mục 90 tuổi qua đời, chính quyền Trung Quốc đã bắt cóc Đức Cha Thiệu và Hội Công Giáo Yêu Nước chớp thời cơ đưa lên một giám mục khác bất kể Tòa Thánh có đồng ý hay không.

3. Các nhà lãnh đạo Kitô giáo tại Zambia cảnh báo chống lại chế độ độc tài

Các nhà lãnh đạo Kitô giáo của Zambia đã công bố một tuyên bố chung cảnh báo chống lại chế độ độc tài tại Zambia.

Hội Đồng Giám Mục Công Giáo đã đưa ra tuyên bố trên nhằm phản ứng lại việc bắt giữ một cách tàn bạo một người đàn ông biểu tình khi ông này chặn một đoàn xe hộ tống tổng thống. Các Giám Mục tuyên bố rằng việc bắt giữ là “vô nhân đạo” vì cảnh sát đã dùng chó để tấn công người biểu tình.

Các nhà lãnh đạo Giáo Hội nói:

“Điều không thể tưởng tượng được là chính phủ Zambia hèn hạ đến mức thả những con chó ra cắn người dân của mình”.

Suy tư về việc sử dụng vũ lực quá mức như vậy, các ngài nhận xét rằng: “bạo lực thể chế là một biện pháp cơ bản của các chế độ độc tài.”

Các ngài cũng nhân dịp này lên tiếng yêu cầu rằng các phương tiện truyền thông tại Zambia nên được tự do làm việc “mà không cần nhìn trước ngó sau vì sợ đóng cửa, bắt giữ, hoặc tấn công.”

Các nhà lãnh đạo Công Giáo và Tin Lành đã thách thức Tổng thống Edgar Lungu phải “là người bảo vệ tất cả người dân Zambia, không phân biệt đảng phái chính trị của họ.”

4. Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ kêu gọi Thượng Viện thông qua dự luật về tình trạng diệt chủng tại Iraq và Syria

Đức Cha Oscar Cantu, Chủ tịch Ủy ban Giám Mục Hoa Kỳ về Tư pháp quốc tế và Hòa bình, đã kêu gọi Thượng viện thông qua dự luật H.R. 390 về tình trạng diệt chủng tại Iraq và Syria vá các biện pháp cứu trợ khẩn cấp.

Dự luật đã được thông qua ở Hạ viện vào ngày 06 tháng 6 và đang chờ thông qua ở Thượng Viện.

“Khi tình hình ở Syria và Iraq ngày càng nguy cấp đối với các nhóm thiểu số, tôi hài lòng nhận thấy rằng dự luật H.R. 390 kêu gọi nhiều hỗ trợ cần thiết cho các nạn nhân diệt chủng và sẽ cho phép các tổ chức dựa trên niềm tin (chẳng hạn như Catholic Relief Services) đã và đang cung cấp các hỗ trợ nhân đạo cho người dân, có thể được chính phủ tài trợ một phần cho công việc của họ”.

Đức Cha Cantú đã viết như trên trong một bức thư gửi cho các thượng nghị sĩ gần đây.

5. Đức Thượng Phụ Công Giáo Chanđê kêu gọi các Kitô hữu trở về các vùng đã được giải phóng

Đức Thượng Phụ Louis Sako của Công Giáo nghi lễ Chanđê tại Iraq đã thúc giục người Công Giáo nước này trở về nhà của họ trong vùng bình nguyên Nineveh, để giúp cho quá trình xây dựng lại sau khi các khu vực này đã được giải phóng khỏi bọn khủng bố Hồi Giáo IS.

Lời tuyên bố của Đức Thượng Phụ được đưa ra sau khi Đức Thượng Phụ đã đi thăm và ca ngợi sự trợ giúp của chính quyền trong quá trình tái thiết ở các làng Kitô giáo, nhưng nói rằng quá trình này không thể thành công trừ khi những người dân chạy trốn khỏi bọn khủng bố Hồi Giáo IS trở lại và sống ở đó.

Ngài than phiền những người đang “chờ đợi để nhận được tất cả mọi thứ từ các tổ chức nhà nước và bác ái.” Theo Đức Thượng Phụ, các gia đình Kitô hữu phải dám chấp nhận thử thách để đóng góp phần của họ trong quá trình tái thiết.

6. Đức Hồng Y Vincent Nichols lên án vụ tấn công tại Finsbury Park, Luân Đôn

Đức Hồng Y Nichols của Westminster dâng lời cầu nguyện và bày tỏ sự cảm thông của ngài với các thành viên của cộng đồng Hồi giáo sau vụ tấn công ở Finsbury Park, trong đó một người đàn ông lái một chiếc xe vận tải tông vào một đám đông gần một nhà thờ Hồi giáo.

“Cùng với người dân trên khắp đất nước này, tôi âu lo trước cuộc tấn công có chủ ý vào những người vừa kết thúc buổi cầu kinh khuya, sau một ngày ăn chay, tại nhà thờ Hồi giáo ở Finsbury Park”

Đức Hồng Y cảnh báo rằng “Bạo lực phát sinh bạo lực. Hận thù nuôi dưỡng hận thù. Mỗi người chúng ta cần phải khước từ hận thù và bạo lực trong ngôn từ và hành động của chúng ta.”

Lúc 0:15 phút sáng thứ Hai 19 tháng Sáu năm 2017, một chiếc xe tải đã tông vào những người đi bộ ở Finsbury Park, Luân Đôn, làm bị thương ít nhất mười người. Biến cố này xảy ra gần nhà Phúc lợi Hồi giáo, cách Nhà thờ Hồi giáo Finsbury Park, 90m.

Một nhóm tín hữu Hồi giáo vừa thực hiện buổi cầu kinh Tarawih, được tổ chức hàng đêm trong tháng Ramadan, khi ra khỏi đền thờ, họ tình cờ gặp một người đàn ông nằm gục ở một trạm xe buýt. Khi đang giúp đỡ người này họ đã bị một chiếc xe tải lao vào, khiến mười người bị thương. Người đàn ông nêu trên đã chết tại hiện trường.

7. Đức Thánh Cha viếng mộ linh mục Primo Mazzolari tại Cremona

Lúc 07:30 sáng thứ Ba 20 tháng Sáu, Đức Thánh Cha đã khởi hành bằng máy bay trực thăng từ sân bay trực thăng của Vatican để lên đường viếng mộ hai linh mục Ý tại Cremona và Florence.

Sau 1 giờ 30 phút bay, lúc 9:00 sáng Đức Thánh Cha đã đến sân thể thao của thành phố Cocoon, Mantua. Từ đó, Đức Thánh Cha đã đến giáo xứ Bozzolo hay còn gọi là giáo xứ Thánh Phêrô và cầu nguyện tại ngôi mộ của cha Primo Mazzolari, sinh năm 1890 và qua đời năm 1959.

Cha Mazzolari cha sở giáo xứ Bozzolo từ năm 1932. Năm 1925, cha chống lại phát xít Ý và từ năm 1943, cha tích cực tham gia kháng chiến. Sau khi kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ Hai, trong thập niên 1950, cha Mazzolari dấn thân bênh vực những người bị thiệt thòi về mặt xã hội và chống lại ý niệm gọi là “cuộc chiến tranh chính đáng” nhằm bênh vực cho những cuộc chiến tại Âu Châu và Phi Châu vào thời đó. Cha qua đời năm 1959 thọ 69 tuổi. Án phong chân phước cho cha sắp được khởi sự tại giáo phận Cremona vào tháng 9 tới đây.

Làng Bozzolo hiện có 4,200 dân cư gần như toàn tòng Công Giáo. Tại đây ngài được Đức Cha Antonio Napolioni, Giám Mục giáo phận Cremona, và xã trưởng địa phương tiếp đón cùng với đông đảo các em học sinh.

Sau khi cầu nguyện trong thinh lặng tại mộ cha Mazzolari ở nhà thờ giáo xứ, Đức Thánh Cha đã đọc một bài huấn dụ dài nêu rõ tính chất thời sự trong sứ điệp và tấm gương của Cha Mazzolari cũng như của cha Milani, mặc dù không luôn được cảm thông và quí chuộng trong thời đại của các vị.

8. Diễn từ của Đức Phanxicô khi viếng mộ Don Mazzolari ngày 20 tháng 6 năm 2017

Anh chị em thân mến, xin chúc anh chị em một buổi sáng tốt!

Người ta khuyên tôi nên rút ngắn bài diễn văn này một chút, vì nó hơi dài. Tôi đã cố gắng làm thế, nhưng không thành công. Nhiều điều xuất hiện trong đầu tôi quá, đây đó… Nhưng (tôi biết) anh chị em có dư kiên nhẫn! Vì tôi không muốn bỏ lỡ mọi điều tôi muốn nói về Don Primo Mazzolari.

Tôi là khách hành hương tới đây, tới Bozzolo này rồi tới Barbiana, bước theo chân hai cha xứ từng để lại những dấu vết sáng ngời, dù có hơi “bất tiện”, trong việc các ngài phục vụ Chúa và dân của Người. Tôi đã nói nhiều lần rằng các cha xứ chính là sức mạnh của Giáo Hội tại Ý, và hôm nay tôi xin nhắc lại điều ấy. Khi là khuôn mặt của một hàng giáo sĩ không giáo sĩ trị, như vị này, các ngài quả đã đem lại sức sống cho một “huấn quyền cha xứ” đích thực, một huấn quyền tốt đẹp cho mọi người. Don Primo Mazzolari được gọi là “Cha Xứ của Ý”; và Thánh Gioan XXIII từng chào mừng ngài với danh hiệu “chiếc kèn của Chúa Thánh Thần ở thung lũng hạ Po”. Tôi tin rằng nhân cách linh mục của Don Primo không phải là một luật trừ riêng biệt, mà là hoa trái rự rỡ của cộng đồng anh chị em, mặc dù ngài không luôn được thấu hiểu và đánh giá cao. Như Chân Phúc Phaolô VI từng nói: “Cha bước đi bằng một bước quá dài, và đôi khi ta không theo kịp cha! Thành thử, cha đau khổ và chúng ta cũng đau khổ. Đó là số phận của các tiên tri” (Chào đón các khách hành hương từ Bozzolo và Cicognara, 1 tháng Năm, 1970). Việc đào tạo nên ngài là kết quả của truyền thống Kitô Giáo phong phú của Thung Lũng Po, Lombardy, Cremona. Trong các năm tháng tuổi trẻ, ngài được gây ấn tượng bởi khuôn mặt của Đức Giám Mục vĩ đại Geremia Bonomelli, người chủ đạo của học thuyết xã hội Công Giáo và là người tiên phong của việc chăm sóc mục vụ cho di dân.

Tôi không cần phải kể lại cho anh chị em hay phân tích việc làm của Don Primo. Tôi cám ơn những ai đã tận tụy với việc này trong nhiều năm qua. Tôi thích được suy niệm với anh chị em, nhất là với các anh em linh mục của tôi, những người ở đây cũng như những người ở khắp nước Ý: đây là “cha xứ của Ý mà, về tính hợp thời trong sứ điệp của ngài, một sứ điệp tôi xin đặt trước tấm phông gồm ba cảnh tượng vốn tràn ngập mắt và tim ngài mỗi ngày: con sông, căn nhà nông trại và đồng bằng.

1) Con sông là hình ảnh tuyệt vời, vốn thuộc trải nghiệm của tôi và của cả anh chị em nữa. Don Primo thi hành thừa tác vụ của ngài dọc theo những con sông, biểu tượng của tính ưu việt và sức mạnh của ơn Thánh Chúa tuôn đổ không ngừng xuống thế gian. Lời nói của ngài, được giảng hay được viết ra, rút tỉa được sự sáng sủa về suy tư và sức thuyết phục từ nguồn Lời của Thiên Chúa hằng sống trong Tin Mừng, được suy niệm và cầu nguyện, được tái khám phá nơi Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh và nơi con người, được cử hành trong các cử chỉ bí tích không bao giờ bị rút gọn vào nghi thức đơn thuần mà thôi. Don Mazzolari, cha xứ tại Cicognara và Bozzolo, không tách mình ra khỏi con sông sự sống, ra khỏi nỗi đau khổ của dân ngài, những người nặn khuôn ngài trở thành một mục tử khôn khéo và đòi hỏi, nhất là đòi hỏi chính mình. Dọc theo con sông này, ngài học cách biết tiếp nhận hồng phúc sự thật và yêu thương hàng ngày, biết làm cho mình trở thành người mang chúng một cách mạnh mẽ và đại lượng. Giảng cho các chủng sinh ở Cremona, ngài quả quyết: “làm ‘một người nhắc lại’ là sức mạnh của chúng ta. […] Tuy nhiên, giữa một người nhắc lại vô hồn, một cái loa phóng thanh, và một người nhắc lại sống động, có cả một khác biệt lớn lao! Linh mục là một người nhắc lại, nhưng việc nhắc lại của ngài không được vô hồn, thụ động, không có tình thân ái. Cùng với sự thật được tôi nhắc lại, phải có, tôi phải đưa ra một điều gì đó của riêng tôi để chứng tỏ rằng tôi tin điều mình nói; nó phải được làm một cách khiến người anh em nghe thấy lời mời mà tiếp nhận sự thật” (1). Lời tiên tri của ngài được thể hiện trong việc yêu thời đại của ngài, nối kết ngài với cuộc sống của những người ngài gặp, nắm lấy mọi cơ hội để loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa. Don Mazzolari không phải là người hối tiếc Giáo Hội trong quá khứ, nhưng cố gắng thay đổi Giáo Hội và thế giới bằng một tình yêu say mê và một lòng tận tụy vô điều kiện. Trong tác phẩm “Giáo Xứ” của ngài, ngài đề xuất một suy nghĩ về các phương pháp làm việc tông đồ; ngài xác tín rằng các bất cập của giáo xứ vào thời ngài là do thiếu việc nhập thể. Có 3 con đường không dẫn ta theo hướng Tin Mừng:

- Con đường “để mặc” (“letting go”). Đây là con đường của người đứng ở cửa sổ nhìn ra ngoài không để tay mình bị dơ, nghĩa là kẻ bàng quan thụ động đối với đời sống. Người này bằng lòng với việc chỉ trích, với việc “mô tả một cách ranh mãnh cay đắng và đầy dục vọng các sai lầm” (2) của thế giới bao quanh. Thái độ này làm lương tâm im bặt, nhưng không có bất cứ liên hệ nào với Kitô Giáo vì nó dẫn chúng ta rút lại những gì đã hứa, bằng một tinh thần phê phán, đôi khi chua cay. Ở đấy rõ ràng có sự thiếu khả năng đi tiên phong, hay phương thức xây dựng cách giải quyết các vấn đề.

- Phương pháp sai lầm thứ hai là “đấu tranh ly gián” (“separatist activism”). Chúng ta cam kết tạo ra các định chế Công Giáo (ngân hàng, hợp tác xã, câu lạc bộ, nghiệp đoàn, trường học…). Nhờ thế, đức tin trở nên có hoạt động hơn, nhưng, Cha Mazzolari cảnh cáo, việc này có thể tạo nên một cộng đoàn Công Giáo ưu tú. Nó nghiêng về quyền lợi và các khách hàng có nhãn hiệu Công Giáo. Và, một cách vô tình, nhiều rào cản được dựng lên, làm trở ngại cho tính khẩn trương của đức tin, và nguy cơ cứ thế trở nên không tài nào vượt qua được. Người ta lúc ấy có khuynh hướng khẳng nhận điều gây chia rẽ hơn là điều chúng ta có chung. Đây là một phương pháp không hề tạo điều kiện dễ dàng cho việc phúc âm hóa, mà đúng hơn, đóng cửa rút cầu và tạo ra ngờ vực, bất tín.

- Sai lầm thứ ba là “duy siêu nhiên hạ nhân phẩm” (“dehumanizing supernaturalism”). Phương thức này núp mình trong tôn giáo để trốn tránh các khó khăn và thất vọng gặp phải. Chúng ta xa lìa thế gian, vốn là lãnh vực để làm việc tông đồ đích thực, để lo việc sùng kính. Đây là cơn cám dỗ của chủ nghĩa duy linh (spiritualism). Một thứ hoạt động tông đồ cà nhắc được phát sinh, không một chút yêu thương nào cả. “Những người xa cách không thể lưu tâm tới lối cầu nguyện không trở thành bác ái, với một cuộc rước kiệu không biết giúp người ta mang các cây thập giá hàng ngày” (3). Bi kịch hệ ở khoảng phân cách này giữa đức tin và đời sống, giữa chiêm niệm và hành động.

2) Căn nhà nông trại. Thời của Don Primo, “gia đình của các gia đình” sống với nhau tại vùng quê mầu mỡ này, vì chịu nhiều khốn khổ và bất công, nên đang chờ một thay đổi sẽ dẫn họ tới việc tản cư tới các đô thị. Căn nhà nông trại, căn nhà, cho chúng ta một ý tưởng về Giáo Hội được Don Mazzolari hướng dẫn. Ngài cũng nghĩ đến một Giáo Hội đi ra ngoài khi suy niệm về các linh mục bằng những lời này: “Để bước đi, chúng ta phải ra khỏi nhà và Giáo Hội, nếu Dân Chúa không còn ở đấy nữa; và chăm sóc cũng như lo lắng các nhu cầu, dù không thiêng liêng, nhưng là các nhu cầu nhân bản và, dù các nhu cầu này có thể khiến con người ra sa lạc, nhưng chúng cũng có thể cứu vớt họ. Người Kitô hữu nào tự tách mình khỏi con người, và cách nói năng của chúng ta thì không thể nào hiểu được nếu ta không trước nhất dẫn họ vào con đường này, một con đường dường như dẫn đi rất xa nhưng lại an toàn nhất. […]Để làm được nhiều, ta phải yêu thật nhiều” (4). Đó là điều vị mục tử của anh chị em đã nói. Giáo xứ là nơi mọi người cảm thấy mình được mong chờ, một “tổ ấm không hề biết đến sự vắng mặt”. Don Mazzolari là một mục tử tin rằng “số phận thế giới chín mùi ở ngoại biên”, và ngài biến nhân tính của mình thành một dụng cụ của lòng Chúa thương xót, theo cung cách của người cha trong dụ ngôn Tin Mừng, vốn được mô tả rất hay trong cuốn “Cuộc Mạo Hiểm Đẹp Đẽ Nhất”. Ngài được gọi rất đúng là “vị mục tử của người xa cách” vì ngài luôn yêu thương và đi tìm người khác, và ngài thận trọng, không định ra bất cứ phương pháp lý thuyết nào có giá trị cho mọi người và mọi thời về việc làm tông đồ, nhưng thay vào đó, ngài đề xuất việc biện phân như cách giải thích tinh thần mỗi người. Quan điểm đầy thương xót và hợp Tin Mừng về nhân tính này dẫn ngài tới chỗ coi phương thức cần phải tiệm tiến là phương thức có giá trị: linh mục không phải là người đòi sự hoàn hảo, nhưng là người giúp mọi người hiến tặng điều tốt nhất của họ. “Ta hãy bằng lòng với những gì dân chúng của ta có thể cho. Ta hãy có lương tri!Ta không nên đặt gánh quá nặng lên vai những người tội nghiệp” (5). Tôi muốn nhắc lại điều này, và nhắc lại nó cho mọi linh mục của Ý và của cả thế giới nữa: Ta hãy có lương tri! Ta không nên đặt gánh quá nặng lên vai những người tội nghiệp. Và mặc dù, vì sự cởi mở này, ngài bị buộc phải vâng lời, nhưng ngài vẫn đứng vững trên đôi chân, như một người trưởng thành, như một con người, và cùng một lúc, qùy gối xuống, hôn tay Đức Giám Mục của ngài, người mà ngài không lúc nào ngưng yêu thương.

3) Hoạt cảnh thứ ba: họat cảnh thứ nhất là con sông, hoạt cảnh thứ hai là căn nhà nông trại, hoạt cảnh thứ ba là hoạt cảnh đồng bằng vĩ đại của anh chị em. Những người hoan nghinh Bài Giảng Trên Núi không hề sợ vượt qua đồng bằng đang trải ra mênh mông trước mắt, không bến không bờ, vì họ vừa là nhà du hành vừa là chứng nhân. Chúa Giêsu luôn chuẩn bị các môn đệ của Người để làm việc này; Người dẫn họ vào đám đông, giữa người nghèo, mạc khải cho họ rằng cao điểm sẽ đạt được ở đồng bằng nơi lòng thương xót của Thiên Chúa nhập thể (xem Bài Giảng ngỏ cùng Mật Nghị Hội, 19 tháng 11, 2016). Đức ái mục vụ của Don Primo mở ra nhiều chân trời trong các tình thế phức tạp ngài gặp phải: chiến tranh, chủ nghĩa tòan trị, các đụng độ huynh đệ tương tàn, những khó khăn của nền dân chủ đang thai nghén, cảnh khốn cùng của dân ngài. Anh chị em và các linh mục thân mến, tôi khuyến khích anh chị em hãy lắng nghe thế giới, lắng nghe những người đang sống và làm việc trong đó, tiếp nhận mọi vấn nạn có ý nghĩa và tạo hy vọng, không sợ phải băng qua sa mạc và các vùng tối tăm. Nhờ cách này, chúng ta mới trở nên một Giáo Hội nghèo cho và với người nghèo, Giáo Hội của Chúa Giêsu. Cuộc hiện sinh của người nghèo được Don Priomo định nghĩa là “cuộc hiện sinh lờ đờ”, và Giáo Hội cần hồi tâm, biết nhìn nhận đời sống của họ để yêu thương họ như họ hiện là: “Người nghèo muốn được yêu thương như người nghèo, nghĩa là, không tính toán cảnh nghèo của họ, không yêu sách hay quyền đòi nợ, kể cả việc không biến họ thành công dân nước trời, càng không cải đạo họ” (6). Ngài không cải đạo vì cải đạo không phải là Kitô Giáo. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI nói với chúng ta rằng Giáo Hội, Kitô Giáo, không lớn mạnh nhờ chủ nghĩa cải đạo, nhưng nhờ lôi cuốn, nghĩa là, nhờ chứng từ. Đó là điều Don Primo Mazzolari vốn làm: ngài làm chứng. Người Tôi Tớ của Chúa sống nghèo nhưng không phải là một “linh mục nghèo (tồi)”. Trong chúc ngôn thiêng liêng của mình, ngài viết “Quanh bàn thờ của tôi, và quanh nhà cũng như việc làm của tôi, không bao giờ có âm thanh làm tiền. Số ít lọt vào tay tôi […] rơi vào chỗ nó giả thiết phải rơi. Nếu tôi có bất cứ ân hận nào về vấn đề này, thì chắc liên hệ tới người nghèo và công việc giáo xứ mà tôi vốn giúp khá nhiều”. Ngài suy niệm sâu xa về sự khác nhau về phong cách giữa Thiên Chúa và con người: “Phong cách của con người: có nhiều, nhưng họ làm ít. Phong cách của Thiên Chúa: không có gì cả, nhưng Người làm nên mọi sự” (7). Vì thế, tính đáng tin cậy của việc công bố phải vuợt qua tính đơn sơ và cái nghèo của Giáo Hội: “Nếu chúng ta muốn đem người nghèo trở lại mái ấm của họ, họ cần tìm thấy không khí của người nghèo”, nghĩa là, tìm thấy Chúa Giêsu Kitô. Trong cuốn sách của ngài, tựa là “Đàng Thánh Giá của Người Nghèo”, Cha Primo nhắc ta nhớ rằng đức ái là chuyện linh đạo và cách nhìn. “Những người ít có đức ái, thấy ít người nghèo; những người có nhiều đức ái thấy nhiều người nghèo; những người không có đức ái, không thấy người nghèo nào” (8). Và ngài viết thêm: “Ai biết người nghèo, là biết anh em mình: ai thấy anh em mình là thấy Chúa Kitô, ai thấy Chúa Kitô là thấy đời sống và bài thơ đích thực của nó, vì đức ái là bài thơ thiên quốc đem xuống cõi trần” (9).

Các bạn thân mến, tôi cám ơn các bạn đã đón tiếp tôi hôm nay, tại giáo xứ của Don Primo. Với các bạn và các giám mục của các bạn, tôi xin ngỏ lời này: hãy tự hào vì đã có được “những linh mục như thế”, và cũng đừng mệt mỏi trở nên “các linh mục và Kitô hữu như thế”, dù cho việc này đòi phải đấu tranh với chính bản thân, gọi đích danh các cơn cám dỗ đang lừa dối chúng ta, để chúng ta được lòng nhân ái của Thiên Chúa chữa lành. Nếu các bạn thừa nhận rằng các bạn chưa thu thập được bài học của Don Primo, thì hôm nay đây, tôi mời các bạn hãy qúi trọng nó. Chúa, Đấng luôn linh hứng trong Mẹ Thánh Giáo Hội các mục tử và tiên tri biết tuân theo trái im của Người, sẽ giúp chúng ta hôm nay đừng làm ngơ các vị này. Vì các vị đã thấy xa, và việc bước chân theo các vị sẽ cứu ta khỏi đau khổ và nhục nhã. Nhiều lần tôi đã nói rằng mục tử phải có khả năng đứng trước dân của mình để chỉ đường cho họ như dấu hiệu gần gũi, hoặc đứng đàng sau họ để khuyến khích những ai tụt lại phía sau (xem Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 31). Còn Don Primo thì viết: “Tôi thấy người ta trượt chân rơi xuống đường dốc hiểm nghèo nào, tôi đều dơ lưng chống đỡ phía sau; khi cần phải leo dốc, tôi đều dẫn đầu. Nhiều người không hiểu rằng cũng một đức ái đã thúc đầy người ta cách này hay cách kia, và không ai có thể làm điều này tốt hơn một linh mục” (10).

Với tinh thần hiệp thông huynh đệ này, với các bạn và mọi linh mục của Giáo Hội tại Ý, với những cha xứ tốt lành, tôi muốn kết thúc bằng lời kinh của Don Primo, một mục tử yêu Chúa Giêsu và ước muốn của Người thấy mọi người được cứu rỗi. Don Primo vốn cầu nguyện như sau:

“Chúa đã đến cho mọi người:

Cho những người tin

Cho những người nói rằng họ không tin.

Tất cả họ,

Đôi khi những người này hơn những người kia,

Họ làm việc, đau khổ, hy vọng

Cho thế giới diễn tiến tốt đẹp hơn.

Ôi, lạy Chúa Kitô, Chúa sinh ra “ở ngoài nhà”

Và Chúa chết “ở ngoài kinh thành”,

Để trở thành một cách hiển thị hơn

Những ngã tư và điểm hẹn.

Không ai bị loại khỏi ơn cứu rỗi, lạy Chúa,

Vì không ai bị loại khỏi tình yêu của Ngài

Một tình yêu không xúc phạm hay thu mình

Khỏi chống đối hay bác bỏ”.

Giờ đây, tôi ban phép lành của tôi cho các bạn. Chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ trước, Ngài là mẹ ta: không có Mẹ ta, ta không tiến bước được. [Kính Mừng Maria]