Ngày 11-07-2016
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:44 11/07/2016
71. THƯỢNG THƯ GIỮ LỜI HỨA.
Thôi Dung tính tình bừa bãi khinh suất, nhưng thượng thư Trương Kiến Phong lại rất thích tài năng của anh ta nên triệu anh ta đến làm môn khách.
Thôi Dung theo Trương Kiến Phong đi vào trong trại lính, đến đêm hét to gọi lớn làm kinh hãi toàn quân, binh sĩ rất giận dữ muốn ăn thịt anh ta cho hả giận, Trương Kiến Phong đem anh ta giấu đi. Qua ngày hôm sau thết tiệc, tiệc nửa chừng, quan giám quân nói:
- “Bản nhân cùng thượng thư giao kèo, hể ai có thỉnh cầu gì thì không được cự tuyệt.”
Trương Kiến Phong nói:
- “ Được.”
Quan giám quân nói:
- “Bản nhân thỉnh cầu ngài giao Thôi Dung cho chúng tôi”.
Trương Kiến Phong trả lời:
- “Được.”
Một lúc sau, Trương Kiến Phong cũng đề ra thỉnh cầu:
- “Bản nhân thỉnh cầu là không giao Thôi Dung cho ngài.”
Tất cả mọi người cùng bàn đều cười lớn, như thế Thôi Dung được miễn trị tội.
(Sử bộ Đường quốc)

Suy tư 71:
Người ta thường nói “quân tử nhất ngôn” để biểu hiện mình sẽ thực hiện những lời đã nói, đã hứa.
Có người vì hăng say bốc đồng nên lỡ “quân tử nhất ngôn”, rốt cuộc đem biếu không cho người khác chiếc xe mới mua cáo cạnh của mình vì cá độ; có người vì muốn tỏ ra anh hùng nhất thời nên đã “quân tử nhất ngôn” hứa với người đẹp, rốt cuộc đem chứng từ chủ quyền đất hương hỏa của ông bà đến tiệm cầm đồ để cầm nợ, kiếm vài triệu để tổ chức sinh nhật cho người đẹp...
Nhưng cũng có người đã “quân tử nhất ngôn” rất anh hùng, đó là vị thánh trẻ Đa-minh Sa-vi-ô quyết tâm nên thánh và ngài đã nên thánh thật khi chưa đến tuổi thanh niên; thánh nữ tiến sĩ Tê-rê-xa Hài Đồng đã “quân tử nhất ngôn” nói: khi tôi chết, tôi sẽ mưa hoa hồng xuống trên trần gian, và quả thật là như thế, biết bao ơn lành từ trời xuống do ngài cầu bàu...
Trong cuộc sống biết bao lần chúng ta đã “quân tử nhất ngôn” anh hùng theo kiểu trần thế, nhưng có lẽ là chúng ta chưa “quân tử nhất ngôn” với Chúa: “Lạy Chúa, con sẽ nên thánh”; “lạy Chúa con sẽ trở thành một nữ tu phục vụ Chúa trong anh chị em của con”; “lạy Chúa, con sẽ trở thành một linh mục khiêm tốn của Chúa...”

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:46 11/07/2016

3. Trong hoàn cảnh nghịch, con người nên nghe lệnh; trong hoàn cảnh thuận, con người cũng phải nghe lệnh.

(Thánh Gregorius)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"

------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Phần tốt nhất
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
21:34 11/07/2016
Phần tốt nhất

Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật XVI Năm – C

(Lc 10, 38-42)

Khung cảnh gia đình

Hôm nay, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta chuyện gia đình của Matta và Maria. Hàng ngày gia đình của họ ra sao chúng ta không hay biết, chỉ khi cô chị Matta rước Chúa Giêsu vào nhà và tất bật làm cơm thiết đãi Chúa, còn cô em thì ngồi bên chân Chúa và nghe lời Người chúng ta mới có chuyện (x. Lc 10,38-42). Gia đình Matta và Maria còn có cậu em trai là Lazarô không thấy nói tới.

Chúng ta cùng tưởng tượng cảnh diễn ra trong nhà này : người chị chạy lên chạy xuống, còn người em ra như bị lôi cuốn vào việc chuyện trò với Khách. Một lúc sau, người chị Matta, chắc cảm thấy mệt nhọc, nên đã lên tiếng nói với vị Khách: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình, mà không quan tâm sao sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với?" (Lc 10,40). Xem ra cô chị Matta không những bất bình với cô em là Maria mà còn cả với Khách mời nữa.

Thái độ cần phải có

Chính câu nói này của Chúa Giêsu làm nảy sinh những khuynh hướng khác nhau. Có người cảm thấy tiếc cho Matta, vì Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Matta, trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu, khi Matta đến phàn nàn, Chúa Giêsu lại nói: "Matta, Matta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất" (Lc 10,41-42). Vậy là việc cô làm chưa phải là tốt nhất.

Khuynh hướng khác cho rằng, Chúa Giêsu không có ý phê phán thái độ hiếu khách của Matta khi Người nêu bật hành vi của Maria "ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người." Tuy nhiên, khi phải chọn lựa thì Chúa Giêsu vẫn thích kẻ "nghe" lời Người hơn là loay hoay chuyện cơm nước…Người cũng cho biết đây là "phần tốt nhất."

Hẳn Chúa Giêsu không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Matta tất bật với việc tiếp đãi Khách, và một của Maria ngồi bên chân Khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên tâm sự. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Matta. Chúa không chê hoạt động, lại càng không trách sự tiếp đón quảng đại, Người chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria để nói lên thái độ cơ bản con người phải có đối với Thiên Chúa là lắng nghe lời Chúa. Lời Chúa thì vững bền và mang lại ý nghĩa cho các hoạt động hằng ngày của chúng ta.

Gương của Matta và Maria

Matta và Maria trong Tin Mừng hôm nay nêu gương cho chúng ta và bảo chúng ta rằng nhân đức không chỉ có một mặt, vì trong việc tông đồ, người này làm việc tích cực, hết sức mình, người kia quan tâm đến việc rao giảng Lời Chúa. Nếu sự quan tâm này kết hợp sâu xa với đức tin, thì sẽ rất tốt cho công việc.

"Maria đã chọn phần tốt nhất". Chúng ta cũng thế, chúng ta cần phải cố gắng, để có được điều mà không ai lấy mất được, nên cần phải lằng nghe. Lắng nghe ở đây không phải là đãng trí, nhưng là chú ý ; vì ngay cả hạt giống lời Chúa từ trời xuống cũng bị lấy mất, nếu hạt giống đó gieo bên vệ đường, không được gieo vào đất tốt, tức là nghe nhưng không được đón nhận (x. Lc 8, 5.12)

Lắng nghe lời Chúa như cô Maria là khôn ngoan, vì đây là việc làm cao cả và hoàn hảo nhất. Lo lắng phục vụ là cần thiết, nhưng làm sao để những lo lắng phục vụ không cản trở ta đón nhận Lời Chúa từ trời xuống. Hãy khoan đừng có chỉ chích phê bình hay kết án những sự nhàn rỗi, những người mà chúng ta sẽ thấy họ làm việc tất bật để có được sự khôn ngoan, như Salomon, một con người hiền hòa, đã nài xin Chúa gửi Đức khôn ngoan của Ngài tới cự ngụ nơi nhà ông, khi thưa : "Lạy Chúa, xin gửi Đức không ngoan Ngài tới, để phù trì và đồng lao cộng khổ với con " (Kn 9, 10). Tuy nhiên đấy không phải là lời trách móc những việc Matta làm : Maria được Chúa Giêsu thích hơn vì Maria đã chọn phần tốt nhất. Người là Đấng giầu có, và Người trao ban cho cả Matta và Maria cách quảng đại ; Maria là người nữ khôn ngoan, vì cô biết nhận ra và chọn lựa điều quan trọng nhất.

Các Tông Đồ cũng cho rằng : "Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải" (Tđcv 6,2). Khi đứng giữa hai điều, một là rao giảng Lời Chúa, hai là phục vụ, tất cả đều là việc khôn ngoan : Stêphanô cùng với Philipphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, đã chọn việc phục vụ, với tư cách là thầy phó tế, và các ngài đã hoàn thành cách thật khôn ngoan (Tđcv 6,5.8)... Như thế, Giáo Hội là một thân thể, các bộ phận tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể : "Vậy mắt không có thể bảo tay: "Tao không cần đến mày"; đầu cũng không thể bảo hai chân: "Tao không cần chúng mày" (1 Cr 12, 21)... Nếu có một vài chi thể quan trọng nhất, thì các bộ phận khác cũng không kém phần quan trọng. Sự khôn ngoan ở trong đầu, còn hoạt động thể hiện nơi những bàn tay.

Lời Chúa trong cuộc đời

Con người đang đánh mất dần ý thức về sự thánh thiêng, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất. Người Kitô hữu phải lấy việc lắng nghe Lời Chúa là điều quan trọng nhất. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa, bằng cách suy niệm Kinh Thánh với đức tin, bằng cách tĩnh tâm cầu nguyện riêng cá nhân cũng như cộng đoàn, bằng việc im lặng mặc niệm trước Thánh Thể; từ Nhà Tạm, Chúa Kitô nói với chúng ta về tình yêu của Người. Ðặc biệt vào ngày Chúa Nhật, những người kitô được mời gọi đến gặp gỡ và lắng nghe Chúa. Ðiều này được thực hiện cách trọn vẹn, nhờ qua việc tham dự vào Thánh Lễ, trong đó Chúa Kitô dọn ra cho các tín hữu bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Bánh ban sự sống. Tuy nhiên, những giây phút cầu nguyện và suy tư, những giây phút nghỉ ngơi và sống tình huynh đệ, cũng có thể góp phần hữu ích vào việc thánh hóa ngày của Chúa.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, xin Mẹ giúp chúng con gắn bó cùng Chúa cho đến trọn đời. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tuyên bố của Đức Giám Mục giáo phận Dallas về vụ nổ súng giết các viên chức cảnh sát
Đặng Tự Do
00:11 11/07/2016
Đức Cha Kevin Farrell, Giám mục giáo phận Dallas, Hoa Kỳ đã ra một tuyên bố sau vụ nổ súng giết chết năm nhân viên cảnh sát và làm bị thương chín người khác trong thành phố. Ngài nói rằng “mức độ bạo lực ở trung tâm thành phố Dallas vào đêm thứ Năm 7 tháng Bẩy là đáng sững sờ.”

Ngài nói thêm, “mối quan tâm đầu tiên của chúng tôi hướng đến những gia đình đã mất người thân trong vụ tấn công thảm khốc này”. Đức Cha nhấn mạnh rằng: “Tất cả mạng sống đều có giá trị, dù là người da đen, hay da trắng, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo, hay Ấn Độ giáo. Chúng ta đều là con cái Thiên Chúa và tất cả cuộc sống con người đều là quý giá “.

Năm viên chức cảnh sát đã thiệt mạng, bảy nhân viên khác và hai thường dân bị thương trong một loạt các vụ bắn tỉa lúc kết thúc một cuộc diễu hành rất ôn hòa nhằm phản đối vụ giết những người da đen gần đây tại Baton Rouge và Minneapolis.

Theo Đức Cha, “vụ nổ súng này nhắc nhở chúng ta về sự nguy hiểm mà các nhân viên công lực, những người bảo vệ chúng ta, phải đối diện.”

“Chúng ta đã bị cuốn vào một vòng xoáy bạo lực không ngừng leo thang mà giờ đây đã chạm đến chúng ta sau khi đã hoành hành trên khắp đất nước này và trên thế giới.”

Đức Cha Kevin Farrell nói thêm:

“Chúng ta không thể đánh mất sự tôn trọng lẫn nhau và chúng tôi kêu gọi tất cả các nhà lãnh đạo dân sự của chúng ta phải thảo luận với nhau và làm việc cùng nhau để đi đến một giải pháp hợp lý nhằm chấm dứt tình trạng leo thang bạo lực này. Chúng ta hãy cầu xin Chúa là Cha trên trời soi sáng tâm trí và trái tim của tất cả mọi người để họ biết làm việc cùng nhau cho hòa bình và sự hiểu biết.

Chúng ta hãy nhớ lại lời của Đức Thánh Cha Phanxicô: ‘Xin Thiên Chúa của hòa bình khơi dậy một khát vọng đích thực cho đối thoại và hòa giải. Bạo lực không thể được khắc phục bằng bạo lực. Bạo lực phải được khắc phục bằng hòa bình.”
 
Kinh Truyền Tin 10/07/2016: Đức tin sinh hoa trái qua các công việc lành
VietCatholic Network
02:36 11/07/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Chính qua các công việc tốt lành chúng ta làm cho tha nhân với tình yêu thương và niềm vui, đức tin của chúng ta nảy mầm và đem lại hoa trái.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật hôm qua tại quảng trường thánh Phêrô dưới trời nắng 35 độ C của mùa hè Roma.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa dụ ngôn “Người Samaritano nhân hậu” như kể trong chương 10 Phúc Âm thành Luca. Ngài nói:

Trong trình thuật đơn sơ và kích thích của nó dụ ngôn chỉ cho thấy một kiểu sống, mà trọng tâm không phải là chính chúng ta mà là các người khác, với các khó khăn của họ, mà chúng ta gặp gỡ trên đường đời và họ gọi hỏi chúng ta. Những người khác gọi hỏi chúng ta; và khi họ không gọi hỏi chúng ta, thì có cái gì đó không ổn; có cái gì đó không là kitô trong con tim ấy. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này trong cuộc đối thoại với một tiến sĩ luật, liên quan tới giới răn hai chiều cho phép bước vào cuộc sống đời đời: yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu mến tha nhân như chính mình (cc.25-28). “Đúng, ông tiến sĩ luật trả lời, nhưng xin cho tôi biết ai là người thân cận của tôi? (c. 29). Cả chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi: ai là người thân cận của tôi? Ai là người tôi phải yêu mến như chính tôi? Cha mẹ tôi? Bạn bè tôi? Các người đồng hương với tôi? Các người có cùng tôn giáo với tôi? Ai là người thân cận của tôi?

Và Chúa Giêsu trả lời với dụ ngôn này. Có một người kia, từ Giêrusalem xuống Giêricô, đã bị cướp tấn công, hành hung và bỏ rơi. Trên con đường đó trước hết có một tư tế đi qua, rồi một lêvi, là những người tuy trông thấy người bị thương, nhưng không dừng lại và đi thẳng (cc.31.32). Rồi có một người Samaritano đi ngang qua, nghĩa là một dân thành Samaria, và như là người Samaritano họ bị người do thái khinh bỉ, bởi vì họ không tuân giữ tôn giáo thật; nhưng trái lại, chính ông ta là người “cảm thương”, khi trông thấy kẻ bị nạn tội nghiệp ấy. Ông tới gần, băng bó các vết thương… đem tới một quán trọ và lo lắng cho người ấy” (cc. 33-34); và ngày hôm sau ông ta phó thác người ấy cho chủ quán trọ săn sóc, trả tiền cho chủ quán và nói rằng ông cũng sẽ trả mọi sự còn lại (c. 35).

Tới đây Chúa Giêsu quay qua hỏi vị tiến sĩ luật: “Ai trong ba người – vị tư tế, thầy lêvi, người samaritano – đối với ông là ngưòi thân cận của kẻ đã bị rơi vào tay bọn cướp?” Và dĩ nhiên là người thông minh ông ấy trả lời: “Đó là người đã cảm thương anh ta?” (cc. 36-37), Trong cách thế đó Chúa Giêsu đã lật ngược hoàn toàn viễn tượng ban đầu của vị tiến sĩ luật - và cũng là của chúng ta ! -: tôi không được lên danh sách các người khác để quyết định ai là người thân cận của tôi – tuỳ thuộc tôi có là, hay không là người thân cận của người tôi gặp và cần được giúp đỡ, cả khi có là người xa lạ hay thù nghịch. Và Chúa Giêsu kết luận: “Ông hãy đi và làm như vậy” (c. 37). Thật là bài học đẹp! Và Chúa Giêsu lập lại với từng người trong chúng ta: “Con hãy đi và cũng hãy làm như vậy”. Làm các việc lành, chứ không chỉ nói các lời bay trong gió mà thôi. Tôi nghĩ tới một bài hát: “Lời nói, lời nói, lời nói”. Không, hãy làm, hãy làm. Và ĐTC khẳng định:

Chính qua các việc lành chúng ta làm cho người thân cận với tình yêu thương và niềm vui mà đức của chúng ta nẩy mầm và sinh hoa trái. Chúng ta hãy tự hỏi – mỗi người hãy tự trả lời trong tim – chúng ta hãy tự hỏi: đức tin của chúng ta có phong phú không? Đức tin của chúng ta có sản xuất các việc tốt lành không? Hay nó cằn cỗi và vì thế chết hơn là sống? Tôi có tới gần không hay chỉ đi qua bên cạnh? Tôi có thuộc số những người tuyển lựa người ta theo sở thích riêng không? Thật là tốt đặt ra các câu hỏi này cho chính chúng ta, và đặt ra thường xuyên, bởi vì sau cùng chúng ta sẽ bị phán xử dựa trên các công việc của lòng thương xót. Chúa sẽ có thể nói với chúng ta: “Còn con, con có nhớ lần ấy trên đường từ Giêrusalem xuống Giêricô không? Người dở sống dở chết đó đã là Cha? Con có nhớ không? Đứa trẻ đói khát đó đã là Cha. Con có nhớ không? Người di cư, mà biết bao người muốn đuổi đi đó, đã là Cha. Các ông bà nôji ngoại cô đơn, bị bỏ rơi trong các nhà hữu dưỡng đó đã là Cha. Người đau yếu cô đơn trong nhà thương không có ai đến thăm đó đã là Cha.

Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta bước đi trên con đường của tình yêu thương, tình yêu thương quảng đại đối với nhũng người khác, con đường của người samaritano nhân lành. Xin Mẹ giúp chúng ta sống giới răn chính yếy mà Chúa Kitô đã để lại cho chúng ta. Và đây là con đường để bước vào cuộc sống vĩnh cửu.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành Toà thánh cho mọi người.

Sau phép lành ĐTC đã nhắc tới “Ngày Chúa Nhật của Biển” nhằm ủng hộ việc săn sóc mục vụ cho người sống trên biển, Ngài nói: Tôi khích lệ các thuỷ thủ và các ngư phủ trong công việc làm của họ thường cam go và nguy hiểm, cũng như các linh muc tuyên uý và các thiện nguyện viên trong công việc phục vụ quý báu của họ. Xin Mẹ Maria là Sao Biển canh chừng trên anh chị em.

Ngài cũng đã chào nhiều đoàn hành hương, đặc biệt nhóm tín hữu Porto Rico, nhóm tín hữu Ba Lan hành hương đi bộ từ Cracovia sang Roma. ĐTC khen họ thật là giỏi! Ngài cũng gửi lời chào đoàn tín hữu do Radio Maria tổ chức hành hương đền thánh Đức Bà Czéstochowa lần thứ 25 bên Ba Lan. ĐTC cũng chào một nhóm tín hữu Argentina hiện diện ồn áo náo nhiệt; các gia đình giáo phận Adria Rovigo, Limbiate và cộng đoàn thừa sai Gioan Phaolo II. Ngài chúc mọi người một ngày Chúa Nhật nóng, và xin tất cả đừng quên cầu nguyện cho ngài.
 
Tòa Thánh phản ứng nhanh chóng trước cuộc tranh luận về việc cử hành thánh lễ trong tư thế ad orientem
Đặng Tự Do
16:37 11/07/2016
Sáng thứ Hai 11 tháng Bẩy, Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, đã ra một tuyên bố nói rằng bài diễn văn của Đức Hồng Y Robert Sarah tại một hội nghị về Phụng Vụ Thánh ở London đã bị "hiểu sai", và nhấn mạnh rằng chưa có chỉ thị chính thức mới về việc cử hành thánh lễ trong tư thế ad orientem.

Phát biểu vào tuần trước tại một hội nghị ở London, Đức Hồng Y Robert Sarah, tổng trưởng Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, đã khuyến khích các linh mục cử hành Thánh Lễ trong tư thế “ad orientem”, bắt đầu từ Mùa Vọng này. Ngài đã cũng mong các Giám Mục khuyến khích các linh mục trong giáo phận của mình làm như vậy. Trong tư thế “ad orientem”, vị linh mục dâng thánh lễ hướng về bàn thờ, và quay mặt về hướng Đông. Như thế, vị linh mục và cộng đoàn cùng nhìn về một hướng thay cho tư thế linh mục quay xuống đối mặt với cộng đoàn.

Nhiều cuộc tranh luận đã nổ ra phần lớn vì tư thế này liên quan đến Thánh Lễ Latinh cũ được sử dụng trước Công đồng Vatican II (1962-1965).

Tuy nhiên, cha Lombardi nhấn mạnh rằng Đức Hồng Y Sarah chỉ phát biểu một ý kiến của riêng ngài, chứ không phải là đưa ra một chỉ thị của Vatican, và đến nay "chưa có chỉ thị mới nào về phụng vụ bắt đầu từ Mùa Vọng sắp đến."

Trích dẫn Hướng dẫn chung về Sách Lễ Rôma, cha Lombardi nói trong những điều kiện bình thường thánh lễ nên được cử hành theo cách hiện nay, nghĩa là vị chủ tế đối diện với cộng đoàn.

Cha Lombardi cho biết thêm vấn đề này đã được xác nhận tại một cuộc họp giữa Đức Hồng Y Sarah và Đức Thánh Cha Phanxicô vào sáng thứ Bảy 9 tháng Bảy vừa qua.

Theo cha Lombardi, "tốt hơn là tránh sử dụng thuật ngữ ‘cải tổ của cải tổ’ khi đề cập đến phụng vụ, vì điều này đôi khi là nguồn gốc của sự hiểu lầm.” Thuật ngữ này thường được sử dụng bởi những người Công Giáo muốn tìm cách khôi phục lại một ý thức mạnh hơn và sâu xa hơn về sự tôn kính và phẩm giá của phụng vụ.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo xứ Thuận Nghĩa: Mừng lễ Thánh Phê-rô Tự, Bổn mạng Giáo lý viên
Px. Đinh Nguyễn
07:31 11/07/2016
Giáo xứ Thuận Nghĩa: Mừng lễ Thánh Phê-rô Tự, Bổn mạng Giáo lý viên

Hòa chung niềm vui cùng Giáo Hội mừng lễ Thánh Phê-rô Nguyễn Khắc Tự – Quan thầy Giáo lý viên Giáo phận Vinh. Sáng ngày 11/ 07/2016, tại nhà thờ Giáo xứ Thuận Nghĩa, gần 100 Thầy cô giáo lý viên đã tề tựu về ngôi thánh đường Giáo xứ để cùng hiệp dâng thánh lễ mừng Thánh Phê-rô Nguyễn Khắc Tự. Cha Antôn Trần Đình Văn, quản xứ Vĩnh Hòa, chủ tế thánh lễ. Đồng tế với ngài, có Cha Antôn Nguyễn Văn Đính quản xứ Thuận Nghĩa. Hiện diện trong thánh lễ còn có Thầy Phó tế Giuse Nguyên Văn Chín (SVD), quý tu sĩ nam nữ, chủng sinh, các em học sinh và đông đảo các bậc phụ huynh trong toàn giáo xứ.

Xem Hình

Trong bài giảng lễ, Thầy Phó tế Giuse Nguyễn Văn Chín đã phác họa chân dung của người Thầy Giảng Phêrô Nguyễn Khắc Tự, đã dành cả cuộc đời đem Chúa đến cho muôn người, hy sinh để làm chứng cho sự thật. Qua đó, Thầy Giuse cũng nhắc lại đôi nét về con đường nên thánh của Ngài: “Thánh Phê-rô Nguyễn Khắc Tự sinh năm 1811 tại Ninh Bình. Từ nhỏ đã được vào nhà Chúa, theo giúp cha già Quế. Khi cha qua đời, ngài lại theo giúp Đức Cha Cao. Sau bốn năm giúp Đức Cha Cao, ngài bị bắt sau Đức Cha. Trong ngục, ngài hết sức vui mừng vì gặp lại thầy cũ, hứa sẽ trung thành với thầy tới chết. Khi Đức Cha Cao và cha Khoa, Điểm được phúc tử đạo, ngài tỏ ra buồn khổ, mong cho tới lượt mình. Ngày 8-7-1840, triều đình phê án tử. Ngày 10-7-1840, ngài bị xử giảo tại Đồng Hới. Đức Thánh Cha Lêô XIII đã tôn phong ngài lên bậc chân phước ngày 27-5-1900 và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong ngài lên bậc Hiển thánh ngày 19-6-1988.”

Trong bài giảng lễ, Thầy Giuse cũng nhấn mạnh đến vai trò và tầm quan trọng của giáo lý viên trong thời đại ngày hôm nay. Các Thầy cô là những người hỗ trợ đắc lực, là cánh tay nối dài của Cha xứ, là người khơi lên và truyền đạt đức tin cho thế hệ trẻ. Trước những trách nhiệm và vinh dự lớn lao của giáo lý viên, Thầy Giuse cũng mời gọi các thầy cô giáo lý viên: hy sinh thời gian, sức khỏe, hy sinh cả công việc làm ăn…để chu toàn bổn phận của mình.

Sau thánh lễ, Cha Antôn Trần Đình Văn cũng nói lên thực trạng vô cảm của xã hội hiện tại, nguy hiểm nhất là sự vô cảm trong lãnh vực giáo dục. Vì vô cảm nên người ta chỉ biết nhồi nhét lý thuyết mà quên đi giáo dục về nhân bản và đạo đức cho thế hệ trẻ. Rồi, vì sự vô cảm nên hậu quả là những bất công trong xã hội, những mánh khóe lừa lọc để trục lợi cá nhân lan tràn. Qua đó, Ngài mời gọi các thầy cô giáo lý viên hãy cộng tác với Cha xứ để đào tạo, giáo dục con em của mình trở thành những người nói sự thật, làm theo sự thật, để làm chứng cho Chúa và Giáo Hội.

Xin Chúa ban cho các cô giáo lý viên sức khoẻ, lòng nhiệt thành, luôn thực sự là những nhà giáo dục chuẩn mực, noi gương người giáo lý viên đầu tiên là Đức Kitô để tiếp tục cống hiến khả năng của mình cho công việc dạy giáo lý trong giáo xứ thân yêu này.

Px. Đinh Nguyễn
 
Zenit phỏng vấn Cha Tôma Nguyễn Đình Anh Nhuệ - tân viện trưởng Viện Thần Học Giáo hoàng Thánh Bonaventure – Seraphicum
Chân Phương
08:20 11/07/2016
Phỏng vấn Cha Tôma Nguyễn Đình Anh Nhuệ - tân viện trưởng Viện Thần Học Giáo hoàng Thánh Bonaventure – Seraphicum

Ở Roma đang xảy ra những điều phi thường. Chúng ta không chỉ có vị giáo hoàng đầu tiên đến từ Mỹ Latinh, lấy tông hiệu là Phanxicô, đây còn là lần đầu tiên trong lịch sử có một phụ nữ được bổ nhiệm làm Viện trưởng Đại học Giáo hoàng Antonianum, đó là nữ giáo sư Mary Melone thuộc Dòng nữ Phanxicô Angeline. Sau đó, còn có Cha Nguyễn Đình Anh Nhuệ, người Việt đầu tiên được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Thần Học Giáo Hoàng Thánh Bonaventure - còn được gọi là Viện Seraphicum.

Phải chăng đây là dấu chỉ của thời đại? Hay là dưới triều đại Giáo hoàng Phanxicô, Giáo Hội hoàn vũ đang đón nhận nhiều vị đại diện hơn? ZENIT có cuộc phỏng vấn với Cha Nguyễn Đình Anh Nhuệ về suy nghĩ của ngài cho vấn đề này. Vị tân viện trưởng năm nay 46 tuổi, là một giáo sư thần học Kinh Thánh tại Viện Seraphicum. Ngài cũng đã giảng dạy tại Đại học Thần học Công Giáo - University of Divinity tại Melbourne (Úc), Đại học Giáo Hoàng Gregorian (kể từ năm 2008), và Đại học Giáo Hoàng Urbaniana (kể từ năm nay). Trong số những danh hiệu đã nhận được, vào năm 2014, ngài còn được vinh danh với "Giải thưởng Quốc tế Martini" trong lĩnh vực "Kinh Thánh và Văn hóa" cho công trình nghiên cứu với tựa đề: "Kinh Thánh và Văn hóa Á Châu: Đọc Lời Chúa trong nền Văn hóa và bối cảnh Việt Nam".


Kính thưa Cha Nguyễn Đình Anh Nhuệ, xin cha giới thiệu một chút về bản thân. Tại sao một kỹ sư điện tử rất tài năng lại quyết định trở thành một tu sĩ dòng Phanxicô?

Cha Nhuệ: Vâng, có lẽ hơi phóng đại một chút khi nói tôi là "rất tài năng". Nói về sự lựa chọn để trở thành một tu sĩ dòng Phanxicô, Thiên Chúa đã dẫn dắt tôi trong những thăng trầm khác nhau của cuộc đời. Vắn tắt rằng, từ thời niên thiếu, tôi đã muốn dành cuộc đời tôi với Chúa, còn mơ ước trở thành một linh mục thì đến sau khi tôi thấy mẫu gương của một linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, cha này đã chăm sóc cho các thanh thiếu niên và bọn trẻ chúng tôi trong giáo xứ. Tuy nhiên, lúc đó không phải là cơ hội để tôi theo đuổi ước mơ của mình vì những khó khăn khác nhau. Cha mẹ tôi thì khuyên tôi nên tiếp tục lo học hành và tiến càng xa càng tốt trong trình độ học vấn. Họ nói rằng: "Rồi con sẽ thấy: những gì con học bây giờ sẽ có ích nếu sau này con trở thành một linh mục". Chúa lại dẫn dắt tôi trong hành trình học tập. Sau cấp trung học, tôi đã vượt qua được kỳ thi tuyển vào đại học và tôi có cơ hội đi du học ở Nga. Khi ở đại học, Chúa giới thiệu tôi đến với các tu sĩ dòng Phanxicô và khiến tôi nhớ lại "giấc mơ" thời niên thiếu, nguồn cảm hứng trước mẫu gương về tình huynh đệ và tinh thần truyền giáo của các tu sĩ đã khiến tôi đã nộp đơn để bắt đầu cuộc hành trình tu học linh mục cho Dòng Anh em Hèn Mọn Viện tu.

Hành trình của cha là một sự thống nhất: từ Việt Nam sang Nga, rồi sang Ba Lan và sau đó là qua Ý. Tại sao lại có cuộc hành hương như vậy?

Cha Nhuệ: Trong tất cả đều có bàn tay uy quyền của Chúa. Ngay bây giờ tôi có thể nói như vậy. Thực tế là tôi không bao giờ nghĩ đến một con đường như vậy. Từ nước Nga, các tu sĩ đã gửi tôi sang Ba Lan để bắt đầu dự tu: tìm hiểu, vào tập viện và ba năm ở chủng viện. Sau đó, tôi được chuyển đến Rôma để hoàn thành việc nghiên cứu thần học. Cho nên, sau bằng Cử nhân (Bachelor), tôi nhận được bằng Dự bị tiến sĩ (Licentiate) và Tiến sĩ Thần học (Doctorate in Sacred Theology). Sau đó, tôi giảng dạy tại Viện này. Và bây giờ tôi ở đây.

Cha đến từ Việt Nam, một đất nước xinh đẹp, nhưng là nơi mà người Công Giáo phải đối mặt với sự thù ghét trong nhiều thập kỷ qua. Cha sinh ra là người Công Giáo hay là cha đã đón nhận đức tin Kitô giáo trong trong cuộc đời mình?

Cha Nhuệ: Tôi sinh ra trong một gia đình Công Giáo, là những Kitô hữu ít nhất ba thế hệ rồi. Tôi được rửa tội khi tôi tròn một tháng và ba ngày tuổi. Và tôi giữ trong mình căn tính Kitô giáo khi còn sống ở Việt Nam, nó được làm phong phú thêm bằng mối liên kết cá nhân tôi với đức tin Kitô giáo khi ở Ba Lan và ở những nơi khác nhau của nước Ý. Tôi luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những trải nghiệm đức tin này. Như lời của Thánh Phaolô, tôi tạ ơn Thiên Chúa, và lòng thương xót của Ngài đã làm cho tôi có được như ngày hôm nay.

Cha là người Việt đầu tiên lãnh đạo một Viện Giáo Hoàng ở Rôma. Đó là một điều vô cùng lạ thường. Cha cảm nghiệm như thế nào?

Cha Nhuệ: Có lẽ bạn sẽ nhận thấy rằng sự lựa chọn này là do bề trên của chúng tôi muốn có sự tiếp nối, bởi vì trước đó tôi đã giữ chức phó viện trưởng rồi. Nhưng thực ra, điều đó có lẽ là một phép lạ cho phần còn lại của cuộc đời chúng ta.

Đây có phải là một dấu chỉ của thời đại? một thực tế mới cho các Kitô hữu Á Châu đã đến Rôma hay không? Phải chăng là do phẩm chất cao đẹp và sự tốt lành của các linh mục Á Châu thế hệ mới?

Cha Nhuệ: Tôi không biết chắc đó có phải là một dấu chỉ của thời đại hay không. Điều mà tôi thấy rõ ràng và tôi muốn nhấn mạnh là: trong mọi thời đại, ở mọi nơi và ở mọi quốc gia, Thiên Chúa luôn kêu gọi và đào tạo những người nam, người nữ cho công cuộc phục vụ của Ngài, ban cho họ những ơn cần thiết để họ thực hiện sứ vụ được giao.

Các Kitô hữu ở Việt Nam hiện nay ra sao? Dòng Phanxicô ở Á Châu như thế nào? Và vị viện trưởng Viện Seraphicum có thể đóng góp, mang lại điều gì cho Việt Nam, Á Châu và Giáo Hội hoàn vũ?

Cha Nhuệ: Hiện tình các Kitô hữu ở Việt Nam đang khả quan hơn, mặc dù vẫn còn nhiều điều cần được cải thiện. Các tu sĩ dòng Phanxicô cũng đang làm khá tốt. Cảm tạ Chúa vì vẫn còn có ơn gọi; và cho nên, khi nói tổng thể về Giáo Hội tại Việt Nam thì chúng tôi là một thực tại năng động trong xã hội.

Đối với những đóng góp có thể có của Viện Seraphicum - là một Viện Thần Học Giáo Hoàng, chúng tôi có thể làm nhiều việc trong các lĩnh vực đào tạo tu sĩ và tân Phúc Âm hóa, bắt đầu từ hai chuyên ngành của chúng tôi là: Kitô học (Christology) và Học thuyết thánh Phanxicô (Franciscanism) đương đại. Đặc biệt, việc rao giảng chuyên sâu về Chúa Kitô thực sự là cần thiết ở Á Châu, vì đây là nơi có nhiều truyền thống đức tin xa lạ với Kitô giáo, vẫn còn tồn tại rất nhiều dị biệt và hiểu lầm về hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô - là Con Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ duy nhất của thế giới.

Một thách đố đặc biệt là làm sao để chúng tôi có thể cập nhật, tiếp nhận và giao thoa văn hóa trong việc loan báo về Chúa Kitô và sứ điệp Kitô giáo trong bối cảnh mới. Đó thực sự là mục đích của Viện Seraphicum; chúng tôi đã thành lập FIATS - Franciscan Theological Institute for Asian Studies - nghĩa là Phân Viện Thần Học Phanxicô Nghiên cứu Á Châu. Tôi nghĩ rằng tất cả điều này có liên quan không chỉ cho Á Châu mà còn trên toàn thế giới, bởi vì ngày nay chúng ta đang sống trong một ngôi làng mang tính toàn cầu.

Có thể hình dung rằng sẽ có nhiều người Á Châu được vào Viện Seraphicum phải không?

Cha Nhuệ: Vâng, điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Việc học tập tại Rôma không phải là dễ dàng cho một tu sĩ đến từ Á Châu, nói chi đến một giáo dân, mặc dù rất nhiều người muốn được học. Và yếu tố tài chính cũng là điều quan trọng: học ở Rôma rất là tốn kém. Do đó, Viện của chúng tôi đang tìm kiếm nguồn ngân sách và các nhà tài trợ để giúp đỡ những người trẻ tuổi Á Châu, và người ngoài Âu Châu nói chung, tức là những ai muốn theo đuổi việc học tập ở đây nhưng không có điều kiện, để họ được đào sâu kiến thức về thần học Kitô và các giá trị Phanxicô, rồi mang về cho đất nước cội nguồn của mình.

Ước mơ của cha là gì?

Cha Nhuệ: Chúng tôi muốn mang đến mọi người một sự hiểu biết về thần học Kitô và và học thuyết Phanxicô, cho Giáo Hội và cho toàn thế giới. Vài tháng gần đây sau khi được bổ nhiệm, tôi đã thảo luận với nhiều vị giáo sư trong Viện của chúng tôi và tôi đã cảm nhận một lòng nhiệt thành lan tỏa ở đây, tại Viện Seraphicum này, không chỉ đào tạo nên các nhà trí thức, mà còn đào tạo nên một tập hợp các linh mục, các nhà thần học và chuyên gia về thần học Kitô trong tương lai: một tập hợp được kiến tạo trên tảng đá là Chúa Kitô. Qua việc mang thần học đến với cộng đồng bằng một phong cách mới, chúng tôi cố gắng cổ võ việc nghiên cứu thần học Kitô và học thuyết Phanxicô một cách nhiệt thành và mạnh dạn hơn, đó là hai chuyên ngành mà Giáo Hội giao phó cho chúng tôi.

Nhưng, ngoài sự phát triển đặc biệt về sư phạm, tôi còn mơ ước về một học viện mà ở đó, mỗi thành viên - bất kể là một giáo sư hoặc sinh viên - sẽ không còn lệ thuộc vào công việc của mình, mà sẽ ký thác chính mình vào Chúa Kitô, sống theo Chúa Kitô, để truyền lại cho những người khác không phải chỉ là một lý thuyết trừu tượng, nhưng là một Chúa Kitô sống động, với tình yêu và lòng nhiệt thành như Thánh Phanxicô đã dành cho Chúa Kitô.

Đối diện với thế giới đương đại, hơn bao giờ hết, chúng ta có thể và phải thốt lên tiếng khóc một lần nữa với Thánh Phanxicô: hãy yêu mến người hơn được người mến yêu. Vâng, tình yêu của Thiên Chúa nhập thể, là Chúa Giêsu Kitô, vẫn còn ít được biết đến và vì vậy ít được yêu mến. Như một vị giám mục Dòng Phanxicô đã nói: loan báo Chúa Kitô, làm cho ngài được mọi người biết đến và yêu mến bằng mọi hoạt động trong cuộc đời, trong đó có việc học tập, đây là ơn gọi của Dòng Phanxicô ở mọi thời đại. Đó cũng là ơn gọi của Viện chúng tôi, ơn gọi của mỗi người chúng ta ngày hôm nay. Và cùng với Thánh Gioan Phaolô II và toàn thể Giáo Hội, chúng tôi muốn nói vang lên trước thế giới một lần nữa rằng: "Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô".

Phải chăng Cha có tầm nhìn về dự án này từ việc quan sát thấy cuộc cách mạng lớn mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đang thực hiện trong Giáo Hội Rôma?

Cha Nhuệ: Chúng tôi đang có sự đồng điệu với Đức Giáo Hoàng và đang tìm hiểu tư tưởng của ngài để hoạt động mọi thứ. Ở đây chúng tôi đề cập đến ba điểm cơ bản. Trước hết là sự lưu tâm đặc biệt đối với người nghèo và người bị thiệt thòi, mà Giáo Hội đã đưa ra sự trợ giúp vật chất cần thiết, với bánh sự sống là Đức Kitô. Thứ hai là Đức Giáo Hoàng luôn nhấn mạnh rằng trong nhãn quan của đức tin và suy tư thần học có vai trò tích cực của các vùng ngoại vi hay vùng ngoại ô. Vâng, chúng tôi hiện đang ở ngay trong những vùng ngoại vi của thành Rôma, kể từ khi chúng tôi di chuyển ra khỏi quận EUR để đến gần Tu viện vùng Three Fountains. Ngoài ra, cơ sở của Viện chúng tôi có thể nói là "ngoại biên" hay "bên lề" so với trung tâm học thuật của thành Rôma. Nhưng tất cả điều này là lợi thế của chúng tôi: được thoát li khỏi vùng trung tâm! Do đó, một mặt thì chúng tôi kết hiệp chặt chẽ với khu trung tâm, nhưng mặt khác, nhờ vào vị trí và phạm vi "ngoại vi" này, chúng tôi có tinh thần thư thái hơn và tập trung hơn vào các chủ đề cơ bản của đức tin Kitô giáo cũng như của xã hội chúng ta. Cuối cùng là tầm quan trọng của giáo dục toàn diện, hình thành nên ơn gọi tu trì và Kitô hữu. Chúng tôi không kiến tạo nơi này thành một câu lạc bộ tự ảo tưởng, những nhà trí thức tự mày mò, nhưng chúng tôi cố gắng suy tư và cùng khám phá viên ngọc đức tin Kitô giáo như là nền tảng cho đời sống thực tại và việc phục vụ một đức tin sống động luôn đòi hỏi sự hiểu biết cao cấp hơn.

Một năm học nữa đã kết thúc. Cha nghĩ về điều gì cho năm học kế tiếp? những thách đố mà học viện sẽ phải đối mặt là gì?

Cha Nhuệ: Vâng, chúng tôi đã kết thúc một năm học căng thẳng, cảm tạ Thiên Chúa. Tôi cũng cảm ơn vị viện trưởng tiền nhiệm là Cha Domenico Paoletti, các giáo sư, các sinh viên, những người ủng hộ và các nhà hảo tâm, chúng tôi nhớ đến họ trong lời cầu nguyện. Bây giờ, như Thánh Phaolô đã nói, quên đi quá khứ, chúng ta đang hướng tới tương lai với niềm tin kiên định rằng Chúa sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta. Sẽ có nhiều thách đố, nhưng tôi chỉ muốn đề cập đến một thách đố, có lẽ lớn nhất và hấp dẫn nhất: đó là hành trình tiến đến việc thống nhất các học viện Phanxicô nhỏ để thành lập nên một Đại học Phanxicô tại Rôma. Trong lộ trình này, còn nhiều vấn đề vẫn chưa được xem xét và xác định, nhưng có một điều chắc chắn là: chúng tôi sẽ làm phong phú cho nhau và cùng liên kết để phục vụ tốt hơn cho Giáo Hội và thế giới. Tôi cũng muốn nhân cơ hội này cảm ơn nhân viên hãng tin ZENIT và độc giả đã yểm trợ chúng tôi, và tôi khiêm tốn xin quý vị đọc một Kinh Kính Mừng cho Học viện "ngoại vi" này, để chúng tôi có thể trung thành với ơn gọi và sứ vụ đã được trao phó cho mình.

Chân Phương
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Lòng thương xót, yếu tính của Tin Mừng và chìa khóa dẫn vào đời sống Kitô hữu (22)
Vũ Văn An
20:07 11/07/2016
VI. Phúc thay ai có lòng thương xót (tiếp theo)

4. Đừng thương xót giả hiệu kiểu để mặc!

Ngay lòng thương xót và tôn giáo cũng có thể bị lạm dụng. Giới răn yêu thương người lân cận của Kitô Giáo, và nhất là giới răn yêu thương kẻ thù, phải được thể hiện trong các điều kiện của thế giới. Điều này có thể dẫn tới chỗ lòng thương xót trở thành lưỡng nghĩa, thậm chí bị hiểu sai và lạm dụng trong bầu khí lưỡng nghĩa của thế giới hiện nay. Người ta hầu như có thể làm đồi trụy lòng thương xót đến độ biến nó thành điều trái ngược với chính nó và làm cho lời kêu gọi thương xót trở thành một thứ “chất làm mềm” tâm thức Kitô Giáo.

Ngày nay, một hình thức thương xót giả hiệu đang được bàn luận nhiều là hình thức nhằm bảo vệ người làm điều xấu hơn là nạn nhân của họ. Thứ dung túng diễn ra do một tình bằng hữu hay tình hợp đoàn sai lầm. Nó cũng có thể diễn ra vì người ta muốn bảo vệ một định chế, bất kể đó là Giáo Hội, là nhà nước, một dòng tu, hay một câu lạc bộ, chống lại bất cứ hậu quả tai hại nào nếu điều làm sai bị vạch trần và bị khởi tố. Một não trạng như thế đi ngược lại tinh thần Tin Mừng, một tinh thần luôn cổ vũ việc ưu tiên chọn người nghèo và bênh vực cho bất cứ ai yếu thế hơn. Do đó, việc bảo vệ nạn nhân phải ưu tiên hơn việc bảo vệ kẻ phạm tội.

Còn nhiều hình thức khác hiểu sai lòng thương xót không kém trầm trọng. Trước nhất, phải đề cập tới quan điểm để mặc (laissez-faire) nghĩa là để mặc mọi việc xẩy ra và diễn tiến. Nó khởi đầu với việc cha mẹ dung túng con cái mình trong mọi sự, vì một lòng thương xót lầm lẫn. Thái độ dị thường này được biểu lộ khi người ta bỏ qua một tác phong xấu hay tội lỗi, thay vì đòi người ấy thay đổi.

Trong sách tiên tri Êdêkien, ta thấy lời cảnh cáo mạnh mẽ. Ngài nói nếu lính canh không thổi kèn sừng cừu khi nguy hiểm tới gần và không cảnh giác để dân chúng ý thức được nguy cơ cận kề, thì anh ta phải chịu tính sổ về khoản máu đổ ra. Rồi, Êdêkien nói tiếp: nếu các ngươi không lên tiếng để cảnh giác kẻ xấu, nói với chúng rằng chúng sẽ chết vì tội lỗi của chúng, thì kẻ xấu sẽ chết vì tội lỗi của chúng. “Nhưng máu của chúng Ta sẽ đòi từ bàn tay các ngươi”. Nhưng nếu các ngươi cảnh giác kẻ xấu và chúng không quay đầu khỏi con đường của chúng, “kẻ xấu sẽ chết vì tội lỗi của chúng, nhưng các ngươi sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 33:6-9).

Thánh Phaolô quả quyết rõ ràng rằng người khác không thể là một vấn đề dửng dưng đối với chúng ta; đúng hơn, ta chịu trách nhiệm lẫn cho nhau do tình yêu và lòng thương xót. Do đó, Thánh Phaolô không do dự cảnh cáo cộng đoàn của ngài (Rm 12:1); và quả tình, vì mục đích này, ngài nại tới thẩm quyền cao nhất (2Cr 5:20). Một cách khá tổng quát, ngài nhắc cộng đoàn của ngài nhớ đến việc phải quan tâm và chịu trách nhiệm lẫn nhau giữa các Kitô hữu: “Hãy dạy dỗ và khuyên răn nhau” (Cl 3:16). Do đó, Tân Ước đã nói đến việc anh em sửa trị lẫn nhau (1Tx 5:11, 14; 2Tx 3:15; 2Tm 2:25; Tt 1:13; 2:15). Nếu lời khuyên răn này không tự coi mình là công chính, nhưng nói ra với ý thức rằng mình cũng có các sai lạc và thất bại, thì đây quả là một việc thương xót phần hồn (36). Theo cách này, lòng thương xót cũng là thuốc đắng và là thuốc cần thiết (37). Đôi khi nó gây thương tích, hệt như bác sĩ, khi mổ xẻ, cũng gây nên đau đớn và phải cắt phải mổ, không phải để gây hại, mà đúng hơn để giúp đỡ và chữa lành (38).

Một hiểu lầm trầm trọng khác về lòng thương xót xẩy ra khi, nhân danh lòng thương xót, ta tưởng ta có thể làm ngơ giới răn công bình của Thiên Chúa và hiểu tình yêu và lòng thương xót, không phải như việc chu toàn và vượt quá công bằng, mà đúng hơn như việc cắt xén và tiêu hủy nó. Do đó, ta không thể đi ngược lại các giới răn cơ bản về công bằng vì hiểu lòng thương xót theo lối cảm xúc. Ta không thể cố vấn hay trợ giúp một cuộc phá thai vì một cảm thức thương xót giả mạo, nếu việc sinh hạ một trẻ nhỏ có khuyết tật xem ra là một kỳ vọng quá đáng đối với người mẹ hay đứa con. Cũng thế, người ta không thể, vì thương xót một người bệnh không thể chữa được, mà tích cực giúp đỡ để họ tự tử hầu “giải thoát’ họ khỏi đau đớn và đau khổ. Những thứ thương xót giả mạo như thế không hề mô phỏng lòng thương xót của Thiên Chúa; đúng hơn, chúng bác bỏ giới răn của Người “Ngươi không được giết người” (Xh 20:13; Đnl 5:17).

Không phạm tội thương xót giả mạo không có nghĩa phải cư xử bất thiện cảm với những người, trong tình huống của họ, phải lao đao len lỏi đối với giới răn của Thiên Chúa hay, thực sự, đã vi phạm nó. Vì lòng thương xót đúng nghĩa, ta phải trình bầy và giải thích giới răn của Thiên Chúa, nhưng phải làm việc này một cách đầy cảm thương. Tuy nhiên, phải giúp người ta, bằng lời lẽ và bằng việc làm, để họ thực thi các đòi hỏi của giới răn trong tình huống thường phức tạp và khó khăn của họ, một việc mà các dịch vụ huấn đạo của Giáo Hội đặc biệt giả thiết phải làm. Trong các trường hợp, khi người ta quá bị đè nặng bởi tội lỗi, tội lỗi vốn nặng chĩu trong linh hồn họ, thì ta nên đáp ứng họ bằng phương thức mục vụ, như Chúa Giêsu từng đáp ứng đối với những người tội lỗi. Ta không nên ngồi tòa phán xét lạnh lùng đối với họ, nhưng đúng hơn, nên giúp đỡ họ, không phải để chối bỏ tội lỗi, mà để thừa nhận nó, rồi phó thác cho lòng thương xót luôn lớn lao hơn của Thiên Chúa và sự sẵn sàng tha thứ của Người.

Mối liên hệ giữa lòng thương xót và việc nói sự thật cũng tương tự như thế. Vấn đề này trở nên thích đáng khi ta giả thiết phải cho người bệnh nguy kịch hay đang hấp hối biết sự thật về tình huống của họ. Dấu sự thật vì hiểu sai lòng thương xót hoặc cung cấp cho họ những kỳ vọng hoàn toàn không thực tiễn thực sự không giúp gì cho những người liên hệ, mà chỉ cản trở, không cho họ đối diện với sự thật và bằng lòng với tình huống của họ một cách nhân đạo và tâm linh. Lòng thương xót chân chính phải nói sự thật trong các tình huống như thế, không phải một cách tàn nhẫn vô cảm, nhưng phải mẫn cảm yêu thương (Ep 4:15). Lòng thương xót đích thực phải phát biểu sự thật một cách giúp người bệnh chấp nhận sự thật và bằng lòng đối với nó. Muốn làm được điều này đòi ta phải có khả năng tương cảm đáng kể cũng như một tài ứng biến mục vụ đầy nhân từ.

5. Gặp gỡ Chúa Kitô nơi người nghèo

Trong diễn từ quan trọng của Người về sự Phán Xét Sau Cùng, Chúa Giêsu nói đến chiều kích sâu xa nhất của lòng thương xót mà ta phải đem ra thực hành. Người nói rằng “Khi các con làm điều ấy cho một trong những người thấp bé nhất trong những người này, là các con làm cho Ta” (Mt 25:40; xem 45). Người là Đấng giầu có đã trở nên nghèo vì chúng ta” (2Cr 8:9) và đã mang lấy thân phận nô lệ (Pl 2:7). Người không những thiết lập tình liên đới với người nghèo, mà còn đồng nhất hóa với họ nữa. Do đó, ta có thể gặp gỡ Người nơi người nghèo.

Thánh Augustinô liên tiếp nhắc đến nền tảng Kitô học của tình yêu đối với người lân cận. Trong công trình của ngài, người ta tính được ngài đã trích chương 25 của Tin Mừng Mátthêu hơn 275 lần (39). Trong một bài giảng, ngài viết (bằng một văn phong Latinh cô đọng đến nỗi khó mà dịch được, chỉ có thể dẫn giải mà thôi): Các ngươi đã cho điều gì khác ngoài điều các ngươi đã nhận lãnh từ Ta? Các ngươi cho đi một điều trần thế; các ngươi nhận lãnh một điều thiên giới. Các ngươi cho đi một điều vốn là của Ta. Chính Ta hiến mình cho các ngươi. Chúa Kitô đã hiến mình cho ta; làm thế nào ta lại không cho Chúa Giêsu, Đấng gặp gỡ ta trong những người thiếu thốn? Chúa Kitô ban lương thực cho ta và, vì ta, người trở thành túng thiếu. Người ban phát và Người trở thành túng thiếu. Nếu Người ban, anh chị em có muốn nhận không? Tuy nhiên, nếu Người túng thiếu, há anh chị em lại không muốn cho Người sao? Chúa Kitô túng thiếu khi người nghèo túng thiếu. Đấng muốn ban sự sống đời đời cho mọi người đã hạ cố tiếp nhận một điều tạm bợ dưới lốt người nghèo. Anh chị em muốn gặp Chúa Kitô đang ngự trên trời. Hãy mong gặp Người khi Người nằm ở gầm cầu; hãy mong gặp Người khi Người đói khát và run rẩy giữa giá lạnh; hãy mong gặp Người khi Người là khách lạ (40).

Mọi vị thánh vĩ đại của đức ái Kitô Giáo đều thấy tình cảnh trên và sống tình cảnh ấy: Phó Tế Lôrensô, Thánh Martin thành Tours, Thánh Nicôla thành Myra, Thánh Elizabeth thành Thuringia, Thánh Camillô thành Lellis, Thánh Vicentê đệ Phaolô, Thánh Đamianô thành Veuster. Từ đầu cuộc hành trình của ngài, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã thần nghiệm được Chúa Kitô khi ngài gặp một người bệnh sắp chết (41). Ngài đã phát biểu chiều kích Kitô học, và ta dám gọi là chiều kích thần nghiệm học của lòng yêu người này qua lời cầu nguyện sau đây:

“Lạy Chúa, xin cho con gặp Chúa ngày hôm nay và mọi ngày trong con người của người bệnh và khi chăm sóc họ, con được phục vụ Chúa.

“Cho dù Chúa ẩn dưới lốt kín đáo của một người cáu kỉnh, hay đòi hỏi, hoặc không khoan nhượng, xin cho con vẫn nhận ra Chúa và thưa với Chúa: ‘Lạy Chúa Giêsu, bệnh nhân của con, được phục vụ Chúa là điều tốt biết chừng nào’.

“Ôi lạy Chúa, xin Chúa ban cho con đôi mắt đức tin, nhờ thế, việc làm của con sẽ hết độc điệu. Con sẽ luôn tìm được niềm vui khi phải chịu đựng tính khí và thoả mãn ý muốn của mọi người nghèo đang đau khổ.

“Ôi bệnh nhân yêu qúy của tôi, bạn thân thiết gấp đôi với tôi dường bao khi bạn là hiện thân của Chúa Kitô; và tôi hân hạnh biết bao khi được phục vụ bạn.

“Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết nhận ra phẩm giá ơn gọi cao cả của con và trách nhiệm lớn lao của nó. Xin Chúa đừng để con tỏ ra bất xứng bao giờ đối với ơn gọi này bằng cách sa vào sự cứng lòng, bất thân thiện hoặc thiếu kiên nhẫn. Và rồi, ôi lạy Thiên Chúa, vì Chúa là Chúa Giêsu Kitô, bệnh nhân của con, xin cũng đoái thương làm bệnh nhân Giêsu của con. Xin nhân từ đối với các lỗi lầm của con và xin chỉ nhìn đến quyết tâm yêu Chúa của con và quyết tâm phục vụ Chúa trong con người của mỗi người đau yếu này. Lạy Chúa, xin Chúa gia tăng đức tin của con, xin chúc phúc cho cố gắng và việc làm của con, bây giờ và mãi mãi. Amen” (42).

Lời lẽ của Chúa Giêsu và của các thánh vừa nhắc tới, xét cho cùng, đều cho thấy điều trọng yếu trong lòng thương xót và tình yêu người lân cận của Kitô Giáo. Đây là một vấn đề không chỉ nói đến tình yêu thương nhân loại nói chung, một điều không thể bác bỏ nếu không phải chỉ là những lời sáo rỗng, nhưng còn nói đến hành động cụ thể. Đây cũng không phải là việc chỉ biết cảm thương người đau khổ, một điều vốn tích cực so với sự cứng lòng hay vị kỷ. Thậm chí, đây cũng không phải là vấn đề có ý tưởng muốn làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Về phương diện này, Thánh Kinh hết sức thực tiễn. Nó biết rõ: “Các con luôn có người nghèo với các con” (Ga 12:8). Xét cho cùng, điều quan trọng trong lòng thương xót của Kitô Giáo là việc gặp gỡ chính Chúa Giêsu Kitô nơi và qua những người đau khổ. Do đó, lòng thương xót chủ yếu không phải là vấn đề luân lý, mà là vấn đề tin vào Chúa Kitô, là trở thành môn đệ, là gặp gỡ Người. Như dụ ngôn người Samaria nhân hậu đã cho thấy, trọng tâm của vấn đề là người thiếu thốn, người mà tôi gặp gỡ cụ thể, người tùy thuộc sự giúp đỡ của tôi, và là người tôi trở thành kẻ lân cận (Lc 10:25-37). Nơi người nghèo khổ này, tôi gặp gỡ chính Chúa Giêsu Kitô.

Tình yêu đối với người lân cận có những hậu quả xã hội và chính trị vượt quá lãnh vực cá nhân, đây là điều không thể nghi vấn. Ta sẽ sớm nói đến các hậu quả này một cách chi tiết (43). Dĩ nhiên, việc can dự có tính xã hội và chính trị chỉ đáng tin nếu nó đưa ra các đòi hỏi không những cho người khác hay cho các định chế xã hội và Giáo Hội, nhưng trong chính đời sống mình và trong khu vực mình gây ảnh hưởng bản thân, nó còn đòi ta phải đem ra sống ý nghĩa của việc làm môn đệ Chúa Kitô và việc “hiện hữu vì [người khác]” (pro-existence), một cách cụ thể và đầy gương sáng. Một chứng tá như thế sẽ lôi cuốn và thúc đẩy người khác dấn thân một cách cụ thể. Như thế, việc đồng hóa với Chúa Giêsu Kitô nơi người nghèo vượt quá cuộc gặp gỡ cá nhân; nó có ý nghĩa đối với người khác và đối với Giáo Hội.

6. Lòng thương xót như sự hiện hữu Kitô Giáo vì người khác

Liên kết bản thân với Chúa Giêsu Kitô có nghĩa phải tham dự vào việc hiện hữu vì [người khác] của Người. Do đó, hình thức thương xót của Kitô Giáo, xét cho cùng, là sự hiện hữu vì người khác của Chúa Kitô (Stellvertretungs-Existenz). Điều này sẽ hiển nhiên khi ta lưu ý tới những tầng ý nghĩa khác nhau trong lời kêu gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu (44). Lời kêu gọi này không phải chỉ là lời mời gọi bước theo chân Chúa Giêsu và đồng hành với Người trên mọi nẻo đường của Người. Làm môn đệ bao gồm việc cùng sống và cùng thực hiện một sứ mệnh (Mc 3:14 và những câu song hành); cuối cùng, nó có nghĩa chịu chung một số phận, một đau khổ, một thập giá. “Nếu ai muốn làm môn đệ của Tôi, họ hãy từ bỏ mình, vác lấy thập giá của họ và hãy theo Tôi” (Mc 8:34 và các câu song hành). Như Chúa Giêsu đã tự biến mình thành đầy tớ cho mọi người thế nào, thì các môn đệ của Người cũng phải như thế. Bất cứ ai muốn là người thứ nhất trong các môn đệ của Người, họ phải làm đầy tớ cho mọi người (Mc 10:45; xem Ga 13:15). Giống Chúa Giêsu Kitô, việc “chết” với Chúa Kitô này có thể đòi phải theo Chúa Giêsu tới tận thập giá và bỏ mạng sống mình vì Người (Mc 8:34tt và các câu song hành).

Vào đêm trước khi chịu thống khổ của Người, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ Người một tấm gương cụ thể, khi Người làm cho các ông một việc phục dịch thấp hèn của nô lệ là rửa chân cho các ông, để cả họ nữa, cũng nên làm như thế (Ga 13:14tt). Từ nay, các môn đệ của Người phải biến đời họ, đời mà Chúa Giêsu đã ban cho họ, thành một tặng phẩm cho người khác. Điều này có thể dứt khoát dẫn tới cực điểm. Vì không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bằng hữu (Ga 15:13; xem Ga 12:25tt). Giống hệt như sự hiện hữu của chính Chúa Giêsu, sự hiện hữu như một tông đồ được hiểu có nghĩa là hiện hữu cho người khác, hay hiện hữu vì (người khác).

Việc tham dự vào cái chết thay, cái chết đền tội và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô qua phép rửa (1Cr 12:13; Gl 3:28) và qua việc cử hành Thánh Thể (1Cr 10:16tt) đã kết hợp chặt chẽ tư tưởng này một cách mới mẻ và sâu sắc hơn sau Phục Sinh. Hiện hữu trong Chúa Kitô là hiện hữu với và cho người khác trong thân xác Chúa Kitô. “Một chi thể đau, mọi chi thể cùng đau với nó; một chi thể được vinh dự, mọi chi thể cùng mừng rỡ với nó” (1Cr 12:26). Như thế: “Hãy mang gánh nặng của nhau, và nhờ thế, anh em sẽ chu toàn lầ luật của Chúa Kitô” (Gl 6:2). Do đó, Thánh Phaolô đã sẵn sàng trở thành nô lệ để có thể cứu được càng nhiều người càng tốt. “Tôi đã trở nên mọi sự cho mọi người, để có thể bằng mọi cách cứu được một số” (1Cr 9:22). Ngài để ngài hao mòn và hao mòn thật sự, điều được ngài coi như lễ hy sinh của cộng đoàn ngài, dâng lên trong đức tin (Pl 2:17; xem 2Cr 12:15). Phục vụ tông đồ và mục vụ, theo nghĩa đen của chữ “service” (phục vụ), có nghĩa là để mình chịu hao mòn và chính trong sự đau khổ tông đồ và mục vụ này, là để Chúa Giêsu Kitô, để cái chết của Người, và sự phục sinh của Người trở thành hiện diện vì người khác. Sự hiện hữu tông đồ diễn ra không chỉ bằng lời, mà còn bằng và qua cả toàn bộ cuộc hiện sinh của ta nữa. Theo cách này, ý niệm đền tội thay hay đền tội đại diện [Stellvertretungsgedanke] đã trở thành ý niệm chủ chốt trong hiện hữu Kitô Giáo (45).

Ý niệm làm môn đệ như một sự đền tội thay đã mặc lấy nhiều hình thức khác nhau trong dòng lịch sử (46). Trước nhất, với các vị tử đạo, mà máu đã trở thành hạt giống gieo các Kitô hữu mới (47), rồi tới các vị ẩn tu và đan sĩ, với các đan sĩ Ái Nhĩ Lan và Tô Cách Lan nay đây mai đó, không nhà không cửa vì Chúa Kitô và vì sứ mệnh của mình (peregrinatio proper Christum). Với Thánh Phanxicô thành Assisi, việc làm môn đệ còn mặc lấy hình thức nghèo nàn và khiêm nhường nữa.

Từ thời Thánh Bernard thành Clairvaux, một nền thần nghiệm thập giá có tính chủ quan đã được khai triển nhằm tái tạo và nội tâm hóa tình yêu Thiên Chúa đã được mạc khải nơi Chúa Kitô đau khổ, qua việc tham dự đồng cảm. Thánh Bernard thành Clairvaux được mô tả bằng hình ảnh Chúa Kitô từ trên thập giá cúi xuống với ngài và ôm lấy ngài. Ngài phát biểu ý nghĩa của biến cố này như sau: “Nhờ mặc lấy hình thức Chúa Kitô tự hiến sinh, chúng ta được biến đổi” (transformamur cum conformamur) (48). Linh đạo này, một lần nữa, được tìm thấy nơi thần nghiệm học của Meister Eckhart, John Tauler và Henry Suso; nó cũng được tìm thấy nơi Gương Chúa Kitô của Thomas à Kempis và cuối cùng, trong Linh Thao của Thánh Inhaxiô thành Loyola, trong đó, việc chăm chú và đầy tương cảm bước theo đời sống và cuộc thống khổ của Chúa Giêsu cung cấp nền tảng cho việc hợp nhất đời sống chiêm niệm với đời sống hoạt động.

Nền thần nghiệm học thập giá này cũng bước vào cả nghệ thuật nữa. Trong khi các tranh ảnh về việc đóng đinh của Byzantine và Romanesque vẽ Chúa Kitô như Đấng Toàn Năng Chiến Thắng (pantocrator [*]), thì nghệ thuật Gôtích vẽ Người như một con người buồn sầu. Đặc biệt, người ta có thể nhớ tới các cây thập giá bệnh dịch thời hậu trung cổ, mà người bị bệnh vốn gắn bó chặt chẽ với trong nhiều thế kỷ và trên đó họ được nâng lên (**). Nền linh đạo này được biến cải thành một lòng đạo đức bình dân dưới hình thức đàng thánh giá. Khi đồng cảm và sốt sắng suy niệm về sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu, các tín hữu có thể đồng hóa với các chặng thánh giá khác nhau. Tại thị trấn Wangen quê tôi thuộc vùng Allgau, việc thờ kính Chúa Cứu Thế bị tù ngục rất phổ thông. Thực hành sùng kính này có nguồn gốc từ các hình thức đạo đức cổ hơn thời trung cổ. Thế kỷ thứ 18, nó được cổ vũ nhờ các thị kiến của Crescentia Hoss quê ở Kaufbeuren, vị đã được phong hiển thánh năm 2001. Ai mà lại không thể đồng hóa với các hình thức giam hãm khác nhau: những người bị bắt giam và các tù nhân chiến tranh, những người bị giam giữ tại các trại tập trung, các tù nhân chính trị, những người bị liệt giường hay xe đẩy, những người bị giam hãm trong tội lỗi, những người bị buộc vào các tình thế khó khăn và vô vọng vì các vấn đề tài chánh hay các hình thức giam hãm khác.

Việc tự đồng hóa với sự đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu cũng có thể dẫn tới các sai lạc. Ngay trong hai phong trào devotio moderna (lối sùng mộ tân thời) và duy mộ đạo (pietism), và sau đó hoàn toàn trong phong trào Ánh Sáng, Kitô học kiểu bắt chước đã tự mình đi ra ngoài nền tảng khách quan, bí tích và Giáo Hội của nó để trở thành thứ Giêsu học (Jesusology) có tính bắt chước. Chúa Giêsu trở thành mẫu mực đáng để đua tranh. Điều khởi đầu vốn là dấu chỉ một hành vi cứu rỗi có tính trung gian bí tích thì nay đã trở thành một mệnh lệnh buộc người ta phải đi theo con đường luân lý của Chúa Giêsu (49). Một nguy hiểm khác nữa là giản lược việc noi gương Chúa Kitô vào một cái hiểu có tính cá nhân chủ nghĩa về ơn cứu rỗi. Việc giản lược này có nguy cơ quên mất rằng: đặc tính bao gồm trong việc đền tội thay [Stellvertretung] của Chúa Giêsu có nghĩa chúng ta tích cực can dự vào hành vi đại diện cho chúng ta của Chúa Giêsu. Và, do đó, “việc đại diện” này vượt quá sự nối kết chân thành và có tính bản thân của ta với Chúa Giêsu và phải trở thành việc làm môn đệ vì người khác.

Thánh Phaolô tuyên bố rằng ngài sẵn sàng bị nguyền rủa như một người đại diện cho anh chị em Do Thái của ngài (Rm 9:2). Lời tuyên bố này đã đưa đến cả một lịch sử hậu quả dài trong truyền thống thần nghiệm. Ta biết nhiều vị thánh, trong hoang địa, giữa đêm đen đức tin, và bị Thiên Chúa bỏ rơi như đã bỏ rơi Chúa Giêsu trên thập giá, vẫn có thể chịu đựng, một cách đại diện [stellvertretend], cho những người đang sa vào đêm tối đức tin và xa cách Thiên Chúa. Ý tưởng này tìm thấy trước nhất trong nền thần nghiệm Cát Minh của Thánh Gioan Thánh Gía (50).

Thánh Têrêxa thành Lisieux đã đem lại một biểu thức lâu dài cho ý tưởng của nền thần nghiệm Cát Minh này. Bà muốn tự trình bầy bà như một lễ toàn thiêu của tình yêu. Bà hiểu ơn gọi và vị trí của bà trong Giáo Hội như một ơn gọi đối với nhiệm thể Chúa Kitô trong tình yêu. Để dập tắt các ngọn lửa của nó, bà muốn mưa xuống trên Giáo Hội đau khổ trận mưa hoa tình yêu từ trời cao; bà muốn mưa xuống trên Giáo Hội chiến đấu (***) cũng một trận mưa hoa như thế để Giáo Hội này chiến thắng (51). Ngay bây giờ, bà cầu nguyện cho các anh chị em bất tín của bà. Với thiên hướng này, bà sẵn sàng đi vào đường hầm đen tối, trong đó, làm người thay thế cho họ, bà kinh qua nỗi kinh hoàng của cảnh không thấy Thiên Chúa của thời hiện đại. Do đó, bà cầu nguyện cho các anh chị em bất tín của bà để ít nhất họ nắm được một tia sáng nào đó của đức tin (52). Bà, một người hết lòng muốn trở thành nhà truyền giáo, có ý định giúp đỡ các nhà truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh (53). Theo tầm nhìn của bà, lòng nhiệt thành của một tu sĩ Cát Minh phải bảo bọc toàn thể thế giới (54).

Thánh Edith Stein (Benedicta Thánh Giá) cũng đứng trong truyền thống Cát Minh trên. Thời Quốc Xã bách hại người Do Thái, bà vào phòng hơi ngạt Auschwitz như một đại diện của dân tộc Do Thái, dân tộc bà luôn cảm thấy gắn bó (55). Thánh Maximilian Kolbe đã được đánh động bởi cùng một tinh thần khi ngài tự ý hiến mạng sống mình vì một người tù khác vốn là người cha của một gia đình. Ngay Mẹ Têrêxa, sau cảm nghiệm thần nghiệm rạng rỡ ban đầu, đã sống trong một đêm tối thần nghiệm cho tới lúc qua đời. Ai cũng biết lời tuyên bố của Mẹ: “nếu có bao giờ tôi trở thành một vị thánh thì chắc chắn đó là một ‘vị thánh của đêm tối’. Tôi sẽ mãi mãi xa vắng thiên đàng, ngõ hầu đốt lên một tia sáng cho những ai sống trong đêm tối trần gian” (56).

Người ta cũng có thể nghĩ tới các thi sĩ như Léon Bloy, Charches Péguy, và nhiều thi sĩ khác, những người đã hủy diệt lối hạn chế cá nhân chủ nghĩa trong ý niệm đại diện và đã tái sinh chiều kích Giáo Hội và phổ quát của nó. Một lần nữa, họ đã hiểu ý niệm đại diện [Stellvertretung] như là tâm điểm của việc làm Kitô hữu và họ đã nắm được việc hiện hữu như là hiện hữu vì, hiện hữu vì người khác.
Dietrich Bonhoeffer đã phát biểu rất hay cảm thức đại diện hay hành động thay thế sâu sắc hơn này. Đối với ông, việc che khuất Thiên Chúa là chứng bệnh hiện nay của thế giới. Ông nói như sau về hình thức đau khổ này:

“Đau khổ cần được chịu đựng mới mong nó qua khỏi. Một là thế giới phải mang lấy trọn gánh nặng và ngã qụy dưới nó, hai là gánh nặng này phải giáng xuống Chúa Kitô để được vượt qua ở nơi Người. Do đó, Người chịu đau khổ thay cho thế gian. Sự đau khổ của Người là sự đau khổ duy nhất có hiệu lực cứu chuộc. Nhưng Giáo Hội biết rằng thế giới vẫn đang tìm một ai đó để gánh lấy các đau khổ của nó, và do đó, khi theo chân Chúa Kitô, sự đau khổ cũng trở thành số phận của Giáo Hội và khi mang nó, nó cũng được Chúa Kitô vác. Và khi theo chân Người tới chân thập giá, Giáo Hội cũng đứng trước nhan Thiên Chúa trong tư cách người đại diện của thế giới” (57).

Nền linh đạo đứng lên vì người khác và nhận lấy chỗ của họ này sẽ phá vỡ xu hướng chỉ biết nhìn vào trong của nhiều cộng đồng trong tình huống phân tán hiện nay của thế giới tục hóa, và nó có thể trở thành bảng chỉ đường thiêng liêng cho cả ngày nay lẫn ngày mai. Như thế, tình yêu người lân cận, nếu được sống triệt để, sẽ cho thấy chiều kích Giáo Hội, một chủ đề nay ta phải hướng tới.

Kỳ sau: VII. Giáo Hội được cân đo bằng lòng thương xót ______________________________________________________________________________________________________________
(*) Ghi chú của bản tiếng Anh: Ảnh “pantocrator” vẽ Chúa Giêsu như Đấng Toàn Năng hay như Đấng Thống Trị và Duy Trì thế giới. Các hình ảnh như thế có thể tìm thấy nơi các nhà thờ cổ xưa, như Nhà Thờ Mộ Thánh ở Giêrusalem.

(**) Ghi chú của bản tiếng Anh: Lúc xẩy ra bệnh dịch, người mắc bệnh đến viếng các đền thánh với cây thập giá bệnh dịch; tại đây, họ có thể tự đồng hóa mình với sự đau khổ của Chúa Kitô chịu đóng đinh và tự nâng họ lên cây thập giá với Người.

(***) Ghi chú của bản tiếng Anh: “Giáo Hội đau khổ” hay ecclesia penitens chỉ các linh hồn trong luyện ngục; bởi thế, Thánh Têrêxa nhắc đến việc dập tắt các ngọn lửa của nó. Giáo Hội chiến đấu hay ecclesia militans chỉ các Kitô hữu còn sống ở đời này, họ đang chiến đấu chống lại các sức mạnh tội lỗi và sự ác.

(36) Heinrich Schlier, “Vom Wesen er apostolischen Ermahnung” trong Die Zeit der Kirche (Fraeiburg i.Br.: Herder, 1958) 74-89.
(37) Thánh Irênê, Chống Lạc Giáo, III, 25,7.
(38) Thánh Ephraim Người Syria, Thánh Ca chống Lạc Giáo, 1.
(39) A. Fitzgerald, “Mercy, Works of Mercy” trong Fitzgerald, Augustine through the Ages, 558.
(40) Thánh Augustinô, Bài Giảng 38, 8; 53A, 6; 206,2; 236, 3.
(41) Thí dụ, xem Navin Chawla, Mother Teresa: The Authorized Biography (Rockport, MA: Element, 1997).
(42) Mẹ Têrêxa, Worte der Liebe, bản dịch của Franz Johna (Freiburg I.Br.: Herder, 1997), 117tt.
(43) Xem chương VIII.
(44) Karl Hermann Schelkle, Jüngerschaft und Apostelamt (Freiburg i.Br: Herder, 1957); Hans Dieter Betz, Nachfolge und Nachhmung Jesu Christi im Neuen Testament (Tübingen: Mohr Siebeck, 1967); Martin Hengel, Nachfolge und Charisma: Eine exegetisch-religionsgeschichtliche Studie zu Mt 8, 21 tt. und Jesu Ruf in die Nachfolge (Berlin: A. Tӧpelmann, 1968); Bonhoeffer, The Cost of Discipleship.
(45) Karl-Heinz Menke, Stellvertretung: Schlüsselbegriff christlichen Lebens und theologische Grudkategorie (Einsiedeln: Johannes, 1997).
(46) Ulrich Luz và những người khác, “Nachfolge Jesu”, Theologische Realenzyklopӓdie, do Gerrad Müller, Horst Balz và Gerhard Krause hiệu đính (Berlin: Walter de Gruyter, 1977-2007), 23:678-713.
(47) Tertullian, Hộ Giáo, 50, 14.
(48) Thánh Bernard thành Claivaux, Song of Songs, 62,5. Xem Thánh Bernard thành Clairvaux, Rückkehr zu Gott: Die Mystischen Schriften, bản dịch của Bernardin Schellenberger (Düsseldorf: Patmos, 2001), 27-33.
(49) Karl-Heinz Menke, Jesus ist Gott der Sohn: Denkformen und Brennpunkte der Christologie (Regensburg: Friedrich Pustet, 2008), 291-99.
(50) Về các chủ đề quán xuyến vô vị hóa (kenosis) và đêm đen, xem Paul Rheinbay, “Voller Pracht wird die Nacht, weil dein Glanz sie angelacht” trong Gott denken und bezeugen: Festschrift für Kardinal Walter Kasper zum 75. Geburtstag, do G. Augustin và K. Krӓmer (Freiburg i.Br.: 2008) 384-86.
(51) Story of a Soul: The Autobiography of St. Therese of Lisieux, bản dịch của John Clark (Washingotn, DC: Institute of Carmelite Studies, 1975), 193-96. Xem Hans Urs von Balthasar, Schwestern im Geist: Therese von Lisieux und Elisabeth von Dijon (Einsiedeln: Johannes Verlag, 1970), 316-20; Balthasar, Dare We Hope “That All Men Be Saved?” with a Short Discourse on Hell, bản dịch của David Kipp và Lothar Krauth (San Francisco: Ignatius, 1988), 101-6.
(52) Story of a Soul: The Autobiography of St Therese of Lisieux, 211-12.
(53) Đã dẫn, 217-17,252.
(54) Đã dẫn, 253.
(55) Romaeus Leuven, Heil im Unheil: Das Leben Edith Staeins: Briefe und Vollendung, Edith Steins Werke, Bd. 10 (Freiburg i. Br.: Herder, 1983), 166: “Komm, wir gehen für unser Volk”. Về điều này, xem A. Ziegenaeus, “Benedicta a Cruce – Jüdin und Christin” trong Edith Stein: Leben, Philosophie, Vollendung, do Leo Elders hiệu đính (Würzburg: Verlag J.W.Naumann, 1991), 129-43, nhất là 137tt.
(56) Mother Teresa: Come Be My Light: The Private Writings of the “Saint of Calcutta” do Brian Kolodiejchuk hiệu đính (New York: Doubleday, 2007).
(57) Bonhoeffer, The Cost of The Discipleship, 81-82.

 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Nắng Bên Thềm
Nguyễn Trung Tây, Lm
18:21 11/07/2016
NẮNG BÊN THỀM
Ảnh của Nguyễn Trung Tây Lm. (SVD)
Có những thứ tầm thường
đến nỗi đi ngang,trần gian ơ hờ
không ai buồn nhìn ngắm.
Nhưng khi trời cao
chạm vào những tia nắng,
tầm thường biến dạng!
Giờ này một cõi
bỗng dưng ngập tràn!
(Nguyễn Trung Tây)
 
VietCatholic TV
Bản tin Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2016 – Hoàng Cung Wawel
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
22:17 11/07/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Anh chị em trong nhóm xướng ngôn viên và kỹ thuật viên VietCatholic Sydney, Australia
1. Một ngàn người đăng ký mỗi giờ dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới

Việc ghi danh dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới hiện đang tiến hành ồ ạt hơn bao giờ hết với hơn 1,000 người trẻ đăng ký mỗi giờ, theo con số ngày 30 tháng Sáu.

Tháng Sáu là dấu mốc kết thúc việc đăng ký hành hương thường lệ; và việc đăng ký vào phút chót sẽ diễn ra từ ngày 1 tới ngày 22 tháng Bẩy cho các cá nhân và các nhóm nhỏ dưới 150 người.

Cho tới nay, các nước có người ghi danh tham dự Đại Hội nhiều nhất là Ba Lan với gần 170,000 người, Ý hơn 77,000 người, Pháp 34,353 người, Tây Ban Nha hơn 30,000 người và Hoa Kỳ hơn 27,000 người.

Thành thử, ngôn ngữ phổ thông nhất sẽ là tiếng Ba Lan, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha.

Lần đầu tiên trong lịch sử, sẽ có những người hành hương tới Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới từ Kosovo, Bangladesh, Palestine, Miến Điện và Nam Sudan.

Nước đầu tiên đăng ký khi Đức Giáo Hoàng Phaolô khai mạc việc đăng ký vào mùa hè năm 2015 là Tây Ban Nha và nước tham gia cuối cùng là Quần Đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ. Họ đại diện 2 trong số 187 vùng địa dư khác nhau sẽ có mặt tại Krakow.

Hơn 10,000 linh mục sẽ tháp tùng các nhóm hoặc đi riêng, cùng với 800 giám mục và 47 Hồng Y từ 107 quốc gia.

Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm nay chắc chắn sẽ là một trải nghiệm quốc tế thực sự. Những người tham dự không những sẽ được dịp thấy Đức Giáo Hoàng và Krakow, mà còn sẽ thu lượm được nhiều tầm nhìn lý thú từ người của các quốc gia khắp thế giới.

2. Một số đông giám mục Úc sẽ tới Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới

19 vị giám mục Úc sẽ hành trang lên đường tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới vào cuối tháng này, chứng tỏ rằng tuổi tác không hề là một rào cản không cho người ta tham dự biến cố lớn nhất của tuổi trẻ Thế Giới.

Lễ hội tràn đầy đức tin này sẽ diễn ra tại Krakow, Ba Lan, từ ngày 25 tới ngày 31 tháng Bẩy, với hơn 2,500 người hành hương Úc tham dự, trong đó có các thầy cô, các vị tuyên úy, các lãnh tụ giới trẻ và cả những người không chắc chắn về đức tin của họ.

Nửa số các vị trong Hội Đồng Giám Mục Úc sẽ tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới nhằm cử hành viễn kiến của Thánh Gioan Phaolô II về giới trẻ, được sự hiện diện của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đổi mới một lần nữa.

Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Úc, Đức Tổng Giám Mục Denis Hart, nói:

“Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là cơ hội độc đáo để giới trẻ đào sâu đức tin và sự hợp nhất của họ với Đức Giáo Hoàng và với nhau. Nó thường là một trải nghiệm thay đổi cuộc đời.

“Trong 5 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới mà tôi tham dự, tôi thấy đức tin của tôi được khích lệ nhờ niềm vui và đức tin thâm hậu hóa của giới trẻ tươi đẹp”

Trong một video được thực hiện ngay tại Krakow, Đức Tổng Giám Mục Anthony Fisher của Sydney cho biết:

Mục đích chính của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là nói với giới trẻ về sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô và cung cấp cơ hội để họ gặp gỡ gương mặt của Chúa Kitô, trong bối cảnh hân hoan được gặp gỡ Đức Giáo Hoàng.

Vì hàng triệu người hành hương khắp thế giới tụ về Krakow, Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là một chứng từ về Giáo Hội đang sống và là một dấu chỉ đức tin và đức cậy cho tương lai. Trong Năm Thánh Đặc Biệt về Lòng Thương Xót này, chủ đề của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là “Phúc thay người có lòng thương xót; vì họ sẽ được xót thương” (Mátthêu 5:7).

Vào thứ Ba, ngày 26 tháng Bẩy, một cuộc tụ tập người Úc được dự trù sẽ diễn ra tại Krakow, Ba Lan với hơn 2 ngàn rưỡi người hành hương Úc cùng tham gia với các vị giám mục, Đại Sứ Úc tại Ba Lan, các đại diện của Bộ Ngoại Giao và Ngoại Thương, nhân viên điều hành Cosmos Tour và nhân viên của Hội Đồng Giám Mục Úc. Sau cuộc tụ tập này sẽ là Thánh Lễ Khai Mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới.

3. Hoàng Cung Wawel

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Lúc 2 giờ chiều ngày 27 tháng 7, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ khởi hành từ sân bay Fiumicino Rome và sẽ đến sân bay John Paul II ở Balice-Krakow hai giờ sau đó.

Sau nghi lễ đón tiếp, Đức Thánh Cha sẽ di chuyển về lâu đài Wawel, nơi đó Ngài sẽ đọc bài diễn văn dành cho các nhà lãnh đạo dân sự và ngoại giao đoàn, tiếp theo là cuộc thăm viếng thân hữu với Ngài tổng thống Cộng hòa Ba Lan. Ngày đầu tiên của Đức Giáo Hoàng tại Ba Lan sẽ kết thúc bằng cuộc gặp gỡ với các giám mục tại nhà thờ chính tòa Krakow.

Trong chương trình hôm nay, VietCatholic Sydney, Australia xin giới thiệu với quý vị và anh chị em một vài nét về lâu đài Wawel, là dấu ấn vàng son, lộng lẫy của các vương triều phồn hoa đô hội bậc nhất Ba Lan.

Lịch sử của lâu đài Wawel, lịch sử của Ba Lan và các triều đại hoàng gia Ba Lan quyện vào nhau sâu sắc vì từ thế kỷ thứ 9 thành phố Krakow, người Ba Lan gọi là Cracovia, là trung tâm quyền lực chính trị quốc gia. Tình trạng này chỉ thay đổi từ khi thủ đô được chuyển về Warsaw vào năm 1793.

Cố đô Krakow, là một trong những khu trung tâm đầu tiên về khoa học, văn hóa nghệ thuật của Ba Lan. Kinh thành cổ này được người dân coi là thủ đô tinh thần bởi lịch sử của thành phố hơn 1000 năm. Krakow cũng là một khu trung tâm lớn về du lịch nội địa và quốc tế, cuốn hút 7 triệu khách mỗi năm.

Hoàng cung Wawel được xây trên đồi Wawel cách mặt nước biển 228m nhìn xuống con sông Wissła, người dân địa phương gọi là Vistula.

Hoàng cung Wawel là trung tâm du lịch của thành phố Krakow, vì đây là nơi có nhiều di tích lịch sử và những bộ sưu tập nghệ thuật vô giá.

Ngay bên cạnh hoàng cung là nhà thờ chính tòa Krakow, nơi các vua chúa Ba Lan đăng quan và an nghỉ.

Du khách đến thăm hoàng cung Wawel có thể thấy ngay những nét kiến trúc kiểu Gothic được vua Ba Lan Casimir III đại đế xây cất vào thế kỷ 14. Đây là tháp Sigismund với 5 quả chuông, quả chuông lớn nhất trong 5 quả chuông này được đúc vào năm 1520. 5 quả chuông này mỗi khi muốn đánh lên cần phải có 12 người khoẻ mạnh kéo những dân chuông. Còn đây là nhà nguyện Sigismund nơi an nghỉ của các vua Sigismund.

Một kiến trúc khác là Silver Bell Tower có từ đầu thế kỷ 12 với 3 quả chuông. Qủa lớn nhất được hình thành năm 1423; qủa chuông lớn thứ hai được đúc vào năm 1271 và quả cuối cùng được đúc năm 1669.

Nếu may mắn đến đúng thời điểm, quý vị và anh chị em có thể chứng kiến những cuộc diễn binh của các lực lượng cảnh sát và quân đội Ba Lan được tổ chức khá thường xuyên để thu hút khách du lịch.

Giờ đây, mời quý vị và anh chị em tiến vào bên trong hoàng cung.

Để đi bộ thăm hết khu di tích này có lẽ phải mất khoảng 3 giờ đồng hồ. Hoàng cung như chúng ta thấy đây có kiến trúc kiểu Gothic được vua Ba Lan là Đại Đế Casimir III xây cất vào thế kỷ 14. Sau đó, nó được trùng tu bởi các vua Jogaila và Jadwiga.

Trong nhiều phòng hoàng gia ngày nay còn trưng bày rất nhiều thứ có giá trị như: vương miện, vũ khí và những hiện vật nghệ thuật của Đông phương.

Theo truyền thuyết, xưa kia trong các hang động trên đồi Wawel có một con rồng rất hung dữ, không ai chống lại nổi. Sau này, xuất hiện một chàng trai có tên Krakus, lập mưu cho rồng ăn thức ăn có thuốc độc và chết. Chàng hào kiệt này đã trở thành người anh hùng dân tộc, được dân chúng trọng vọng và ở lại đây lập nghiệp bá vương. Thành phố đã được đặt tên là Krakow, theo tên của anh.

Hoàng cung Wawel được UNESCO công nhận là một di sản thế giới từ năm 1978.