Phụng Vụ - Mục Vụ
Suy niệm Chúa Nhật tuần 21A thường niên
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
07:52 18/08/2020
(Mt. 16:13-20)
ĐẤNG KITÔ.
Con Người giáng thế là ai?
Không ai biết rõ, thiên sai bởi trời.
Hạ thân mặc xác con người,
Đồng hành sinh sống, giữa đời trần gian.
Ba mươi ra giảng, ơn ban,
Thực hành phép lạ, ban tràn phúc ân.
Hôm nay Chúa hỏi đôi lần,
Tông đồ môn đệ, phân vân trả lời.
Ê-li-a đã một thời,
Gio-an Tẩy Giả, vào đời ẩn thân.
Giê-rê-mi-á xuống trần,
Tiên tri nào đó, thế nhân mong chờ.
Không ai học được chữ ngờ,
Từ trên mạc khải, kính thờ Ngôi Hai,
Ki-tô Đức Chúa Thiên Sai,
Hiến mình chịu chết, mở khai Nước Trời.
Khổ đau thánh giá gọi mời,
Bước đi theo Chúa, trọn đời hiến dâng.
Thi hành thánh ý xin vâng,
Chết đi sống lại, đỡ nâng tội đời.
Có rất nhiều người theo Chúa Giêsu. Họ được nhìn thấy những phép lạ của Chúa, nghe Chúa giảng, cùng ăn uống và đồng hành với Chúa, nhưng họ chưa biết Chúa là ai. Chúa Giêsu hỏi ý kiến các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai? Các môn đệ dựa vào ý kiến của người khác để trả lời. Người ta bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả, là Êlia, là Giêrêmia hay là một tiên tri nào đó. Như vậy chưa có ai biết chính xác Chúa Giêsu là ai cả.
Chúa Giêsu hỏi: “Còn các con, các con bảoThầy là ai? ”. Phêrô trả lời: “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”. Câu trả lời đúng hoàn toàn. Chúa Giêsu chính là Đức Kitô, là Đấng Được Xức Dầu. Ngôn từ Đức Kitô đã gói trọn ý nghĩa sứ mệnh của Ngài.
Chúng ta biết các Tông Đồ là những người đơn sơ, thất học và làm nghề chài lưới ven sông. Họ không thông hiểu nhiều Kinh Thánh. Chúa đã thương, gọi và chọn họ theo Chúa. Họ đã nhận diện ra thần tính của Chúa. Họ bỏ mọi sự đi theo Ngài. Một sự đánh đổi toàn diện. Chúa trao chìa khóa nước trời cho Phêrô. Phêrô được nắm quyền hành sự nhưng vẫn tùy thụôc vào Danh của Chúa Giêsu.
Qua thánh Phêrô, Giáo Hội có quyền trói buộc và tháo cởi, nhưng tất cả trong danh nghĩa của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã chịu khổ đau và chết nhục nhã trên thánh giá để cứu độ, chứ không phải để kết án. Chúa hy sinh mạng sống chỉ vì yêu. Chúa lập Giáo Hội là để cứu độ con người.
Lạy Chúa, theo Chúa đã lâu nhưng chúng con vẫn chưa nhận ra Chúa. Xin Chúa mở mắt tâm hồn để chúng con nhận diện ra tình yêu của Chúa. Và chỉ khi yêu, chúng con sẽ nhận ra Chúa - vì chính Chúa là Tình Yêu.
THỨ HAI, TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN
(Mt 23, 13-22).
LỜI THỀ
Giả hình trống rỗng nội tâm,
Nước Trời đóng cửa, dẫn lầm lối đi.
Mấy thầy Luật Sĩ thực thi,
Đọc kinh ngoài miệng, thầm thì bên trong.
Nhóm người Biệt Phái suy vong,
Thu gom tài sản, trong lòng tham lam.
Nặng lời chê trách việc làm,
Dẫn đường mù quáng, xác phàm bê tha.
Rao truyền lạc giáo tà ma,
Thi hành phán đoán, chìm sa lỗi lầm.
Lời thề sai lạc tự tâm,
Đền thờ, vàng bạc, trổ mầm dối gian.
Chúa thường răn dậy khuyên can,
Chữ tâm trọng đạo, thiên nhan sáng ngời.
Tin mừng loan báo trong đời,
Tà tâm giả dối, mọi người tránh xa.
THỨ BA, TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN
(Mt 23, 23-26).
CÔNG BÌNH
Thập phân nộp thuế cho Đền,
Giả nhân giả nghĩa, dựa trên thuế phần.
Bạc hà đáng giá bao lần,
Công bình chính trực, điều cần thực thi.
Nhân từ rộng lượng từ bi,
Lòng tin thiết yếu, phát huy trong đời.
Các Thầy Luật Sĩ theo thời,
Giả hình Biệt Phái, dụ khơi lỗi lầm.
Dẫn đường lầm lạc tà tâm,
Lạc đà nuốt trửng, lặng câm đui mù.
Bên ngoài rửa sạch trùng tu,
Gian tham nhơ bẩn, giao du tội tình.
Bên trong tâm trí lòng mình,
Tâm hồn tinh sạch, an bình phúc ân.
Chu toàn trách nhiệm nhân trần,
Nội tâm thanh khiết, canh tân lòng người.
THỨ TƯ, TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN
(Mt 23, 27-32).
HÌNH THỨC
Tô vôi mồ mả bên ngoài,
Thoáng nhìn tốt đẹp, phôi phai lòng người.
Giả hình Luật Sĩ ở đời,
Khốn thay Biệt Phái, đầy vơi khó lường.
Bên trong gian ác vấn vương,
Xây mồ đắp mả, hoa hương cúng đàn.
Trang hoàng sơn phết than van,
Cha ông lỗi phạm, xóa tan lỗi lầm.
Một thời đổ máu ác tâm,
Những người công chính, âm thầm chết oan.
Các người chứng thực đa đoan,
Là con là cháu, kết đoàn phục hưng.
Tiên tri bị giết tự xưng,
Xưa nay thù oán, không ngừng rút tay.
Sống đời gian dối mê say,
Cha truyền con nối, đong đầy gian tham.
THỨ NĂM, TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN
(Mt 24, 42-51).
TỈNH THỨC
Sẵn sàng tỉnh thức đợi chờ,
Các con không biết, ngày giờ trước sau.
Đón chờ Chúa đến lâu mau,
Không ai biết được, nỗi đau khó lường.
Giờ nào kẻ trộm khoét tường?
Canh phòng cẩn mật, biết đường lo toan.
Không ai dự đoán hoàn toàn,
Quản gia trung tín, khôn ngoan dự phòng.
Phân chia lương thực chờ mong,
Phúc cho đầy tớ, một lòng vị tha.
Chủ nhân tin tưởng nết na,
Trông coi gia sản, cả nhà chăm lo.
Khốn thay đầy tớ hét hò,
Say xưa chè chén, ăn no lại nằm.
Không ngờ ông chủ ghé thăm.
Thảm thương số phận, hờn căm đọa đầy.
THỨ SÁU, TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN
(Mt 25, 1-13).
THỨC TỈNH
Mười cô trinh nữ cầm đèn,
Đón xem chàng rể, bon chen ngóng chờ.
Năm cô khờ dại hững hờ,
Mang đèn cháy sáng, nhưng khờ chăm lo.
Thiếu dầu, đèn tắt tối mò,
Tìm nơi nương tựa, không lo sẵn sàng.
Khôn ngoan thiếu nữ lẹ làng,
Dầu đèn đầy đủ, dễ dàng thích nghi.
Trễ giờ chàng rể ra đi,
Các cô thức tỉnh, phòng khi tới giờ.
Chị em mong ngóng đợi chờ,
Nửa đêm tiếng gọi, ai ngờ đón đưa.
Sẵn sàng tiệc cưới là vừa,
Này đây trinh nữ, dạ thưa mời vào.
Chủ gia xếp chỗ bàn giao,
Ai mà tỉnh thức, bước vào tiệc vui.
THỨ BẢY, TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN
(Mt 25, 14-30).
TÀI ĐỨC
Dụ ngôn nén bạc trao ban,
Mỗi người số vốn, sẻ san trong đời.
Chủ ông sắp sửa xa rời,
Phân chia tài sản, gọi mời dấn thân.
Chủ trao đầy tớ tùy phần,
Người này năm nén, tảo tần dẵm chăm.
Ra công chịu khó lời năm,
Kẻ trao hai nén, tiếng tăm giữ tròn.
Sinh lời hai nén vàng son,
Còn người một nén, thu bòn chôn đi.
Không thèm của ít khinh khi,
Vàng ròng chôn dấu, cũng vì hư thân.
Hai người chăm chỉ đỡ đần,
Thật lòng trung tín, góp phần dựng xây.
Chủ khen đầy tớ này đây,
Ban thêm dư dật, đong đầy tin yêu.
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:07 18/08/2020
3. Khắc khổ hãm mình có công đức như tử đạo, người tử đạo vì Thiên Chúa mà hy sinh.
(Thánh Bernard)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
-----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:12 18/08/2020
9. TẮM NGỰA NÓI CHUYỆN VUI
Lưu Định Chi được thăng lên làm việc tắm cho ngựa (một chức quan), tiểu tư mã (tên chức quan) là Vương Vệ nói với ông ta:
- “Thái bộc nhiều ngựa, tắm ngựa thì phải tắm từng con một.”
Lưu Định Chi kính cẩn hồi đáp:
- “Không chỉ là thái bộc, các vị tư mã nếu không sạch sẽ, tôi cũng sẽ tắm từng người một.”
(Nhã Ngược)
Suy tư 9:
Tắm cho ngựa mà cũng được nâng lên là hạng quan thì phải biết rằng đó không phải là chuyện chơi, nhưng là việc quan trọng, vì nếu ngựa bị bệnh thì hậu quả khó mà lường được, người xưa quả là có sự sáng suốt vậy.
Ngày xưa tắm ngựa là một chức quan, ngày nay ở các nước tiên tiến làm bất cứ nghề gì cũng đều phải có giấy chứng nhận tay nghề, kể cả nghề hớt tóc, làm móng tay, nghề xoa bóp, nghề cạo gió.v.v...nếu không có giấy chứng nhận và giấy phép hành nghề thì bị bắt, giải nghệ và có khi bị tù...
Có những người Ki-tô hữu coi thường những việc bác ái nhỏ như nhặt một miểng chai giữa đường để an toàn cho người khác, như nói chuyện vừa đủ nghe khi đi thăm bệnh nhân, như nhường cho người già và người bệnh lên xe trước, vân vân và vân vân, tất cả những việc nhỏ ấy lại là những việc to lớn trước mặt Thiên Chúa, và đủ sức để cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ của Ngài...
Tắm rửa cho ngựa là việc làm hèn hạ đối với người thời nay, nhưng sẽ là đại họa và khốn nạn cho những ai coi thường mà bỏ qua những việc bác ái nho nhỏ nhưng rất cần thiết cho tha nhân.
Nên thánh là ở đó vậy !
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Lưu Định Chi được thăng lên làm việc tắm cho ngựa (một chức quan), tiểu tư mã (tên chức quan) là Vương Vệ nói với ông ta:
- “Thái bộc nhiều ngựa, tắm ngựa thì phải tắm từng con một.”
Lưu Định Chi kính cẩn hồi đáp:
- “Không chỉ là thái bộc, các vị tư mã nếu không sạch sẽ, tôi cũng sẽ tắm từng người một.”
(Nhã Ngược)
Suy tư 9:
Tắm cho ngựa mà cũng được nâng lên là hạng quan thì phải biết rằng đó không phải là chuyện chơi, nhưng là việc quan trọng, vì nếu ngựa bị bệnh thì hậu quả khó mà lường được, người xưa quả là có sự sáng suốt vậy.
Ngày xưa tắm ngựa là một chức quan, ngày nay ở các nước tiên tiến làm bất cứ nghề gì cũng đều phải có giấy chứng nhận tay nghề, kể cả nghề hớt tóc, làm móng tay, nghề xoa bóp, nghề cạo gió.v.v...nếu không có giấy chứng nhận và giấy phép hành nghề thì bị bắt, giải nghệ và có khi bị tù...
Có những người Ki-tô hữu coi thường những việc bác ái nhỏ như nhặt một miểng chai giữa đường để an toàn cho người khác, như nói chuyện vừa đủ nghe khi đi thăm bệnh nhân, như nhường cho người già và người bệnh lên xe trước, vân vân và vân vân, tất cả những việc nhỏ ấy lại là những việc to lớn trước mặt Thiên Chúa, và đủ sức để cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ của Ngài...
Tắm rửa cho ngựa là việc làm hèn hạ đối với người thời nay, nhưng sẽ là đại họa và khốn nạn cho những ai coi thường mà bỏ qua những việc bác ái nho nhỏ nhưng rất cần thiết cho tha nhân.
Nên thánh là ở đó vậy !
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Trở nên viên đá sống động xây dựng đền thờ Hội Thánh
Lm. Đan Vinh
22:35 18/08/2020
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN A
Is 22, 19-23; Rm 11, 33-36; Mt 16, 13-20
TRỞ NÊN VIÊN ĐÁ SỐNG ĐỘNG XÂY DỰNG ĐỀN THỜ HỘI THÁNH
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 16, 13-20
(13) Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai? ” (14) Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ” (15) Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? ” (16) Ông Si-mon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (17) Đức Giê-su nói với ông: “Này anh Si-mon con ông Giô-na. Anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. (18) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. (19) Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (20) Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.
2. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU HỨA XÂY HỘI THÁNH TRÊN ĐÁ ĐỨC TIN PHÊ-RÔ:
Để trả lời cho câu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai? ”, Các môn đệ kể lại dư luận về vai trò và sứ mệnh của Đức Giê-su. Riêng Tông đồ Si-mon đại diện nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Ông đã được Đức Giê-su khen là có phúc, được Người đổi tên thành Phê-rô, nghĩa là “Tảng đá”. Người còn hứa sẽ xây Hội thánh trên đức tin của ông vào Người, và ban cho ông khả năng chiến thắng ma quỷ. Người cũng trao quyền tối thượng cầm buộc và tháo cởi về đức tin và luân lý cho ông.
3. CHÚ THÍCH VÀ HỎI ĐÁP:
HÒI 1: Tên Phê-rô nghĩa là gì và việc đổi tên mang ý nghĩa gì? Tại sao Đức Giê-su lại xây Hội thánh của Người trên con người bất toàn Phê-rô, đang khi chỉ mình Người mới là Tảng Đá đích thực (x. 1 Pr 2, 4)?
ĐÁP:
- Phê-rô hay Kê-pha nghĩa là Tảng Đá và có hai nghĩa: Một là viên đá lớn, hai là tên riêng do Đức Giê-su đặt để thay tên cũ là Si-mon. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa thường đổi tên kẻ mà Người muốn trao cho nhiệm vụ đặc biệt. Chẳng hạn: tổ phụ Áp-ram được Thiên Chúa đổi tên thành Áp-ra-ham nghĩa là “Cha của vô số người” (x. St 17, 5) và trao sứ mệnh làm “Tổ phụ nhiều dân tộc” (x. Rm 4, 17).
- Phê-rô tuy yếu đuối và đã từng sa ngã phạm tội chối Thầy ba lần (x. Mt 26, 69-74), nhưng ông đã được cái nhìn của Đức Giê-su thức tỉnh và đã lập tức hồi tâm sám hối (x. Lc 22, 61-62). Ông cũng tuyên xưng lòng mến Thầy ba lần, nên đã được Người tha tội, như Người cũng nói về người phụ nữ tội lỗi: “Tội của chị ta rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị ta đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (x. Lc 7, 47).
- Vậy phải chăng Đức Giê-su hứa sẽ xây dựng Hội thánh của Người trên Tảng Đá là con người Phê-rô yếu hèn hay Tảng Đá vững chắc là chính Người? Thánh Phê-rô viết: “Anh em hãy lại gần Đức Ki-tô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ thiêng liêng... Còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa” (1 Pr 2, 4-7). Thánh Phao-lô trong thư I Cô-rin-tô viết như sau: “Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giê-su Ki-tô” (1 Cr 3, 11).
Như vậy Tảng Đá góc tường là chính Đức Giê-su. Nhưng các tín hữu là những kẻ tin vào Người cũng trở thành những viên đá sống động. Riêng đối với Si-mon Phê-rô, nhờ tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, mà ông đã được Người khen là có phúc và được đổi tên từ Si-mon thành Phê-rô nghĩa là Tảng Đá. Trên nền Đá đức tin vào Đức Giê-su đó mà Hội thánh đã được xây dựng. Đức Giê-su còn trao chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông. Người hứa sẽ cầu nguyện để ông khỏi mất đức tin, và khi đã trở lại ông sẽ có trách nhiệm củng cố đức tin của các anh em (x. Lc 22, 32). Cuối cùng Người còn trao quyền chăn dắt đoàn chiên của Người cho ông nữa (x. Ga 21, 15-17).
HỎI 2: Phải chăng Đức Giê-su chỉ trao quyền cầm buộc tháo cởi riêng cho Tông Đồ Phê-rô, chứ không trao quyền ấy cho các giáo hoàng kế vị sau này?
ĐÁP: Về tối thượng quyền của Phê-rô :
- Các giáo hội Ki-tô không Công Giáo như Chính thống, Tin lành… luôn tìm cách giải thích câu 19 này theo nghĩa hẹp vì họ không công nhận tối thượng quyền của ông Phê-rô. Theo họ, quyền chìa khóa cầm buộc tháo cới nói đây Đức Giê-su chỉ ban riêng cho ông Phê-rô thôi, sau khi ông chết thì mọi Giám mục cũng đều ngang quyền nhau vì cũng đều kế vị các tông đồ như nhau.
- Nhưng theo GH Công Giáo thì câu 19 Đức Giê-su trao chìa khóa kèm theo quyền cầm buộc và tháo cởi không phải chỉ ban riêng cho Phê-rô, mà còn trao cho các đấng kế vị Phê-rô là các vị Giáo hoàng. Thực vậy, Đức Giê-su đã hứa rằng Hội thánh được xây trên nền đá đức tin của Phê-rô sẽ luôn trường tồn bất diệt, nên Người cũng muốn quyền được ban cho Phê-rô cũng sẽ tiếp tục được truyền lại cho các đấng kế vị sau này là các Đức Giáo Hoàng. Chính vì thế, Giáo hội Công Giáo công nhận rằng: Khi đức Giáo hoàng đứng trên tòa thánh Phê-rô mà công bố điều gì về đức tin và luân lý thì đều được Chúa Thánh Thần ban ơn “vô ngộ”, nghĩa là không thể sai lầm được. Vì cũng như Phê-rô xưa, tuy các đức Giáo hoàng có thể sai lầm trong những lãnh vực khác như chính trị, kinh tế…, thậm chí có thể phạm tội trọng như Giáo hoàng A-le-xan-der VI… Nhưng các đức Giáo hoàng kế vị cũng được Đức Giê-su cầu nguyện cho, giống như Người đã cầu cho Tông đồ Phê-rô khỏi mất đức tin, và chu toàn sứ vụ “củng cố đức tin” cho các anh em như sau: “Si-mon, Si-mon ơi. Kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 31-32).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16, 18-19).
2. CÂU CHUYỆN:
1) VIÊN ĐÁ TẢNG XÂY DỰNG ĐỀN THỜ HỘI THÁNH :
Cho đến năm 1896, vùng Cayenne ở Saint Ouen không bao giờ thấy bóng chiếc áo dòng đen. Nhưng một ngày trong năm đó, một vị linh mục cả gan xâm nhập vào vùng ấy. Một người thấy vậy liền ném đá vào đầu linh mục. Vị linh mục đã cúi xuống nhặt lấy viên đá đầy máu đỏ kia và nói: “Xin cảm ơn ông, đây là viên đá đầu tiên của một Đền thờ tôi muốn xây dựng tại đây.”
Và về sau viên đá đó trở thành viên đá đầu tiên xây thành Đền thờ kính Đức Mẹ Mân côi. Nước Thiên Chúa là Hội thánh, cũng bắt đầu trong nhỏ bé và bị bạc đãi như vậy: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.” (Mc 4, 31-32).
Chúng ta tin Hội thánh Chúa Giê-su sẽ luôn vững bền, dù gặp muôn vàn khó khăn, vì Hội thánh là tòa nhà được xây trên nền đá là sự thực hành Lời Chúa (x Mt 7, 24-27).
2) TÌNH HÌNH XUỐNG CẤP CỦA GIÁO HỘI NƯỚC ĐỨC HIỆN NAY :
Số liệu thống kê từ Hội đồng Giám mục Đức mới công bố vào ngày 21/7/2017 như sau:
Trong năm 2016 có 28, 5% người Đức theo Công Giáo gồm 23, 582,000, giảm so với con số năm 1996 là 27.533.000 người.
Trong hai thập kỷ qua, đã có hơn 3.000 giáo xứ phải đóng cửa, giảm từ 13.329 giáo xứ xuống còn 10.280 giáo xứ. Riêng năm 2016 đã có 537 giáo xứ phải đóng cửa.
Về số linh mục: năm 2016 Giáo hội Đức có 13.856 linh mục, sụt giảm so với năm 2015 là 14.087 linh mục. Tỷ lệ người tham dự lễ Chúa nhật là 10, 2% năm 2016, giảm so với năm 2015 là 10, 4%.
Chính do lòng tin của các tín hữu không được củng cố bằng việc sống Lời Chúa và lười biếng lãnh nhận các bí tích, kèm theo tội lỗi và gương xấu của một số vị mục tử bị giới truyền thông thổi phồng, là nguyên nhân làm suy giảm số lượng tín hữu và số các linh mục tu sĩ nơi một đất nước nổi tiếng có truyền thống Công Giáo tốt đẹp này.
3) LỜI CẦU KHIÊM TỐN CỦA MỘT VIÊN ĐÁ TẦM THƯỜNG :
Mỗi tín hữu chúng ta chính là một viên đá tầm thường, góp phần xây nên tòa nhà Hội thánh. Chúng ta cần ý thức chu toàn sứ mệnh như câu chuyện một viên đá sau đây :
Có một viên đá nằm sát chân tường của một tòa nhà lớn. Đôi khi nó nhìn lên những viên đá khác và trong lòng chợt nảy ra ý so sánh, ước ao, và nó đã cầu nguyện với Chúa như sau :
Lạy Chúa, con chỉ là một viên đá tầm thường nằm sát dưới chân tường. Con không được như viên đá xây ngoài cửa ra vào, ở ngay tầm mắt của mọi người. Con không được như viên đá xây ở mặt tiền ngôi nhà, hãnh diện nhìn người qua kẻ lại và sung sướng được người ta khen là đẹp tốt. Con không được như viên đá trong phòng khách, hàng ngày được lau chùi đánh bóng. Con chỉ là một viên đá tầm thường nằm sát ở dưới chân tường ngôi nhà.
Tuy nhiên sau đó viên đá đã bằng lòng với hoàn cảnh của mình và cầu nguyện rằng:
Nhưng lạy Chúa, con vui vì chỗ ở của con, con vui với nhiệm vụ của con. Con mừng vì con cũng được góp phần vào việc hình thành nên ngôi nhà xinh đẹp này. Không có phần nhỏ bé và âm thầm của con thì bức tường sẽ bị đổ, ngôi nhà sẽ bị sập. Mặt tiền xinh đẹp kia sẽ không còn, cánh cửa xinh đẹp kia cũng không có, phòng khách xinh đẹp kia cũng không tồn tại. Xin cho con vui với công việc hiện tại con đang làm và luôn biết cảm tạ hồng ân của Chúa.- AMEN.
3. SUY NIỆM:
1) PHÊ-RÔ - TẢNG ĐÁ ĐỨC TIN CỦA HỘI THÁNH :
Trong Bài Tin Mừng hôm nay, khi Đức Giê-su hỏi các môn đệ xem dư luận nghĩ gì về Người. Các ông lần lượt thưa: Thầy là một trong các vị Ngôn sứ. Riêng Si-mon Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như sau: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Đức Giê-su đã khen ông có phúc vì được Chúa Cha mặc khải điều ấy (x. Mt 16, 17). Người đổi tên Si-mon thành Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá đức tin này, Người sẽ xây dựng Hội thánh của Người. Người hứa sẽ làm cho Hội thánh luôn vững bền (x. Mt 16, 18). Cuối cùng Người còn ban tối thượng quyền khi trao chìa khoá Nước Trời cho Phê-rô, để ông thay Chúa ở trần gian cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16, 19). Thực ra chỉ mình Đức Giê-su mới là Tảng Đá sống động và là nền móng xây dựng Hội thánh (x. 1 Pr 2, 4-5). Cũng chỉ mình Đức Giê-su mới nắm giữ “chìa khóa vua Đa-vít” (x. Kh 3, 7), nhưng Phê-rô cũng được Người trao chìa khóa Nước Trời để thay Người giáo huấn, thánh hóa và chăn dắt đoàn chiên Hội thánh.
2) PHÊ-RÔ - MỤC TỬ ĐƯỢC CHÚA GIÊ-SU TUYỂN CHỌN VÀ HUẤN LUYỆN :
Không những Tông đồ Phê-rô tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng sống” (Mt 16, 16), mà ông còn ba lần nói lên lòng yêu mến: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 15-17). Chính nhờ lòng tin yêu ấy, mà Tông đồ Phê-rô đã được Đức Giê-su đặt làm đầu Hội thánh và được chia sẻ quyền chăn chiên. Đức Giê-su cũng cầu nguyện để ông khỏi mất đức tin, và Người trao cho ông nhiệm vụ củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22, 32). Cuối cùng Phê-rô đã sẵn sàng chịu chết vì đoàn chiên Hội thánh (x. Ga 10, 11). Thực vậy, khi về già, Phê-rô đã vâng lời Chúa Phục Sinh quay vào thành Rô-ma, sẵn sàng chịu chung số phận với các tín hữu đang bị Đế Quốc Rô-ma bách hại. Ông đã phải giang tay chịu đóng đinh thập giá để nên giống Thầy, và “đến nơi ông không muốn đến” (x. Ga 21, 18-19).
3) VAI TRÒ CỦA CÁC TÍN HỮU TRONG HỘI THÁNH HÔM NAY:
Giáo dân là thành phần Dân Chúa đông đảo nhất trong Hội thánh. Ngoài hàng giáo phẩm, giáo sĩ và tu sĩ, giáo dân là những người đã lãnh nhận, hoặc đang khao khát lãnh nhận bí tích rửa tội, là nhiệm tích làm cho họ trở nên “Dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Ki-tô theo cách thức của họ”. Tước vị này của giáo dân vốn xuất phát từ phép rửa tội. Công đồng Va-ti-ca-nô II trong Hiến Chế Tín Lý “Lumen Gentium” đã nhấn mạnh về vai trò và trách nhiệm của người giáo dân trong Hội thánh. Theo đó, giáo dân, nhờ bí tích rửa tội, cũng được tham dự vào ba chức vụ là tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Ki-tô, theo cách thức riêng, và họ cũng có bổn phận phải tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội thánh.
4) MỖI TÍN HỮU CẦN LÀM GÌ ĐỂ GÓP PHẦN XÂY DỰNG HỘI THÁNH? :
Hội thánh hôm nay cũng đang gặp nhiều khủng hoảng: Nhiều tín hữu đã bị mất đức tin và không còn đến nhà thờ nữa; Số chủng sinh tại nhiều nước Âu Mỹ bị giảm sút số lượng khiến nhiều nhà thờ bỏ không vì không có linh mục coi sóc; Nhiều nhà dòng to lớn nhưng phải đóng cửa vì không còn lớp tu sĩ trẻ kế thừa. Các Đức Giáo Hoàng cũng bị tấn công: Đức Gio-an Phao-lô II bị ám sát hụt; Đức Bê-nê-dic-tô bị giới truyền thông phê bình đả kích; Đức Phan-xi-cô cũng gặp rất nhiều chống đối bên trong và bên ngoài Hội thánh như sau: Nhiều phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng; Đòi cho nữ tu làm linh mục; Đòi cho người sau ly hôn đã tái hôn được rước lễ; Đòi công nhận hôn nhân giữa hai người đồng tính... Giới truyền thông và một số chính quyền tại một số quốc gia đã toa rập với nhau để tấn công Hội thánh: tố cáo hàng giáo sĩ lạm dụng tình dục và ấu dâm nhằm hạ uy tín của Hội thánh Công Giáo …
Ước gì mỗi tín hữu chúng ta biết cảm thông với các vị chủ chăn trong hoàn cảnh hiện nay bằng cách năng cầu nguyện cho các ngài, trung thành và yêu mến Hội thánh, tích cực góp phần canh tân Hội thánh bằng việc năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa, năng tham dự thánh lễ rước lễ và đón nhận các bí tích khác như bí tích hòa giải...
4. THẢO LUẬN:
1) Theo ý bạn, Hội thánh hôm nay gồm các tín hữu chúng ta, đang có những khuyết điểm nào nổi cộm cần phải cấp thời canh tân?
2) Bạn có yêu mến Hội thánh, có sẵn sàng cảm thông nâng đỡ các vị chủ chăn, tích cực cộng tác với ngài chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng không?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con không hiểu tại sao Chúa lại chọn ông Si-mon, một người thuyền chài ít học, nhiều khuyết điểm và đã có gia đình làm Tông đồ và làm vị giáo hoàng tiên khởi của Hội thánh. Con biết rằng Chúa muốn xây dựng Hội thánh trên Tảng đá đức tin của Phê-rô, một người tuy yếu hèn nhưng có lòng mến Chúa tha thiết. Khi được kêu gọi, Phê-rô và các Tông đồ đã mau mắn đáp lại bằng việc đi theo làm môn đệ Chúa để được huấn luyện và được sai đi rao giảng Tin mừng, trở thành chứng nhân của Chúa đến tận cùng thế giới.
Hôm nay Chúa cũng kêu gọi các tín hữu chúng con đi theo làm môn đệ Chúa. Xin ban cho chúng con một chút can đảm của thánh Phê-rô và các Tông đồ, để sẵn sàng đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Xin cho chúng con năng hồi tâm sám hối và sẵn sàng hy sinh mọi sự để góp phần làm vinh danh cho Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Thiên Chúa luôn tìm kiếm con người
Lm. Minh Anh
22:43 18/08/2020
TÌM KIẾM SUỐT ĐỜI, TÌM KIẾM MỖI NGÀY,
TÌM KIẾM CẢ THỢ ĐANG LÀM TRONG VƯỜN
“Chính Ta sẽ tìm kiếm các chiên Ta”;
“Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho cho ta”.
Kính thưa Anh Chị em,
Cả hai bài đọc hôm nay có chung một chủ đề: Thiên Chúa luôn luôn tìm kiếm con người. Qua Êzêkiel, Người trách các mục tử chểnh mảng với đoàn chiên Người, nên rồi đây, Người sẽ đích thân tìm kiếm chiên mình; qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu sánh ví Thiên Chúa đó với một ông chủ vườn nho từ sáng đến chiều, ba lần bảy lượt, ra chợ tìm thợ vào làm vườn nho nhà mình.
Êzêkiel cho thấy Thiên Chúa bất bình với các chủ chăn vô tâm bất tài vốn chỉ lo cho bản thân mà không chăm sóc chiên của Người, “Khốn cho các chủ chăn Israel, họ chỉ lo nuôi chính bản thân”; “Các ngươi không chăn dắt đoàn chiên của Ta”; “Các chiên của Ta làm mồi cho thú dữ ngoài đồng, các chiên của Ta lang thang khắp núi; chiên Ta tản mác khắp mặt đất, và chẳng có ai kiếm tìm. Ta nói, chẳng có ai kiếm tìm”. Vì thế, “Chính Ta sẽ tìm kiếm các chiên Ta, và Ta sẽ thăm viếng chúng”. Vì là một Thiên Chúa xót thương, nên ngày đêm, Người không ngừng tìm kiếm những ai thuộc về Người.
Dụ ngôn Tin Mừng hôm nay nói đến những cửu vạn thời Chúa Giêsu. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm cửu vạn là hình ảnh một Thiên Chúa cám cảnh luôn luôn tìm kiếm con người; tìm từ sáng sớm, tìm lúc 9 giờ, tìm vào giờ ngọ, tìm 3 giờ chiều và tìm mãi đến 5 giờ lúc rèm trời buông… Chi tiết này muốn nói, Thiên Chúa tìm kiếm suốt đời, tìm kiếm mỗi ngày. Lòng xót thương của Người không chịu để Người ngơi nghỉ. Cách đây hơn hai ngàn năm, Người đã quyết định đi tìm con người qua Con Một Giêsu, Đấng đã mặc lốt ‘phàm nhân’ đến với một ‘nhân loại’ chỉ toàn là ‘tội nhân’ hầu tìm kiếm con người bởi quá yêu thương ‘thế nhân’. Đó là một Thiên Chúa xót thương, quảng đại và tốt lành, Đấng chỉ canh cánh bên lòng rằng, mọi người phải được cứu độ.
Tin Mừng nói đến sự cằn nhằn của những người đến sớm, sự cằn nhằn của những biệt phái khi Chúa Giêsu lân la với phường tội lỗi, cằn nhằn của người anh cả khi người cha tiếp đón đứa em hư đốn trở về. Một cái gì đó xem ra không công bằng ở đây khi chủ vườn trả cho người đến trước, kẻ đến sau cũng một đồng như nhau; thế nhưng, công bằng của Thiên Chúa khác với công bằng của loài người. Công bằng của Thiên Chúa là tìm kiếm, là băng bó, là xót thương. Ngay lúc này, Người đang tìm kiếm chúng ta, những con cái đang cằn nhằn vì sự tốt lành của Người để chúng ta có thể hưởng trọn vẹn một đồng không thiếu một xu.
Anh Chị em,
Ơn cứu độ là một đồng mà Thiên Chúa muốn cho ai ai cũng được hưởng. Người tìm kiếm không mệt mỏi để mời gọi con người đi vào vườn nho Giáo Hội hầu hưởng lấy một đồng đó. Đó chính là sự công bằng của người Cha, một Thiên Chúa cứu độ; Đấng muốn con người được gọi để sống, sống chính sự sống thần linh của Người. Một đồng đó có giá với ba mươi ba năm Con Thiên Chúa xuống thế làm người cùng với cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài; một đồng đó có giá với Nước Trời đang được trao tặng không chỉ mai ngày nhưng cả hôm nay. Đó là lý do khiến Thiên Chúa mãi mãi tìm kiếm con người.
Phần chúng ta, để cộng tác vào nỗi khắc khoải tìm kiếm của Thiên Chúa, Người muốn chúng ta biết kiên nhẫn đợi chờ giờ ngày của Người; đợi chờ trong yêu mến, tin tưởng cho dù hầu như Người luôn luôn im ắng và xem ra xa vắng.
Bản thân tôi, linh mục của Chúa, khác nào thợ làm vườn nho giờ thứ mười một. Anh Chị em thử tưởng tượng, sau mười năm Tiểu Chủng Viện, nhà nước lấy trường, chúng tôi về với gia đình; tất cả phải lang bạt kỳ hồ, rồi hầu hết nay đã là ông ngoại, ông nội… Riêng tôi và một vài anh em đếm đầu ngón tay phải chờ đợi, chờ đợi đến những mười bảy năm; sau đó, vào Đại Chủng Viện bốn năm; vì thế, chúng tôi chỉ mới cầm cuốc trong vườn nho linh mục trên dưới hai mươi năm. Mười bảy năm đợi chờ lúc ấy, với chúng tôi, là một quảng đời vô định, mù tăm, không có tương lai mà thử thách lớn nhất vẫn là thời gian. Ấy thế, khi nhìn lại, nào ai biết mười bảy năm đó là mười bảy năm hồng ân Chúa dành để chuẩn bị cho vườn nho của Người những tay thợ mạt rệp với cuốc cùn, rựa đùi mà tim mau mỏi...
Anh Chị em,
Chủ vườn tìm kiếm những người vô công rồi nghề, đứng lên ngồi xuống suốt ngày, suốt mười bảy năm; Người biết chờ việc còn khổ hơn cả làm việc. Và giờ đây, Người đang tìm kiếm không chỉ những ai ở ngoài vườn nho nhưng còn tìm kiếm cả những người thợ đang làm trong vườn vốn cũng có thể là những mục tử Người phải thở vắn than dài như thời Êzêkiel.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, dù ở đấng bậc nào, xin cho con biết, Chúa vẫn đang tìm con; cho con biết tìm Chúa mỗi ngày, để con không là chiên lạc hoặc là mục tử bất tài mà lại vô tâm… để Chúa phải tiếc xót”, Amen.
(Tgp. Huế)
TÌM KIẾM CẢ THỢ ĐANG LÀM TRONG VƯỜN
“Chính Ta sẽ tìm kiếm các chiên Ta”;
“Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho cho ta”.
Kính thưa Anh Chị em,
Cả hai bài đọc hôm nay có chung một chủ đề: Thiên Chúa luôn luôn tìm kiếm con người. Qua Êzêkiel, Người trách các mục tử chểnh mảng với đoàn chiên Người, nên rồi đây, Người sẽ đích thân tìm kiếm chiên mình; qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu sánh ví Thiên Chúa đó với một ông chủ vườn nho từ sáng đến chiều, ba lần bảy lượt, ra chợ tìm thợ vào làm vườn nho nhà mình.
Êzêkiel cho thấy Thiên Chúa bất bình với các chủ chăn vô tâm bất tài vốn chỉ lo cho bản thân mà không chăm sóc chiên của Người, “Khốn cho các chủ chăn Israel, họ chỉ lo nuôi chính bản thân”; “Các ngươi không chăn dắt đoàn chiên của Ta”; “Các chiên của Ta làm mồi cho thú dữ ngoài đồng, các chiên của Ta lang thang khắp núi; chiên Ta tản mác khắp mặt đất, và chẳng có ai kiếm tìm. Ta nói, chẳng có ai kiếm tìm”. Vì thế, “Chính Ta sẽ tìm kiếm các chiên Ta, và Ta sẽ thăm viếng chúng”. Vì là một Thiên Chúa xót thương, nên ngày đêm, Người không ngừng tìm kiếm những ai thuộc về Người.
Tin Mừng nói đến sự cằn nhằn của những người đến sớm, sự cằn nhằn của những biệt phái khi Chúa Giêsu lân la với phường tội lỗi, cằn nhằn của người anh cả khi người cha tiếp đón đứa em hư đốn trở về. Một cái gì đó xem ra không công bằng ở đây khi chủ vườn trả cho người đến trước, kẻ đến sau cũng một đồng như nhau; thế nhưng, công bằng của Thiên Chúa khác với công bằng của loài người. Công bằng của Thiên Chúa là tìm kiếm, là băng bó, là xót thương. Ngay lúc này, Người đang tìm kiếm chúng ta, những con cái đang cằn nhằn vì sự tốt lành của Người để chúng ta có thể hưởng trọn vẹn một đồng không thiếu một xu.
Anh Chị em,
Ơn cứu độ là một đồng mà Thiên Chúa muốn cho ai ai cũng được hưởng. Người tìm kiếm không mệt mỏi để mời gọi con người đi vào vườn nho Giáo Hội hầu hưởng lấy một đồng đó. Đó chính là sự công bằng của người Cha, một Thiên Chúa cứu độ; Đấng muốn con người được gọi để sống, sống chính sự sống thần linh của Người. Một đồng đó có giá với ba mươi ba năm Con Thiên Chúa xuống thế làm người cùng với cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài; một đồng đó có giá với Nước Trời đang được trao tặng không chỉ mai ngày nhưng cả hôm nay. Đó là lý do khiến Thiên Chúa mãi mãi tìm kiếm con người.
Phần chúng ta, để cộng tác vào nỗi khắc khoải tìm kiếm của Thiên Chúa, Người muốn chúng ta biết kiên nhẫn đợi chờ giờ ngày của Người; đợi chờ trong yêu mến, tin tưởng cho dù hầu như Người luôn luôn im ắng và xem ra xa vắng.
Bản thân tôi, linh mục của Chúa, khác nào thợ làm vườn nho giờ thứ mười một. Anh Chị em thử tưởng tượng, sau mười năm Tiểu Chủng Viện, nhà nước lấy trường, chúng tôi về với gia đình; tất cả phải lang bạt kỳ hồ, rồi hầu hết nay đã là ông ngoại, ông nội… Riêng tôi và một vài anh em đếm đầu ngón tay phải chờ đợi, chờ đợi đến những mười bảy năm; sau đó, vào Đại Chủng Viện bốn năm; vì thế, chúng tôi chỉ mới cầm cuốc trong vườn nho linh mục trên dưới hai mươi năm. Mười bảy năm đợi chờ lúc ấy, với chúng tôi, là một quảng đời vô định, mù tăm, không có tương lai mà thử thách lớn nhất vẫn là thời gian. Ấy thế, khi nhìn lại, nào ai biết mười bảy năm đó là mười bảy năm hồng ân Chúa dành để chuẩn bị cho vườn nho của Người những tay thợ mạt rệp với cuốc cùn, rựa đùi mà tim mau mỏi...
Anh Chị em,
Chủ vườn tìm kiếm những người vô công rồi nghề, đứng lên ngồi xuống suốt ngày, suốt mười bảy năm; Người biết chờ việc còn khổ hơn cả làm việc. Và giờ đây, Người đang tìm kiếm không chỉ những ai ở ngoài vườn nho nhưng còn tìm kiếm cả những người thợ đang làm trong vườn vốn cũng có thể là những mục tử Người phải thở vắn than dài như thời Êzêkiel.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, dù ở đấng bậc nào, xin cho con biết, Chúa vẫn đang tìm con; cho con biết tìm Chúa mỗi ngày, để con không là chiên lạc hoặc là mục tử bất tài mà lại vô tâm… để Chúa phải tiếc xót”, Amen.
(Tgp. Huế)
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Nhân Ngày quốc khánh, Đức Hồng Y Nam Dương đã lên án các tệ nạn xã hội
Thanh Quảng sdb
18:39 18/08/2020
Nhân Ngày quốc khánh, Đức Hồng Y Nam Dương đã lên án các tệ nạn xã hội
Trong ngày Đất nước Nam Dương mừng Ngày Độc lập lần thứ 75, Đức Hồng Y Ignatius Suharyo Hardjoatmodjo đã kêu gọi mọi công dân hãy đoàn kết và chống lại tham nhũng, bạo lực và các mối đe dọa môi trường.
(Tin Vatican - Robin Gomes)
Đức Hồng Y Ignatius Suharyo Hardjoatmodjo của Tổng Giáo phận Jakarta đã kêu gọi mọi công dân Nam Dương hãy hiệp nhất chống tham nhũng, bạo lực và biến đổi khí hậu, trong ngày đất nước kỷ niệm Ngày Độc lập vào ngày 17 tháng 8.
Ngày Độc lập năm nay được tổ chức đơn sơ, vì những hạn chế Y tế và hậu quả của cơn đại dịch Covid-19.
Tham nhũng, bạo lực và hủy hoại môi trường
Trong một thông điệp được phát đi bằng video, Đức Hồng Y Suharyo nhắc nhở tất cả rằng lý tưởng của quốc gia - thống nhất, chủ quyền, công bằng và thịnh vượng - đòi buộc tất cả mọi thành phần trong xã hội phải hoạt động cho một lợi ích chung.
ĐHY cho hay lý tưởng của đất nước đang bị đe dọa bởi tham nhũng, bạo lực và hủy hoại môi trường.
Nam Dương không ngừng gặp khó khăn vì các vụ tham nhũng nổi tiếng, tình trạng bất ổn ở Papua, các hoạt động khủng bố bạo lực hoặc các hành động không khoan dung của các phần tử cực đoan tôn giáo. Trong khi đó, việc tàn phá rừng nhiệt đới, ô nhiễm, đốt phá rừng để canh tác và tệ nạn xa thải rác nhựa đang hủy hoại môi trường. Đức Hồng Y than thở rằng những tệ nạn này đang tăng dần lên mỗi năm.
Lợi ích chung
Khi kỷ niệm ‘Ngày Độc lập’, Đức Hồng Y Suharyo phát biểu: “Chúng ta không chỉ mừng và nhớ tới sự độc lập của đất nước, mà còn vun góp và làm sống lại ý thức trách nhiệm của chúng ta là xây dựng và thực hiện lợi ích chung”.
Vị Hồng Y 70 tuổi, nhắc nhở những người Công Giáo rằng, bất chấp những khó khăn của đại dịch Covid-19 gây ra, chúng ta cần hoạt động cho công bằng xã hội và vun góp lý tưởng dân tộc trong gia đình, cộng đồng, giáo xứ và các cộng đoàn căn bản.
Hai người Công Giáo nổi tiếng trong nước cũng ủng hộ lời kêu gọi của Hồng Y là:
- Ông Vincentius Hargo Mandirahardjo, Chủ tịch Hiệp hội Trí thức Công Giáo Nam Dương (ISKA), ông nói với thông tấn xã UCA rằng: "Với tư cách là công dân, chúng tôi có trách nhiệm vượt lên trên những thách thức này vì sự tiến bộ của đất nước".
- Và vị linh mục Dòng Tên Francis Xavier Mudji Sutrisno, giáo sư của phân khoa Triết tại Đại học Driyarkara ở Jakarta, cho biết ba tệ nạn xã hội mà Đức Hồng Y nêu ra, cũng phải là những ưu tiên của chính phủ. Cha ấy nói với thông tấn xã UCA rằng: “Luật pháp phải được thực thi một cách công bằng để khắc phục tình trạng tham nhũng, bạo lực và hủy hoại môi trường. Cha cảnh báo: “Nếu luật pháp bị bỏ qua, thì những tệ nạn sẽ không bao giờ được chấm dứt!”.
Ngài tố cáo tình trạng đất nước hiện nay là do nền chính trị Nam Dương thiếu đạo đức. Cha nói: Dân chủ mà không đảm bảo được pháp lý là nguyên cớ dẫn đến bạo lực, tham nhũng và các hành vi tác hại cho môi trường.
Cha kêu gọi tất cả “hãy chung tay để làm chấm dứt những hủ tục và tính ích kỷ, lợi ích nhóm hoặc lợi ích cá nhân để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn”.
Trong ngày Đất nước Nam Dương mừng Ngày Độc lập lần thứ 75, Đức Hồng Y Ignatius Suharyo Hardjoatmodjo đã kêu gọi mọi công dân hãy đoàn kết và chống lại tham nhũng, bạo lực và các mối đe dọa môi trường.
(Tin Vatican - Robin Gomes)
Đức Hồng Y Ignatius Suharyo Hardjoatmodjo của Tổng Giáo phận Jakarta đã kêu gọi mọi công dân Nam Dương hãy hiệp nhất chống tham nhũng, bạo lực và biến đổi khí hậu, trong ngày đất nước kỷ niệm Ngày Độc lập vào ngày 17 tháng 8.
Ngày Độc lập năm nay được tổ chức đơn sơ, vì những hạn chế Y tế và hậu quả của cơn đại dịch Covid-19.
Tham nhũng, bạo lực và hủy hoại môi trường
Trong một thông điệp được phát đi bằng video, Đức Hồng Y Suharyo nhắc nhở tất cả rằng lý tưởng của quốc gia - thống nhất, chủ quyền, công bằng và thịnh vượng - đòi buộc tất cả mọi thành phần trong xã hội phải hoạt động cho một lợi ích chung.
ĐHY cho hay lý tưởng của đất nước đang bị đe dọa bởi tham nhũng, bạo lực và hủy hoại môi trường.
Nam Dương không ngừng gặp khó khăn vì các vụ tham nhũng nổi tiếng, tình trạng bất ổn ở Papua, các hoạt động khủng bố bạo lực hoặc các hành động không khoan dung của các phần tử cực đoan tôn giáo. Trong khi đó, việc tàn phá rừng nhiệt đới, ô nhiễm, đốt phá rừng để canh tác và tệ nạn xa thải rác nhựa đang hủy hoại môi trường. Đức Hồng Y than thở rằng những tệ nạn này đang tăng dần lên mỗi năm.
Lợi ích chung
Khi kỷ niệm ‘Ngày Độc lập’, Đức Hồng Y Suharyo phát biểu: “Chúng ta không chỉ mừng và nhớ tới sự độc lập của đất nước, mà còn vun góp và làm sống lại ý thức trách nhiệm của chúng ta là xây dựng và thực hiện lợi ích chung”.
Vị Hồng Y 70 tuổi, nhắc nhở những người Công Giáo rằng, bất chấp những khó khăn của đại dịch Covid-19 gây ra, chúng ta cần hoạt động cho công bằng xã hội và vun góp lý tưởng dân tộc trong gia đình, cộng đồng, giáo xứ và các cộng đoàn căn bản.
Hai người Công Giáo nổi tiếng trong nước cũng ủng hộ lời kêu gọi của Hồng Y là:
- Ông Vincentius Hargo Mandirahardjo, Chủ tịch Hiệp hội Trí thức Công Giáo Nam Dương (ISKA), ông nói với thông tấn xã UCA rằng: "Với tư cách là công dân, chúng tôi có trách nhiệm vượt lên trên những thách thức này vì sự tiến bộ của đất nước".
- Và vị linh mục Dòng Tên Francis Xavier Mudji Sutrisno, giáo sư của phân khoa Triết tại Đại học Driyarkara ở Jakarta, cho biết ba tệ nạn xã hội mà Đức Hồng Y nêu ra, cũng phải là những ưu tiên của chính phủ. Cha ấy nói với thông tấn xã UCA rằng: “Luật pháp phải được thực thi một cách công bằng để khắc phục tình trạng tham nhũng, bạo lực và hủy hoại môi trường. Cha cảnh báo: “Nếu luật pháp bị bỏ qua, thì những tệ nạn sẽ không bao giờ được chấm dứt!”.
Ngài tố cáo tình trạng đất nước hiện nay là do nền chính trị Nam Dương thiếu đạo đức. Cha nói: Dân chủ mà không đảm bảo được pháp lý là nguyên cớ dẫn đến bạo lực, tham nhũng và các hành vi tác hại cho môi trường.
Cha kêu gọi tất cả “hãy chung tay để làm chấm dứt những hủ tục và tính ích kỷ, lợi ích nhóm hoặc lợi ích cá nhân để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn”.
Giáo sư Robert P. George của Đại Học Princeton: Những người Công Giáo ngoan đạo và những người cấp tiến thế tục
Vũ Văn An
20:31 18/08/2020
Trong bầu khí cố dành phiếu Công Giáo, liên danh Biden-Harris cố gắng chứng minh họ là những người Công Giáo cấp tiến, tranh đấu cho công bằng xã hội, không giống những người Công Giáo nói chung chỉ biết tranh đấu trong trận chiến văn hóa phò sinh. Tuy không chỉ đích danh họ, giáo sư Robert George của Đại Học “cấp tiến” Princeton muốn nhắc họ rằng người Công Giáo ngoan đạo không cấp tiến cũng không bảo thủ hay đúng hơn họ vừa cấp tiến vừa bảo thủ theo nghĩa vừa tranh đấu cho người nghèo vừa tranh đấu cho quyền quyền sống của mọi người, trong đó, có trẻ thơ còn trong bụng mẹ.
Trên trang mạng First Things (https://www.firstthings.com/web-exclusives/2020/08/devout-catholics-and-secular-progressives), ông viết:
Hãy tưởng tượng tôi tranh cử chức vụ công, thí dụ, chức tổng thống Hợp Chúng Quốc, và tôi cho rằng mình là “một người cấp tiến thế tục dấn thân”. Hẳn bạn sẽ bảo “Nhưng thưa giáo sư George, ông đâu phải vậy. Ông đâu có thế tục, ông là người Công Giáo mà; ông đâu có cấp tiến, ông là người bảo thủ”.
Tôi xin trả lời “Này, nhưng tôi được giáo dục bởi những người cấp tiến thế tục. Tôi học ở Swarthmore, rồi Harvard, rồi Oxford: tất cả đều là những định chế thế tục do các nhà cấp tiến nắm ảnh hưởng. Tôi dạy tại Princeton, cực kỳ thế tục và cấp tiến. Tôi học sách giáo lý cấp tiến thế tục. Tôi học nó thuộc lòng. Tôi có thể trích dẫn nó cho bạn từng chữ một. Các thầy dạy cấp tiến thế tục của tôi phần lớn đã lên khuôn cho con người của tôi. Tôi biết ơn các vị ấy hàng ngày vì nền giáo dục tốt đẹp được các vị truyền thụ. Anh bạn ạ, đó là một phần của đời tôi.
“Và bạn có biết một điều khác nữa không? Nó nằm trong gia đình tôi! Ông ngoại tôi là một người duy thế tục. Ngài là một người Ý phản giáo sĩ. Hơn nữa, ngài còn là một tam điểm. Nhưng tôi yêu và tôn thờ người đàn ông ấy. Ngài gây ảnh hưởng lớn trên tôi!”
Bạn sẽ bảo “nhưng thưa giáo sư, ông đâu có tin các lý thuyết của chủ nghĩa cấp tiến thế tục. Ông phò sinh mà! Ông tin hôn nhân là sự kết hợp phu thê vợ chồng. Ông nghĩ không nên buộc Jack Phillips phải thiết kế và nướng bánh cho đám cưới đồng tính và buộc các Nữ Tu Tiểu Muội Người Nghèo phải cung cấp hay tạo điều kiện cho việc ngừa thai. Làm thế nào ông cho mình là một người cấp tiến thế tục dấn thân cho được? ”
Tôi xin trả lời, “Này, ông bạn, như tôi đã thưa, đó là con người thực của tôi! Đó là con người tôi cố tình chọn để trở thành. Đó là việc tôi tự định nghĩa chính tôi. Các ý kiến bản thân của tôi là một chuyện, nhưng chúng không nhất thiết sai khiến điều tôi nghĩ chính sách công nên là. Và bạn vừa nêu ra một số vấn đề. Bạn thấy đấy, tôi tin việc giúp đỡ người nghèo. Tôi ủng hộ việc cải tổ hệ thống công lý hình sự. Tôi chống án tử hình. Tôi tin việc chào đón người tị nạn và phải nhân đạo trong việc cư xử với di dân, kể cả những người không có giấy tờ. Với tôi, các giá trị này nằm ở tâm điểm của bản chất hạn từ cấp tiến thế tục. Tôi không muốn dừng lại một cách quá đáng ở vấn đề phá thai, hôn nhân đồng tính, và nướng bánh, và những điều tương tự. Làm một người cấp tiến thế tục phải thực sự chống nghèo đói, ủng hộ việc cải tổ nền công lý hình sự và nhiều điều khác thực sự quan hệ tới đời sống người dân bình thường. Và, nhân thể, xin hỏi bạn là ai mà hạch hỏi đức tin cấp tiến thế tục của tôi? Tôi định nghĩa lấy con người mình, không phải bạn”.
Bạn bảo, “nhưng nếu ông có thể tự dán nhãn hiệu như ‘người cấp tiến thế tục dấn thân’, bất chấp việc ông chống đối các nguyên tắc chủ yếu của cương lĩnh cấp tiến thế tục như ‘quyền sinh sản’ và ‘bình đẳng hôn nhân’, thì cấp tiến thế tục còn có ý nghĩa gì nữa? ”
Tôi xin trả lời, “Này, nó có nghĩa điều nó có nghĩa với tôi. Ông bạn ạ, nếu các chính trị gia khác có thể tự gán cho họ các nhãn hiệu như ‘người Công Giáo ngoan đạo’ dù họ vẫn ủng hộ hôn nhân đồng tính và phá thai, thậm chí phá thai được chính phủ tài trợ, và Jack Phillips phải nướng bánh theo chủ đề đồng tính và các Tiểu Muội Người Nghèo phải cung cấp phương tiện ngừa thai, thì chắc chắn tôi có thể dán nhãn hiệu cho mình là người cấp tiến thế tục, cho dù, tôi đứng ở phía bên kia của các vấn đề này. Nếu mấy ông trong các phương tiện truyền thông quyết định giúp họ thoát hiểm bằng cách ủng hộ yêu sách cho rằng họ là ‘những người Công Giáo ngoan đạo’, thì họ lấy cớ gì mà bác bỏ việc tôi tự định nghĩa như là ‘người cấp tiến thế tục dấn thân’? Nếu nó ổn cách này, thì chắc chắn nó cũng ổn cách kia chứ. Tôi muốn nói, nó là đường phố hai chiều mà lị. Đúng không, ông bạn? ”
Chú thích
Robert P. George là giáo sư luật tại Đại Học Princeton.
Mexico đề ra kế hoạch sản xuất thuốc ngừa Covid-19
Thanh Quảng sdb
06:09 18/08/2020
Mexico đề ra kế hoạch sản xuất thuốc ngừa (vắc-xin) Covid-19
Mexico cần 200 triệu liều vắc-xin Covid-19 cho một đất nước có dân số 125 triệu người, nhưng một công ty dược phẩm lớn nhất cho biết có thể mãi tháng 4 năm sau mới có thể bắt đầu sản xuất vắc-xin.
(Tin Vatican - James Blears)
Hợp tác giữa hai quốc gia Argentina và Mexico, tập đoàn dược phẩm lớn nhất là Astra Zeneca đang có kế hoạch đạt mục tiêu sản xuất 400 triệu liều vác-xin để giúp cho châu Mỹ Latinh thoát được cơn đại dịch coronavirus.
Chính phủ Mexico cũng đang xem xét các lựa chọn khác, bao gồm cả sự hợp tác với Chính phủ Anh quốc. Chính phủ hy vọng sẽ giúp cho dân chúng thoát được cơn đại dịch khốn khổ này!
Vì tình trạng y tế nghèo nàn, không có phương tiện xét nghiệm cho toàn dân Mexico, cho nên mức độ và con số bị lây nhiễm không thể kiểm chứng đầy đủ được.
Chặng đường dài
Bà Martha Delgado, thứ trưởng Y tế hy vọng Công ty Astra Zeneca có thể sản xuất khoảng 30 đến 35 triệu liều vắc-xin mỗi tháng.
Bà dự tính mỗi người dân sẽ cần khoảng hai liều vắc-xin để đạt được một thành quả tốt. Nhưng nếu cần đến 200 triệu liều, thì thực tế sẽ mất một khoảng thời gian dài để có thể cung cấp đầy đủ số lượng đó!
Các thử nghiệm sẽ không được hoàn thành cho đến ít nhất là tháng 11 hoặc tháng 12 năm nay, thì số vắc-xin cần thiết không thể có sẵn cho chính phủ vào tháng 4 năm sau.
Kiểm điểm số người chết
Theo báo cáo, số người chết hiện nay ở Mexico cao hơn 57.000 người! Đây là con số thấp so với con số 525.000 người bị nhiễm!
Số nạn nhân bị tử vong vì cơn địch ở Mexico đang đứng thứ ba sau Hoa Kỳ và Brazil.
Mexico cần 200 triệu liều vắc-xin Covid-19 cho một đất nước có dân số 125 triệu người, nhưng một công ty dược phẩm lớn nhất cho biết có thể mãi tháng 4 năm sau mới có thể bắt đầu sản xuất vắc-xin.
(Tin Vatican - James Blears)
Hợp tác giữa hai quốc gia Argentina và Mexico, tập đoàn dược phẩm lớn nhất là Astra Zeneca đang có kế hoạch đạt mục tiêu sản xuất 400 triệu liều vác-xin để giúp cho châu Mỹ Latinh thoát được cơn đại dịch coronavirus.
Chính phủ Mexico cũng đang xem xét các lựa chọn khác, bao gồm cả sự hợp tác với Chính phủ Anh quốc. Chính phủ hy vọng sẽ giúp cho dân chúng thoát được cơn đại dịch khốn khổ này!
Vì tình trạng y tế nghèo nàn, không có phương tiện xét nghiệm cho toàn dân Mexico, cho nên mức độ và con số bị lây nhiễm không thể kiểm chứng đầy đủ được.
Chặng đường dài
Bà Martha Delgado, thứ trưởng Y tế hy vọng Công ty Astra Zeneca có thể sản xuất khoảng 30 đến 35 triệu liều vắc-xin mỗi tháng.
Bà dự tính mỗi người dân sẽ cần khoảng hai liều vắc-xin để đạt được một thành quả tốt. Nhưng nếu cần đến 200 triệu liều, thì thực tế sẽ mất một khoảng thời gian dài để có thể cung cấp đầy đủ số lượng đó!
Các thử nghiệm sẽ không được hoàn thành cho đến ít nhất là tháng 11 hoặc tháng 12 năm nay, thì số vắc-xin cần thiết không thể có sẵn cho chính phủ vào tháng 4 năm sau.
Kiểm điểm số người chết
Theo báo cáo, số người chết hiện nay ở Mexico cao hơn 57.000 người! Đây là con số thấp so với con số 525.000 người bị nhiễm!
Số nạn nhân bị tử vong vì cơn địch ở Mexico đang đứng thứ ba sau Hoa Kỳ và Brazil.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Xưng Tội Rước Lễ Lần Đầu tại giáo xứ Tụy Hiền, Tgp. Hà Nội, Việt Nam
Joseph Hùng Lửa
07:03 18/08/2020
Chiều ngày 13/8/2020 tại giáo xứ Tụy Hiền, cha xứ Antôn Nguyễn Văn Độ đã dâng Thánh lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa, mở ra một trang sách mới cho 157 em được xưng tội lần đầu. Tham dự Thánh lễ có sự hiện diện của bố mẹ các em và cộng đoàn trong Giáo xứ.
Đúng 4h30, đoàn rước bắt đầu với tiếng kèn vang và lời ca nhập lễ “Chúa mời gọi con đến dự Tiệc Thánh, con hân hoan vui mừng, con hân hoan vui mừng vì có Chúa, Chúa ơi” đã diễn tả tâm trạng vui mừng và hi vọng của em được lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa hôm nay.
Xem Hình
Trong bài chia sẻ Lời Chúa, cha Antôn đã mời gọi cộng đoàn làm chuyến hành hương nội tâm tới căn phòng Tiệc Ly tại Giêrusalem cách đầy gần 2000 năm. Nơi ấy, Chúa Giêsu đã dùng bữa sau hết với các môn đệ. Chúa cầm lấy bánh … chén rượu và nói “Này là Mình Thày, hiến tế vì anh em”, “Này là Máu Thầy, đổ ra vì anh em”.
Thứ đến, cha Antôn nhắn nhủ các em Xưng tội Rước lễ lần đầu cùng cộng đoàn:“Khi chúng ta lên rước lễ không phải là đi ăn bánh, nhưng là rước lấy chính Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô. Hôm nay, phải được kể là ngày đặc biệt trong cuộc đời của các con, ngày mà linh hồn các con không chỉ được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, Giáo lý và các lời dạy bảo Cha mẹ, hay của những người được Thiên Chúa trao quyền nhằm mưu ích cho các con, mà còn bằng chính Mình và Máu Thánh Chúa, lương thực thần thiên, bánh bởi trời. Cho nên các con phải yêu mến, siêng năng tham dự Thánh lễ hằng ngày và siêng năng đọc Lời Chúa”.
“Lời Chúa trở nên nguồn dịu ngọt hơn mật ong nguyên chất” (Tv 118). Vì vậy ngôn sứ Giêrêmia vừa “gặp được Lời Chúa con đã nuốt vào” (Gr 15, 16). Ngay lúc này, các con hãy xin với Chúa cho con và gia đình con được Lời Chúa biến đổi vì chỉ có Lời Chúa mới là “ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho con đi” (Tv119, 105). Nhờ đó, chúng ta mới với tới được những điều chân thật và thánh thiện nhất.
Trong bàn tiệc Thánh Thể, các em được rước Mình và Máu Thánh Chúa. Lần đầu tiên được rước Chúa vào lòng, các em không khỏi bỡ ngỡ và vui sướng. Vẻ đẹp thánh thiện, tinh tuyền nơi các em cũng bị át đi bởi niềm hạnh phúc dâng trào. Đây chính là món quà quý giá và ý nghĩa nhất mà Thiên Chúa tặng ban cho các em từ khi các em có trí khôn.
Trước khi kết thúc Thánh lễ, một Phụ huynh đại diện cho các phụ huynh và các 157 em được Xưng tội Rước lễ lần đầu có lời tri ân Cha xứ và toàn thể cộng đoàn.
Nguyện chúc các gia đình luôn hạnh phúc và giữ được lửa tình yêu nơi gia đình và luôn là tấm gương sáng cho con cái noi theo.
Bài viết và hình ảnh: Joseph Hùng Lửa
Đúng 4h30, đoàn rước bắt đầu với tiếng kèn vang và lời ca nhập lễ “Chúa mời gọi con đến dự Tiệc Thánh, con hân hoan vui mừng, con hân hoan vui mừng vì có Chúa, Chúa ơi” đã diễn tả tâm trạng vui mừng và hi vọng của em được lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa hôm nay.
Xem Hình
Trong bài chia sẻ Lời Chúa, cha Antôn đã mời gọi cộng đoàn làm chuyến hành hương nội tâm tới căn phòng Tiệc Ly tại Giêrusalem cách đầy gần 2000 năm. Nơi ấy, Chúa Giêsu đã dùng bữa sau hết với các môn đệ. Chúa cầm lấy bánh … chén rượu và nói “Này là Mình Thày, hiến tế vì anh em”, “Này là Máu Thầy, đổ ra vì anh em”.
Thứ đến, cha Antôn nhắn nhủ các em Xưng tội Rước lễ lần đầu cùng cộng đoàn:“Khi chúng ta lên rước lễ không phải là đi ăn bánh, nhưng là rước lấy chính Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô. Hôm nay, phải được kể là ngày đặc biệt trong cuộc đời của các con, ngày mà linh hồn các con không chỉ được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, Giáo lý và các lời dạy bảo Cha mẹ, hay của những người được Thiên Chúa trao quyền nhằm mưu ích cho các con, mà còn bằng chính Mình và Máu Thánh Chúa, lương thực thần thiên, bánh bởi trời. Cho nên các con phải yêu mến, siêng năng tham dự Thánh lễ hằng ngày và siêng năng đọc Lời Chúa”.
Trong bàn tiệc Thánh Thể, các em được rước Mình và Máu Thánh Chúa. Lần đầu tiên được rước Chúa vào lòng, các em không khỏi bỡ ngỡ và vui sướng. Vẻ đẹp thánh thiện, tinh tuyền nơi các em cũng bị át đi bởi niềm hạnh phúc dâng trào. Đây chính là món quà quý giá và ý nghĩa nhất mà Thiên Chúa tặng ban cho các em từ khi các em có trí khôn.
Trước khi kết thúc Thánh lễ, một Phụ huynh đại diện cho các phụ huynh và các 157 em được Xưng tội Rước lễ lần đầu có lời tri ân Cha xứ và toàn thể cộng đoàn.
Nguyện chúc các gia đình luôn hạnh phúc và giữ được lửa tình yêu nơi gia đình và luôn là tấm gương sáng cho con cái noi theo.
Bài viết và hình ảnh: Joseph Hùng Lửa
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Nhân vụ giáo xứ Thị Nghè bị cướp đất, thử nhìn lại lịch sử...
Nguyễn Đức Cung
18:21 18/08/2020
NHÂN VỤ GIÁO XỨ THỊ NGHÈ BỊ CƯỚP ĐẤT, THỬ NHÌN LẠI LỊCH SỬ…
Ngày 12 tháng Tám năm 2020, Nhóm PV Vietcatholic đã cho công bố trên cơ quan trang mạng này bài viết có tên “SOS Giáo Xứ Thị Nghè (Sài Gòn) kêu cứu về tài sản bị chiếm đoạt” với những chứng minh cụ thể về tư liệu, luận chứng và nhiều chữ ký của các Linh mục, các Giáo hạt, Hội đồng mục Vụ, và hàng ngũ giáo dân tố giác việc nhà cầm quyền Cộng Sản đã ngụy tạo văn bản nhằm cướp đoạt hai cơ sở trường Phước An vốn là tài sản của người giáo dân trong hai trăm năm qua. Trong Thư ngỏ của Văn phòng Giáo xứ Thị Nghè, Giáo xứ đã vạch rõ rằng “Với văn bản ngụy tạo, vô giá trị về mặt pháp lý này, chính quyền đang sử dụng để tuyên truyền nhằm đánh lừa, làm cho dư luận hiểu sai sự thật, theo hướng có lợi cho hành động chiếm đoạt sai trái đất trường Phước An của Giáo xứ.” (Trích Thư Ngỏ của Văn Phòng Giáo xứ Thị Nghè).
Trong hai năm gần đây đã xẩy ra một số sự việc liên quan đến nạn cướp đất tại Sài Gòn nơi mà đất đai đã trở thành “tuyệt đại vô giá” mà giới quan phương CS nghĩ rằng phải chăng đây là buổi chợ chiều của chế độ nên ra tay càng nhanh, lợi nhuận càng vững chắc nên đã diễn ra các việc như cướp đất dân oan ở Thủ Thiêm vốn chưa được giải quyết ổn thỏa (giới quan phương theo chiến thuật “mềm nắn rắn buông” đối với Dòng Mến Thánh Giá ở đây với 145 năm lịch sử), vườn rau Lộc Hưng của đồng bào giáo dân Miền Bắc di cư năm 1954, và nay họ lại lần phăng tới những nơi có thể kiếm ăn được đó là các cơ sở dòng tu, trường học, bệnh xá… của Công Giáo bị ép cho CS mượn sau ngày 30-4-1975, chẳng hạn vụ chiếm đất Dòng Thiên An Huế đang sôi động trở lại. Đây cũng là lúc để giới quan phương nhiều nơi “test” xem thử cái lò của TBT Nguyễn Phú Trọng nóng lên ở mức độ nào khi đảng CS đang có những nỗ lực nhằm chuẩn bị cho Đại hội XIII sắp tới và cùng lúc lại xảy ra vụ việc Nguyễn Đức Chung, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội bị đình chỉ công tác tạm thời trong thời gian 90 ngày. Nhân dân VN đang chờ xem cái gì xảy ra thì việc Giáo xứ Thị Nghè bị chiếm đất xuất hiện…
1.- Thị Nghè trong chiều dài lịch sử…
Theo nguyên tắc lập cư, nghĩa là chọn chỗ ở của tiền nhân, Việt Nam có câu “ Nhất cận thị, nhị cận giang, ” có nghĩa là: Thứ nhất gần chợ, thứ hai gần sông. Gần chợ thì mua sắm, may mặc, ăn uống dễ dàng; gần sông thì đi lại nhanh chóng, vận chuẩn thuận tiện bao gồm các mục tiêu có tính cách kinh tế. Quan điểm sinh hoạt ấy cũng có lẽ nghiệm đúng khi nhìn vào các đợt Nam tiến của nước ta trước đây dưới thời các chúa Nguyễn. Tuy nhiên cũng nên thêm vào đây yếu tố quân sự, vì đôi khi tiền nhân chúng ta cũng lợi dụng vị trí của sông ngòi, kênh rạch làm yếu tố che chắn để phòng ngự đối phương hay giặc cướp hoặc ứng dụng vào kỹ thuật tác chiến.
Trên bước đường Nam tiến, tổ tiên chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề định canh, định cư đem từ miền Bắc và miền Trung vào kể từ đầu thế kỷ XI với Lý Thường Kiệt (1075), với Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558), nhất là với Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh cuối thế kỷ XVII và đám quan binh theo ông trong nhiều giai đoạn lịch sử hoành tráng mở rộng cương vực đất nước tại miền Nam rộng rãi bao la nhiều sông rạch, đầm lầy chằng chịt mà chỉ có những con người can đảm, trì chí, mưu lược mới có thể thực hiện nổi.
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai vào Gia Định Đồng Nai thì vào.
(Nguyễn Đức Cung, Quảng Bình chín trăm năm nhìn lại 1075-1975, Nhà xb. Nhật Lệ, 2006, trang 400).
Danh xưng “Thị Nghè” vốn được dùng để chỉ một con rạch gọi là “Rạch Bà Nghè”, một chiếc cầu, một con sông hay một vùng đất và tên chữ Hán là Bình Trị Giang căn cứ theo tài liệu của Trương Vĩnh Ký hay Petrus Ký (1837-1898) một nhà bác học Công Giáo (Nguyễn Đình Đầu, Petrus Ký nỗi oan thế kỷ, Nhã Nam & Nhà xuất bản Tri Thức, 2016, tr. 75). Trong tư liệu này, Trương Vĩnh Ký còn cho biết chi tiết thêm: “Trên rạch Tắt Cầu Sơn có hai chiếc cầu bắc qua, cầu thứ nhất là cầu Sơn và cầu thứ hai là cầu Lầu (cầu này cao và có mái che). Còn tên Thị Nghè hay Bà Nghè đặt cho cầu thứ nhất và con rạch Thị Nghè, thì nguyên nhân như sau: Con gái Vân Trường Hầu (Nguyễn Cửu Vân) có chồng làm lại mục trong chính quyền tỉnh thành với tước vị ông Nghè (tú tài hay cử nhân, muốn cho chồng qua rạch đi làm mỗi ngày được dễ dàng, đã cho kiến tạo một chiếc cầu mệnh danh tên bà, hay đúng hơn, tước vị bà, tức Thị Nghè hay Bà Nghè (bà tú). Con rạch cũng mang tên đó.” (trang 182). Một tài liệu khác cho biết Bà Nghè này có tên là Nguyễn Thị Khánh (Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn TP. HCM, Lược Sử 300 Năm Sài Gòn (1698-1998) , Nhà xb. Trẻ, 1999, tr. 36).
Lại mục là gì? “Gọi chung giới thư ký tại các cơ quan. Các thư lại, thông lại, đề lại, là những người giúp việc cho các quan tại các bộ, nha, phủ, huyện đều gọi chung là lại mục. - Phủ lại mục: Thư ký tại các phủ, trật chánh cửu phẩm (9/1). - Huyện lại mục: Thư ký tại các huyện, trật tòng cửu phẩm (9/2)” (Võ Hương-An, Từ Điển Nhà Nguyễn, Nam Việt xuất bản, 2012, tr. 324). Trần Thanh Tâm trong Quan Chức Nhà Nguyễn cho biết thêm “Viên chức này có hàm Chánh cửu phẩm Văn ban. Sau này, ở huyện nhỏ, được coi như Phó huyện. Trước ở huyện có chức Đề Lại, đến năm Minh Mệnh thứ 5, đổi Đề Lại làm Lại Mục.” (Nhà xb. Thuận Hóa, 2000, tr. 184).
Lần theo gia phả của Nguyễn Cửu Vân, bố của bà Thị Nghè, Đại Nam Nhất Thống Chí do Quốc Sử Quán Nhà Nguyễn biên soạn có ghi về vị danh tướng này như sau: “Con của Nguyễn Cửu Dực làm đến cai cơ, năm Ất Dậu đời Hiển Tông, Chân Lập có nổi loạn, Vân đem quân dẹp yên được, đóng quân ở Vũng Cù, khai khẩn ruộng đất làm gương cho quân và dân, năm Tân Mão, thăng phó dinh Trấn Biên. Khi Vân ở biên thùy, người Chân Lạp theo phục, rất có công trong việc mở mang miền Nam. Con cả của Vân là Triêm, làm phó tướng, nối cha làm lưu thủ Trấn Biên, người Chân Lạp xâm nhiễu biên giới. Triêm làm giám quân dẹp yên…” (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1997, tr. 218). Qua đó chúng ta biết bà Thị Nghè là em của tướng Nguyễn Cửu Triêm mà có tư liệu cho biết người Lào sợ Nguyễn Cửu Triêm như cọp.
Dòng họ Nguyễn Cửu Vân vốn xuất phát từ Nguyễn Cửu Kiều gốc huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, bất phục họ Trịnh nên bỏ trốn vào miền Nam năm 1623, theo giúp chúa Nguyễn định cư ở Thuận Hóa, được vua nhà Nguyễn ban cho 4 chữ Nhất Gia Trung Nghĩa. Sử liệu không nêu rõ bà Nguyễn Thị Khánh thứ bậc như thế nào trong dòng họ vì ngày xưa theo chế độ “trọng nam khinh nữ” nên chỉ ghi “Bà Nghè” hay “Thị Nghè” mà thôi. Nói chung dòng họ Nguyễn Cửu Văn có rất nhiều công trạng trong việc mở mang Miền Nam, xây dựng đất nước. Con rạch Thị Nghè theo sử liệu Tây phương còn có tên là Arroyo de l’Avalenche là tên của chiến hạm Avalenche trong cuộc tấn công thành Sài Gòn ngày 16-2-1859.
Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân nhận lệnh chúa Nguyễn đem quân lên Nam Vang đánh quân Xiêm thì con của ông là bà Nguyễn Thị Khánh (Thị Nghè) có thể chưa sinh ra hay còn thơ ấu. Như vậy danh tính bà đặt cho con rạch hay chiếc cầu tính đến nay cũng đã non bốn thế kỷ, và vùng Thị Nghè trải qua bao lớp sóng phế hưng từ khi Sài Gòn còn là vùng trú đóng của vị Phó vương Cao Miên trước năm 1698 khi Nguyễn Hữu Cảnh kêu gọi dân vùng Ngũ Quảng tức Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên) Quảng Nam, Quảng Ngãi vào khai khẩn Miền Nam mà dân theo ông gọi chung một tên là “dân Hai Huyện” trực thuộc phủ Gia Định từ xưa (Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang Miền Nam, Nhà xuất bản Xuân Thu, không có năm in, trang 23).
Viết về tỉnh Gia Định, Trịnh Hoài Đức đã cho chúng ta một hình ảnh rất quen thuộc mà vùng đất Thị Nghè cũng có những nét điển hình: “Đất Gia Định nhiều sông kinh, cù lao, bãi cát, nên trong 10 người đã có 9 người biết nghề lội bơi, chèo thuyền, lại ưa ăn mắm, ngày ăn ba bữa cơm mà ít khi ăn cháo.” (trang 12) Và ở trang 15: “Ở Gia Định chỗ nào cũng có ghe thuyền, hoặc dùng thuyền làm nhà ở hoặc để đi chợ, hay để đi thăm người thân thích, hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi, mà ghe thuyền chật sông đêm ngày qua lại, sỏng xuồng liên tiếp cho nên nhiều khi đụng chạm nhau bị hư hại rồi sinh ra kiện cáo, hai bên đều đổ lỗi cho nhau, ai được ai mất, vẫn khó xử đoán cho đắc tình.” (Bản dịch của Tu Trai Nguyễn-Tạo, Nha Văn Hóa Phủ Quốc Vụ Khanh, Sài Gòn, 1972).
Sông Thị Nghè tuy trên thực tế chỉ là một con rạch nhưng có vị trí chiến lược thuận lợi cho sự di chuyển và huấn luyện, phòng thủ của hải quân cho nên chính chúa Nguyễn Ánh sử dụng làm vị trí để đóng binh qua đoạn sử sau đây của nhà sử học Tạ Chí Đại Trường: “Nguyễn Ánh đóng binh ở rạch Thị nghè trong khi Phạm văn Sâm dàn binh từ chợ Điều khiển đến chợ Khung dung chống cự. Ánh sai Võ Tánh đi vòng phía nam đồng Tập trận thẳng tới bến Nghé để chận đường lui quân. Hai bên giáp công, Sâm địch không nổi phải bỏ chạy. Quân Ánh ca khúc khải hoàn vào Sài gòn ngày Đinh dậu tháng 8 Mậu thân (7-9-1788.) (Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử Nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802, Nhà xb. Văn Sử Học, 1973, trang 194)
Một nhà văn Miền Nam, cụ Vương Hồng Sển cho biết: “Sông Thị Nghè giáp với rạch Bến Nghé. Chỗ giáp nước là một cái thoi loi gie ra ngoài sông, phong cảnh rất đẹp, gió mát từ Ô Cấp thổi vào tư mùa. Người Pháp dựng tại đây một cột cờ tên gọi “cờ Thủ Ngữ” (mât des signaux). Sau đây vì có quán rượu trứ danh chiêu mộ anh hùng mặc khách rất đông nên bợm rượu bèn đặt tên rất khôi hài là “Mũi đất bọn tán dóc” (Pointe des Blagueurs). (Truy ra dưới thời Nam triều, chỗ này gọi là “trạm Gia Tân”:
Gia Tân nền tạm thuở xưa,
Ngày nay có dựng cột cờ gần bên”.
(Vương Hồng Sển, Sài Gòn Năm Xưa, trang 102).
Nói chung Thị Nghè không chỉ là con rạch, con sông mà còn chỉ một vùng đất rộng nằm về phía đông của thành Sài Gòn cũng gọi là Quy Thành hay Bát Giác Thành do Olivier de Puymanuel theo lệnh của Nguyễn Ánh xây ngày 4 tháng 2 năm Canh tuất (1790) tại chỗ gò cao thôn Tân-khai thuộc huyện Bình Dương (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, bản dịch Tu-Trai Nguyễn Tạo, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa xuất bản, 1972, tập hạ, trang 74).
Vùng đất này là nơi định cư của người Việt, người Cao Miên, người Tàu trong nhiều thế kỷ trước đây thuộc nhiều tôn giáo trong đó có người giáo dân Công Giáo Việt Nam từ miền Trung tiến vào để tránh các cuộc bắt đạo của vua chúa Triều Nguyễn, tìm đất đai xây dựng lại sống gần bốn thế kỷ nay.
Xét theo quan điểm chiến lược ngày xưa, vị trí Sài Gòn có được thế hiểm yếu, kiên cố. Học giả Vương Hồng Sển trong Sài Gòn Năm Xưa, có viết: “Nhờ đó ở trên gò trên nổng, cao hơn mặt biển trên mười thước có hơn, Sài Gòn thêm có sẵn hai hào thiên nhiên che chở là sông Thị Nghè và sông Bến Nghé. Tuy vậy năm 1859, rạch Thị Nghè không đủ sức ngăn tàu sắt của Đề đốc Rigault de Genouilly và đã để cho tàu Pháp xáp cận thành…; nhưng bình nhựt nếu có phòng bị thả chông, nhận chìm xác ghe xác thuyền chở đá chẹn ở lòng sông cho thật nhiều, thì đủ ngăn sức giặc đường thủy một thời gian.” (trang 70).
Chỉ một danh xưng Thị Nghè hay Bình Trị mà cũng đã đủ sức lôi kéo nhiều sự kiện có liên quan đến sinh hoạt quân sự, chính trị, kinh tế trong bốn trăm năm về trước của cha ông chúng ta, thí dụ chúa Nguyễn Ánh đã cho lập cơ sở đào tạo thủy quân ở vàm sông Bình Trị tức rạch Thị Nghè, phía bắc Quy Thành, chuyên lo đóng tàu, trại xưởng kéo dài đến ba dặm. Rồi nữa đến các chiến lũy và đây là công trình của Nguyễn Cửu Đàm, anh của bà Thị Nghè. Cả bốn chiến lũy có tên lũy Trảo Trảo (xây năm 1790 ở huyện Bình An, lũy Sông Ký (tổng Long Thành, 1777), lũy Bình Lý (tổng Bình Dương, ) lũy Bán Bích do Điều Khiển Nguyễn Cửu Đàm cho xây. Lũy đắp từ chùa Cây Mai vòng qua đồng Tập Trận tới kênh Nhiêu Lộc, theo đường sông xuống rạch Thị Nghè và chấm dứt ở cầu Cao Miên (cầu Bông) (Lược Sử 300 Năm Sài Gòn, trang 30).
Kế hoạch thoát nước cho vùng cư dân mới sài Gòn cũng được viện dẫn đến con rạch và vùng đất mang tên Thị Nghè. Cũng tư liệu vừa dẫn ở trên cho biết: “Bấy giờ trong thành phố còn nhiều kinh rạch và ao tù, ảnh hưởng xấu tới môi trường. Do đó, năm 1867, Thiếu tá kỹ sư Bovet, với tư cách là hội viên hội đồng thành phố, đề xuất kế hoạch đào ba con đường thoát lưu để tống nước ra song. Đó là kinh Gallimard đào từ giữa thành phố, song song với đường Isabelle II (Lê Thánh Tông) để nước chảy ra rạch Thị Nghè, kinh Lớn (Grand Canal) nối sông Sài Gòn với kinh Gallimard, kinh Arroyo phía cuối đường Pellerin, nối một đầu với kinh Gallimard và đầu kia ra rạch Bến Nghé. Hai mươi năm sau, vì nhà cửa, dân số tăng nhanh, các con kinh này trở nên vô dụng, chẳng những không thoát được nước, mà còn làm mất vệ sinh, mùi hôi thối không chịu được vào mùa nắng khi triều xuống, chúng đều lần lượt bị lấp bằng và biến thành đường.” (Lược sử 300 Năm Sài Gòn, trang 90).
Nói chung vùng Thị Nghè là một chiến trường khốc liệt từng chứng kiến cuộc đọ sức của nhiều thế lực quân sự giữa người Việt với người Cao Miên, giữa Nguyễn Ánh với quân Tây Sơn, giữa quân Pháp xâm lược và người Việt Nam kiên cường bất khuất và nay nữa ít nhiều đang còn diễn ra trận chiến giữa công lý và cường quyền thể hiện qua việc giáo xứ Thị Nghè bị chiếm đoạt đất đai tài sản.
Thêm nữa, vùng đất lịch sử Thị Nghè thuộc tỉnh Gia Định lại cũng là nơi trú chân hoặc nương náu của các vị Thừa sai Công Giáo suốt hơn bốn trăm năm qua với những cơ sở tinh thần cũng như vật chất còn tồn tại cho đến ngày nay.
2.- Dấu tích đạo Công Giáo trên vùng đất Thị Nghè.
Một đại thần của Nguyễn Ánh, người Minh Hương, Trịnh Hoài Đức (1765-1825) đã ghi lại trong tác phẩm nổi tiếng của ông, cũng không quên tình cảnh người Công Giáo bị cấm đạo như sau: “Mùa thu năm Kỷ-mão (1699) tra bắt đạo Hòa-lang (tức đạo Thiên Chúa ở Tây-dương) phàm những người thuộc về dân nước ta thì bắt bỏ đạo trở lại như người thường, đốt những sách đạo và lấy những chỗ nhà tu đạo làm nhà thường dân ở, còn người Tây-dương thì đuổi về nước của họ. (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, tập trung, trang 12).
Theo cuốn Niên giám 2016 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, “Từ giữa thế kỷ XVII, đã có những giáo dân sống tại vùng đất Giáo phận Sài Gòn. Khi chúa Nguyễn cấm đạo, một số tín hữu di tản vào Nam để làm ăn sinh sống, họ hợp thành những cộng đoàn tín hữu đầu tiên, tập trung tại Chợ Quán, Gia Định, Lái Thiêu… Ngày 9/9/1659, ĐGH Alexandre VII thiết lập hai giáo phận Đàng Ngoài và Đàng Trong. Trải dài 185 năm trước ngày thành lập Giáo phận Tây Đàng Trong, giáo dân tại đây được sự hướng dẫn của 10 Giám mục Đại diện Tông tòa, cùng với 8 giám mục phó. Năm 1698, khi chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Sài Gòn, có thêm nhiều tín hữu di cư vào Nam. Năm 1722, thừa sai José Garcia dòng Phanxicô đã lập thêm nhiều họ đạo mới từ Sài Gòn đến Lái Thiêu, Mỹ Tho và Hà Tiên… Đức cha Guillaume Piguel nhiều lần lui tới các vùng Chợ Quán và Đồng Nai để ban bí tích Thêm Sức. Trên địa bàn sau này là Giáo phận Tây Đàng Trong, năm 1747, tổng số giáo dân mới khoảng 5.500 người. Đến cuối thế kỷ, số tín hữu đã là 87.297 sinh sống trong 1.024 giáo điểm. Những cơ sở tôn giáo được thiết lập thời Giáo phận Đàng Trong còn tồn tại đến nay là họ đạo Chợ Quán (1720), họ đạo Chí Hòa (1771), Thị Nghè (1790), dòng Mến Thánh Giá Cái Nhum (1800), dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm (1840) (Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Niên Giám 2016, Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2017, trang 818-819.)
Trong cuốn Lược Sử 300 Năm Sài Gòn Thành Phố Hồ Chí Minh (1698-1998) , Trung Tâm Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn TP HCM dựa theo sách Sài Gòn Năm Xưa của Vương Hồng Sển tham chiếu từ các tài liệu trong sách Indochine Moderne của hai ông Testeron và Percheron cho chúng ta những con số cụ thể như sau: “Số người theo đạo Thiên Chúa tại Sài Gòn và vùng phụ cận gồm xóm Thị Nghè, xóm Chợ Quán, và Xóm Chiếu, tính vào ngày Sài Gòn bị binh Pháp chiếm (11-2-1859) có 27.000 tín đồ. Lúc đó chưa có giáo khu Sài Gòn biệt lập. Trong số 27.000 tín đồ này có 5.000 tín đồ từ Đà Nẵng theo tàu chiến của Pháp đổ bộ lên vùng Khánh Hội và lập thành làng Tam Hội thuộc họ Xóm Chiếu.”
Có một vài điểm cần nói rõ do đoạn văn ở trên gợi ý. Về thời điểm binh lính Pháp dưới quyền điều động của Đề đốc Rigault de Genouilly tấn công thành Sài Gòn là ngày 16 và 17 tháng 2 năm 1859 chứ không phải 11-2-1859.
Về việc “5.000 tín đồ từ Đà Nẵng theo tàu chiến Pháp đổ bộ lên vùng Khánh Hội và lập thành làng Tam Hội thuộc họ Xóm Chiếu” dính líu tới công cuộc Nam tiến nói chung mà có sử liệu cho rằng đó là do Đức Giám Mục Lefèbvre tên Việt là Ngãi, Giám Mục Giáo Phận Tây Đàng Trong thực hiện.
Viết về một số các gia đình trong cuộc Nam tiến, Tiến Sĩ Li Tana có những lưu ý khá đặc biệt như sau:
“Không có mấy gia đình đã thẳng từ phía bắc đi sâu xuống phía nam. Trường hợp điển hình của cuộc di dân có lẽ là gia đình của Đoàn Hữu Trưng (người cầm đầu cuộc nổi dậy năm 1866) thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Theo gia phả của dòng họ này thì tổ tiên của họ hồi đầu vào thời nhà Lê đã từ Thanh Hóa hay Nghệ An đi xuống phía nam. Thoạt tiên, họ tới Quảng Bình và thành lập một làng có tên là Chuồn và dừng lại ở đây một “thời gian dài”. Đoạn họ đi tiếp xuống phía nam tới Thừa Thiên. Ngôi làng họ lập nên ở đây có tên là Chuồn Ngọn và làng Chuồn ở Quảng Bình được đặt tên lại là Chuồn gốc. (Danh nhân Bình trị Thiên, quyển 1, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1986, trg. 128-129). (Li Tana, The Inner Region: A Social and Economic History of Nguyen Vietnam in seventeeth and eighteenth centuries, bản dịch của Nguyễn Nghị có tựa đề Xứ Đàng Trong, Lịch sử Kinh tế - Xã hội Việt Nam Thế kỷ 17 và 18, Nxb. Trẻ, 1999, trang 33).
Có nhiều lý do khiến dân chúng Việt Nam thuộc đủ mọi thành phần có mặt trong các cuộc Nam tiến như Li Tana phân tích dưới đây:
“Miền nam luôn là mảnh đất của những giấc mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn, là một ngõ thoát đối với người Việt thời bấy giờ. Qua việc so sánh Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên và Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện Sơ Tập, chúng ta có thể thấy rằng các thành phần nòng cốt của chính quyền chúa Nguyễn phần lớn xuất thân từ Thanh Hóa, trái lại, các thành phần nòng cốt của chính quyền Gia Long lại là những người thuộc các gia đình đi từ miền Trung xuống phía nam. Ngay cả hoàng tộc Lê, một gia đình có lẽ không đuổi theo giấc mộng nói trên, cũng đã tham dự vào cuộc Nam tiến này mà không hay. Vào năm 1833, sau cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương, Minh Mạng truyền đưa họ từ Thanh Hóa tới Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định, tới sống tại một nơi lưu đày hiu quạnh, ở đó họ còn bị cấm không được liên lạc với nhau. Nhà ngữ học Việt Nam Lê Ngọc Trụ, chẳng hạn, thuộc dòng họ đã bị chỉ định nơi cư trú này.” (Li Tana, Sách đã dẫn, trang 34).
Một nhà Việt Nam học nổi tiếng, Linh Mục Léopold-Michel Cadière (1869-1955) giáo dân Việt Nam thường gọi là Cố Cả, đã viết về người dân Quảng Bình mà tổ tiên họ vốn là những người nghe lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Cảnh trong cuộc Nam tiến năm 1698, như sau: “Tôi ở Quảng Bình hơn bảy năm, đã đi khắp tỉnh này nhiều lần từ nam chí bắc, tôi đã nghiên cứu lịch sử nơi này. Tôi thương mến người dân nơi đây vốn có những phong tục phần nào thô phác như tiếng nói của họ. Chắc chắn mọi người sẽ tha thứ cho tôi khi tôi đã chỉ ra các vùng đất rất ích lợi cho tôi về phương diện sử học.” (Les lieux historiques du Quang-Binh, BEFEO, No 3, 1903, trang 204-205).
Về cá tính của những người dân Ngũ Quảng đã có mặt khắp nơi trong miền Lục Tỉnh (dĩ nhiên kể cả vùng đất Thị Nghè mà con cháu của họ hiện đang có mặt nơi đây), sử gia Trần Văn Giàu đã viết những dòng lột tả được bản sắc của họ như sau: “Quá nhiều rừng rú bưng biền, đường bộ ít, sông ngòi chằng chịt, người bất tuân luật pháp triều đình dễ đi lại ẩn náu ngay sát nách thành Gia Định, đừng nói đâu xa. Vả chăng, ông bà người dân lục tỉnh đã vào sinh sống ở đây, “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” trước khi chúa Nguyễn đưa quan quân vào đặt bộ máy cai trị, còn cha anh họ thì đã từng ủng hộ vua Tây Sơn Nguyễn Huệ bốn lần vào Nam đánh chúa Nguyễn đến không còn manh giáp. Họ tiếp nối tinh thần của cha ông thì có lạ gì? Làng ấp của họ không tập trung như ở Trung, Bắc mà rải dài theo sông rạch, mỗi nhà là một vuông tre, sự ràng buộc giữa dân với quan, cả giữa dân với dân, cũng đều không chặt chẽ. Họ nguyên là con em hoặc chính họ là dân “tứ chiếng” từ những tỉnh, phủ, xã khác nhau, chủ yếu từ những vùng đã nổi tiếng hay cãi, hay co, vũ dũng có thừa, mạnh ai nấy vượt biển băng ngàn đến tập họp trên đồng bằng cực kỳ trù phú này, đem theo mình nhiều chất phiêu lưu mạo hiểm tự do mà ít chất thuần phục quyền uy phong kiến, càng ít sự ràng buộc lễ giáo đạo đức Khổng Mạnh; nhưng giữa họ với nhau, tình huynh đệ giang hồ nghĩa hiệp là một thực tế lắm khi cao cả, chớ có khinh thường. Người dân đồng bằng sông Cửu Long - Đồng Nai vốn chân thật, trung tín, cởi mở, bộc trực, tình cảm (lắm khi có tính chất nguyên thủy), xử sự với người ngay một cách không suy tính thiệt hơn. Họ cũng đòi hỏi kẻ khác phải như vậy đối với họ.” (Trần văn Giàu, Xưa & Nay, 10/97, Nam Bộ Xưa & Nay, Nhà xb TP. Hồ Chí Minh - Tạp chí Xưa & Nay, trang 160).
Câu nói được sử gia Trần Văn Giàu nhắc đến trong bài viết của ông nói lên cách thức người dân Nam Bộ làm ăn trên vùng đất mới đó là: “Nhất canh trì, nhì canh viên, tam canh điền” chẳng những tổng kết sự làm ăn, mà còn chỉ lối thoát cho nông dân: không ruộng thì làm vườn, thiếu vườn thì đào đìa nuôi cá; làm vườn hơn làm ruộng, đào đìa nuôi cá hơn làm vườn, bề nào cũng có cách sống được. Những người tự mình đem cha mẹ vợ con vào sinh cơ lập nghiệp thì trở thành trung nông với năm mười mẫu, ba bảy con trâu là thường sự.” (Tài liệu đã dẫn, trang 160).
Trong tác phẩm Giám Mục Người Nước Ngoài Qua Chặng Đường 1659-1975 Với Các Giáo Phận Việt Nam, của Lê Ngọc Bích (chủ biên), Lê Đình Bảng và Lê Thiện Sĩ, người ta đọc thấy những dòng viết về các vị Thừa sai ngoại quốc như sau: “Mỗi khi đi qua các vùng, miền đạo, bước chân ta chạm vào từng di sản như còn ấm hơi thở, máu thịt của các ngài. Công trình gieo vãi hạt giống Tin Mừng vẫn không ngừng đơm hoa kết trái: trong nề nếp nghi thức, lễ lạy, kinh nguyện của phụng tự; trong hồn xác của lời lẽ có dung chứa gợi mở của ngôn ngữ văn tự; trong quy hoạch, bài trí của kiến trúc, sinh hoạt; trong hiện vật, chuyện kể, trong nghề nghiệp, thời vụ mùa màng; và cả trong vòng đời sinh ký tử quy “Hic jacet. R.I.P”; từ Kẻ Chợ (Thăng Long), Kẻ Sặt, Châu Lào, Trà Lũ, Kiên Lao, Kẻ Nê, Cửa Bạng, Thần Phù, Kẻ Vân, Cửa Nam, Xứ Xoài, Xã Đoài (Đàng Ngoài) đến Phú Xuân, Phường Đúc, Dương Sơn, Gò Thị, Phú Yên, Trạm Gò, Đồng Dài, Hải Phố, Phan Rí, La Gi, Gia Định, Cần Giờ, Tân Triều, Cái Mơn, Cái Nhum, Ba Giồng, Lái Thiêu, Di Linh, Đầu Nước, Hà Tiên (Đàng Trong)…
Ơi, miền đất mở trong vùng tâm bão
Di sản đức tin – văn hóa – con người
Mỗi bậc tầng đều ngồn ngộn sinh sôi
Mỗi bước chân như chạm vào tâm thức.
Thì ra, các ngài đã lìa bỏ tất cả những gì ràng buộc thân yêu nhất của mình – quê hương, gia đình, phong tục, văn hóa, ngôn ngữ - để học ăn, học nói, học gói, học mở, để đồng sinh đồng tử với người tín hữu Việt Nam.” (Nhà xb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2009, trang 22).
Vùng đất Thị Nghè là nơi bước chân các vị Thừa sai như Giám Mục Bá Đa Lộc (Pigneaux de Béhaine), Giám Mục Lefèbvre, Giám Mục Taberd, Giám Mục Cassaigne… và biết bao vị Thừa sai khác đã đặt chân tới, đã sống và đã chết tại đây. Các ngài đã để lại biết bao công trình về tôn giáo, xã hội, văn hóa, lịch sử, hy sinh cho người giáo dân Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.
Đạo Công Giáo được phát triển bành trướng ở đâu thì cơ sở thánh đường, trường học, nhà thương, nhà dưỡng lão, nhà dục anh được xây dựng nơi đó. Tác giả Nguyên Hương Nguyễn Cúc cho biết: “Bên kia rạch Thị Nghè, gần nhà Dưỡng Lão ngày trước có nghĩa địa thuộc họ đạo Thị Nghè, gọi là Đất Thánh. Đất ‘thánh vì đây là nghĩa địa của người Công Giáo. Gia Định có đất thánh “ta”, Sài gòn có đất thánh Tây (nghĩa địa đô thành sau này) tĩnh từ “Tây” do dân chúng đặt thêm. Sàigòn thuộc địa Tây Ta phân biệt rõ ràng!” (Nguyên Hương Nguyễn Cúc, Saigon 300 Năm Cũ, Tiếng Sông Hương xb., 1999, trang 210).
“Vì sự vinh quang cao cả của Thiên Chúa” (Ad majorem gloriam Dei), đó là câu trích trong linh đạo của đấng sáng lập Dòng Tên, Thánh I-nha-xi-ô Loyola cũng đã được nhiều vị Thừa sai áp dụng cho đường lối làm việc của mình. Sau đây xin đọc tiếp những lời tường thuật về một tấm gương thừa sai sáng chói tinh thần hy sinh cao cả của một vị Giám Mục thuộc giáo phận Tây Đàng Trong ở đó có giáo xứ Thị Nghè vốn là một trong những địa điểm thường trú của ngài:
“Một tội nhân mang án tử hình của triều đình Huế, một giáo sĩ trọn đời với lý tưởng rao giảng tin lành đến mọi người, mọi dân tộc: Giám mục Dominique Lefèbvre.
Bị biệt giam tại lao Trấn phủ Huế chờ ngày lãnh án tử hình may nhờ đô đốc Cécille, chỉ huy hạm đội Pháp tại Biển Trung Hoa, kịp thời can thiệp. Mùa hè năm 1845 giám mục Lefèbvre được vua Thiệu Trị trả tự do, cho người dẫn độ về Tân Gia Ba.
Gần một năm sau, ngày 23-5-1846 cũng lại vị giáo sĩ ấy từ Tân Gia Ba bằng ghe buồm mong manh vượt biển trở lại Nam Kỳ. Vừa cặp bến Cần Giờ liền bị bắt giải ra Huế, lại bị kết án tử hình. May mắn hơn, lần này được lệnh ân xá và áp tải trở về Tân Gia Ba tháng 2 năm 1847; lại trở qua Gia Định lần nữa, vào giữa năm 1847. Định mệnh an bài linh mục D. Lefèbvre với giáo hữu Sài gòn. Trong cơn bắt đạo nguy khốn nhất vào thời điểm khó khăn nhất của giáo hội Đàng Trong, người tử tù trước đây là Dominique Lefèbvre theo lệnh bề trên nhận lãnh trách nhiệm giám mục đại diện Tông Tòa địa phận Sài gòn (1852-1865) vừa tách khỏi địa phận Nam Đàng Trong.
Gọi địa phận cho đầy đủ nghi thức trang trọng một tổ chức trần thế như chúng ta quan niệm ngày nay, thực ra một cộng đồng giáo hữu mấy ngàn người phiêu bạt đó đây vì lệnh cấm đạo khắc nghiệt kéo dài triền miên. Khi trốn tránh ngược xuôi Khánh Hội, Thủ Thiêm, Thị Nghè, Chợ Quán, khi bồng bềnh bèo trôi nước lũ hết Thủ Thiêm đến Xóm Củi, Tân Triều qua Đất Đỏ… Không có thánh đường, nhà nguyện, nhà cha sở; 19 linh mục trong đó có ba linh mục thừa sai Pháp ẩn náu khắp nơi, hoàn cảnh sống chết còn bấp bênh nguy hiểm hơn giáo hữu nhiều bề. Tòa Giám Mục lưu động là một chiếc ghe nhỏ do một người giáo dân lèo lái cũng nổi trôi phiêu dạt nay đây mai đó. Thầy trò ẩn hiện ngày đêm bất thường tùy theo cường độ tăng giảm việc bắt đạo tại các địa phương.
Tình hình tạm lắng dịu năm 1861-1862, đoàn chiên lạc lõng tan tác khắp nơi nay gọi nhau về Khánh Hội – Tân Thuận. Không bao lâu sau, một số đông quay về Chợ Sỏi, vùng định cư mới do nhà nước tân trào chỉ định. Dưới bóng cây thánh giá che chở an lành, gia đình thôn xóm đoàn tụ với tiếng cầu kinh, tiếng chuông thánh đường sớm hôm vọng lại. Các họ đạo Thị Nghè, Chợ Quán, Cầu Kho, Xóm Chiếu rồi Tân Định, Chợ Đũi, Chợ Đệm, Cầu Ngang lần hồi mở mang thân hòa hội ngộ.” (Nguyên Hương Nguyễn Cúc, Sđd, trang 358).
Đức Cha Lefèbvre bắt kịp thời cơ khi việc cấm đạo lắng dịu lại đôi chút. Cuối năm 186o ngài cho đạt Tòa Giám mục tại ngôi nhà Tân Xá gần rạch Thị Nghè (trong Thảo Cầm viên ngày nay), lập chủng viện Thị Nghè năm 1861 sau chuyển qua Xóm Chiếu, xây cất nhà thờ Sài Gòn bằng gỗ, xây cất cơ sở nhà dòng Thánh Phaolồ, lập cô nhi viện Sainte Enfance ở Mỹ Tho, lập dòng kín Cát Minh tại Sài Gòn ngày 8-10-1861. Tâm hồn Ngài rất mực công chính, ghét những cảnh đồi bại do các đồng hương Pháp trong quân đội viễn chinh đồn trú ở Sài Gòn gây nên. Nhìn những cảnh sống xấu xa, sa đọa trong một vài giáo xứ, thí dụ Xóm Chiếu, Đức Cha than thở: “Roi đòn gươm giáo có thể nghiền nát thân thể nhưng làm cho tâm hồn mạnh mẽ và trong sạch, thời kỳ ấy đã nung đúc các thiếu nữ Việt Nam trở nên anh hùng tử đạo chứ đâu làm cho họ trở thành những gái điếm như lúc họ núp dưới bóng cờ tam tài của quân đội Pháp” . (Lê Ngọc Bích, Lê Đình Bảng, Lê Thiện Sĩ, Sách đã dẫn, trang 119).
Một trong những văn sĩ Công Giáo nổi tiếng, Tertullien (155-222) gốc người Phi châu, trong tác phẩm lừng danh “Hộ Giáo” (Apologeticus) “đã tố cáo thái độ bất công của nhiều chính quyền đối với đạo Công Giáo đã giải thích và bảo vệ các giáo lý và tập tục của người Công Giáo…Nhà văn này từng nói rằng ‘chúng tôi càng được nhân lên gấp bội mỗi lần một người trong chúng tôi bị đốn ngã. Máu của người Công Giáo là hạt giống luôn nẩy sinh người có đạo’ [semen est sanguis christianorum]” (Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, Great Christian Thinkers from the early Church through the Middle Ages, Fortress Press, Minneapolis, 2011, trang 26).
Dưới ngòi bút của một sử gia Công Giáo hiện còn sống ở Sài Gòn, Linh mục Vinhsơn Bùi Đức Sinh O.P., M.A., cuộc đời của một vị thánh tử đạo thuộc giáo xứ Thị Nghè, Thánh Phaolô Lê Văn Lộc (1830-1859) Linh mục, được ghi lại như sau:
“Khi Pháp quân tiến đánh đất Sài Gòn, các quan lùng bắt các linh mục và giáo dân, tập trung tất cả trong thành. Số tập trung có linh mục trẻ tuổi tên Phaolô Lộc, người bị bắt ở Thị Nghè ngày 13.12.1858. Lê Văn Lộc sinh năm 1830 tại làng An Nhơn, tỉnh Gia Định, trong một gia đình đạo đức. Mồ côi cha mẹ từ năm 10 tuổi, cậu Lộc được cha sở nhận nuôi và cho theo học chủng viện Cái Nhum 2 năm. Năm 1843, Đức cha Lefèbvre Ngãi gởi cậu sang Pénang học thần học. Cậu được các giáo sư viết thư về Đức Giám Mục địa phận, khen là “người có tương lai đầy hứa hẹn”.
Trở về nước, thày Phaolô tận tụy giảng dạy giáo lý và phụ trách việc huấn luyện các chủng sinh. Ngày 7.2.1857, thày được Đức cha Ngãi truyền chức linh mục và bổ nhiệm làm giám đốc Tiểu chủng viện Thánh Giuse Thị Nghè. Ngoài việc chăm sóc, giảng dạy các chủng sinh, cha Lộc vẫn cố gắng thu xếp những giờ làm công tác mục vụ, bác ái. Trong tình thế khó khăn thời vua Tự Đức, nhiều quan chức ác cảm với đạo Chúa, cha Lộc vẫn hăng say làm việc, duy trì chủng viện. Những cuộc binh biến ở Cửa Hàn hồi giữa năm 1858, khiến cuộc bách hại lên cơn sốt, chủng viện Thị Nghè phải giải tán, cha con ngậm ngùi chia tay. Tuy nhiên, cha Lộc vẫn cố nán lại Sài Gòn nay đây mai đó, sống giữa các chủng sinh tản mác bơ vơ. Cuối năm 1858, cha Lộc đến tạm trú ở nhà một cựu chủng sinh (thày giáo Ngôn). Dẫu khó khăn nguy hiểm, cha tìm cách tiếp tế cho các chủng sinh bị lưu lạc. Việc đó đưa cha vào vòng lao lý: một phụ nữ ngoại giáo nhận diện cha, đi trình báo quan. Lính liền đến bao vây, lục xét và bắt được cha. Khi bị bắt, cha Lộc khéo léo đối đáp, nên các quan đối xử với cha cách tử tế, còn có ý định tha nếu cha chối đạo. Trước ngày Pháp quân chiếm Sài Gòn (18.2.1859), các quan cấp tốc tâu vua xin trảm quyết đạo trưởng Lê Văn Lộc. Ngày 13.2.1859, cha Phaolô Lê Văn Lộc bị điệu đến Tràng Thi (góc đường Hai Bà Trưng - Hồng Thập Tự sau này), và bị hành quyết tại đó. Phải chờ đến đêm, giáo hữu mới lén lút đưa thi hài vị tử đạo (còn bị trói ở cột) về mai táng ở Chợ Quán, sau được cải lên đưa về nữ tu viện dòng Thánh Phaolô Sài Gòn. Hiện nay hài cốt đấng tử đạo được tôn kính trong vương cung thánh đường Sài Gòn.” (Bùi Đức Sinh, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong Lịch sử Giáo Hội Công Giáo, San Jose, California, USA, 2010, trang 266-268).
Lời kết
Trong sách I Vua của bộ Cựu Ước được kể như là một cuốn sách lịch sử có thuật lại câu chuyện “Vườn nho của ông Na-vốt”. Ông Na-vốt có một vườn nho ở cạnh vườn rau của vua A-kháp. Vua này nằng nặc đòi ông Na-Vốt nhượng lại vườn nho cho mình nhưng Na-vốt không chịu, ông trả lời vua: “Xin ĐỨC CHÚA đừng để tôi nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho ngài.” Hoàng hậu I-de-ven, vợ vua A-kháp lập mưu chiếm cho được vườn nho bằng cách sai hai tên vô lại vu cáo Na-vốt tội nguyền rủa ĐỨC CHÚA và đức vua. Na-Vốt bị ném đá chết và vườn nho thuộc về nhà vua. ĐỨC CHÚA gửi ngôn sứ Ê-li-a đến gặp vua A-kháp và lên án: “Tại chính nơi chó đã liếm máu Na-vốt, thì chó cũng sẽ liếm máu ngươi.” ĐỨC CHÚA cũng tuyên án phạt I-de-ven rằng: “Chó sẽ ăn thịt I-de-ven trong cánh đồng Gít-rơ-en. Kẻ nào thuộc về A-kháp mà chết trong thành thì sẽ bị chó ăn thịt, người chết ngoài đồng sẽ bị chim trời rỉa thây.” Sách I Vua sau đó kể tiếp khi A-kháp chết “Họ đưa vua về Sa-ma-ri và chôn cất vua tại đó. Người ta xối nước rửa xe, cạnh hồ nước ở Sa-ma-ri; chó liếm máu vua và gái điếm tắm rửa và gái điếm tắm trong hồ ấy, đúng như lời ĐỨC CHÚA đã phán.” (Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước Và Tân Ước, Nhà xb. TP. HCM, 1999, trang 398-401). Cái chết của Hoàng hậu I-de-ven còn rùng rợn vì bà bị quăng từ trên lầu xuống đất, được đem chôn nhưng chỉ tìm thấy cái sọ, hai chân và hai bàn tay của bà. Họ về báo tin cho ông Giê-hu. Ông nói: “Đây là lời ĐỨC CHÚA đã dùng tôi trung Người là ông Ê-li-a, người Tít-be, mà phán: “Trong thửa đất Gít-rơ-en, chó sẽ ăn thịt I-de-ven. Xác I-de-ven sẽ ra như phân trên mặt đồng ruộng, trong thửa đất Gít-rơ-en, khiến người ta không thể nói được: Đó là I-de-ven!” ( Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Sách đã dẫn, trang 414).
Đối với việc Giáo xứ Thị Nghè bị cướp đất qua vụ hai cơ sở Trường Phước An, cũng như vườn nho Na-vốt là của tổ tiên ông nên ông không được nhượng lại cho nhà vua, nên nhà vua phải dùng bạo lực và quyền hạn mà cướp cho được. Kết quả là cái chết nhãn tiền của A-kháp và I-de-ven, vợ ông. Đất đai của Trường Phước An cũng là của tổ tiên những giáo dân Giáo xứ Thị Nghè đã đổ xương máu, mồ hôi nước mắt trong gần bốn trăm năm mới có, đó là sở hữu của Nhà Chung, thử hỏi ai mà có quyền nhượng lại? Những kẻ đang manh tâm muốn dùng bạo lực để cướp đất đai Giáo xứ Thị Nghè cùng các nơi khác, hãy học lấy bài học đó.
Nguyễn Đức Cung
Philadelphia August 18-2020
Ngày 12 tháng Tám năm 2020, Nhóm PV Vietcatholic đã cho công bố trên cơ quan trang mạng này bài viết có tên “SOS Giáo Xứ Thị Nghè (Sài Gòn) kêu cứu về tài sản bị chiếm đoạt” với những chứng minh cụ thể về tư liệu, luận chứng và nhiều chữ ký của các Linh mục, các Giáo hạt, Hội đồng mục Vụ, và hàng ngũ giáo dân tố giác việc nhà cầm quyền Cộng Sản đã ngụy tạo văn bản nhằm cướp đoạt hai cơ sở trường Phước An vốn là tài sản của người giáo dân trong hai trăm năm qua. Trong Thư ngỏ của Văn phòng Giáo xứ Thị Nghè, Giáo xứ đã vạch rõ rằng “Với văn bản ngụy tạo, vô giá trị về mặt pháp lý này, chính quyền đang sử dụng để tuyên truyền nhằm đánh lừa, làm cho dư luận hiểu sai sự thật, theo hướng có lợi cho hành động chiếm đoạt sai trái đất trường Phước An của Giáo xứ.” (Trích Thư Ngỏ của Văn Phòng Giáo xứ Thị Nghè).
Trong hai năm gần đây đã xẩy ra một số sự việc liên quan đến nạn cướp đất tại Sài Gòn nơi mà đất đai đã trở thành “tuyệt đại vô giá” mà giới quan phương CS nghĩ rằng phải chăng đây là buổi chợ chiều của chế độ nên ra tay càng nhanh, lợi nhuận càng vững chắc nên đã diễn ra các việc như cướp đất dân oan ở Thủ Thiêm vốn chưa được giải quyết ổn thỏa (giới quan phương theo chiến thuật “mềm nắn rắn buông” đối với Dòng Mến Thánh Giá ở đây với 145 năm lịch sử), vườn rau Lộc Hưng của đồng bào giáo dân Miền Bắc di cư năm 1954, và nay họ lại lần phăng tới những nơi có thể kiếm ăn được đó là các cơ sở dòng tu, trường học, bệnh xá… của Công Giáo bị ép cho CS mượn sau ngày 30-4-1975, chẳng hạn vụ chiếm đất Dòng Thiên An Huế đang sôi động trở lại. Đây cũng là lúc để giới quan phương nhiều nơi “test” xem thử cái lò của TBT Nguyễn Phú Trọng nóng lên ở mức độ nào khi đảng CS đang có những nỗ lực nhằm chuẩn bị cho Đại hội XIII sắp tới và cùng lúc lại xảy ra vụ việc Nguyễn Đức Chung, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội bị đình chỉ công tác tạm thời trong thời gian 90 ngày. Nhân dân VN đang chờ xem cái gì xảy ra thì việc Giáo xứ Thị Nghè bị chiếm đất xuất hiện…
1.- Thị Nghè trong chiều dài lịch sử…
Theo nguyên tắc lập cư, nghĩa là chọn chỗ ở của tiền nhân, Việt Nam có câu “ Nhất cận thị, nhị cận giang, ” có nghĩa là: Thứ nhất gần chợ, thứ hai gần sông. Gần chợ thì mua sắm, may mặc, ăn uống dễ dàng; gần sông thì đi lại nhanh chóng, vận chuẩn thuận tiện bao gồm các mục tiêu có tính cách kinh tế. Quan điểm sinh hoạt ấy cũng có lẽ nghiệm đúng khi nhìn vào các đợt Nam tiến của nước ta trước đây dưới thời các chúa Nguyễn. Tuy nhiên cũng nên thêm vào đây yếu tố quân sự, vì đôi khi tiền nhân chúng ta cũng lợi dụng vị trí của sông ngòi, kênh rạch làm yếu tố che chắn để phòng ngự đối phương hay giặc cướp hoặc ứng dụng vào kỹ thuật tác chiến.
Trên bước đường Nam tiến, tổ tiên chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề định canh, định cư đem từ miền Bắc và miền Trung vào kể từ đầu thế kỷ XI với Lý Thường Kiệt (1075), với Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558), nhất là với Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh cuối thế kỷ XVII và đám quan binh theo ông trong nhiều giai đoạn lịch sử hoành tráng mở rộng cương vực đất nước tại miền Nam rộng rãi bao la nhiều sông rạch, đầm lầy chằng chịt mà chỉ có những con người can đảm, trì chí, mưu lược mới có thể thực hiện nổi.
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai vào Gia Định Đồng Nai thì vào.
(Nguyễn Đức Cung, Quảng Bình chín trăm năm nhìn lại 1075-1975, Nhà xb. Nhật Lệ, 2006, trang 400).
Danh xưng “Thị Nghè” vốn được dùng để chỉ một con rạch gọi là “Rạch Bà Nghè”, một chiếc cầu, một con sông hay một vùng đất và tên chữ Hán là Bình Trị Giang căn cứ theo tài liệu của Trương Vĩnh Ký hay Petrus Ký (1837-1898) một nhà bác học Công Giáo (Nguyễn Đình Đầu, Petrus Ký nỗi oan thế kỷ, Nhã Nam & Nhà xuất bản Tri Thức, 2016, tr. 75). Trong tư liệu này, Trương Vĩnh Ký còn cho biết chi tiết thêm: “Trên rạch Tắt Cầu Sơn có hai chiếc cầu bắc qua, cầu thứ nhất là cầu Sơn và cầu thứ hai là cầu Lầu (cầu này cao và có mái che). Còn tên Thị Nghè hay Bà Nghè đặt cho cầu thứ nhất và con rạch Thị Nghè, thì nguyên nhân như sau: Con gái Vân Trường Hầu (Nguyễn Cửu Vân) có chồng làm lại mục trong chính quyền tỉnh thành với tước vị ông Nghè (tú tài hay cử nhân, muốn cho chồng qua rạch đi làm mỗi ngày được dễ dàng, đã cho kiến tạo một chiếc cầu mệnh danh tên bà, hay đúng hơn, tước vị bà, tức Thị Nghè hay Bà Nghè (bà tú). Con rạch cũng mang tên đó.” (trang 182). Một tài liệu khác cho biết Bà Nghè này có tên là Nguyễn Thị Khánh (Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn TP. HCM, Lược Sử 300 Năm Sài Gòn (1698-1998) , Nhà xb. Trẻ, 1999, tr. 36).
Lại mục là gì? “Gọi chung giới thư ký tại các cơ quan. Các thư lại, thông lại, đề lại, là những người giúp việc cho các quan tại các bộ, nha, phủ, huyện đều gọi chung là lại mục. - Phủ lại mục: Thư ký tại các phủ, trật chánh cửu phẩm (9/1). - Huyện lại mục: Thư ký tại các huyện, trật tòng cửu phẩm (9/2)” (Võ Hương-An, Từ Điển Nhà Nguyễn, Nam Việt xuất bản, 2012, tr. 324). Trần Thanh Tâm trong Quan Chức Nhà Nguyễn cho biết thêm “Viên chức này có hàm Chánh cửu phẩm Văn ban. Sau này, ở huyện nhỏ, được coi như Phó huyện. Trước ở huyện có chức Đề Lại, đến năm Minh Mệnh thứ 5, đổi Đề Lại làm Lại Mục.” (Nhà xb. Thuận Hóa, 2000, tr. 184).
Lần theo gia phả của Nguyễn Cửu Vân, bố của bà Thị Nghè, Đại Nam Nhất Thống Chí do Quốc Sử Quán Nhà Nguyễn biên soạn có ghi về vị danh tướng này như sau: “Con của Nguyễn Cửu Dực làm đến cai cơ, năm Ất Dậu đời Hiển Tông, Chân Lập có nổi loạn, Vân đem quân dẹp yên được, đóng quân ở Vũng Cù, khai khẩn ruộng đất làm gương cho quân và dân, năm Tân Mão, thăng phó dinh Trấn Biên. Khi Vân ở biên thùy, người Chân Lạp theo phục, rất có công trong việc mở mang miền Nam. Con cả của Vân là Triêm, làm phó tướng, nối cha làm lưu thủ Trấn Biên, người Chân Lạp xâm nhiễu biên giới. Triêm làm giám quân dẹp yên…” (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1997, tr. 218). Qua đó chúng ta biết bà Thị Nghè là em của tướng Nguyễn Cửu Triêm mà có tư liệu cho biết người Lào sợ Nguyễn Cửu Triêm như cọp.
Dòng họ Nguyễn Cửu Vân vốn xuất phát từ Nguyễn Cửu Kiều gốc huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, bất phục họ Trịnh nên bỏ trốn vào miền Nam năm 1623, theo giúp chúa Nguyễn định cư ở Thuận Hóa, được vua nhà Nguyễn ban cho 4 chữ Nhất Gia Trung Nghĩa. Sử liệu không nêu rõ bà Nguyễn Thị Khánh thứ bậc như thế nào trong dòng họ vì ngày xưa theo chế độ “trọng nam khinh nữ” nên chỉ ghi “Bà Nghè” hay “Thị Nghè” mà thôi. Nói chung dòng họ Nguyễn Cửu Văn có rất nhiều công trạng trong việc mở mang Miền Nam, xây dựng đất nước. Con rạch Thị Nghè theo sử liệu Tây phương còn có tên là Arroyo de l’Avalenche là tên của chiến hạm Avalenche trong cuộc tấn công thành Sài Gòn ngày 16-2-1859.
Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân nhận lệnh chúa Nguyễn đem quân lên Nam Vang đánh quân Xiêm thì con của ông là bà Nguyễn Thị Khánh (Thị Nghè) có thể chưa sinh ra hay còn thơ ấu. Như vậy danh tính bà đặt cho con rạch hay chiếc cầu tính đến nay cũng đã non bốn thế kỷ, và vùng Thị Nghè trải qua bao lớp sóng phế hưng từ khi Sài Gòn còn là vùng trú đóng của vị Phó vương Cao Miên trước năm 1698 khi Nguyễn Hữu Cảnh kêu gọi dân vùng Ngũ Quảng tức Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên) Quảng Nam, Quảng Ngãi vào khai khẩn Miền Nam mà dân theo ông gọi chung một tên là “dân Hai Huyện” trực thuộc phủ Gia Định từ xưa (Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang Miền Nam, Nhà xuất bản Xuân Thu, không có năm in, trang 23).
Viết về tỉnh Gia Định, Trịnh Hoài Đức đã cho chúng ta một hình ảnh rất quen thuộc mà vùng đất Thị Nghè cũng có những nét điển hình: “Đất Gia Định nhiều sông kinh, cù lao, bãi cát, nên trong 10 người đã có 9 người biết nghề lội bơi, chèo thuyền, lại ưa ăn mắm, ngày ăn ba bữa cơm mà ít khi ăn cháo.” (trang 12) Và ở trang 15: “Ở Gia Định chỗ nào cũng có ghe thuyền, hoặc dùng thuyền làm nhà ở hoặc để đi chợ, hay để đi thăm người thân thích, hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi, mà ghe thuyền chật sông đêm ngày qua lại, sỏng xuồng liên tiếp cho nên nhiều khi đụng chạm nhau bị hư hại rồi sinh ra kiện cáo, hai bên đều đổ lỗi cho nhau, ai được ai mất, vẫn khó xử đoán cho đắc tình.” (Bản dịch của Tu Trai Nguyễn-Tạo, Nha Văn Hóa Phủ Quốc Vụ Khanh, Sài Gòn, 1972).
Sông Thị Nghè tuy trên thực tế chỉ là một con rạch nhưng có vị trí chiến lược thuận lợi cho sự di chuyển và huấn luyện, phòng thủ của hải quân cho nên chính chúa Nguyễn Ánh sử dụng làm vị trí để đóng binh qua đoạn sử sau đây của nhà sử học Tạ Chí Đại Trường: “Nguyễn Ánh đóng binh ở rạch Thị nghè trong khi Phạm văn Sâm dàn binh từ chợ Điều khiển đến chợ Khung dung chống cự. Ánh sai Võ Tánh đi vòng phía nam đồng Tập trận thẳng tới bến Nghé để chận đường lui quân. Hai bên giáp công, Sâm địch không nổi phải bỏ chạy. Quân Ánh ca khúc khải hoàn vào Sài gòn ngày Đinh dậu tháng 8 Mậu thân (7-9-1788.) (Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử Nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802, Nhà xb. Văn Sử Học, 1973, trang 194)
Một nhà văn Miền Nam, cụ Vương Hồng Sển cho biết: “Sông Thị Nghè giáp với rạch Bến Nghé. Chỗ giáp nước là một cái thoi loi gie ra ngoài sông, phong cảnh rất đẹp, gió mát từ Ô Cấp thổi vào tư mùa. Người Pháp dựng tại đây một cột cờ tên gọi “cờ Thủ Ngữ” (mât des signaux). Sau đây vì có quán rượu trứ danh chiêu mộ anh hùng mặc khách rất đông nên bợm rượu bèn đặt tên rất khôi hài là “Mũi đất bọn tán dóc” (Pointe des Blagueurs). (Truy ra dưới thời Nam triều, chỗ này gọi là “trạm Gia Tân”:
Gia Tân nền tạm thuở xưa,
Ngày nay có dựng cột cờ gần bên”.
(Vương Hồng Sển, Sài Gòn Năm Xưa, trang 102).
Nói chung Thị Nghè không chỉ là con rạch, con sông mà còn chỉ một vùng đất rộng nằm về phía đông của thành Sài Gòn cũng gọi là Quy Thành hay Bát Giác Thành do Olivier de Puymanuel theo lệnh của Nguyễn Ánh xây ngày 4 tháng 2 năm Canh tuất (1790) tại chỗ gò cao thôn Tân-khai thuộc huyện Bình Dương (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, bản dịch Tu-Trai Nguyễn Tạo, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa xuất bản, 1972, tập hạ, trang 74).
Vùng đất này là nơi định cư của người Việt, người Cao Miên, người Tàu trong nhiều thế kỷ trước đây thuộc nhiều tôn giáo trong đó có người giáo dân Công Giáo Việt Nam từ miền Trung tiến vào để tránh các cuộc bắt đạo của vua chúa Triều Nguyễn, tìm đất đai xây dựng lại sống gần bốn thế kỷ nay.
Xét theo quan điểm chiến lược ngày xưa, vị trí Sài Gòn có được thế hiểm yếu, kiên cố. Học giả Vương Hồng Sển trong Sài Gòn Năm Xưa, có viết: “Nhờ đó ở trên gò trên nổng, cao hơn mặt biển trên mười thước có hơn, Sài Gòn thêm có sẵn hai hào thiên nhiên che chở là sông Thị Nghè và sông Bến Nghé. Tuy vậy năm 1859, rạch Thị Nghè không đủ sức ngăn tàu sắt của Đề đốc Rigault de Genouilly và đã để cho tàu Pháp xáp cận thành…; nhưng bình nhựt nếu có phòng bị thả chông, nhận chìm xác ghe xác thuyền chở đá chẹn ở lòng sông cho thật nhiều, thì đủ ngăn sức giặc đường thủy một thời gian.” (trang 70).
Chỉ một danh xưng Thị Nghè hay Bình Trị mà cũng đã đủ sức lôi kéo nhiều sự kiện có liên quan đến sinh hoạt quân sự, chính trị, kinh tế trong bốn trăm năm về trước của cha ông chúng ta, thí dụ chúa Nguyễn Ánh đã cho lập cơ sở đào tạo thủy quân ở vàm sông Bình Trị tức rạch Thị Nghè, phía bắc Quy Thành, chuyên lo đóng tàu, trại xưởng kéo dài đến ba dặm. Rồi nữa đến các chiến lũy và đây là công trình của Nguyễn Cửu Đàm, anh của bà Thị Nghè. Cả bốn chiến lũy có tên lũy Trảo Trảo (xây năm 1790 ở huyện Bình An, lũy Sông Ký (tổng Long Thành, 1777), lũy Bình Lý (tổng Bình Dương, ) lũy Bán Bích do Điều Khiển Nguyễn Cửu Đàm cho xây. Lũy đắp từ chùa Cây Mai vòng qua đồng Tập Trận tới kênh Nhiêu Lộc, theo đường sông xuống rạch Thị Nghè và chấm dứt ở cầu Cao Miên (cầu Bông) (Lược Sử 300 Năm Sài Gòn, trang 30).
Kế hoạch thoát nước cho vùng cư dân mới sài Gòn cũng được viện dẫn đến con rạch và vùng đất mang tên Thị Nghè. Cũng tư liệu vừa dẫn ở trên cho biết: “Bấy giờ trong thành phố còn nhiều kinh rạch và ao tù, ảnh hưởng xấu tới môi trường. Do đó, năm 1867, Thiếu tá kỹ sư Bovet, với tư cách là hội viên hội đồng thành phố, đề xuất kế hoạch đào ba con đường thoát lưu để tống nước ra song. Đó là kinh Gallimard đào từ giữa thành phố, song song với đường Isabelle II (Lê Thánh Tông) để nước chảy ra rạch Thị Nghè, kinh Lớn (Grand Canal) nối sông Sài Gòn với kinh Gallimard, kinh Arroyo phía cuối đường Pellerin, nối một đầu với kinh Gallimard và đầu kia ra rạch Bến Nghé. Hai mươi năm sau, vì nhà cửa, dân số tăng nhanh, các con kinh này trở nên vô dụng, chẳng những không thoát được nước, mà còn làm mất vệ sinh, mùi hôi thối không chịu được vào mùa nắng khi triều xuống, chúng đều lần lượt bị lấp bằng và biến thành đường.” (Lược sử 300 Năm Sài Gòn, trang 90).
Nói chung vùng Thị Nghè là một chiến trường khốc liệt từng chứng kiến cuộc đọ sức của nhiều thế lực quân sự giữa người Việt với người Cao Miên, giữa Nguyễn Ánh với quân Tây Sơn, giữa quân Pháp xâm lược và người Việt Nam kiên cường bất khuất và nay nữa ít nhiều đang còn diễn ra trận chiến giữa công lý và cường quyền thể hiện qua việc giáo xứ Thị Nghè bị chiếm đoạt đất đai tài sản.
Thêm nữa, vùng đất lịch sử Thị Nghè thuộc tỉnh Gia Định lại cũng là nơi trú chân hoặc nương náu của các vị Thừa sai Công Giáo suốt hơn bốn trăm năm qua với những cơ sở tinh thần cũng như vật chất còn tồn tại cho đến ngày nay.
2.- Dấu tích đạo Công Giáo trên vùng đất Thị Nghè.
Một đại thần của Nguyễn Ánh, người Minh Hương, Trịnh Hoài Đức (1765-1825) đã ghi lại trong tác phẩm nổi tiếng của ông, cũng không quên tình cảnh người Công Giáo bị cấm đạo như sau: “Mùa thu năm Kỷ-mão (1699) tra bắt đạo Hòa-lang (tức đạo Thiên Chúa ở Tây-dương) phàm những người thuộc về dân nước ta thì bắt bỏ đạo trở lại như người thường, đốt những sách đạo và lấy những chỗ nhà tu đạo làm nhà thường dân ở, còn người Tây-dương thì đuổi về nước của họ. (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, tập trung, trang 12).
Theo cuốn Niên giám 2016 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, “Từ giữa thế kỷ XVII, đã có những giáo dân sống tại vùng đất Giáo phận Sài Gòn. Khi chúa Nguyễn cấm đạo, một số tín hữu di tản vào Nam để làm ăn sinh sống, họ hợp thành những cộng đoàn tín hữu đầu tiên, tập trung tại Chợ Quán, Gia Định, Lái Thiêu… Ngày 9/9/1659, ĐGH Alexandre VII thiết lập hai giáo phận Đàng Ngoài và Đàng Trong. Trải dài 185 năm trước ngày thành lập Giáo phận Tây Đàng Trong, giáo dân tại đây được sự hướng dẫn của 10 Giám mục Đại diện Tông tòa, cùng với 8 giám mục phó. Năm 1698, khi chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Sài Gòn, có thêm nhiều tín hữu di cư vào Nam. Năm 1722, thừa sai José Garcia dòng Phanxicô đã lập thêm nhiều họ đạo mới từ Sài Gòn đến Lái Thiêu, Mỹ Tho và Hà Tiên… Đức cha Guillaume Piguel nhiều lần lui tới các vùng Chợ Quán và Đồng Nai để ban bí tích Thêm Sức. Trên địa bàn sau này là Giáo phận Tây Đàng Trong, năm 1747, tổng số giáo dân mới khoảng 5.500 người. Đến cuối thế kỷ, số tín hữu đã là 87.297 sinh sống trong 1.024 giáo điểm. Những cơ sở tôn giáo được thiết lập thời Giáo phận Đàng Trong còn tồn tại đến nay là họ đạo Chợ Quán (1720), họ đạo Chí Hòa (1771), Thị Nghè (1790), dòng Mến Thánh Giá Cái Nhum (1800), dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm (1840) (Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Niên Giám 2016, Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2017, trang 818-819.)
Trong cuốn Lược Sử 300 Năm Sài Gòn Thành Phố Hồ Chí Minh (1698-1998) , Trung Tâm Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn TP HCM dựa theo sách Sài Gòn Năm Xưa của Vương Hồng Sển tham chiếu từ các tài liệu trong sách Indochine Moderne của hai ông Testeron và Percheron cho chúng ta những con số cụ thể như sau: “Số người theo đạo Thiên Chúa tại Sài Gòn và vùng phụ cận gồm xóm Thị Nghè, xóm Chợ Quán, và Xóm Chiếu, tính vào ngày Sài Gòn bị binh Pháp chiếm (11-2-1859) có 27.000 tín đồ. Lúc đó chưa có giáo khu Sài Gòn biệt lập. Trong số 27.000 tín đồ này có 5.000 tín đồ từ Đà Nẵng theo tàu chiến của Pháp đổ bộ lên vùng Khánh Hội và lập thành làng Tam Hội thuộc họ Xóm Chiếu.”
Có một vài điểm cần nói rõ do đoạn văn ở trên gợi ý. Về thời điểm binh lính Pháp dưới quyền điều động của Đề đốc Rigault de Genouilly tấn công thành Sài Gòn là ngày 16 và 17 tháng 2 năm 1859 chứ không phải 11-2-1859.
Về việc “5.000 tín đồ từ Đà Nẵng theo tàu chiến Pháp đổ bộ lên vùng Khánh Hội và lập thành làng Tam Hội thuộc họ Xóm Chiếu” dính líu tới công cuộc Nam tiến nói chung mà có sử liệu cho rằng đó là do Đức Giám Mục Lefèbvre tên Việt là Ngãi, Giám Mục Giáo Phận Tây Đàng Trong thực hiện.
Viết về một số các gia đình trong cuộc Nam tiến, Tiến Sĩ Li Tana có những lưu ý khá đặc biệt như sau:
“Không có mấy gia đình đã thẳng từ phía bắc đi sâu xuống phía nam. Trường hợp điển hình của cuộc di dân có lẽ là gia đình của Đoàn Hữu Trưng (người cầm đầu cuộc nổi dậy năm 1866) thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Theo gia phả của dòng họ này thì tổ tiên của họ hồi đầu vào thời nhà Lê đã từ Thanh Hóa hay Nghệ An đi xuống phía nam. Thoạt tiên, họ tới Quảng Bình và thành lập một làng có tên là Chuồn và dừng lại ở đây một “thời gian dài”. Đoạn họ đi tiếp xuống phía nam tới Thừa Thiên. Ngôi làng họ lập nên ở đây có tên là Chuồn Ngọn và làng Chuồn ở Quảng Bình được đặt tên lại là Chuồn gốc. (Danh nhân Bình trị Thiên, quyển 1, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1986, trg. 128-129). (Li Tana, The Inner Region: A Social and Economic History of Nguyen Vietnam in seventeeth and eighteenth centuries, bản dịch của Nguyễn Nghị có tựa đề Xứ Đàng Trong, Lịch sử Kinh tế - Xã hội Việt Nam Thế kỷ 17 và 18, Nxb. Trẻ, 1999, trang 33).
Có nhiều lý do khiến dân chúng Việt Nam thuộc đủ mọi thành phần có mặt trong các cuộc Nam tiến như Li Tana phân tích dưới đây:
“Miền nam luôn là mảnh đất của những giấc mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn, là một ngõ thoát đối với người Việt thời bấy giờ. Qua việc so sánh Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên và Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện Sơ Tập, chúng ta có thể thấy rằng các thành phần nòng cốt của chính quyền chúa Nguyễn phần lớn xuất thân từ Thanh Hóa, trái lại, các thành phần nòng cốt của chính quyền Gia Long lại là những người thuộc các gia đình đi từ miền Trung xuống phía nam. Ngay cả hoàng tộc Lê, một gia đình có lẽ không đuổi theo giấc mộng nói trên, cũng đã tham dự vào cuộc Nam tiến này mà không hay. Vào năm 1833, sau cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương, Minh Mạng truyền đưa họ từ Thanh Hóa tới Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định, tới sống tại một nơi lưu đày hiu quạnh, ở đó họ còn bị cấm không được liên lạc với nhau. Nhà ngữ học Việt Nam Lê Ngọc Trụ, chẳng hạn, thuộc dòng họ đã bị chỉ định nơi cư trú này.” (Li Tana, Sách đã dẫn, trang 34).
Một nhà Việt Nam học nổi tiếng, Linh Mục Léopold-Michel Cadière (1869-1955) giáo dân Việt Nam thường gọi là Cố Cả, đã viết về người dân Quảng Bình mà tổ tiên họ vốn là những người nghe lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Cảnh trong cuộc Nam tiến năm 1698, như sau: “Tôi ở Quảng Bình hơn bảy năm, đã đi khắp tỉnh này nhiều lần từ nam chí bắc, tôi đã nghiên cứu lịch sử nơi này. Tôi thương mến người dân nơi đây vốn có những phong tục phần nào thô phác như tiếng nói của họ. Chắc chắn mọi người sẽ tha thứ cho tôi khi tôi đã chỉ ra các vùng đất rất ích lợi cho tôi về phương diện sử học.” (Les lieux historiques du Quang-Binh, BEFEO, No 3, 1903, trang 204-205).
Về cá tính của những người dân Ngũ Quảng đã có mặt khắp nơi trong miền Lục Tỉnh (dĩ nhiên kể cả vùng đất Thị Nghè mà con cháu của họ hiện đang có mặt nơi đây), sử gia Trần Văn Giàu đã viết những dòng lột tả được bản sắc của họ như sau: “Quá nhiều rừng rú bưng biền, đường bộ ít, sông ngòi chằng chịt, người bất tuân luật pháp triều đình dễ đi lại ẩn náu ngay sát nách thành Gia Định, đừng nói đâu xa. Vả chăng, ông bà người dân lục tỉnh đã vào sinh sống ở đây, “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” trước khi chúa Nguyễn đưa quan quân vào đặt bộ máy cai trị, còn cha anh họ thì đã từng ủng hộ vua Tây Sơn Nguyễn Huệ bốn lần vào Nam đánh chúa Nguyễn đến không còn manh giáp. Họ tiếp nối tinh thần của cha ông thì có lạ gì? Làng ấp của họ không tập trung như ở Trung, Bắc mà rải dài theo sông rạch, mỗi nhà là một vuông tre, sự ràng buộc giữa dân với quan, cả giữa dân với dân, cũng đều không chặt chẽ. Họ nguyên là con em hoặc chính họ là dân “tứ chiếng” từ những tỉnh, phủ, xã khác nhau, chủ yếu từ những vùng đã nổi tiếng hay cãi, hay co, vũ dũng có thừa, mạnh ai nấy vượt biển băng ngàn đến tập họp trên đồng bằng cực kỳ trù phú này, đem theo mình nhiều chất phiêu lưu mạo hiểm tự do mà ít chất thuần phục quyền uy phong kiến, càng ít sự ràng buộc lễ giáo đạo đức Khổng Mạnh; nhưng giữa họ với nhau, tình huynh đệ giang hồ nghĩa hiệp là một thực tế lắm khi cao cả, chớ có khinh thường. Người dân đồng bằng sông Cửu Long - Đồng Nai vốn chân thật, trung tín, cởi mở, bộc trực, tình cảm (lắm khi có tính chất nguyên thủy), xử sự với người ngay một cách không suy tính thiệt hơn. Họ cũng đòi hỏi kẻ khác phải như vậy đối với họ.” (Trần văn Giàu, Xưa & Nay, 10/97, Nam Bộ Xưa & Nay, Nhà xb TP. Hồ Chí Minh - Tạp chí Xưa & Nay, trang 160).
Câu nói được sử gia Trần Văn Giàu nhắc đến trong bài viết của ông nói lên cách thức người dân Nam Bộ làm ăn trên vùng đất mới đó là: “Nhất canh trì, nhì canh viên, tam canh điền” chẳng những tổng kết sự làm ăn, mà còn chỉ lối thoát cho nông dân: không ruộng thì làm vườn, thiếu vườn thì đào đìa nuôi cá; làm vườn hơn làm ruộng, đào đìa nuôi cá hơn làm vườn, bề nào cũng có cách sống được. Những người tự mình đem cha mẹ vợ con vào sinh cơ lập nghiệp thì trở thành trung nông với năm mười mẫu, ba bảy con trâu là thường sự.” (Tài liệu đã dẫn, trang 160).
Trong tác phẩm Giám Mục Người Nước Ngoài Qua Chặng Đường 1659-1975 Với Các Giáo Phận Việt Nam, của Lê Ngọc Bích (chủ biên), Lê Đình Bảng và Lê Thiện Sĩ, người ta đọc thấy những dòng viết về các vị Thừa sai ngoại quốc như sau: “Mỗi khi đi qua các vùng, miền đạo, bước chân ta chạm vào từng di sản như còn ấm hơi thở, máu thịt của các ngài. Công trình gieo vãi hạt giống Tin Mừng vẫn không ngừng đơm hoa kết trái: trong nề nếp nghi thức, lễ lạy, kinh nguyện của phụng tự; trong hồn xác của lời lẽ có dung chứa gợi mở của ngôn ngữ văn tự; trong quy hoạch, bài trí của kiến trúc, sinh hoạt; trong hiện vật, chuyện kể, trong nghề nghiệp, thời vụ mùa màng; và cả trong vòng đời sinh ký tử quy “Hic jacet. R.I.P”; từ Kẻ Chợ (Thăng Long), Kẻ Sặt, Châu Lào, Trà Lũ, Kiên Lao, Kẻ Nê, Cửa Bạng, Thần Phù, Kẻ Vân, Cửa Nam, Xứ Xoài, Xã Đoài (Đàng Ngoài) đến Phú Xuân, Phường Đúc, Dương Sơn, Gò Thị, Phú Yên, Trạm Gò, Đồng Dài, Hải Phố, Phan Rí, La Gi, Gia Định, Cần Giờ, Tân Triều, Cái Mơn, Cái Nhum, Ba Giồng, Lái Thiêu, Di Linh, Đầu Nước, Hà Tiên (Đàng Trong)…
Ơi, miền đất mở trong vùng tâm bão
Di sản đức tin – văn hóa – con người
Mỗi bậc tầng đều ngồn ngộn sinh sôi
Mỗi bước chân như chạm vào tâm thức.
Thì ra, các ngài đã lìa bỏ tất cả những gì ràng buộc thân yêu nhất của mình – quê hương, gia đình, phong tục, văn hóa, ngôn ngữ - để học ăn, học nói, học gói, học mở, để đồng sinh đồng tử với người tín hữu Việt Nam.” (Nhà xb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2009, trang 22).
Vùng đất Thị Nghè là nơi bước chân các vị Thừa sai như Giám Mục Bá Đa Lộc (Pigneaux de Béhaine), Giám Mục Lefèbvre, Giám Mục Taberd, Giám Mục Cassaigne… và biết bao vị Thừa sai khác đã đặt chân tới, đã sống và đã chết tại đây. Các ngài đã để lại biết bao công trình về tôn giáo, xã hội, văn hóa, lịch sử, hy sinh cho người giáo dân Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.
Đạo Công Giáo được phát triển bành trướng ở đâu thì cơ sở thánh đường, trường học, nhà thương, nhà dưỡng lão, nhà dục anh được xây dựng nơi đó. Tác giả Nguyên Hương Nguyễn Cúc cho biết: “Bên kia rạch Thị Nghè, gần nhà Dưỡng Lão ngày trước có nghĩa địa thuộc họ đạo Thị Nghè, gọi là Đất Thánh. Đất ‘thánh vì đây là nghĩa địa của người Công Giáo. Gia Định có đất thánh “ta”, Sài gòn có đất thánh Tây (nghĩa địa đô thành sau này) tĩnh từ “Tây” do dân chúng đặt thêm. Sàigòn thuộc địa Tây Ta phân biệt rõ ràng!” (Nguyên Hương Nguyễn Cúc, Saigon 300 Năm Cũ, Tiếng Sông Hương xb., 1999, trang 210).
“Vì sự vinh quang cao cả của Thiên Chúa” (Ad majorem gloriam Dei), đó là câu trích trong linh đạo của đấng sáng lập Dòng Tên, Thánh I-nha-xi-ô Loyola cũng đã được nhiều vị Thừa sai áp dụng cho đường lối làm việc của mình. Sau đây xin đọc tiếp những lời tường thuật về một tấm gương thừa sai sáng chói tinh thần hy sinh cao cả của một vị Giám Mục thuộc giáo phận Tây Đàng Trong ở đó có giáo xứ Thị Nghè vốn là một trong những địa điểm thường trú của ngài:
“Một tội nhân mang án tử hình của triều đình Huế, một giáo sĩ trọn đời với lý tưởng rao giảng tin lành đến mọi người, mọi dân tộc: Giám mục Dominique Lefèbvre.
Bị biệt giam tại lao Trấn phủ Huế chờ ngày lãnh án tử hình may nhờ đô đốc Cécille, chỉ huy hạm đội Pháp tại Biển Trung Hoa, kịp thời can thiệp. Mùa hè năm 1845 giám mục Lefèbvre được vua Thiệu Trị trả tự do, cho người dẫn độ về Tân Gia Ba.
Gần một năm sau, ngày 23-5-1846 cũng lại vị giáo sĩ ấy từ Tân Gia Ba bằng ghe buồm mong manh vượt biển trở lại Nam Kỳ. Vừa cặp bến Cần Giờ liền bị bắt giải ra Huế, lại bị kết án tử hình. May mắn hơn, lần này được lệnh ân xá và áp tải trở về Tân Gia Ba tháng 2 năm 1847; lại trở qua Gia Định lần nữa, vào giữa năm 1847. Định mệnh an bài linh mục D. Lefèbvre với giáo hữu Sài gòn. Trong cơn bắt đạo nguy khốn nhất vào thời điểm khó khăn nhất của giáo hội Đàng Trong, người tử tù trước đây là Dominique Lefèbvre theo lệnh bề trên nhận lãnh trách nhiệm giám mục đại diện Tông Tòa địa phận Sài gòn (1852-1865) vừa tách khỏi địa phận Nam Đàng Trong.
Gọi địa phận cho đầy đủ nghi thức trang trọng một tổ chức trần thế như chúng ta quan niệm ngày nay, thực ra một cộng đồng giáo hữu mấy ngàn người phiêu bạt đó đây vì lệnh cấm đạo khắc nghiệt kéo dài triền miên. Khi trốn tránh ngược xuôi Khánh Hội, Thủ Thiêm, Thị Nghè, Chợ Quán, khi bồng bềnh bèo trôi nước lũ hết Thủ Thiêm đến Xóm Củi, Tân Triều qua Đất Đỏ… Không có thánh đường, nhà nguyện, nhà cha sở; 19 linh mục trong đó có ba linh mục thừa sai Pháp ẩn náu khắp nơi, hoàn cảnh sống chết còn bấp bênh nguy hiểm hơn giáo hữu nhiều bề. Tòa Giám Mục lưu động là một chiếc ghe nhỏ do một người giáo dân lèo lái cũng nổi trôi phiêu dạt nay đây mai đó. Thầy trò ẩn hiện ngày đêm bất thường tùy theo cường độ tăng giảm việc bắt đạo tại các địa phương.
Tình hình tạm lắng dịu năm 1861-1862, đoàn chiên lạc lõng tan tác khắp nơi nay gọi nhau về Khánh Hội – Tân Thuận. Không bao lâu sau, một số đông quay về Chợ Sỏi, vùng định cư mới do nhà nước tân trào chỉ định. Dưới bóng cây thánh giá che chở an lành, gia đình thôn xóm đoàn tụ với tiếng cầu kinh, tiếng chuông thánh đường sớm hôm vọng lại. Các họ đạo Thị Nghè, Chợ Quán, Cầu Kho, Xóm Chiếu rồi Tân Định, Chợ Đũi, Chợ Đệm, Cầu Ngang lần hồi mở mang thân hòa hội ngộ.” (Nguyên Hương Nguyễn Cúc, Sđd, trang 358).
Đức Cha Lefèbvre bắt kịp thời cơ khi việc cấm đạo lắng dịu lại đôi chút. Cuối năm 186o ngài cho đạt Tòa Giám mục tại ngôi nhà Tân Xá gần rạch Thị Nghè (trong Thảo Cầm viên ngày nay), lập chủng viện Thị Nghè năm 1861 sau chuyển qua Xóm Chiếu, xây cất nhà thờ Sài Gòn bằng gỗ, xây cất cơ sở nhà dòng Thánh Phaolồ, lập cô nhi viện Sainte Enfance ở Mỹ Tho, lập dòng kín Cát Minh tại Sài Gòn ngày 8-10-1861. Tâm hồn Ngài rất mực công chính, ghét những cảnh đồi bại do các đồng hương Pháp trong quân đội viễn chinh đồn trú ở Sài Gòn gây nên. Nhìn những cảnh sống xấu xa, sa đọa trong một vài giáo xứ, thí dụ Xóm Chiếu, Đức Cha than thở: “Roi đòn gươm giáo có thể nghiền nát thân thể nhưng làm cho tâm hồn mạnh mẽ và trong sạch, thời kỳ ấy đã nung đúc các thiếu nữ Việt Nam trở nên anh hùng tử đạo chứ đâu làm cho họ trở thành những gái điếm như lúc họ núp dưới bóng cờ tam tài của quân đội Pháp” . (Lê Ngọc Bích, Lê Đình Bảng, Lê Thiện Sĩ, Sách đã dẫn, trang 119).
Một trong những văn sĩ Công Giáo nổi tiếng, Tertullien (155-222) gốc người Phi châu, trong tác phẩm lừng danh “Hộ Giáo” (Apologeticus) “đã tố cáo thái độ bất công của nhiều chính quyền đối với đạo Công Giáo đã giải thích và bảo vệ các giáo lý và tập tục của người Công Giáo…Nhà văn này từng nói rằng ‘chúng tôi càng được nhân lên gấp bội mỗi lần một người trong chúng tôi bị đốn ngã. Máu của người Công Giáo là hạt giống luôn nẩy sinh người có đạo’ [semen est sanguis christianorum]” (Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, Great Christian Thinkers from the early Church through the Middle Ages, Fortress Press, Minneapolis, 2011, trang 26).
Dưới ngòi bút của một sử gia Công Giáo hiện còn sống ở Sài Gòn, Linh mục Vinhsơn Bùi Đức Sinh O.P., M.A., cuộc đời của một vị thánh tử đạo thuộc giáo xứ Thị Nghè, Thánh Phaolô Lê Văn Lộc (1830-1859) Linh mục, được ghi lại như sau:
“Khi Pháp quân tiến đánh đất Sài Gòn, các quan lùng bắt các linh mục và giáo dân, tập trung tất cả trong thành. Số tập trung có linh mục trẻ tuổi tên Phaolô Lộc, người bị bắt ở Thị Nghè ngày 13.12.1858. Lê Văn Lộc sinh năm 1830 tại làng An Nhơn, tỉnh Gia Định, trong một gia đình đạo đức. Mồ côi cha mẹ từ năm 10 tuổi, cậu Lộc được cha sở nhận nuôi và cho theo học chủng viện Cái Nhum 2 năm. Năm 1843, Đức cha Lefèbvre Ngãi gởi cậu sang Pénang học thần học. Cậu được các giáo sư viết thư về Đức Giám Mục địa phận, khen là “người có tương lai đầy hứa hẹn”.
Trở về nước, thày Phaolô tận tụy giảng dạy giáo lý và phụ trách việc huấn luyện các chủng sinh. Ngày 7.2.1857, thày được Đức cha Ngãi truyền chức linh mục và bổ nhiệm làm giám đốc Tiểu chủng viện Thánh Giuse Thị Nghè. Ngoài việc chăm sóc, giảng dạy các chủng sinh, cha Lộc vẫn cố gắng thu xếp những giờ làm công tác mục vụ, bác ái. Trong tình thế khó khăn thời vua Tự Đức, nhiều quan chức ác cảm với đạo Chúa, cha Lộc vẫn hăng say làm việc, duy trì chủng viện. Những cuộc binh biến ở Cửa Hàn hồi giữa năm 1858, khiến cuộc bách hại lên cơn sốt, chủng viện Thị Nghè phải giải tán, cha con ngậm ngùi chia tay. Tuy nhiên, cha Lộc vẫn cố nán lại Sài Gòn nay đây mai đó, sống giữa các chủng sinh tản mác bơ vơ. Cuối năm 1858, cha Lộc đến tạm trú ở nhà một cựu chủng sinh (thày giáo Ngôn). Dẫu khó khăn nguy hiểm, cha tìm cách tiếp tế cho các chủng sinh bị lưu lạc. Việc đó đưa cha vào vòng lao lý: một phụ nữ ngoại giáo nhận diện cha, đi trình báo quan. Lính liền đến bao vây, lục xét và bắt được cha. Khi bị bắt, cha Lộc khéo léo đối đáp, nên các quan đối xử với cha cách tử tế, còn có ý định tha nếu cha chối đạo. Trước ngày Pháp quân chiếm Sài Gòn (18.2.1859), các quan cấp tốc tâu vua xin trảm quyết đạo trưởng Lê Văn Lộc. Ngày 13.2.1859, cha Phaolô Lê Văn Lộc bị điệu đến Tràng Thi (góc đường Hai Bà Trưng - Hồng Thập Tự sau này), và bị hành quyết tại đó. Phải chờ đến đêm, giáo hữu mới lén lút đưa thi hài vị tử đạo (còn bị trói ở cột) về mai táng ở Chợ Quán, sau được cải lên đưa về nữ tu viện dòng Thánh Phaolô Sài Gòn. Hiện nay hài cốt đấng tử đạo được tôn kính trong vương cung thánh đường Sài Gòn.” (Bùi Đức Sinh, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong Lịch sử Giáo Hội Công Giáo, San Jose, California, USA, 2010, trang 266-268).
Lời kết
Trong sách I Vua của bộ Cựu Ước được kể như là một cuốn sách lịch sử có thuật lại câu chuyện “Vườn nho của ông Na-vốt”. Ông Na-vốt có một vườn nho ở cạnh vườn rau của vua A-kháp. Vua này nằng nặc đòi ông Na-Vốt nhượng lại vườn nho cho mình nhưng Na-vốt không chịu, ông trả lời vua: “Xin ĐỨC CHÚA đừng để tôi nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho ngài.” Hoàng hậu I-de-ven, vợ vua A-kháp lập mưu chiếm cho được vườn nho bằng cách sai hai tên vô lại vu cáo Na-vốt tội nguyền rủa ĐỨC CHÚA và đức vua. Na-Vốt bị ném đá chết và vườn nho thuộc về nhà vua. ĐỨC CHÚA gửi ngôn sứ Ê-li-a đến gặp vua A-kháp và lên án: “Tại chính nơi chó đã liếm máu Na-vốt, thì chó cũng sẽ liếm máu ngươi.” ĐỨC CHÚA cũng tuyên án phạt I-de-ven rằng: “Chó sẽ ăn thịt I-de-ven trong cánh đồng Gít-rơ-en. Kẻ nào thuộc về A-kháp mà chết trong thành thì sẽ bị chó ăn thịt, người chết ngoài đồng sẽ bị chim trời rỉa thây.” Sách I Vua sau đó kể tiếp khi A-kháp chết “Họ đưa vua về Sa-ma-ri và chôn cất vua tại đó. Người ta xối nước rửa xe, cạnh hồ nước ở Sa-ma-ri; chó liếm máu vua và gái điếm tắm rửa và gái điếm tắm trong hồ ấy, đúng như lời ĐỨC CHÚA đã phán.” (Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước Và Tân Ước, Nhà xb. TP. HCM, 1999, trang 398-401). Cái chết của Hoàng hậu I-de-ven còn rùng rợn vì bà bị quăng từ trên lầu xuống đất, được đem chôn nhưng chỉ tìm thấy cái sọ, hai chân và hai bàn tay của bà. Họ về báo tin cho ông Giê-hu. Ông nói: “Đây là lời ĐỨC CHÚA đã dùng tôi trung Người là ông Ê-li-a, người Tít-be, mà phán: “Trong thửa đất Gít-rơ-en, chó sẽ ăn thịt I-de-ven. Xác I-de-ven sẽ ra như phân trên mặt đồng ruộng, trong thửa đất Gít-rơ-en, khiến người ta không thể nói được: Đó là I-de-ven!” ( Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Sách đã dẫn, trang 414).
Đối với việc Giáo xứ Thị Nghè bị cướp đất qua vụ hai cơ sở Trường Phước An, cũng như vườn nho Na-vốt là của tổ tiên ông nên ông không được nhượng lại cho nhà vua, nên nhà vua phải dùng bạo lực và quyền hạn mà cướp cho được. Kết quả là cái chết nhãn tiền của A-kháp và I-de-ven, vợ ông. Đất đai của Trường Phước An cũng là của tổ tiên những giáo dân Giáo xứ Thị Nghè đã đổ xương máu, mồ hôi nước mắt trong gần bốn trăm năm mới có, đó là sở hữu của Nhà Chung, thử hỏi ai mà có quyền nhượng lại? Những kẻ đang manh tâm muốn dùng bạo lực để cướp đất đai Giáo xứ Thị Nghè cùng các nơi khác, hãy học lấy bài học đó.
Nguyễn Đức Cung
Philadelphia August 18-2020
VietCatholic TV
Thành Thánh Giêrusalem và Trung Đông giữa thời đại dịch coronavirus kinh hoàng
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
17:15 18/08/2020
1. Mời gọi quyên góp cho Thánh Ðịa vào ngày 13 tháng 9.
Năm nay, do đại dịch, ngày quyên góp cho Thánh Ðịa, là ngày thể hiện tình liên đới với quê hương của Chúa Giêsu thường được thực hiện vào thứ Sáu Tuần Thánh, được Ðức Thánh Cha quyết định chuyển đến ngày 13 tháng 9 năm 2020. Nhân dịp này, các cha Dòng Phanxicô nhắc lại tầm quan trọng của việc quyên góp cho các nơi thánh này, nơi Tin Mừng đã trở thành lịch sử.
Tháng 4, khi cuộc khủng hoảng Covid-19 đã biến các giáo xứ của nhiều nước châu Âu thành một sa mạc, theo truyền thống là khu vực luôn dẫn đầu trong việc quyên góp cho Thánh Ðịa, Ðức Thánh Cha đã chấp thuận đề xuất hoãn việc quyên góp đến ngày 13 tháng 9. Cha Francesco Patton, bề trên dòng Phanxicô tại Thánh Ðịa giải thích: “Ngày này được chọn vì đây là Chúa Nhật gần với lễ Suy tôn Thánh Giá. Ở Giêrusalem, chúng tôi cử hành đặc biệt trọng thể lễ này, để ghi nhớ tình yêu của Con Thiên Chúa đã dành cho chúng ta đến mức hiến mạng sống trên Thánh vì giá chúng ta, vì ơn cứu độ chúng ta”.
Các Giáo hội giúp đỡ các Giáo hội khác, trong một mạng lưới liên tục của tình huynh đệ là nét đặc trưng của các cộng đoàn Kitô trên khắp thế giới. Nhưng có một sự giúp đỡ đặc biệt của các Giáo hội khắp hành tinh dành riêng cho Thánh Ðịa vì nơi đây có một giá trị riêng, là nguồn gốc của Giáo hội, những viên đá lịch sử, không gian địa lý trực tiếp trong Tin Mừng: Nhà thờ các nơi Thánh ở Giêrusalem, Bêlem, Nazareth. Mỗi năm các Giáo hội địa phương dành một sự trợ giúp cụ thể do cuộc quyên góp dành cho Thánh Ðịa vào Thứ Sáu Tuần Thánh. Trong năm nay, một thói quen đã bị phá vỡ do đại dịch.
Trong một video được phổ biến trong những ngày gần đây, cha Patton chỉ ra có nhiều cách để thực hiện việc quyên góp này. Cha cũng cho biết ở Thánh Ðịa có rất nhiều nhu cầu cần được hỗ trợ từ việc đóng góp. Các nhu cầu không chỉ liên quan đến việc bảo trì các nơi thánh, từ Vương cung thánh đường Chúa Giáng Sinh đến Thánh Mộ. Cha giải thích: “Nhờ các đóng góp quảng đại của các Kitô hữu trên khắp thế giới chúng tôi sẽ có thể hỗ trợ hoạt động mục vụ của các giáo xứ được giao phó cho chúng tôi; chúng tôi sẽ có thể bảo đảm giáo dục chất lượng cho hơn 10 ngàn học sinh đang theo học tại các trường của chúng tôi; chúng tôi có thể giúp đỡ các gia đình trẻ tìm được nhà ở; chúng tôi có thể trợ giúp những người lao động nhập cư Kitô cảm thấy được đón tiếp trong lúc phải xa quê hương; chúng tôi có thể sát cánh với những người dân bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến ở Syria và những người tị nạn hiện đang sống rải rác ở các quốc gia”.
2. Tổng giáo phận Managua kêu gọi tái thiết nhà nguyện bị đốt phá.
Tổng giáo phận Managua, thủ đô Nicaragua, kêu gọi các tín hữu đóng góp để tái thiết Nhà nguyện Máu Thánh Chúa Kitô, với bức ảnh cổ kính từ gần 400 năm nay, bị đốt cháy ngày 31 tháng 7 năm 2020.
Bức ảnh này được coi là thánh tích rất được các tín hữu Công Giáo Nicaragua tôn kính.
Thông cáo nói rằng: “Ðức Hồng Y Leopoldo Brenes, Tổng giám mục giáo phận Managua, cám ơn tất cả những người đã bày tỏ tình liên đới vì những gì đã xảy ra tại nhà nguyện Máu thánh Chúa Kitô. Sau khi tham khảo ý kiến các vị đại diện, Ðức Hồng Y công bố cho tất cả các tín hữu số tài khoản ngân hàng để họ có thể hỗ trợ công trình tái thiết và tu bổ Nhà nguyện Máu Thánh Chúa Kitô, trong nhà thờ chính tòa Managua.”
Ngoài các tài khoản ngân hàng đó, các tín hữu có thể trao thẳng tiền hỗ trợ cho các linh mục ở nhà thờ chính tòa.
Ðức Thánh Cha Phanxicô cũng đã lên tiếng bày tỏ tình liên đới với giáo phận Managua và Giáo hội địa phương trong vụ này.
Ðức Hồng Y Brenes đã gọi vụ đốt phá Nhà nguyện là một cuộc tấn công khủng bố, mặc dù nhà cầm quyền cho rằng đây là một tai nạn.
Cuộc tấn công rõ ràng xảy ra sau những căng thẳng giữa người Công Giáo và những người ủng hộ Tổng thống Daniel Ortega, là tên trùm cộng sản trước đây đã thống trị đất nước trong hơn một thập kỷ sau khi lật đổ chế độ Somoza vào năm 1979. Sau thời kỳ cộng sản, Ortega một lần nữa trở thành tổng thống Nicaragua kể từ năm 2007 và bãi bỏ việc giới hạn nhiệm kỳ tổng thống vào năm 2014 để trở thành đại đế suốt đời.
Ngay sau khi vụ tấn công này, vợ của y, bà Rosario Murillo, cũng là phó tổng thống Nicaragua dù chẳng có bằng chứng gì trong tay, bà ta cho rằng không có ai tấn công hết cả, chẳng qua là các tín hữu đốt nến trước bức tượng, làm cháy bức màn, nên gây ra đám cháy.
Đức Hồng Y Brenes đã thẳng thừng bác bỏ tuyên bố của Murillo. “Nhà nguyện của chúng tôi không có màn cũng chẳng có nến.”
Cuộc biểu tình đòi dân chủ lớn nhất tại Thái Lan kể từ cuộc đảo chính năm 2014
Giáo Hội Năm Châu
04:55 18/08/2020