Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:17 30/08/2015
10. SỞ VƯƠNG ĐEO NGỌC.
Lúc Sở vương đuổi theo Dật Tử, nơi eo lưng mang một miếng ngọc bội quý, vì phải chạy nhanh nên miếng ngọc bội bị vỡ vụn.
Lần sau lúc đi săn, ông ta mang luôn hai miếng ngọc bội, chuẩn bị nếu có vỡ một miếng thì còn lại một miếng khác.
Không ngờ, cả hai miếng ngọc bội đều vì va chạm nhau nên bị vỡ mà vỡ rất nhanh.
(Chuẩn Nam tử)
Suy tư 10:
Người biết lo xa là người sống hôm nay mà chuẩn bị cho ngày mai, là người chưa nói ra câu một mà đã chuẩn bị cho câu thứ hai, cũng có nghĩa là họ luôn dè dặt trong lời nói, vì họ sợ lời nói của mình làm tổn thương đến người khác.
Miếng ngọc bội của Sở vương đã quý, nhưng lời nói của người khôn ngoan, đạo đức càng quý hơn.
Sở vương một lần bị bể một miếng ngọc bội quý, lần thứ hai mang hai miếng lại bể càng nhanh hơn vì va chạm vào nhau. Còn người khôn ngoan đạo đức trước khi nói thì uốn lưỡi bảy lần, chứ không phải nói bảy lần rồi mới uốn lưỡi, do đó mà họ không dại gì để lỡ lời nói lần thứ hai.
Theo cách nhìn cùa người tín hữu, linh mục là những người khôn ngoan và đạo đức, lời nói của các ngài đáng tin cậy và có sự khôn ngoan của Thánh Thần. Mà quả thật là như vậy, bởi vì Thiên Chúa đã chọn ai thì Ngài sẽ ban những ơn cần thiết để họ chu toàn sứ mệnh, cũng như Thiên Chúa đã chọn ông Môi-sen, một người không có tài ăn nói, nhưng Thiên Chúa đã nói với ông: “Ai cho ngươi có mồm có miệng…Vậy bây giờ ngươi hãy đi, chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói những gì”.
“Xin Chúa dạy con biết trân trọng lời nói của người khôn ngoan, biết không làm bể miếng ngọc bội quý giá mà Chúa đã ban tặng cho con, đó chính là ân sủng của Thánh Thần, để con sống đẹp lòng Chúa hơn trong cuộc sống của mình”.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
-------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
N2T |
Lúc Sở vương đuổi theo Dật Tử, nơi eo lưng mang một miếng ngọc bội quý, vì phải chạy nhanh nên miếng ngọc bội bị vỡ vụn.
Lần sau lúc đi săn, ông ta mang luôn hai miếng ngọc bội, chuẩn bị nếu có vỡ một miếng thì còn lại một miếng khác.
Không ngờ, cả hai miếng ngọc bội đều vì va chạm nhau nên bị vỡ mà vỡ rất nhanh.
(Chuẩn Nam tử)
Suy tư 10:
Người biết lo xa là người sống hôm nay mà chuẩn bị cho ngày mai, là người chưa nói ra câu một mà đã chuẩn bị cho câu thứ hai, cũng có nghĩa là họ luôn dè dặt trong lời nói, vì họ sợ lời nói của mình làm tổn thương đến người khác.
Miếng ngọc bội của Sở vương đã quý, nhưng lời nói của người khôn ngoan, đạo đức càng quý hơn.
Sở vương một lần bị bể một miếng ngọc bội quý, lần thứ hai mang hai miếng lại bể càng nhanh hơn vì va chạm vào nhau. Còn người khôn ngoan đạo đức trước khi nói thì uốn lưỡi bảy lần, chứ không phải nói bảy lần rồi mới uốn lưỡi, do đó mà họ không dại gì để lỡ lời nói lần thứ hai.
Theo cách nhìn cùa người tín hữu, linh mục là những người khôn ngoan và đạo đức, lời nói của các ngài đáng tin cậy và có sự khôn ngoan của Thánh Thần. Mà quả thật là như vậy, bởi vì Thiên Chúa đã chọn ai thì Ngài sẽ ban những ơn cần thiết để họ chu toàn sứ mệnh, cũng như Thiên Chúa đã chọn ông Môi-sen, một người không có tài ăn nói, nhưng Thiên Chúa đã nói với ông: “Ai cho ngươi có mồm có miệng…Vậy bây giờ ngươi hãy đi, chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói những gì”.
“Xin Chúa dạy con biết trân trọng lời nói của người khôn ngoan, biết không làm bể miếng ngọc bội quý giá mà Chúa đã ban tặng cho con, đó chính là ân sủng của Thánh Thần, để con sống đẹp lòng Chúa hơn trong cuộc sống của mình”.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
-------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:26 30/08/2015
N2T |
64. Khi Đức Chúa Giê-su bị đóng đinh chết trên thánh giá, thì Đức Mẹ Ma-ri-a cũng tự nguyện hy sinh vì chúng ta.
(Thánh Apollonius)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"
--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đến thăm 3 nước Phi Châu trong tháng 11
Đặng Tự Do
00:44 30/08/2015
Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đến thăm Kenya, Uganda, và Cộng hòa Trung Phi trong tháng Mười Một. Đức Tổng Giám Mục Charles Daniel Balvo, sứ thần tại Kenya, nói với Đài phát thanh Vatican rằng chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng sẽ bắt đầu tại Nairobi, thủ đô của Kenya.
Từ Nairobi, ngài sẽ sang Kampala, thủ đô của Uganda; và kết thúc chuyến đi tại Bangui, thủ đô của Cộng hòa Trung Phi.
Một lịch trình đầy đủ về chuyến tông du này sẽ được công bố vào tháng Mười
82.5% trong tổng số 45 triệu dân Kenya theo Kitô Giáo trong đó người Công Giáo chiếm 24% dân số. Người Hồi Giáo chỉ chiếm 11% tại quốc gia. Tuy nhiên, trong thời gian qua, nhiều nhóm cực đoan Hồi Giáo đã muốn biến Kenya thành một quốc gia Hồi Giáo. Lúc 5:30 sáng ngày thứ Năm 2 tháng 4, tức là thứ Năm Tuần Thánh vừa qua, bọn khủng bố Al-Shabaab với chủ trương nhằm thiết lập một nhà nước Hồi Giáo theo luật Sharia tại Kenya đã gây ra cuộc thảm sát tại Đại Học Garissa, cách thủ đô Nairobi của Kenya 350km về hướng Đông Bắc và cách biên giới với Somali 150km. 148 sinh viên bị giết chết và 79 sinh viên khác bị thương nặng.
Mohamed Mohamud, một thầy giáo người Kenya đã dạy học nhiều năm tại nước này cùng với Abdirahim Abdullahi, đã từng tốt nghiệp Luật Khoa tại đại học Nairobi vào năm 2013 và là con trai của tỉnh trưởng tỉnh Mandera, ở phía Bắc Kenya, giáp biên giới với Kenya đã dẫn đường cho bọn khủng bố Al-Shabaab từ Somali đột nhập vào Kenya gây ra cuộc thảm sát này. Abdirahim Abdullahi bị bắn chết cùng với 3 tên khủng bố khác trong khi Mohamed Mohamud nhanh chân tẩu thoát. Chính phủ trao giải thưởng lên đến 215,000 Mỹ Kim cho ai chỉ điểm dẫn đến việc bắt sống hay giết chết y nhưng đến nay vẫn chưa biết tông tích tên khủng bố này.
Kenya có 4 tổng giáo phận, 21 giáo phận và một miền Giám Quản Tông Tòa.
Uganda có 31,100,000 dân trong đó 42% là người Công Giáo thuộc 4 tổng giáo phận và 16 giáo phận.
Cộng hòa Trung Phi có 5,390,000 dân trong đó 25% là người Công Giáo sinh hoạt trong một tổng giáo phận là tổng giáo phận thủ đô Bangui và 8 giáo phận. Tình hình an ninh tại Cộng hòa Trung Phi là rất đáng lo ngại. Thật vậy, các diễn biến gần đây cho thấy quân Hồi Giáo Seleka đã được tăng viện bởi các nhóm khủng bố quốc tế đặc biệt là từ Cộng Hòa Chad, nơi dung thân của quân Seleka.
Cuộc xung đột tại Cộng Hòa Trung Phi đã bùng lên từ ngày 10 tháng 12 năm 2012 giữa quân đội nước này và phiến quân Hồi Giáo Séléka. Do các yếu tố bất ngờ, đến cuối tháng 12 năm 2012, quân Hồi Giáo đã chiếm được nhiều thành phố và ngày 24 tháng Ba năm 2013 chiếm được thủ đô Bangui. Lãnh đạo phiến quân là Michel Djotodia được đưa lên làm tổng thống.
Quân Hồi Giáo Séléka bắt tay ngay vào việc cướp bóc, hãm hiếp, và thủ tiêu các tín hữu Kitô. Nhóm Hồi Giáo cực đoan này thực hiện âm mưu Hồi Giáo hóa đất nước bằng một cuộc diệt chủng người Kitô Giáo trên một quy mô lớn đến mức chính Michel Djotodia đã bất ngờ tuyên bố từ chức và đào vong ở nước ngoài hôm 10 tháng Giêng năm 2014 để tránh bị bắt đưa ra trước tòa án quốc tế về tội ác chống nhân loại.
Từ tháng Hai năm ngoái, quân Séléka như rắn mất đầu đã mất quyền kiểm soát trên hầu hết các thành phố lớn tại Cộng Hòa Trung Phi và phải rút chạy sang Chad. Tuy nhiên, nhóm Hồi Giáo cực đoan này nhận được tăng viện cả về khí tài chiến tranh lẫn nhân sự và đã có khả năng trở lại gây chiến ngay tại thủ đô Cộng Hòa Trung Phi.
Từ Nairobi, ngài sẽ sang Kampala, thủ đô của Uganda; và kết thúc chuyến đi tại Bangui, thủ đô của Cộng hòa Trung Phi.
Một lịch trình đầy đủ về chuyến tông du này sẽ được công bố vào tháng Mười
82.5% trong tổng số 45 triệu dân Kenya theo Kitô Giáo trong đó người Công Giáo chiếm 24% dân số. Người Hồi Giáo chỉ chiếm 11% tại quốc gia. Tuy nhiên, trong thời gian qua, nhiều nhóm cực đoan Hồi Giáo đã muốn biến Kenya thành một quốc gia Hồi Giáo. Lúc 5:30 sáng ngày thứ Năm 2 tháng 4, tức là thứ Năm Tuần Thánh vừa qua, bọn khủng bố Al-Shabaab với chủ trương nhằm thiết lập một nhà nước Hồi Giáo theo luật Sharia tại Kenya đã gây ra cuộc thảm sát tại Đại Học Garissa, cách thủ đô Nairobi của Kenya 350km về hướng Đông Bắc và cách biên giới với Somali 150km. 148 sinh viên bị giết chết và 79 sinh viên khác bị thương nặng.
Mohamed Mohamud, một thầy giáo người Kenya đã dạy học nhiều năm tại nước này cùng với Abdirahim Abdullahi, đã từng tốt nghiệp Luật Khoa tại đại học Nairobi vào năm 2013 và là con trai của tỉnh trưởng tỉnh Mandera, ở phía Bắc Kenya, giáp biên giới với Kenya đã dẫn đường cho bọn khủng bố Al-Shabaab từ Somali đột nhập vào Kenya gây ra cuộc thảm sát này. Abdirahim Abdullahi bị bắn chết cùng với 3 tên khủng bố khác trong khi Mohamed Mohamud nhanh chân tẩu thoát. Chính phủ trao giải thưởng lên đến 215,000 Mỹ Kim cho ai chỉ điểm dẫn đến việc bắt sống hay giết chết y nhưng đến nay vẫn chưa biết tông tích tên khủng bố này.
Kenya có 4 tổng giáo phận, 21 giáo phận và một miền Giám Quản Tông Tòa.
Uganda có 31,100,000 dân trong đó 42% là người Công Giáo thuộc 4 tổng giáo phận và 16 giáo phận.
Cộng hòa Trung Phi có 5,390,000 dân trong đó 25% là người Công Giáo sinh hoạt trong một tổng giáo phận là tổng giáo phận thủ đô Bangui và 8 giáo phận. Tình hình an ninh tại Cộng hòa Trung Phi là rất đáng lo ngại. Thật vậy, các diễn biến gần đây cho thấy quân Hồi Giáo Seleka đã được tăng viện bởi các nhóm khủng bố quốc tế đặc biệt là từ Cộng Hòa Chad, nơi dung thân của quân Seleka.
Cuộc xung đột tại Cộng Hòa Trung Phi đã bùng lên từ ngày 10 tháng 12 năm 2012 giữa quân đội nước này và phiến quân Hồi Giáo Séléka. Do các yếu tố bất ngờ, đến cuối tháng 12 năm 2012, quân Hồi Giáo đã chiếm được nhiều thành phố và ngày 24 tháng Ba năm 2013 chiếm được thủ đô Bangui. Lãnh đạo phiến quân là Michel Djotodia được đưa lên làm tổng thống.
Quân Hồi Giáo Séléka bắt tay ngay vào việc cướp bóc, hãm hiếp, và thủ tiêu các tín hữu Kitô. Nhóm Hồi Giáo cực đoan này thực hiện âm mưu Hồi Giáo hóa đất nước bằng một cuộc diệt chủng người Kitô Giáo trên một quy mô lớn đến mức chính Michel Djotodia đã bất ngờ tuyên bố từ chức và đào vong ở nước ngoài hôm 10 tháng Giêng năm 2014 để tránh bị bắt đưa ra trước tòa án quốc tế về tội ác chống nhân loại.
Từ tháng Hai năm ngoái, quân Séléka như rắn mất đầu đã mất quyền kiểm soát trên hầu hết các thành phố lớn tại Cộng Hòa Trung Phi và phải rút chạy sang Chad. Tuy nhiên, nhóm Hồi Giáo cực đoan này nhận được tăng viện cả về khí tài chiến tranh lẫn nhân sự và đã có khả năng trở lại gây chiến ngay tại thủ đô Cộng Hòa Trung Phi.
Tờ Quan Sát Viên Rôma đả kích một giáo xứ cử hành tang lễ cho một tên trùm Mafia huy hoàng như lễ phong thánh
Đặng Tự Do
20:36 30/08/2015
Đoàn xe tang |
Chân dung tên trùm với hàng chữ Vua thành Rôma |
Trực thăng rải hoa tulip trên đoàn đưa tang |
Trưóc mặt tiền nhà thờ San Giovanni Bosco ở ngoại ô thành phố Rôma treo một bức chân dung rất lớn của tên trùm Vittorio Casamonica, 65 tuổi, như người ta vẫn từng thấy Tòa Thánh treo hình các vị Thánh hay Chân Phước trong các buổi lễ phong thánh tại tiền đình Đền Thờ Thánh Phêrô. Bức hình còn có cả một dòng chữ rất ngạo mạn “Re di Roma” – nghĩa là “Vua Thành Rôma”.
Một biểu ngữ khác còn ngạo mạn hơn được chăng ngang cửa chính của nhà thờ:
"Bạn đã chinh phục được Rôma, bây giờ bạn sẽ chinh phục thiên đường".
Sau một nghi lễ long trọng trong nhà thờ, quan tài được khiêng ra một đoàn xe đưa tang cực kỳ xa hoa như cảnh an táng một vua chúa thời trung cổ, nhưng còn huy hoàng hơn đám tang vua chúa vì có thêm một tiết mục mới không vua chúa thời xưa nào có được là cảnh những cánh hoa tulip rơi từ đoàn trực thăng xuống trong khi ban nhạc chơi các giai điệu chủ đề trong bài “The Godfather” mà người Việt thường dịch là Bố Già.
Tên trùm Vittorio Casamonica là một trong những nhà lãnh đạo của gia tộc Casamonica, đã bị buộc tội bắt cóc, tống tiền và buôn bán ma túy.
Trước tai tiếng trầm trọng mà nhiều người xem như một cử chỉ công khai thách thức những giáo huấn gần đây của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về bọn tội phạm Mafia, vị linh mục chính xứ San Giovanni Bosco nói rằng ngài không kiểm soát được những gì xảy ra bên ngoài nhà thờ.
Trong khi đó Giám mục phụ tá Rôma là Đức Cha Giuseppe Marciante giải thích với tờ Avvenire của Hội Đồng Giám Mục Italia rằng "không ai báo cho chúng tôi biết, thậm chí cả cảnh sát cũng chẳng nói gì".
Ngài nói thêm: "Tất nhiên, nếu chúng tôi đã có những nghi ngờ về kiểu trình diễn loại này, chúng tôi đã có biện pháp phòng ngừa. Chúng tôi hoàn toàn không chấp nhận tiến hành tang lễ như thế."
Đức Tổng Giám mục Vincenzo Bertolone của tổng giáo phận Catanzaro-Squillace, cáo thỉnh viên án phong thánh cho cha Pino Puglisi, người đã bị Mafia giết, nói với tờ Quan Sát Viên Rôma rằng "đám tang Kitô Giáo không phải là lễ tuyên dương cuộc đời của người quá cố".
Ngài nói thêm rằng "các chỉ thị hướng dẫn việc cử hành thánh lễ an táng yêu cầu buổi lễ phải được thực hiện một cách đơn sơ, không phô trương, không hoa, không nhạc, không hát hò, càng không phải là một buổi lễ tôn phong".
Tưởng cũng nên nhắc lại là năm ngoái một giám mục trong khu vực Calabria của Ý đã ra lệnh cấm tất cả các cuộc rước kiệu trên đường phố vô thời hạn. Ngài đã phải đưa ra biện pháp đau lòng này sau khi một đoàn rước đã khiêng kiệu Đức Mẹ đến nhà một tên trùm Mafia hôm 6 tháng 7 năm ngoái.
Hôm 21 tháng 6 năm ngoái, Đức Thánh Cha đã đến thăm vùng này và trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã mạnh mẽ lên án nhóm bất lương mafia Ndrangheta đang hoành hành trong vùng. Đức Thánh Cha nói: “Mafia Ndrangheta nghĩa là: tôn thờ cái ác và khinh bỉ công ích. Cái ác này phải bị đánh bại, phải bị trục xuất… Những kẻ này bị tuyệt thông”.
Hai tuần sau đó, trong một đám rước của giáo xứ Công Giáo Oppido Mamertina, đoàn rước đã bất ngờ rẽ sang một lộ trình không được trù liệu lúc ban đầu để khiêng kiệu Đức Mẹ đến nhà một tên trùm Mafia Ndrangheta là Peppe Mazzagatti, đang bị quản thúc tại gia sau khi bị khởi tố về tội giết người. Cử chỉ này được nhiều người xem như một hành vi khiêu khích Đức Giáo Hoàng của những kẻ chủ mưu đưa đoàn kiệu đến nhà tên tội phạm.
Uất hận trước cử chỉ này Đức Cha Nunzio Galantino của giáo phận Cassano allo Ionio của giáo phận lân cận nhận xét: "Đừng bắt Đức Mẹ phải kính chào bọn côn đồ."
Ba nhân viên cảnh sát đi kèm với đoàn rước đã bỏ đi để phản đối sự kính trọng dành cho một tên tội phạm. Bộ trưởng Nội vụ Italia là ông Angelino Alfano hoan nghênh hành động của họ, nói rằng cử chỉ tôn vinh tên trùm tội phạm này thật là "tồi tệ và kinh tởm."
Trước những diễn biến này, Đức Giám Mục Francesco Milito của Oppido-Palmi đã ban hành lệnh cấm tất cả các cuộc rước kiệu trên đường phố vô thời hạn cho đến khi có lệnh mới.
Giáo Hoàng Giấy: Một sáng kiến truyền giáo trước cuộc Tông Du Hoa Kỳ.
Trần Mạnh Trác
20:37 30/08/2015
Đối với bà Christa Scalies và anh Paul Turner thì tấm hình giấy cuả Đức Giáo Hoàng là một dịp truyền giáo.
Theo dõi cuộc tông du Phi Luật Tân cuả ĐGH trong tháng 1 vừa qua, họ nhận thấy rằng dân chúng trông rất hồ hởi khi đứng cạnh để tự chụp hình (selfie) với những tấm hình giấy cuả ĐTC Phanxicô, và họ nghĩ rằng tại sao họ không lập lại những 'khoảnh khắc kỳ diệu' ấy vào dịp tông du tháng 9 này.
Đây không chỉ là một cơ hội để cho mọi người có thể "selfie" với 'Giáo Hoàng Giấy,' đây còn là cơ hội tốt cho một cuộc gặp gỡ chân thực, nếu có thể thúc đẩy sự việc đi xa hơn.
"Nếu chúng ta có thể sử dụng một hình ảnh bằng giấy phông bià của Đức Giáo Hoàng, mở bật ra (Pop Up) trên đường phố, để thu hút người ta, và nếu họ quan tâm tới, chụp một bức ảnh, nói một câu chuyện, nó rất có thể mang lại cho họ một khoảnh khắc hạnh phúc," bà Christa Scalies nói như thế, việc đó "dẫn người ta đi đến một cuộc đối thoại trong tương lai."
"Những cuộc tương tác như vậy đã xảy ra và có ý nghĩa nhất là đối với những người đang đau khổ: người vô gia cư, nghiện ma túy, và có vấn đề sức khỏe hoặc tâm thần," bà nói về chương trình #PopUpPope (Giáo Hoàng bật dậy) mà bà là một người đồng sáng lập, trụ sở được đặt tại Wilmington, Delaware, nơi họ cư trú.
Người đồng sáng lập khác là anh Paul Turner, một giáo lý viên, ngồi xe lăn, trước đây từng sống vô gia cư, anh đi đến những nơi tụ tập cuả những người nghèo và người vô gia cư và anh đã có thể mách bảo thêm về những dịch vụ mà họ có thể cần tới.
"Đối với tôi, đó là những cuộc gặp gỡ tốt nhất," bà Scalies nói, bởi vì họ là những người vô vọng.
"Họ có thể không tin vào Thiên Chúa. Họ có thể không còn bất kỳ niềm tin nào. Nhưng, đây là một cuộc gặp gỡ cuả họ với một con người đã hiểu họ, nhận ra họ (ĐGH)".
"Chúng tôi đã có thể xin tên của họ," bà nói.
Trang web # PopUpPope cuả nhóm phô bày hàng trăm bức ảnh của những người đã chụp hình với 'Giáo Hoàng Giấy', tức là chụp hình với một phông bià cứng có hình cuả ĐTC Phanxicô được cắt xén gọn ghẽ trông giống y như thật, phiá sau là nhiều trang quảng bá chương trình mục vụ cuả Ngài.
"Chúng tôi thường thu hút được những người có tính tò mò trước," bà Scalies cho biết, "rồi thì đến những khách du lịch, rồi tới những người yêu mến Đức Thánh Cha, và sau nữa là nhiều người bàng quan khác cũng bị thu hút theo."
"Mục tiêu của chúng tôi là có thể làm quen với mọi người ngay tại chỗ, và có một cuộc trò chuyện với họ, và cầu nguyện với họ," bà Scalies giải thích thêm rằng đôi khi họ có thể trích dẫn lời Kinh Thánh hoặc những câu danh ngôn đầy cảm hứng khác.
"Mục đích của chúng tôi không phải là việc cải đạo, như đưa ra một quyển Kinh Thánh và nói: 'Bạn phải tin!'. Nhưng là để kết nối, để thương yêu, và để thương xót. Đó thực sự là những gì chúng tôi muốn làm."
Họ đi ra ngoài đường, lập thành toán nhiều người, tới các đường phố ở Wilmington, Delaware, họ luôn sẵn sàng nếu một câu chuyện xoay chiều theo hướng về đức tin, "anh Paul, là một giáo lý viên, sẽ lập tức nhập cuộc," bà Scalies nói.
"Nếu không thì chúng tôi nghĩ rằng, đây là một cơ hội mang lại một cái gì đó mới, một cơ hội để thu hút một người nào đó mà bình thường không quan tâm đến hình ảnh của một vị giáo hoàng, để làm dịp cho chúng tôi có thể nói lên một câu chuyện, và cũng là dịp cho họ được cung cấp một niềm hy vọng cá nhân nào đó. "
Không giống như các "trạm selfie" cố định được lập ra để cho người ta chụp hình với 'giáo hoàng,' bà Scalies và anh Turner vác bức hình cuả Đức Giáo Hoàng Phanxicô ra ngoài đuờng, đón người ta trên lối đi, mời người ta đọc những mẩu chuyện dán sau bức hình, và tuỳ theo phản ứng của người ta mà tạo ra cơ hội tương tác.
Nhiều trường hợp cảm động đã xảy ra.
Như trường hợp một phụ nữ đã lân la tới gần bên, nhìn bức hình như bị tôi miên và cho biết tuy bà không phải là Công Giáo, bà rất ngưỡng mộ Ngài vì Ngài đã làm bà xúc động.
Nhìn bà ta chụp hình với Giáo Hoàng Giấy rồi sau đó tiếp tục đứng ngắm thêm, bà Scalies cho rằng "Bạn có thể nói là đã có một điều gì đó thiêng liêng xảy ra cho bà ấy vào thời điểm đó."
Bà công nhận những cuộc gặp gỡ linh động như thế là do sức thu hút cuả Đức Giáo Hoàng Phanxicô.
"Nó xảy ra được bởi vì chúng tôi đã đi ra ngoài đường mà kêu gọi, và sẵn sàng để có một cuộc gặp gỡ với những người khác trên đường phố."
"Đó là những gì mà Đức Giáo Hoàng đã thường xuyên yêu cầu mọi người chúng ta làm", bà cho biết: "theo đúng nghĩa đen là đi ra đường phố"
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hội Các Bà Mẹ Công Giáo Melbourne Mừng bổn mạng
Bài và hình Trần Bá Nguyệt
04:50 30/08/2015
Melbourne, 29-8-2015. Hội Các Bà Mẹ Công Giáo, Giáo xứ Holy Eucharist đã tổ chức Thánh Lễ Bổn Mạng hai Thánh Monica và Anê Lê Thị Thành vào lúc 12 giờ trưa ngày thứ Bảy, 29-8-2015.
Mời coi hình
Hơn 50 bà mẹ Công Giáo và thân hữu đã tham dự Thánh lễ trang trọng tại nhà thờ giáo xứ. Linh mục chánh xứ Trần Minh, chủ tế và Linh mục Phạm Minh Ước (cả hai vị cùng Dòng Tên) đã dâng Thánh lễ.
Trong bài giảng, Cha Phạm Minh Ước đã nói về tiểu sử của Bà Thánh Monica và Thánh Anê Lê Thị Thành, người được phong thánh trong 117 vị thánh của Việt Nam. Thánh Monica, người mẹ của Thánh Augustino là một người đàn bà chịu nhiều đau khổ vì sự ngỗ nghịch của con mình. Augustino ăn chơi trác táng đến nỗi có cả con riêng ngoài hôn thú. Sự kiên trì và theo đuổi dấu chân lang bạt của người con Augustino đã khiến một ngày người mẹ theo con đến tận Roma. Khi gặp được vị giám mục nổi tiếng Ambrosio, bà nhờ thánh nhân thuyết phục con mình. Anh đã quay trở lại và xin rửa tội ngày Lễ Phục Sinh cùng với người con riêng lúc đó đã 15 tuổi. Người mẹ thánh đã nhắm mắt an lòng khi người con hư hỏng trở về cùng Chúa. Thánh Monica từ trần năm 378, hưởng thọ 56 tuổi, lúc đó Augustino được 33 tuổi.
Anê Lê Thị Thành là thánh nữ duy nhất trong 117 vị được phong thánh. Mặc dầu là phụ nữ, thánh nữ đã chấp nhận bị bắt bớ, tra khảo, đòn vọt, nhục hình để bảo vệ Đức Tin. Bà Thánh đã nêu gương sáng chói cho người Công Giáo, người vợ và người mẹ, xứng đáng là một công dân nước trời trung tín.
Trước khi nhận phép lành cuối lễ, Chị Hội Trưởng Teresa Đinh Thị Ngoan đã ngỏ lời cám ơn hai cha, quý sơ và quý cộng đoàn đã dâng lời cầu nguyện cho Hội Các Bà Mẹ Công Giáo trong buổi lễ rất sốt sắng. Bài cám ơn đã thêm phần cảm động, thắm tình cha con và rất ý nghĩa khi chị Hội Trưởng chia sẻ những tâm tình của Hội với Cha Linh Hướng, cũng là Cha Chánh xứ Trần Minh vì Cha chuẩn bị nhận bài sai để nhận nhiệm sở mới và sẽ rời Giáo xứ vào tháng hai đầu năm 2016. Sau đó, Cha Trần Minh đã cám ơn Hội CBMCG trong hơn ba năm thành lập đã tích cực tham gia và đóng góp vào các công tác giáo xứ trong các buổi lễ hàng tuần, các công tác quét dọn nhà thờ và đặc biệt đã làm vang danh cho Hội và Giáo xứ mỗi lần Giáo xứ Holy Eucharist hay Tổng Giáo Phận Melbourne tổ chức đại lễ, dâng hoa hoặc văn nghệ.
Sau thánh lễ, các bà mẹ hội viên và các cha, quý sơ cùng quan khách và thân nhân đã thưởng thức món phở Việt Nam tuyệt vời do chính các bà thực hiện dưới sự sắp xếp của chị trưởng ban ẩm thực và phu quân là đầu bếp chuyên nghiệp.
Hội Các Bà Mẹ Công Giáo Melbourne mong một ngày gần đây sẽ phát triển thêm chi nhánh tại các giáo xứ khác của Melbourne.
(Ghi nhanh: Trần Bá Nguyệt, DCUC)
Mời coi hình
Hơn 50 bà mẹ Công Giáo và thân hữu đã tham dự Thánh lễ trang trọng tại nhà thờ giáo xứ. Linh mục chánh xứ Trần Minh, chủ tế và Linh mục Phạm Minh Ước (cả hai vị cùng Dòng Tên) đã dâng Thánh lễ.
Trong bài giảng, Cha Phạm Minh Ước đã nói về tiểu sử của Bà Thánh Monica và Thánh Anê Lê Thị Thành, người được phong thánh trong 117 vị thánh của Việt Nam. Thánh Monica, người mẹ của Thánh Augustino là một người đàn bà chịu nhiều đau khổ vì sự ngỗ nghịch của con mình. Augustino ăn chơi trác táng đến nỗi có cả con riêng ngoài hôn thú. Sự kiên trì và theo đuổi dấu chân lang bạt của người con Augustino đã khiến một ngày người mẹ theo con đến tận Roma. Khi gặp được vị giám mục nổi tiếng Ambrosio, bà nhờ thánh nhân thuyết phục con mình. Anh đã quay trở lại và xin rửa tội ngày Lễ Phục Sinh cùng với người con riêng lúc đó đã 15 tuổi. Người mẹ thánh đã nhắm mắt an lòng khi người con hư hỏng trở về cùng Chúa. Thánh Monica từ trần năm 378, hưởng thọ 56 tuổi, lúc đó Augustino được 33 tuổi.
Anê Lê Thị Thành là thánh nữ duy nhất trong 117 vị được phong thánh. Mặc dầu là phụ nữ, thánh nữ đã chấp nhận bị bắt bớ, tra khảo, đòn vọt, nhục hình để bảo vệ Đức Tin. Bà Thánh đã nêu gương sáng chói cho người Công Giáo, người vợ và người mẹ, xứng đáng là một công dân nước trời trung tín.
Trước khi nhận phép lành cuối lễ, Chị Hội Trưởng Teresa Đinh Thị Ngoan đã ngỏ lời cám ơn hai cha, quý sơ và quý cộng đoàn đã dâng lời cầu nguyện cho Hội Các Bà Mẹ Công Giáo trong buổi lễ rất sốt sắng. Bài cám ơn đã thêm phần cảm động, thắm tình cha con và rất ý nghĩa khi chị Hội Trưởng chia sẻ những tâm tình của Hội với Cha Linh Hướng, cũng là Cha Chánh xứ Trần Minh vì Cha chuẩn bị nhận bài sai để nhận nhiệm sở mới và sẽ rời Giáo xứ vào tháng hai đầu năm 2016. Sau đó, Cha Trần Minh đã cám ơn Hội CBMCG trong hơn ba năm thành lập đã tích cực tham gia và đóng góp vào các công tác giáo xứ trong các buổi lễ hàng tuần, các công tác quét dọn nhà thờ và đặc biệt đã làm vang danh cho Hội và Giáo xứ mỗi lần Giáo xứ Holy Eucharist hay Tổng Giáo Phận Melbourne tổ chức đại lễ, dâng hoa hoặc văn nghệ.
Sau thánh lễ, các bà mẹ hội viên và các cha, quý sơ cùng quan khách và thân nhân đã thưởng thức món phở Việt Nam tuyệt vời do chính các bà thực hiện dưới sự sắp xếp của chị trưởng ban ẩm thực và phu quân là đầu bếp chuyên nghiệp.
Hội Các Bà Mẹ Công Giáo Melbourne mong một ngày gần đây sẽ phát triển thêm chi nhánh tại các giáo xứ khác của Melbourne.
(Ghi nhanh: Trần Bá Nguyệt, DCUC)
Tĩnh Tâm Hội Đồng Mục Vụ TGP Sydney.
Diệp Hải Dung
09:01 30/08/2015
Tĩnh Tâm Hội Đồng Mục Vụ TGP Sydney.
Chiều thứ Sáu 28/08/2015 anh chị em thành viên trong Hội Đồng Mục Vụ Tổng Giáo Phận Sydney đã đến Trung Tâm Tĩnh Huấn Thánh Giuse Bringelly tham dự 2 ngày tĩnh tâm với chủ đề “ Phục Vụ Trong Niềm Vui”
Sau khi ghi danh và dùng cơm tối, tất cả mọi người tập trung trong hội trường, anh Trần Anh Vũ Chủ tịch Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam TGP Sydney ngỏ lời chào mừng quý Cha và quý anh chị em thành viên trong Hội Đồng Mục Vụ Sydney đã đến đây tham dự 2 ngày Tĩnh Tâm và Đại Hội Đồng Mục Vụ năm 2015. Anh mong rằng qua 2 ngày tĩnh tâm mỗi người chúng ta ý thức về chỗ đứng, ơn gọi, sự quan trọng của gia đình và đặc biệt những người Kitô hữu của chúng ta được thấm nhuần Lời Chúa. Ngài sẽ thánh hóa và cùng đồng hành với chúng ta trong nhiệm kỳ mới 3 năm 2015 – 2018.
Xem Hình
Cha Tuyên Úy Trưởng Dương Thanh Liêm thay mặt Ban Tuyên úy ngỏ lời chào mừng các anh chị em đã hy sinh nhiều thời gian quý báu để đến đây tham dự tĩnh tâm và Cha thuyết gỉảng đề tài “Lãnh Đạo và Phục Vụ” sau đó mọi người cùng chia nhóm hội thảo và chia sẽ về đề tài của Cha.
Chấm dứt phần hội thảo mọi người thắp nên ngọn nến và tham dự Chặng Đàng Thánh Giá ngoài trờ do Cha Tuyên Úy Trưởng Dương Thanh Liêm điều hợp rất sốt sắng và trang nghiêm, sau đó mọi người cùng trở về hội trường quây quần bên Thánh Thể Chúa Giêsu KiTô cầu nguyện để xin ơn Chúa chúc lành cho các anh chị em thành viên Hội Đồng Mục Vụ TGP Sydney luôn hăng say hy sinh dấn thân phục vụ cho Cộng Đồng và tha nhân trong nhiệm kỳ mới.
Sáng thứ Bảy 29/08 mọi người cùng tham dự Thánh lễ tạ ơn và Cha Paul Văn Chi thuyết giảng đề tài “Phục Vụ Trong Đức Ái” Sau đó là họp Đại Hội Đồng Mục Vụ, anh Trần Anh Vũ Chủ tịch CĐCGVN Sydney báo cáo và tường trình về những sinh hoạt trong Cộng Đồng trong những tháng vừa qua và trình chiếu Slide Show những hình ảnh sinh hoạt trong Cộng Đồng, đồng thời anh cũng thông báo những sinh hoạt kế tiếp của Cộng Đồng từ bây giờ cho đến cuối năm 2015 và anh cũng chúc mừng qúy anh chị em Tân Hội Đồng Mục Vụ của nhiệm kỳ mới 2015 – 2018.
Trong buổi họp các anh chị em thành viên Hội Đồng Mục Vụ cũng đóng góp nêu những ý kiến thắc mắc đã được quý Cha Tuyên úy giải đáp thỏa đáng và kết thúc bế mạc vào lúc 1pm. Diệp Hải Dung
Chiều thứ Sáu 28/08/2015 anh chị em thành viên trong Hội Đồng Mục Vụ Tổng Giáo Phận Sydney đã đến Trung Tâm Tĩnh Huấn Thánh Giuse Bringelly tham dự 2 ngày tĩnh tâm với chủ đề “ Phục Vụ Trong Niềm Vui”
Sau khi ghi danh và dùng cơm tối, tất cả mọi người tập trung trong hội trường, anh Trần Anh Vũ Chủ tịch Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam TGP Sydney ngỏ lời chào mừng quý Cha và quý anh chị em thành viên trong Hội Đồng Mục Vụ Sydney đã đến đây tham dự 2 ngày Tĩnh Tâm và Đại Hội Đồng Mục Vụ năm 2015. Anh mong rằng qua 2 ngày tĩnh tâm mỗi người chúng ta ý thức về chỗ đứng, ơn gọi, sự quan trọng của gia đình và đặc biệt những người Kitô hữu của chúng ta được thấm nhuần Lời Chúa. Ngài sẽ thánh hóa và cùng đồng hành với chúng ta trong nhiệm kỳ mới 3 năm 2015 – 2018.
Xem Hình
Cha Tuyên Úy Trưởng Dương Thanh Liêm thay mặt Ban Tuyên úy ngỏ lời chào mừng các anh chị em đã hy sinh nhiều thời gian quý báu để đến đây tham dự tĩnh tâm và Cha thuyết gỉảng đề tài “Lãnh Đạo và Phục Vụ” sau đó mọi người cùng chia nhóm hội thảo và chia sẽ về đề tài của Cha.
Chấm dứt phần hội thảo mọi người thắp nên ngọn nến và tham dự Chặng Đàng Thánh Giá ngoài trờ do Cha Tuyên Úy Trưởng Dương Thanh Liêm điều hợp rất sốt sắng và trang nghiêm, sau đó mọi người cùng trở về hội trường quây quần bên Thánh Thể Chúa Giêsu KiTô cầu nguyện để xin ơn Chúa chúc lành cho các anh chị em thành viên Hội Đồng Mục Vụ TGP Sydney luôn hăng say hy sinh dấn thân phục vụ cho Cộng Đồng và tha nhân trong nhiệm kỳ mới.
Sáng thứ Bảy 29/08 mọi người cùng tham dự Thánh lễ tạ ơn và Cha Paul Văn Chi thuyết giảng đề tài “Phục Vụ Trong Đức Ái” Sau đó là họp Đại Hội Đồng Mục Vụ, anh Trần Anh Vũ Chủ tịch CĐCGVN Sydney báo cáo và tường trình về những sinh hoạt trong Cộng Đồng trong những tháng vừa qua và trình chiếu Slide Show những hình ảnh sinh hoạt trong Cộng Đồng, đồng thời anh cũng thông báo những sinh hoạt kế tiếp của Cộng Đồng từ bây giờ cho đến cuối năm 2015 và anh cũng chúc mừng qúy anh chị em Tân Hội Đồng Mục Vụ của nhiệm kỳ mới 2015 – 2018.
Trong buổi họp các anh chị em thành viên Hội Đồng Mục Vụ cũng đóng góp nêu những ý kiến thắc mắc đã được quý Cha Tuyên úy giải đáp thỏa đáng và kết thúc bế mạc vào lúc 1pm. Diệp Hải Dung
Nhóm Hy Vọng Focolare Đức Quốc kỷ niệm 30 năm thành lập
Ngô Văn Thông
11:37 30/08/2015
Nhóm HY VỌNG (FOCOLARE) ĐỨC QUỐC
30 NĂM Thành Lập
Thông báo ngày họp mặt MARIAPOLI của nhóm HY VỌNG Đức Quốc, là một tin vui cho tất cả mọi thành viên. Chúng tôi sống rải rác trên khắp nước Đức rộng lớn vì hoàn cảnh sinh hoạt gia đình, vì công ăn việc làm hoặc vì học vấn… Nhưng hàng ngày chúng tôi đều cố gắng sống theo linh đạo của Phong Trào Focolare qua bản tin Lời Sồng gửi đi hàng tháng từ Thành Đô của Phong Trào tại Ý.
Xem Hình
Khởi đầu của Phong Trào do Chị Chiara Lubich thành lập vào năm 1944 tại Ý vào Đệ Nhị Thế Chiến với mục đích Hợp Nhất,Xoa Dịu vết thương chiến tranh, Yêu thương tha nhân như chính Chúa Giêsu.Do sự thích hợp với đời sống Tâm Linh, thắt chặt Tình Đồng Loại, Phong trào đã kết hợp được nhiều thành phần trong xã hội cũng như tôn giáo. Hôm nay Phong Trào đã lan rộng trên 182 quốc gia. Trong Giáo Hội Công Giáo, có nhiều phẩm trật từ Hồng Y, giám muc, linh mục và giáo dân tham gia. Trong đó có nhiều người chọn đời sống độc thân. Phong trào còn có quan hệ tốt với các tôn giáo khác. Hiện nay trên thế giới có 350 cộng đoàn Công Giáo và không Công Giáo tham gia phong trào. Thành viên của phong trào khắp thế giới trên 2 triệu thành viên. Với hình thức sinh hoạt như là một TỔ ẤM, mọi thành viên liên kết với nhau NÊN MỘT.Mỗi năm chúng tôi họp nhau một lẩn vối sự tham dự của nhiểu nhóm trong một quốc gia hoặc từ nhiều nước cùng họp mặt gọi là MARIAPOLI. Nhóm HY VỌNG tại Đức được thành lập năm 1985 do Lm Nguyễn Trung Điễm. Mariapoli năm nay 2015 cũng là ngày hội lớn mừng Nhóm tròn 30 tuổi
Chiều hội ngộ
Đúng hẹn chiều 30/07-2015, từ nhiều nơi trên nước Đức và một số từ Đan Mạch lần lượt đến. Trường BORSUMER KASPEL đối với đa số chúng tôi không xa lạ vì đã họp tại đây nhiều lần.Những ai đến lần đầu thì chạy theo máy chỉ đường cũng đến được làng nhỏ thật yên tỉnh cách thành phố rộn rịp Hannower không xa. Gặp nhau, chúng tôi trao cho nhau những ánh mắt rạng rỡ,những cái bắt tay thật chặt và bao cử chỉ thân thương khác. Một số anh chị em trách nhiệm đến trước đã chuẫn bị, sắp xếp và hướng dẩn chúng tôi những điều cần thiết.
Đúng 20.30,tất cả tham dự viên hiện diện tại Hội trường, hai người hướng dẩn chương trình, chi Mai và anh Tráng đã gọn gàng trong việc giới thiệu chương trình và chào mừng tất cả mọi thành viên tham dự. Lm Nguyễn Trung Điểm, linh hướng của nhóm; lm Phạm Văn Tuấn, Trung tâm Mục vụ,lm Phạm Văn Vượng từ Roma và lm Nguyễn Ngọc Trấn, từ Châu Phi về nghỉ phép. Sau đó tham dự viên được chia làm 4 nhóm để gặp nhau làm quen. Sau đó là kinh tôi và nghỉ đêm trong những phòng học của nhà trường. Công việc phục vụ ngày hôm sau đã được phân theo nhóm.
Sang ngày thứ nhất
Sau bữa điểm tâm, chúng tôi tập họp tại hội trường để tham dự Thánh Lễ đồng tế cùng quý linh mục tôn vinh ” Thánh Thể, Mầu Nhiệm Hiệp Thông” là trọng tâm của Mariapoli năm 2015 tại Borsum. Tiếp theo là phần chụp hình chung lưu niệm và thảo luận nhóm về đề tài ” Mối tương quan của chúng ta với Thánh Thể”. Mỗi thành viên tham dự nhận được 20 câu quãng diễn về Thánh Thể. Từng người suy nghĩ và chọn qua 3 giai đoạn. Lần đầu chọn 10 trong 20 ý tưởng cần thiết cho đời sống đức tin của mình. Lần thứ hai chọn 5 trong 10 ý tưởng và cuối cùng chọn 2 trong 5 ý tưởng đánh động tâm hồn từng cá nhân nhất về Thánh Thể và trình bày quan điểm của mình. Buổi thảo luận tổ thật hăng say kéo dài đến giờ ăn trưa.Thức ăn vừa được mang từ nhà hàng thân quen trong vùng mang đến được nhóm phục vụ phân phối. Không khí phòng ăn rộn lên những tiếng cười đùa, chào hỏi thật thân thương kéo dài cho đến giờ nghỉ trưa.
Sinh hoạt buổi chiều bắt đầu bằng trà, cà phê, bánh ngọt. Sau đó là tham dự cuộc hành hương nhỏ; đi bộ đến nhà thờ Hønnersum gần 2 cây số. Người già yếu di xe hơi. Trên đường về, chúng tôi tham dự một trò chơi bằng cách gom mẫu giấy treo dọc đường được trình bày theo đề tài định trước. Về nhà, mỗi tổ ghép những mảnh giấy lại với nhau sẽ thành hình Bánh và Rượu, biểu tượng của Mình và Máu Thánh Chúa. Mỗi tổ còn thêm vào phần trang trí theo ý nghĩ và sáng kiến riêng.Trong buổi sinh hoạt tối có phẩn trỉnh bày và chấm điểm cho từng tổ thật vui nhộn.
Ngày thứ hai
Ngoài chương trình như thường lệ về giờ ăn, nghỉ.. sinh hoạt hôm nay tập trung vào đề tài ” Thánh Thể, Mầu Nhiệm Tình Thương ”. Trong chia sẽ nhóm nhiều thành viên đã nêu lên những cãm nghiệm sâu sắc đối với tình thương Nhiệm Mầu của Thiên Chúa. Buổi chiều, chúng tôi tham dự chầu Thánh Thể và nghi thức hòa giải.
Suốt buổi tối dành cho sinh hoạt mừng 30 năm thành lập nhóm Hy Vọng Đức Quốc. Có phần trình bày đầy đủ bằng hình ảnh sinh hoạt của nhóm 30 năm qua, phần văn nghệ chính của 4 nhóm vừa sáng tác và tập luyện trong thời gian ngắn mang nội dung của chủ đề sinh hoạt kỳ này thật vui.Ngoài ra còn có sự đóng góp nhiều bài hợp ca, đơn ca làm cho chương trình thêm phong phú.Tiệc mừng có bánh sinh nhật 30 năm và nhiều thức ăn hấp dẫn.
Ngày thứ ba
Đề tài chót cho sinh hoạt năm nay là ” Thánh Thể, Mầu Nhiệm Hiệp Thông” được quý linh mục chia sẽ trong thánh lễ tạ ơn. Sau Thánh lễ có phần chúc lành cho các đôi hôn nhân cùng có mặt thật cãm động. Có những đôi vắng mặt vợ hoặc chồng thì người hiện diện lên nhận phép lành cho cả đôi. Mặc dù chương trình kéo dài hơn dự định nhưng phần đúc kết vẫn được nhiều thành viên chia sẽ những cãm nghiệm quý giá như là hành trang cho tất cả trên đường về nhà và cũng là kinh nghiệm cho lần tổ chức tới.
Sinh họat thiếu thiếu niên, thiếu nhi
Trong đại hội Mariapoli kỳ này đặc biệt có phần sinh hoạt thanh thiếu nhi do một thành viên kinh nghiệm hướng dẫn, các em không bị lạc lõng khi ngồi chung với người lớn.Mặc dù vậy, các em vẫn tham gia một số công tác phục vụ giờ cơm, văn nghệ,hoạt động xã hội thật đáng khen. Linh đạo của Focolare là Tổ Ầm, Hợp Nhất. Phụ huynh mang được con cái đi theo là một cố gắng lớn. Nhưng con cái đi sinh hoạt theo cha mẹ lại là thành công lớn trong sinh hoạt gia đình.
Trên đường về, chúng tôi mang theo biết bao nhiêu hỉnh ảnh đẹp về cuối tuần Mariapoli Borsum, Vẫn biết những ngày sinh hoạt quý giá đó không thể lấp đầy những trống trải của bao ngày tiếp cận với cuộc sống bon chen vì lợi nhuận, thiếu tình người. Nhưng có còn hơn không. Xin hẹn Mariapoli năm tới.
Tham dự viên Ngô Văn Thông
30 NĂM Thành Lập
Thông báo ngày họp mặt MARIAPOLI của nhóm HY VỌNG Đức Quốc, là một tin vui cho tất cả mọi thành viên. Chúng tôi sống rải rác trên khắp nước Đức rộng lớn vì hoàn cảnh sinh hoạt gia đình, vì công ăn việc làm hoặc vì học vấn… Nhưng hàng ngày chúng tôi đều cố gắng sống theo linh đạo của Phong Trào Focolare qua bản tin Lời Sồng gửi đi hàng tháng từ Thành Đô của Phong Trào tại Ý.
Xem Hình
Khởi đầu của Phong Trào do Chị Chiara Lubich thành lập vào năm 1944 tại Ý vào Đệ Nhị Thế Chiến với mục đích Hợp Nhất,Xoa Dịu vết thương chiến tranh, Yêu thương tha nhân như chính Chúa Giêsu.Do sự thích hợp với đời sống Tâm Linh, thắt chặt Tình Đồng Loại, Phong trào đã kết hợp được nhiều thành phần trong xã hội cũng như tôn giáo. Hôm nay Phong Trào đã lan rộng trên 182 quốc gia. Trong Giáo Hội Công Giáo, có nhiều phẩm trật từ Hồng Y, giám muc, linh mục và giáo dân tham gia. Trong đó có nhiều người chọn đời sống độc thân. Phong trào còn có quan hệ tốt với các tôn giáo khác. Hiện nay trên thế giới có 350 cộng đoàn Công Giáo và không Công Giáo tham gia phong trào. Thành viên của phong trào khắp thế giới trên 2 triệu thành viên. Với hình thức sinh hoạt như là một TỔ ẤM, mọi thành viên liên kết với nhau NÊN MỘT.Mỗi năm chúng tôi họp nhau một lẩn vối sự tham dự của nhiểu nhóm trong một quốc gia hoặc từ nhiều nước cùng họp mặt gọi là MARIAPOLI. Nhóm HY VỌNG tại Đức được thành lập năm 1985 do Lm Nguyễn Trung Điễm. Mariapoli năm nay 2015 cũng là ngày hội lớn mừng Nhóm tròn 30 tuổi
Chiều hội ngộ
Đúng hẹn chiều 30/07-2015, từ nhiều nơi trên nước Đức và một số từ Đan Mạch lần lượt đến. Trường BORSUMER KASPEL đối với đa số chúng tôi không xa lạ vì đã họp tại đây nhiều lần.Những ai đến lần đầu thì chạy theo máy chỉ đường cũng đến được làng nhỏ thật yên tỉnh cách thành phố rộn rịp Hannower không xa. Gặp nhau, chúng tôi trao cho nhau những ánh mắt rạng rỡ,những cái bắt tay thật chặt và bao cử chỉ thân thương khác. Một số anh chị em trách nhiệm đến trước đã chuẫn bị, sắp xếp và hướng dẩn chúng tôi những điều cần thiết.
Đúng 20.30,tất cả tham dự viên hiện diện tại Hội trường, hai người hướng dẩn chương trình, chi Mai và anh Tráng đã gọn gàng trong việc giới thiệu chương trình và chào mừng tất cả mọi thành viên tham dự. Lm Nguyễn Trung Điểm, linh hướng của nhóm; lm Phạm Văn Tuấn, Trung tâm Mục vụ,lm Phạm Văn Vượng từ Roma và lm Nguyễn Ngọc Trấn, từ Châu Phi về nghỉ phép. Sau đó tham dự viên được chia làm 4 nhóm để gặp nhau làm quen. Sau đó là kinh tôi và nghỉ đêm trong những phòng học của nhà trường. Công việc phục vụ ngày hôm sau đã được phân theo nhóm.
Sang ngày thứ nhất
Sau bữa điểm tâm, chúng tôi tập họp tại hội trường để tham dự Thánh Lễ đồng tế cùng quý linh mục tôn vinh ” Thánh Thể, Mầu Nhiệm Hiệp Thông” là trọng tâm của Mariapoli năm 2015 tại Borsum. Tiếp theo là phần chụp hình chung lưu niệm và thảo luận nhóm về đề tài ” Mối tương quan của chúng ta với Thánh Thể”. Mỗi thành viên tham dự nhận được 20 câu quãng diễn về Thánh Thể. Từng người suy nghĩ và chọn qua 3 giai đoạn. Lần đầu chọn 10 trong 20 ý tưởng cần thiết cho đời sống đức tin của mình. Lần thứ hai chọn 5 trong 10 ý tưởng và cuối cùng chọn 2 trong 5 ý tưởng đánh động tâm hồn từng cá nhân nhất về Thánh Thể và trình bày quan điểm của mình. Buổi thảo luận tổ thật hăng say kéo dài đến giờ ăn trưa.Thức ăn vừa được mang từ nhà hàng thân quen trong vùng mang đến được nhóm phục vụ phân phối. Không khí phòng ăn rộn lên những tiếng cười đùa, chào hỏi thật thân thương kéo dài cho đến giờ nghỉ trưa.
Sinh hoạt buổi chiều bắt đầu bằng trà, cà phê, bánh ngọt. Sau đó là tham dự cuộc hành hương nhỏ; đi bộ đến nhà thờ Hønnersum gần 2 cây số. Người già yếu di xe hơi. Trên đường về, chúng tôi tham dự một trò chơi bằng cách gom mẫu giấy treo dọc đường được trình bày theo đề tài định trước. Về nhà, mỗi tổ ghép những mảnh giấy lại với nhau sẽ thành hình Bánh và Rượu, biểu tượng của Mình và Máu Thánh Chúa. Mỗi tổ còn thêm vào phần trang trí theo ý nghĩ và sáng kiến riêng.Trong buổi sinh hoạt tối có phẩn trỉnh bày và chấm điểm cho từng tổ thật vui nhộn.
Ngày thứ hai
Ngoài chương trình như thường lệ về giờ ăn, nghỉ.. sinh hoạt hôm nay tập trung vào đề tài ” Thánh Thể, Mầu Nhiệm Tình Thương ”. Trong chia sẽ nhóm nhiều thành viên đã nêu lên những cãm nghiệm sâu sắc đối với tình thương Nhiệm Mầu của Thiên Chúa. Buổi chiều, chúng tôi tham dự chầu Thánh Thể và nghi thức hòa giải.
Suốt buổi tối dành cho sinh hoạt mừng 30 năm thành lập nhóm Hy Vọng Đức Quốc. Có phần trình bày đầy đủ bằng hình ảnh sinh hoạt của nhóm 30 năm qua, phần văn nghệ chính của 4 nhóm vừa sáng tác và tập luyện trong thời gian ngắn mang nội dung của chủ đề sinh hoạt kỳ này thật vui.Ngoài ra còn có sự đóng góp nhiều bài hợp ca, đơn ca làm cho chương trình thêm phong phú.Tiệc mừng có bánh sinh nhật 30 năm và nhiều thức ăn hấp dẫn.
Ngày thứ ba
Đề tài chót cho sinh hoạt năm nay là ” Thánh Thể, Mầu Nhiệm Hiệp Thông” được quý linh mục chia sẽ trong thánh lễ tạ ơn. Sau Thánh lễ có phần chúc lành cho các đôi hôn nhân cùng có mặt thật cãm động. Có những đôi vắng mặt vợ hoặc chồng thì người hiện diện lên nhận phép lành cho cả đôi. Mặc dù chương trình kéo dài hơn dự định nhưng phần đúc kết vẫn được nhiều thành viên chia sẽ những cãm nghiệm quý giá như là hành trang cho tất cả trên đường về nhà và cũng là kinh nghiệm cho lần tổ chức tới.
Sinh họat thiếu thiếu niên, thiếu nhi
Trong đại hội Mariapoli kỳ này đặc biệt có phần sinh hoạt thanh thiếu nhi do một thành viên kinh nghiệm hướng dẫn, các em không bị lạc lõng khi ngồi chung với người lớn.Mặc dù vậy, các em vẫn tham gia một số công tác phục vụ giờ cơm, văn nghệ,hoạt động xã hội thật đáng khen. Linh đạo của Focolare là Tổ Ầm, Hợp Nhất. Phụ huynh mang được con cái đi theo là một cố gắng lớn. Nhưng con cái đi sinh hoạt theo cha mẹ lại là thành công lớn trong sinh hoạt gia đình.
Trên đường về, chúng tôi mang theo biết bao nhiêu hỉnh ảnh đẹp về cuối tuần Mariapoli Borsum, Vẫn biết những ngày sinh hoạt quý giá đó không thể lấp đầy những trống trải của bao ngày tiếp cận với cuộc sống bon chen vì lợi nhuận, thiếu tình người. Nhưng có còn hơn không. Xin hẹn Mariapoli năm tới.
Tham dự viên Ngô Văn Thông
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tản mạn chuyện “hôn nhân” đồng tính: khía cạnh khoa học
Vũ Van An
18:45 30/08/2015
Khi phán quyết về hôn nhân đồng tính, phe đa số của chánh án Kennedy dựa vào các lý do sau đây (1) theo thống kê, sự lôi cuốn đồng tính là một nét bình thường trong tính dục con người; (2) không thể thay đổi được nó bằng các can thiệp kỹ thuật của y khoa hiện đại; và (3) thành thử nó là một điều gì đó khác hơn là một căn bệnh.
Đúng là thống kê cho thấy hiện nay tại Hoa Kỳ, số người ủng hộ hôn nhân đồng tính nhiều hơn số người phản đối nó và khuynh hướng này rất nhất quán ít nhất từ năm 2001 tới năm 2015. Theo Pew, Năm 2001, số người ủng hộ hôn nhân đồng tính chỉ có 35%, trong khi những người chống đối chiếm 57%. Nhưng năm 2015, số người ủng hộ chiếm 55% trong khi số người chống đối chiếm 39%.
Điều đáng nói là xu hướng của người Công Giáo: năm 2001, 40% người Công Giáo ủng hộ hôn nhân đồng tính, nhưng tới năm 2015, họ chiếm tới 57%, vượt quá cả tỷ lệ của cả nước nói chung, chỉ thua người Thệ Phản Da Trắng (62%) nhưng hơn hẳn người Thệ Phản Da Đen (34%) và nhất là người Thệ Phản Da Trắng Tin Lành (white evangelical protestants) (24%). Chẳng lạ gì chánh án Kennedy, tuy là người Công Giáo, nhưng đã trở thành người cầm trịch phán quyết hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính.
Không ai hoài nghi tính khoa học của các con số thống kê trên, nếu chỉ xét tới khía cạnh “end product” (sản phẩm cuối cùng) của nó. Ít có người thắc mắc do đâu mà có những con số như vậy. Như trên đã nói phe đồng tính đã và đang dùng đủ mọi phương tiện để len lỏi vào những cơ phận có ảnh hưởng lớn thuộc mọi phạm vi của đời sống xã hội để nhịp nhàng lèo lái tâm thức xã hội về phía họ. Họ không ngại “mua chuộc” cả thần học, như trên đã nói, song song với các ngành học thuật khác mà mạnh nhất vẫn là khoa học.
Diễn biến khoa học
Năm 1973, Hội Tâm Thần Hoa Kỳ chính thức loại đồng tính luyến ái ra khỏi bảng liệt kê các bệnh tâm thần mà chính họ đã liệt kê đầu tiên, và do đó, mở đầu cho một chiến dịch đại thể và ồ ạt tranh đấu đòi quyền bình đẳng cho người đồng tính.
Chandler Burr, một người đồng tính, trong bài “Homosexualtity and Biology”, cho rằng việc một số người làm tình với người đồng tính đã có từ thời cổ đại. Nhưng người ta lưu ý tới các hành vi đồng tính, chứ không lưu ý tới người làm hành vi ấy. Ngay thời Trung Cổ, dù hành vi đồng tính bị coi là một tội, nhưng người làm hành vi này không bị coi như một loại người khác. Thậm chí khỏang giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 18, hành vi đồng tính còn bị coi là tội phạm nữa, nhưng người đồng tính vẫn không bị coi là một loại người bất thường.
Tâm thức trên thay đổi vào thế kỷ 19, khi ngành y khoa và nhất là ngành tâm thần coi đồng tính luyến ái là một hình thức của bệnh tâm thần. Cho tới thập niên 1940, đồng tính luyến ái vẫn được thảo luận như là một khía cạnh rối loạn nhân cách có tính tâm thần, hoang tưởng và xa lánh giao tiếp xã hội (schizoid).
Thái độ trên bắt đầu thay đổi với Alfred Kinsey. Trong phúc trình viết năm 1948 tựa là Tác Phong Tính Dục Nơi Người Phái Nam, nhà nghiên cứu tính dục này cho rằng đồng tính xẩy ra trong mọi gia đình, giai cấp, và bối cảnh giáo dục và địa dư. Nhưng chính Kinsey thì chưa có khả năng quả quyết đồng tính luyến ái không phải là một căn bệnh.
Chandler cho rằng khả năng này phải đợi tới năm 1956 với phúc trình của Evelyn Hooker đệ nạp tại Hội Tâm Lý Học Hoa Kỳ, mới có cơ phát triển. Nữ tâm lý gia này vốn được giáo dục để tin rằng đồng tính luyến ái là một bệnh tâm thần. Nhưng một ngày kia, người học trò đồng tính của cô khẩn khoản thưa với cô: “Này Evelyn, nhiệm vụ khoa học gia của cô là phải nghiên cứu những người như tôi”. Cô do dự. Nhưng rồi một khoa học gia khác khuyên cô nên làm cuộc nghiên cứu này: “anh ta nói đúng, mình đâu có biết gì về những người như anh ta”. Thế là, sau khi tìm và nhận được một cấp khoản của Viện Sức Khỏe Tâm Thần Quốc Gia, cô chọn 30 người đàn ông đồng tính làm đối tượng nghiên cứu và 30 người đàn ông không đồng tính làm đối tượng so sánh (controls). Tất cả những người này chưa bao giờ nhận được sự điều trị tâm thần nào.
Cô cho họ làm nhiều trắc nghiệm tâm lý, kể cả trắc nghiệm Rorschach (ink-blot) để tạo ra 60 hồ sơ tâm lý. Cô loại bỏ bất cứ dấu chỉ căn cước nào khỏi 60 hồ sơ này, rồi trao chúng cho 3 tâm lý gia nổi tiếng giải thích. Cả ba tâm lý gia này đều không nhận ra ai là đồng tính ai là dị tính. Kết quả này chứng tỏ không thể định nghĩa đồng tính luyến ái là một bệnh tâm thần. Chính vì thế năm 1973, Hội Tâm Thần Hoa Kỳ đã loại nó ra khỏi bảng liệt kê các bệnh tâm thần của mình (DSM: Diagnostic and Statistical Manual).
Thực ra, vấn đề không đơn giản như thế. Robert R. Reilly, tác giả cuốn “Making Gay OK: How Rationalizing Homosexual Behavior Is Changing Everything” (Ignatius Press, 2014) và là cựu giám đốc Đài VOA, cựu phụ tá đặc biệt của TT R. Reagan, thì cho rằng quyết định trên là do sự dàn dựng của các nhà tranh đấu đồng tính.
Thực thế, theo Tiến Sĩ Ronald Bayer, một bác sĩ tâm thần ủng hộ đồng tính luyến ái, và là tác giả cuốn Đồng Tính Luyến Ái và Tâm Thần Học Hoa kỳ: Đường Lối Chính Trị của Chẩn Đoán (1981), vào năm 1970, các người cổ vũ đồng tính luyến ái đã tấn công Hiệp Hội Tâm Thần lần đầu tiên khi Hiệp Hội này tổ chức hội nghị tại San Francisco. Họ cắt ngang lời các diễn giả, la ó giễu cợt các bác sĩ tâm thần nào coi đồng tính luyến ái là rối loạn tâm lý. Năm sau, nhà vận động đồng tính Frank Kameny cùng với Mặt Trận Giải Phóng Đồng Tính đã diễu hành phản đối hội nghị của APA. Tại hội nghị 1971, Kameny đã cướp micrô và thét lên: “Giới chuyên gia tâm thần là hiện thân của kẻ thù. Các nhà tâm thần đã khơi mào một cuộc chiến hủy diệt không có hồi kết chống lại chúng tôi. Các ông nên xem đây là sự tuyên chiến chống lại các ông.”
Những người đồng tính đã giả mạo giấy tờ của Hiệp Hội và tiếp cận được khu vực trưng bày của hội nghị. Họ đe dọa bất cứ ai cho rằng đồng tính luyến ái cần phải được chữa trị. Kameny đã tìm được một đồng minh trong Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ là Kent Robinson, người đã giúp ông yêu cầu loại đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh tâm thần. Tại hội nghị năm 1972, những người hoạt động của phong trào đồng tính luyến ái đã được phép lập một gian trưng bày trong hội nghị với cái tên: “Đồng Tính-Tự Hào- Lành Mạnh.”
Kameny sau đó được phép trở thành một thành phần của ban hội thẩm, cùng các bác sĩ tâm thần thảo luận về đồng tính luyến ái. Việc loại đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách chẩn đoán bệnh là kết quả của quyền lực chính trị, sự đe dọa nhưng không phải là những khám phá khoa học. Với nhiều sức ép chính trị, một ủy ban của Hiệp Hội đã họp kín năm 1973 và biểu quyết rút đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh lý tâm thần.
Theo lời Tiến Sĩ Jeffrey Santinnover, tác giả cuốn Đồng Tính Luyến Ái và Chính Trị của Sự Thật, những người phản đối điều trên sẽ có 15 phút để phản biện. Tất nhiên họ không kịp xoay chuyển. Trong khi ấy, tổ chức Lực Lượng Những Người Đồng Tính Quốc Gia đã mua danh sách địa chỉ thư tín của các thành viên Hiệp Hội và gửi một lá thư đến các thành viên này, thúc giục họ bỏ phiếu để rút đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách rối nhiễu tâm thần. Không một thành viên nào biết được được rằng những thư tín đó được chi trả bởi nhóm cổ vũ đồng tính này.
Theo lời Satinnover, “hiện tại, càng lúc càng thấy rõ hơn quyết định của Hiệp Hội Tâm Thần năm 1973 bị thúc đẩy bởi chính trị nhiều như thế nào. Khi tham dự một hội thảo tại Anh năm 1994, tôi gặp một người, anh đã kể tôi nghe một chuyện mà anh chưa nói với ai. Anh ta đã từng sống trong giới đồng tính nhiều năm nhưng sau đó không tiếp tục nữa. Anh thuật lại tỉ mỉ rằng sau quyết định của Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ năm 1973, anh ấy và người tình đồng tính cùng với một nhân vật cấp cao trong Ban Quản trị của Hiệp Hội và người tình đồng tính của nhân vật ấy đã tổ chức ăn mừng chiến thắng của họ như thế nào. Ông ta chính là một trong số những người nhân vật đồng tính được có vị trí cao trong Hiệp Hội, đã lèo lái mọi sự nhằm bảo đảm một chiến thắng bằng cách mua chuộc những nhân vật cao nhất để rồi trưng ra cho công chúng những thứ như thể chúng là một sự tìm tòi vô vị lợi vì sự thật.”
Trước hội nghị năm 1973 của Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ, nhiều bác sĩ tâm thần đã cố gắng tập hợp nhau phản đối những nỗ lực của những người đồng tính luyến ái đang muốn loại hành vi tình dục đồng tính ra khỏi danh sách bệnh tâm thần. Đứng đầu nhóm bác sĩ này là Tiến sĩ Irving Bieber và Charles Socarides, những người đã thành lập ủy ban phản đối việc loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh tâm thần.
Trong cuốn Chính Sách về Tình Dục và Lập Luận Khoa Học: Vấn Đề Đồng Tính Luyến Ái, Bác Sĩ Socarides cho hay “Để tuyên bố một căn bệnh ‘không phải là bệnh’, một nhóm các bác sĩ đa khoa (practitioner) đã loại nó ra khỏi danh sách các rối nhiễu tâm tính dục. Hành động này càng đáng nói hơn khi người ta xem nó như một hành động xem thường và loại bỏ một cách tùy tiện không chỉ hàng trăm báo cáo tâm thần học, phân tâm học mà còn gạt đi những nghiên cứu nghiêm túc của những nhóm bác sĩ tâm thần, các nhà tâm lý và giáo dục trong hơn 70 năm qua…”
Socarides nói tiếp: “Trong 18 năm sắp tới, quyết định này của Hiệp Hội sẽ như một con ngựa thành Troy, nó sẽ mở toang những cánh cổng để làm lan rộng những thay đổi xã hội và tâm lý trong những thói quen tập quán tình dục và hơn thế nữa. Quyết định này sẽ được sử dụng trong nhiều dịp, cho nhiều mục đích nhằm bình thường hóa chuyện đồng tính và nâng tầm nó lên đến một mức độ đáng trân trọng.
“Đối với một số nhà tâm thần học Hoa Kì, hành động loại bỏ này vẫn là một sự nhắc nhở ớn lạnh, đó là nếu người ta không chiến đấu cho những nguyên tắc mang tính khoa học thì những nguyên tắc đó sẽ bị mất đi – một lời cảnh tỉnh: nếu người ta không chấp nhận những ngoại lệ đối với khoa học, chúng ta sẽ trở thành cái bẫy của óc bè phái chính trị và là phương tiện truyền bá những điều dối trá cho đám đông quần chúng cả tin, thiếu thông tin, cho cả ngành y và khoa học nghiên cứu hành vi”.
Thua keo này bày keo khác
Việc Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ bị vạch mặt như trên không làm nản lòng những người tranh đấu cho đồng tính. Họ quay qua các lãnh vực khác, các lãnh vực mà họ tin là sẽ đủ mạnh để đánh gục lý chứng những người chống đối đồng tính luyến ái.
Mà dù kết luận của Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ có dựa trên khoa học đi chăng nữa, thì theo Chandler Burr, nó vẫn chỉ cho người ta thấy đồng tính luyến ái không là gì mà thôi, chứ chưa cho biết nó là cái gì và nhất là do đâu mà có. Căn bệnh học (etiology) vì thế chắc chắn phải nhờ sinh học thần kinh (neurobiology). Câu hỏi là: về phương diện sinh học, người đồng tính và người dị tính có khác nhau hay không?
Trước khi trả lời câu hỏi trên, các nhà sinh học muốn trước nhất trả lời câu hỏi có liên hệ: về phương diện thần kinh học, đàn ông khác đàn bà như thế nào?
Năm 1959, tại ĐH California ở Los Angeles, nhà thần kinh và nội tiết học (neuroendocrinologist) Charles Barraclough thấy rằng nếu một con chuột cái ngay trước hoặc sau khi sinh được chích testosterone, tức kích thích tố sinh dục nam, thì con chuột cái này mãi mãi vô sinh vì mất khả năng rụng trứng. Ngược lại, năm 1965, tại ĐH Oxford, nhà thần kinh và nội tiết học Geoffrey Harris khám phá thấy rằng nếu chích estrogen (kích thích tố sinh dục nữ) cho một con chuột đực đã lớn nhưng bị bị lấy mất testosterone từ trước, thì con chuột này có hiện tượng trải qua diễn trình rụng trứng như một con chuột cái bình thường.
Nghiên cứu thêm, Harris nhận ra một bất cân xứng: một con chuột đực mới sinh bị lấy mất testosterone sẽ có hiện tượng rụng trứng như con chuột cái, nhưng một con chuột cái mới sinh bị mất estrogen vẫn tiếp tục phát triển như con chuột cái: dù buồng trứng đã bị cắt bỏ, óc của nó vẫn sản sinh kích thích tố để rụng trứng. Thành thử, các khoa học gia hiểu ra rằng không có testosterone, thiết kế di truyền nam tính vô giá trị. Thực vậy, để óc con chuột đực được tổ chức thực sự như con đực, nó phải có testosterone nội trong 5 ngày đầu đời. Sau 5 ngày đó, cửa may mắn có nam tính của nó bị đóng lại, và con đực di truyền sẽ lớn lên với một óc “cái”. Ngược lại, óc con chuột cái không cần estrogen để được tổ chức; cứ để yên, nó vẫn trở thành con chuột cái.
Tóm lại, “óc ngầm định” (default brain) cho cả hai giới tính chuột là nữ, và testosterone cần thiết cho cả việc tạo ra óc nam lẫn việc tạo ra bộ phận sinh dục nam. Ý niệm này được khoa sinh học thần kinh dùng để nghiên cứu nguồn gốc xu hướng tính dục, căn cứ vào nguyên tắc “dị biệt hóa tính dục bộ óc”.
Nguyên tắc trên dẫn các nhà khoa học tới việc khám phá ra sự khác biệt trông thấy giữa óc chuộc đực và óc chuột cái. Chúng khác nhau về con số các nối kết tiếp hợp (synapses) giữa các tế bào óc tại vùng hypothalamus (điều khiển thân nhiệt, đói khát, tính dục…): chuột cái có nhiều tiếp hợp hơn, khiến não bộ của nó có hình dáng khác với hình dáng não bộ chuột đực. Họ gọi hiện tượng này là tính lưỡng hình về tính dục (sexual dimorphism).
Nhưng đó là chuột. Nơi óc người liệu có thứ lưỡng hình ấy hay không? Năm 1982, Christine de Lacoste-Utamsine và Ralph Holloway quả quyết là có. Nhưng thực ra, khám phá của họ bị tranh cãi rất nhiều.
Tuy vậy, vào năm 1990, Dick Swaab, một nhà nghiên cứu Hòa Lan, cho rằng mình đã tìm ra một nhóm tế bào trong óc người gọi là nhân thượng giao thoa (suprachiasmatic nucleus). Nhân này có tính lưỡng hình, nhưng đặc biệt lưỡng hình về xu hướng tính dục chứ không hẳn về phái tính nghĩa là ở đàn ông đồng tính, nó lớn gấp đôi so với đàn ông dị tính. Từ đó, có người kết luận về phương diện giải phẫu, có sự khác nhau giữa người đồng tính và người dị tính.
Nhưng theo Simon Levay, một nhà sinh học thần kinh Mỹ, phần óc được Swaab nghiên cứu không liên hệ gì tới việc điều hòa tác phong tính dục. Nhân thượng giao thoa điều khiển nhịp điệu hàng ngày của cơ thể; tính lưỡng hình tại đó chỉ tạo ra một hiệu quả, chứ không phải là nguyên nhân của xu hướng tính dục. Tại sao không khảo sát chính hypothalamus, vùng có liên hệ bẩm sinh với tác phong tính dục.
Năm 1991, LeVay công bố kết luận của mình trong một bài báo tựa là "A Difference in Hypothalamic Structure Between Heterosexual and Homosexual Men" (Một Dị Biệt trong Cơ Cấu Hypothalamus giữa Đàn Ông Dị Tính và Đàn Ông Đồng Tính). Ông bảo hai nhân INAH 2 (interstitial nuclei [nhân kẽ] of the anterior hypothalamus) và INAH 3 trong hypothalamus thì lớn nơi các cá nhân có xu hướng làm tình với đàn bà (tức đàn ông dị tính và đàn bà đồng tính), và nhỏ nơi các cá nhân có xu hướng làm tình với đàn ông (tức đàn bà dị tính và đàn ông đồng tính).
Ông đi đến kết luận đó nhờ mổ xẻ các mô trong óc 40 người đã qua đời, trong đó có 19 người đàn ông đồng tính, tất cả đều qua đời vì bệnh AIDS; 16 người được coi là đàn ông dị tính, trong đó, 6 người chích ma túy và qua đời vì bệnh AIDS; và 6 người được coi là đàn bà dị tính. Không có tế bào nào lấy từ đàn bà đồng tính.
Ông thấy: lượng nhân INAH3 nhiều gấp hai lần nơi đàn ông dị tính, hơn nơi đàn ông đồng tính và cũng có sự dị biệt tương tự giữa đàn ông dị tính và đàn bà dị tính.
Tuy nhiên, chính LeVay, theo Chandler Burr, cũng thừa nhận rằng nghiên cứu của ông có một số vấn đề: mẫu nghiên cứu nhỏ, quá khác nhau về cỡ của các nhân cá thể, và kết quả hơi thiên lệch vì tất cả đàn ông đồng tính đều mắc AIDS cả. Vả lại, cho tới năm 1993, chưa có nhà nghiên cứu nào khác xét nghiệm kết quả của LeVay cả. Burr cho rằng, cho tới lúc có xét nghiệm ấy, ý niệm cho rằng người đồng tính và dị tính khác biệt nhau về giải phẫu học chỉ là một giả thuyết mà thôi.
Chandler Burr cũng cho rằng cả vấn đề lưỡng hình của bộ óc cũng vẫn đang được tranh cãi gay gắt. Nhiều thử nghiệm sau này cho thấy những kết quả không nhất quán. Anne Fausto-Sterling và William Byne liệt kê các thử nghiệm nhằm xét nghiệm tính lưỡng hình tính dục và cho rằng: “1985: không có dị biệt giới tính về hình dáng, chiều rộng hay diện tích. 1988: ba quan sát viên độc lập không phân biệt được nam với nữ. 1989: đàn bà có các diện tích thuộc thể chai (callosal) nhỏ hơn nhưng lại có diện tích lớn hơn về phần trăm ở dải băng (splenium) và dải băng phồng ra hơn”…
Sự không nhất quán trên, theo Burr, một phần do phương pháp sử dụng, tức so sánh óc của những ai, và so sánh thế nào. Người đã chết hay người còn sống? Già hay trẻ hay cả hai? Khỏe mạnh hay đau yếu? Dùng chính bộ óc hay hình chụp?
Kích thích tố và di truyền học
Chính LeVay gọi việc nghiên cứu này là “vở tuồng ướt át kéo dài nhất xưa nay của khoa sinh học thần kinh”. Dù sao, thì cũng không thể dựa vào nó mà đưa ra các kết luận lố lăng. Thiết lập được sự dị biệt không đồng nghĩa với việc tìm được nguyên nhân. Giải phẫu học không phải là căn bệnh học, cùng lắm nó chỉ là khởi điểm cho các nghiên cứu sâu xa hơn về kích thích tố và di truyền học.
Trong nhiều thập niên, các nhà khoa học đã đưa ra “lý thuyết kích thích tố người lớn” về xu hướng tính dục, mà cho rằng người đàn ông đồng tính trưởng thành có lượng testosterone thấp hơn, hay ngược lại có lượng estrogen cao hơn người đàn ông dị tính, và người đàn bà đồng tính và người đàn bà dị tính cũng cho thấy cùng một mẫu mực như vậy.
Năm 1984, Heino Meyer-Bahlburg, một nhà sinh học thần kinh của ĐH Columbia, phân tích kết quả của 27 cuộc nghiên cứu để xét nghiệm lý thuyết trên. Theo ông, nhiều nghiên cứu không cho thấy sự khác nhau nào về mức testosterone và estrogen nơi người đàn ông đồng tính và nơi người đàn ông dị tính. Ba cuộc nghiên cứu cho thấy người đồng tính có mức testosterone thấp hơn nhiều, nhưng ông tin rằng 2 trong 3 cuộc nghiên cứu này không vững về phương diện phương pháp và cuộc nghiên cứu thứ ba cũng ít có giá trị vì tác dụng thuốc an thần của người được nghiên cứu.
Thành thử, các nhà nghiên cứu quay qua các đối tượng tiền sinh (prenatal). Vì họ nghĩ rằng mức kích thích tố khác nhau trước khi sinh có thể tạo ra các xu hướng tình dục khác nhau. Họ tập chú nghiên cứu sự hồi tác của kích thích tố hoàng thể hóa (luteinizing-hormone feedback).
Ta biết óc tiết ra một số kích thích tố, trong đó có kích thích tố hoàng thể hóa (LH), là kích thích tố sẽ khởi diễn việc phát triển trứng trong buồng trứng của người đàn bà. Trứng càng phát triển, buồng trứng càng tiết ra số lượng estrogen nhiều hơn, kích thích não tiết ra LH nhiều hơn, là kích thích tố cổ vũ việc sản xuất thêm nhiều estrogen nữa. Diễn trình này gọi là hồi tác tích cực (positive feedback) . Nơi đàn ông, estrogen hành động thường là để ngăn cản việc sản xuất ra kích thích tố hoàng thể hóa, việc này gọi là hồi tác tiêu cực. Các dị biệt trong hồi tác LH nơi người khiến các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết cho rằng đàn ông đồng tính, vì óc của họ, trước khi sinh, không được các kích thích tố của tinh hoàn tổ chức, giống như đàn bà vậy, nên họ sẽ có hồi tác tích cực LH, giống như đàn bà dị tính, thay vì hồi tác tiêu cực như đàn ông dị tính.
Để chứng minh giả thuyết này, họ phân tích máu đàn ông đồng tính bằng cách chích vào đó một lượng estrogen. Kết quả không lạc quan bao nhiêu. Sự thiếu chắc chắn thuộc hai loại. Trước nhất, câu hỏi là các mẫu hồi tác LH đang tìm kiếm có thực sự hiện hữu nơi người không? Thứ đến, câu hỏi là: dù mẫu hồi tác này có hiện hữu đi chăng nữa liệu nó có nói cho hay được điều gì về các biến cố xẩy ra trước khi sinh?
Các nhà khoa học về thần kinh đã không trả lời nhất quán cho cả hai câu hỏi trên, dù đã cố gắng hết sức. Các cuộc nghiên cứu khác nhau đã đem lại các dữ kiện mâu thuẫn nhau.
Trong một bài báo phát hành năm 1990 của tờ Journal of Child and Adolescent Psychopharmacology, Heino Meyer-Bahlberg, nhà sinh học thần kinh của ĐH Columbia, kết luận rằng “chứng cớ hiện có cho tới nay không nhất quán, phần lớn các cuộc nghiên cứu không thỏa đáng về phương pháp, và ta không thể loại bỏ các giải thích thay thế đối với các kết quả này”.
Chính vì thế, Richard Pillard, một nhà phân tâm học tại ĐH Y Khoa Boston đưa ra một giả thuyết khác về nguồn gốc của đồng tính luyến ái. Theo ông, lúc còn là bào thai (fetuses), con người thuộc cả hai giới tính đều khởi đầu với đủ bộ nguyên bào (anlages) nữ và nam, tức tiền thân của các cơ phận sinh dục bên trong: cửa mình, dạ con, và ống fallopian của đàn bà, và ống dẫn tinh, tuyến tinh dịch và ống xuất tinh của đàn ông. Những ống này có tên là ống Mullerian (nữ) và ống Wolffian (nam), chúng nằm ở phần dưới của bụng.
Lúc thụ thai, một bào thai được cung cấp nhiễm sắc thể giới tính (chromosomal sex) là thứ quyết định nó sẽ phát triển tinh hoàn hay buồng trứng. Nơi người, cũng như nơi chuột, bào thai nữ cứ thế phát triển, không cần bất cứ kích thích tố nào. Diễn trình trở thành nam thì phức tạp hơn, cần tới hai loại kích thích tố: kích thích tố nam (androgen) từ tinh hoàn thúc đẩy ống Wolffian phát triển và chất thứ hai gọi là kích thích tố ngăn cản Mullerian để chặn ống Mullerian không phát triển và phi nữ hóa bào thai nam.
Pillard tin rằng kích thích tố ngăn cản Mullerian có thể ảnh hưởng tới cơ cấu óc. Thiếu nó hay nó hoạt động không đúng cách có thể khiến óc không phi nữ hóa được, do đó, tạo ra tình trạng Pillard gọi là ái nam ái nữ tâm sinh dục (psychosexual androgyny).
Theo Chandler Burr, dù chứng cớ của các cuộc nghiên cứu về kích thích tố, trong một số trường hợp, có cho thấy sinh học đóng vai trò trong xu hướng tính dục, nhưng chưa đạt tới mức có thể kết luận vững chắc. William Byne, chẳng hạn, nói rằng: “Nếu giả thuyết kích thích tố tiền sinh đúng, thì người ta phải thấy tỷ lệ cao các người đồng tính có chứng cớ bị xáo trộn nội tiết trước khi sinh, như các bất bình thường về bộ phận sinh dục hay tuyến sinh dục. Nhưng ta không thấy điều này”.
Nhiều người vì thế đi sâu vào vấn đề bằng cách đi tìm nguyên nhân di truyền học của xu hướng đồng tính. Năm 1963, Kulbir Gill, một khoa học gia từ Ấn Độ nhưng làm việc tại ĐH Yale thử nghiệm trên ruồi dấm Drosophila: áp dụng quang tuyến X vào ruồi dấm rồi quan sát tác phong của con cái chúng, ông nhận thấy ruồi dấm nam do chúng đẻ ra “ve vãn” các con ruồi nam khác, thậm chí leo lên lưng con ruồi dấm nam, nhưng không giao hợp. Đặc tính này truyền tới cả hàng trăm thế hệ về sau. Tính di truyền này có thể áp dụng vào người hay không? Nhà khoa học Jeffrey Hall cho rằng nhân hình hóa tác phong của côn trùng là điều nguy hiểm. Làm sao ta có thể đặt tác phong của ruồi ngang hàng với một chuyện lớn lao vốn sản sinh ra những tri giác thẩm mỹ và trí thức nơi con người, với một điều nói lên cả nhu cầu xúc cảm lẫn tình yêu và cái đau của tình yêu nữa. Hall kết luận: di truyền học về đồng tính nhân bản khó có thể chỉ do một yếu tố như trong ruồi dấm Drosophiala.
Chính vì thế, nhà tâm lý học Michael Bailey của ĐH Northwestern và Richard Pillard của ĐH Boston bắt đầu nghiên cứu các đặc điểm di truyền của những cặp song sinh để tìm ra nguyên nhân của đồng tính nhân bản. Họ so sánh 56 người song sinh từ một trứng duy nhất (monozygotic twins), 54 người song sinh từ hai trứng (dizygotic twins) và 57 anh em nuôi không liên hệ gì về di truyền. Anh em song sinh từ một trứng, mà ta thường gọi là anh em sinnh đôi y hệt nhau (identical twins), rất quan trọng vì họ có bộ gien y hệt nhau, kể cả cặp nhiễm sắc thể tính dục. Nếu đồng tính luyến ái phần lớn do nguồn di truyền, thì càng có liên hệ máu mủ thì xu hướng tính dục càng giống nhau hơn. Và đó là điều hai nhà khoa học này tìm ra. Họ tìm thấy tỷ lệ tương đồng 11% cho anh em nuôi, 22% cho anh em song sinh từ hai trứng và 52% cho anh em song sinh từ một trứng. Từ đó, người ta cho rằng đồng tính luyến ái phần lớn do yếu tố di truyền.
Nhưng phần lớn vẫn không phải là tất cả. Pillard cho rằng các nhập lượng môi trường và sinh học mà đứa trẻ đang phát triển nhận được vừa lớn lao vừa hết sức phức tạp. Theo ông, “bất kể các biến tố khác này là gì, chúng cũng phải hiện diện từ sớm” trong diễn trình phát của đứa nhỏ. Hơn nữa, ông cũng buộc phải thừa nhận rằng: “chắc chắn có những nẻo đường khác nhau dẫn tới cùng một kết quả. Xét về cá thể, chắc chắn có những trường hợp phần lớn hay tất cả do gien, và có những trường hợp rất có thể hoàn toàn do môi trường. Cuộc phân tích của chúng tôi [về các người song sinh] không nói gì về cá thể cả”. Jeffrey Hall cũng nghĩ như thế. Ông cho rằng một tác phong đơn giản như nhẩy cao, chẳng hạn, cũng rất phức tạp về di truyền học, liên hệ tới đủ thứ gien và các yếu tố không ai biết khác. Mà thực sự nhận diện được các gien này lại là một chuyện khác nữa, vì đồng tính luyến ái có thể có tính đa gien (polygenic), trong đó, mỗi gien chỉ có một hậu qủa nhỏ”.
Hiện tình nghiên cứu sinh học đồng tính
Với những trình bầy mà chúng tôi cho là tương đối khách quan trên đây về khuynh hướng đồng tính và nguyên nhân gây ra nó, Chandler Burr, như trên đã nói, vốn là một người đồng tính, vẫn cho rằng “dù là ở một thời điểm tương đối sớm sủa như hiện nay, từ màng nhện đủ thứ phức tạp, người ta càng ngày càng thấy rõ: các yếu tố sinh học đóng một vai trò trong việc xác định ra xu hướng tính dục của con người”. Ông hy vọng một ngày kia người ta sẽ tìm ra một thứ “gien đồng tính”. Tuy nhiên theo ông, “khoa học chỉ có thể là cái giá ọp ẹp để dựng toà nhà nhân quyền. Khoa học có thể soi sáng, giáo huấn, phơi bầy các huyền thoại mà ta vốn sống với. Nó có thể đưa ra các phân biệt khách quan, như giữa bệnh lý học tính dục một bên và bên kia là khuynh hướng tính dục. Nhưng ta không thể dựa trên khoa học để cung cấp các câu trả lời đầy đủ cho các câu hỏi có tính nền tảng liên quan tới nhân quyền, tự do và khoan dung nhân bản. Vấn đề người đồng tính trong sinh hoạt Hoa Kỳ không xuất hiện trong phòng thí nghiệm. Các nguyên tắc để giải quyết vấn đề này cũng không từ đó mà có”.
Trong phần dẫn nhập, Chandler Burr cho rằng điều làm cho khoa học trong trường hợp này trở thành nghi vấn, ngoài những khó khăn kỹ thuật cố hữu trong nghiên cứu sinh học, nhất là nghiên cứu sinh học thần kinh, là ngành nghiên cứu quan trọng nhất trong cuộc tìm hiểu này, phải kể đến bản chất khôn lường (ineffable) của bản ngã tâm sinh dục của ta.
Bản ngã trên bao gồm một vũ trụ kích thích và đáp ứng bao la, đủ mọi nhậy cảm thẩm mỹ và gợi dục. Nhiều người coi các cố gắng dùng các hạn từ sinh học để giải thích vũ trụ này là một thái độ xấc xược, ngạo mạn. Có người không cho đó là ngạo mạn mà chỉ là cường điệu thổi phồng: họ sợ rằng đây chỉ là những khám phá để quảng cáo, không khéo chỉ dẫn tới đường cùng trí thức.
Burr cũng cho rằng điều không ai chối cãi là cuộc nghiên cứu sinh học thần kinh đôi khi được theo đuổi một cach hết sức ngu dốt. Bộ óc vẫn là một cơ quan mầu nhiệm nói chung, chưa kể tới các chức năng chuyên biệt. Phần lớn các khoa học gia vẫn tin là họ chưa biết được bao nhiêu.
Vả lại, theo Burr, hiện nay, vì vấn đề đồng tính sặc mùi chính trị, nên một số nhà nghiên cứu không hẳn được thúc đẩy bởi quan tâm khoa học mà bởi nhiều quan tâm bản thân khác. Chưa kể đa phần các nhà khoa học đang nghiên cứu đồng tính luyến ái đều là người đồng tính.
Có người cho rằng các nhận định trên đây của Burr đã lỗi thời. Từ 1993 đến nay, nhiều phát kiến mới trong lãnh vực này đã được thực hiện làm cho cách nhìn về đồng tính luyến ái đã thay đổi triệt để.
Thực hư ra sao? Bách khoa mở Wikipedia cho rằng: cho đến nay, người ta vẫn chưa chứng minh một cách dứt điểm được yếu tố duy nhất và độc đáo nào xác định ra khuynh hướng tính dục: các nghiên cứu khác nhau đang đưa tới các chủ trương khác nhau, thậm chí chống chọi nhau; nên phần đông các khoa học gia cho rằng một tổng hợp các nhân tố di truyền, kích thích tố và xã hội đã xác định ra khuynh hướng này. Ngay các lý thuyết sinh học, tức các lý thuyết đang ăn khách hiện nay, cũng có thể bao gồm hành động hỗ tương khá phức tạp của các nhân tố di truyền và môi trường tử cung lúc sớm: gien, kích thích tố tiền sinh và cơ cấu bộ não.
Như trên đã nói, Bailey và Pillard từng nghiên cứu các mẫu song sinh để tìm ra sự giống nhau về khuynh hướng tính dục. Nơi những người song sinh từ một trứng, họ tìm thấy tỷ lệ 52% giống nhau. Nhưng mẫu nghiên cứu của họ chỉ là 59 người. Năm 2000, Bailey cùng hai khoa học gia khác mở rộng mẫu nghiên cứu lên 4,901, thì tỷ lệ giống nhau chỉ còn là 20%.
Năm 2002, Bearman và Brückner còn tìm thấy một tỷ lệ thấp hơn nữa: họ nghiên cứu 289 cặp song sinh từ một trứng và 495 cặp song sinh từ hai trứng và chỉ tìm ra tỷ lệ giống nhau 7.7%, khiến họ kết luận rằng “kết quả này không cho thấy ảnh hưởng di truyền độc lập đối với bối cảnh xã hội”.
Kết quả tương tự như thế đã đến với cuộc nghiên cứu gần đây nhất vào năm 2010 trên tất cả các cặp song sinh trưởng thành tại Thụy Điển (hơn 7,600 người song sinh): tác phong đồng tính được giải thích bởi cả nhân tố di truyền lẫn các nguồn môi trường chuyên biệt cá thể, như môi trường tiền sinh, kinh nghiệm với bệnh tật và chấn thương, cũng như bạn bè cùng lứa, và kinh nghiệm tính dục); trong khi ấy, dù ảnh hưởng của các biến tố môi trường chung như môi trường gia đình và các tác phong xã hội có yếu hơn, nhưng vẫn gây hậu quả quan trọng. Kết luận là khuynh hướng tính dục không thể qui duy nhất cho các nhân tố di truyền.
Trên đây, chúng tôi cũng đã nhắc tới hy vọng của Burr rằng một ngày kia một gien đồng tính (gay gene) sẽ được tìm ra. Dean Hamer đã cố gắng làm việc này từ năm 1993: ông nghiên cứu sự liên kết nhiễm sắc thể X nơi các anh em đồng tính: 33 trong số 40 cặp anh em này có gien đẳng vị (alleles) giống nhau tại vùng Xq28. Vùng Xq28 này bao gồm các gien được gọi là gien đồng tính. Tuy nhiên, hai cuộc nghiên cứu sau đó trong thập niên 1990 mang lại các kết quả không đồng nhất. Một cuộc nghiên cứu không được công bố cho thấy sự liên kết yếu ớt với vùng Xq28, trong khi cuộc nghiên cứu năm 1999 không cho thấy sự liên kết có ý nghĩa nào về thống kê với gien đẳng vị. Chính Hamer, sau khi tổng duyệt các nghiên cứu của ông và hai cuộc nghiên cứu này, đã cho rằng vùng Xq28 gây 1 hậu quả có ý nghĩa nhưng không độc chiếm. Đàng khác cũng có nghiên cứu cho thấy các gien khác phải hiện diện mới giải thích được tính di truyền trọn vẹn của khuynh hướng tính dục.
Trong các cuộc phỏng vấn của báo chí, các nhà nghiên cứu vẫn nhấn mạnh rằng không nên coi chứng cớ về ảnh hưởng di truyền như là một thứ định mệnh thuyết. Theo Hamer và Bailey các khía cạnh di truyền chỉ là một trong nhiều nguyên nhân tạo ra đồng tính luyến ái.
Đúng là thống kê cho thấy hiện nay tại Hoa Kỳ, số người ủng hộ hôn nhân đồng tính nhiều hơn số người phản đối nó và khuynh hướng này rất nhất quán ít nhất từ năm 2001 tới năm 2015. Theo Pew, Năm 2001, số người ủng hộ hôn nhân đồng tính chỉ có 35%, trong khi những người chống đối chiếm 57%. Nhưng năm 2015, số người ủng hộ chiếm 55% trong khi số người chống đối chiếm 39%.
Điều đáng nói là xu hướng của người Công Giáo: năm 2001, 40% người Công Giáo ủng hộ hôn nhân đồng tính, nhưng tới năm 2015, họ chiếm tới 57%, vượt quá cả tỷ lệ của cả nước nói chung, chỉ thua người Thệ Phản Da Trắng (62%) nhưng hơn hẳn người Thệ Phản Da Đen (34%) và nhất là người Thệ Phản Da Trắng Tin Lành (white evangelical protestants) (24%). Chẳng lạ gì chánh án Kennedy, tuy là người Công Giáo, nhưng đã trở thành người cầm trịch phán quyết hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính.
Không ai hoài nghi tính khoa học của các con số thống kê trên, nếu chỉ xét tới khía cạnh “end product” (sản phẩm cuối cùng) của nó. Ít có người thắc mắc do đâu mà có những con số như vậy. Như trên đã nói phe đồng tính đã và đang dùng đủ mọi phương tiện để len lỏi vào những cơ phận có ảnh hưởng lớn thuộc mọi phạm vi của đời sống xã hội để nhịp nhàng lèo lái tâm thức xã hội về phía họ. Họ không ngại “mua chuộc” cả thần học, như trên đã nói, song song với các ngành học thuật khác mà mạnh nhất vẫn là khoa học.
Diễn biến khoa học
Năm 1973, Hội Tâm Thần Hoa Kỳ chính thức loại đồng tính luyến ái ra khỏi bảng liệt kê các bệnh tâm thần mà chính họ đã liệt kê đầu tiên, và do đó, mở đầu cho một chiến dịch đại thể và ồ ạt tranh đấu đòi quyền bình đẳng cho người đồng tính.
Chandler Burr, một người đồng tính, trong bài “Homosexualtity and Biology”, cho rằng việc một số người làm tình với người đồng tính đã có từ thời cổ đại. Nhưng người ta lưu ý tới các hành vi đồng tính, chứ không lưu ý tới người làm hành vi ấy. Ngay thời Trung Cổ, dù hành vi đồng tính bị coi là một tội, nhưng người làm hành vi này không bị coi như một loại người khác. Thậm chí khỏang giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 18, hành vi đồng tính còn bị coi là tội phạm nữa, nhưng người đồng tính vẫn không bị coi là một loại người bất thường.
Tâm thức trên thay đổi vào thế kỷ 19, khi ngành y khoa và nhất là ngành tâm thần coi đồng tính luyến ái là một hình thức của bệnh tâm thần. Cho tới thập niên 1940, đồng tính luyến ái vẫn được thảo luận như là một khía cạnh rối loạn nhân cách có tính tâm thần, hoang tưởng và xa lánh giao tiếp xã hội (schizoid).
Thái độ trên bắt đầu thay đổi với Alfred Kinsey. Trong phúc trình viết năm 1948 tựa là Tác Phong Tính Dục Nơi Người Phái Nam, nhà nghiên cứu tính dục này cho rằng đồng tính xẩy ra trong mọi gia đình, giai cấp, và bối cảnh giáo dục và địa dư. Nhưng chính Kinsey thì chưa có khả năng quả quyết đồng tính luyến ái không phải là một căn bệnh.
Chandler cho rằng khả năng này phải đợi tới năm 1956 với phúc trình của Evelyn Hooker đệ nạp tại Hội Tâm Lý Học Hoa Kỳ, mới có cơ phát triển. Nữ tâm lý gia này vốn được giáo dục để tin rằng đồng tính luyến ái là một bệnh tâm thần. Nhưng một ngày kia, người học trò đồng tính của cô khẩn khoản thưa với cô: “Này Evelyn, nhiệm vụ khoa học gia của cô là phải nghiên cứu những người như tôi”. Cô do dự. Nhưng rồi một khoa học gia khác khuyên cô nên làm cuộc nghiên cứu này: “anh ta nói đúng, mình đâu có biết gì về những người như anh ta”. Thế là, sau khi tìm và nhận được một cấp khoản của Viện Sức Khỏe Tâm Thần Quốc Gia, cô chọn 30 người đàn ông đồng tính làm đối tượng nghiên cứu và 30 người đàn ông không đồng tính làm đối tượng so sánh (controls). Tất cả những người này chưa bao giờ nhận được sự điều trị tâm thần nào.
Cô cho họ làm nhiều trắc nghiệm tâm lý, kể cả trắc nghiệm Rorschach (ink-blot) để tạo ra 60 hồ sơ tâm lý. Cô loại bỏ bất cứ dấu chỉ căn cước nào khỏi 60 hồ sơ này, rồi trao chúng cho 3 tâm lý gia nổi tiếng giải thích. Cả ba tâm lý gia này đều không nhận ra ai là đồng tính ai là dị tính. Kết quả này chứng tỏ không thể định nghĩa đồng tính luyến ái là một bệnh tâm thần. Chính vì thế năm 1973, Hội Tâm Thần Hoa Kỳ đã loại nó ra khỏi bảng liệt kê các bệnh tâm thần của mình (DSM: Diagnostic and Statistical Manual).
Thực ra, vấn đề không đơn giản như thế. Robert R. Reilly, tác giả cuốn “Making Gay OK: How Rationalizing Homosexual Behavior Is Changing Everything” (Ignatius Press, 2014) và là cựu giám đốc Đài VOA, cựu phụ tá đặc biệt của TT R. Reagan, thì cho rằng quyết định trên là do sự dàn dựng của các nhà tranh đấu đồng tính.
Thực thế, theo Tiến Sĩ Ronald Bayer, một bác sĩ tâm thần ủng hộ đồng tính luyến ái, và là tác giả cuốn Đồng Tính Luyến Ái và Tâm Thần Học Hoa kỳ: Đường Lối Chính Trị của Chẩn Đoán (1981), vào năm 1970, các người cổ vũ đồng tính luyến ái đã tấn công Hiệp Hội Tâm Thần lần đầu tiên khi Hiệp Hội này tổ chức hội nghị tại San Francisco. Họ cắt ngang lời các diễn giả, la ó giễu cợt các bác sĩ tâm thần nào coi đồng tính luyến ái là rối loạn tâm lý. Năm sau, nhà vận động đồng tính Frank Kameny cùng với Mặt Trận Giải Phóng Đồng Tính đã diễu hành phản đối hội nghị của APA. Tại hội nghị 1971, Kameny đã cướp micrô và thét lên: “Giới chuyên gia tâm thần là hiện thân của kẻ thù. Các nhà tâm thần đã khơi mào một cuộc chiến hủy diệt không có hồi kết chống lại chúng tôi. Các ông nên xem đây là sự tuyên chiến chống lại các ông.”
Những người đồng tính đã giả mạo giấy tờ của Hiệp Hội và tiếp cận được khu vực trưng bày của hội nghị. Họ đe dọa bất cứ ai cho rằng đồng tính luyến ái cần phải được chữa trị. Kameny đã tìm được một đồng minh trong Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ là Kent Robinson, người đã giúp ông yêu cầu loại đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh tâm thần. Tại hội nghị năm 1972, những người hoạt động của phong trào đồng tính luyến ái đã được phép lập một gian trưng bày trong hội nghị với cái tên: “Đồng Tính-Tự Hào- Lành Mạnh.”
Kameny sau đó được phép trở thành một thành phần của ban hội thẩm, cùng các bác sĩ tâm thần thảo luận về đồng tính luyến ái. Việc loại đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách chẩn đoán bệnh là kết quả của quyền lực chính trị, sự đe dọa nhưng không phải là những khám phá khoa học. Với nhiều sức ép chính trị, một ủy ban của Hiệp Hội đã họp kín năm 1973 và biểu quyết rút đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh lý tâm thần.
Theo lời Tiến Sĩ Jeffrey Santinnover, tác giả cuốn Đồng Tính Luyến Ái và Chính Trị của Sự Thật, những người phản đối điều trên sẽ có 15 phút để phản biện. Tất nhiên họ không kịp xoay chuyển. Trong khi ấy, tổ chức Lực Lượng Những Người Đồng Tính Quốc Gia đã mua danh sách địa chỉ thư tín của các thành viên Hiệp Hội và gửi một lá thư đến các thành viên này, thúc giục họ bỏ phiếu để rút đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách rối nhiễu tâm thần. Không một thành viên nào biết được được rằng những thư tín đó được chi trả bởi nhóm cổ vũ đồng tính này.
Theo lời Satinnover, “hiện tại, càng lúc càng thấy rõ hơn quyết định của Hiệp Hội Tâm Thần năm 1973 bị thúc đẩy bởi chính trị nhiều như thế nào. Khi tham dự một hội thảo tại Anh năm 1994, tôi gặp một người, anh đã kể tôi nghe một chuyện mà anh chưa nói với ai. Anh ta đã từng sống trong giới đồng tính nhiều năm nhưng sau đó không tiếp tục nữa. Anh thuật lại tỉ mỉ rằng sau quyết định của Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ năm 1973, anh ấy và người tình đồng tính cùng với một nhân vật cấp cao trong Ban Quản trị của Hiệp Hội và người tình đồng tính của nhân vật ấy đã tổ chức ăn mừng chiến thắng của họ như thế nào. Ông ta chính là một trong số những người nhân vật đồng tính được có vị trí cao trong Hiệp Hội, đã lèo lái mọi sự nhằm bảo đảm một chiến thắng bằng cách mua chuộc những nhân vật cao nhất để rồi trưng ra cho công chúng những thứ như thể chúng là một sự tìm tòi vô vị lợi vì sự thật.”
Trước hội nghị năm 1973 của Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ, nhiều bác sĩ tâm thần đã cố gắng tập hợp nhau phản đối những nỗ lực của những người đồng tính luyến ái đang muốn loại hành vi tình dục đồng tính ra khỏi danh sách bệnh tâm thần. Đứng đầu nhóm bác sĩ này là Tiến sĩ Irving Bieber và Charles Socarides, những người đã thành lập ủy ban phản đối việc loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh tâm thần.
Trong cuốn Chính Sách về Tình Dục và Lập Luận Khoa Học: Vấn Đề Đồng Tính Luyến Ái, Bác Sĩ Socarides cho hay “Để tuyên bố một căn bệnh ‘không phải là bệnh’, một nhóm các bác sĩ đa khoa (practitioner) đã loại nó ra khỏi danh sách các rối nhiễu tâm tính dục. Hành động này càng đáng nói hơn khi người ta xem nó như một hành động xem thường và loại bỏ một cách tùy tiện không chỉ hàng trăm báo cáo tâm thần học, phân tâm học mà còn gạt đi những nghiên cứu nghiêm túc của những nhóm bác sĩ tâm thần, các nhà tâm lý và giáo dục trong hơn 70 năm qua…”
Socarides nói tiếp: “Trong 18 năm sắp tới, quyết định này của Hiệp Hội sẽ như một con ngựa thành Troy, nó sẽ mở toang những cánh cổng để làm lan rộng những thay đổi xã hội và tâm lý trong những thói quen tập quán tình dục và hơn thế nữa. Quyết định này sẽ được sử dụng trong nhiều dịp, cho nhiều mục đích nhằm bình thường hóa chuyện đồng tính và nâng tầm nó lên đến một mức độ đáng trân trọng.
“Đối với một số nhà tâm thần học Hoa Kì, hành động loại bỏ này vẫn là một sự nhắc nhở ớn lạnh, đó là nếu người ta không chiến đấu cho những nguyên tắc mang tính khoa học thì những nguyên tắc đó sẽ bị mất đi – một lời cảnh tỉnh: nếu người ta không chấp nhận những ngoại lệ đối với khoa học, chúng ta sẽ trở thành cái bẫy của óc bè phái chính trị và là phương tiện truyền bá những điều dối trá cho đám đông quần chúng cả tin, thiếu thông tin, cho cả ngành y và khoa học nghiên cứu hành vi”.
Thua keo này bày keo khác
Việc Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ bị vạch mặt như trên không làm nản lòng những người tranh đấu cho đồng tính. Họ quay qua các lãnh vực khác, các lãnh vực mà họ tin là sẽ đủ mạnh để đánh gục lý chứng những người chống đối đồng tính luyến ái.
Mà dù kết luận của Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ có dựa trên khoa học đi chăng nữa, thì theo Chandler Burr, nó vẫn chỉ cho người ta thấy đồng tính luyến ái không là gì mà thôi, chứ chưa cho biết nó là cái gì và nhất là do đâu mà có. Căn bệnh học (etiology) vì thế chắc chắn phải nhờ sinh học thần kinh (neurobiology). Câu hỏi là: về phương diện sinh học, người đồng tính và người dị tính có khác nhau hay không?
Trước khi trả lời câu hỏi trên, các nhà sinh học muốn trước nhất trả lời câu hỏi có liên hệ: về phương diện thần kinh học, đàn ông khác đàn bà như thế nào?
Năm 1959, tại ĐH California ở Los Angeles, nhà thần kinh và nội tiết học (neuroendocrinologist) Charles Barraclough thấy rằng nếu một con chuột cái ngay trước hoặc sau khi sinh được chích testosterone, tức kích thích tố sinh dục nam, thì con chuột cái này mãi mãi vô sinh vì mất khả năng rụng trứng. Ngược lại, năm 1965, tại ĐH Oxford, nhà thần kinh và nội tiết học Geoffrey Harris khám phá thấy rằng nếu chích estrogen (kích thích tố sinh dục nữ) cho một con chuột đực đã lớn nhưng bị bị lấy mất testosterone từ trước, thì con chuột này có hiện tượng trải qua diễn trình rụng trứng như một con chuột cái bình thường.
Nghiên cứu thêm, Harris nhận ra một bất cân xứng: một con chuột đực mới sinh bị lấy mất testosterone sẽ có hiện tượng rụng trứng như con chuột cái, nhưng một con chuột cái mới sinh bị mất estrogen vẫn tiếp tục phát triển như con chuột cái: dù buồng trứng đã bị cắt bỏ, óc của nó vẫn sản sinh kích thích tố để rụng trứng. Thành thử, các khoa học gia hiểu ra rằng không có testosterone, thiết kế di truyền nam tính vô giá trị. Thực vậy, để óc con chuột đực được tổ chức thực sự như con đực, nó phải có testosterone nội trong 5 ngày đầu đời. Sau 5 ngày đó, cửa may mắn có nam tính của nó bị đóng lại, và con đực di truyền sẽ lớn lên với một óc “cái”. Ngược lại, óc con chuột cái không cần estrogen để được tổ chức; cứ để yên, nó vẫn trở thành con chuột cái.
Tóm lại, “óc ngầm định” (default brain) cho cả hai giới tính chuột là nữ, và testosterone cần thiết cho cả việc tạo ra óc nam lẫn việc tạo ra bộ phận sinh dục nam. Ý niệm này được khoa sinh học thần kinh dùng để nghiên cứu nguồn gốc xu hướng tính dục, căn cứ vào nguyên tắc “dị biệt hóa tính dục bộ óc”.
Nguyên tắc trên dẫn các nhà khoa học tới việc khám phá ra sự khác biệt trông thấy giữa óc chuộc đực và óc chuột cái. Chúng khác nhau về con số các nối kết tiếp hợp (synapses) giữa các tế bào óc tại vùng hypothalamus (điều khiển thân nhiệt, đói khát, tính dục…): chuột cái có nhiều tiếp hợp hơn, khiến não bộ của nó có hình dáng khác với hình dáng não bộ chuột đực. Họ gọi hiện tượng này là tính lưỡng hình về tính dục (sexual dimorphism).
Nhưng đó là chuột. Nơi óc người liệu có thứ lưỡng hình ấy hay không? Năm 1982, Christine de Lacoste-Utamsine và Ralph Holloway quả quyết là có. Nhưng thực ra, khám phá của họ bị tranh cãi rất nhiều.
Tuy vậy, vào năm 1990, Dick Swaab, một nhà nghiên cứu Hòa Lan, cho rằng mình đã tìm ra một nhóm tế bào trong óc người gọi là nhân thượng giao thoa (suprachiasmatic nucleus). Nhân này có tính lưỡng hình, nhưng đặc biệt lưỡng hình về xu hướng tính dục chứ không hẳn về phái tính nghĩa là ở đàn ông đồng tính, nó lớn gấp đôi so với đàn ông dị tính. Từ đó, có người kết luận về phương diện giải phẫu, có sự khác nhau giữa người đồng tính và người dị tính.
Nhưng theo Simon Levay, một nhà sinh học thần kinh Mỹ, phần óc được Swaab nghiên cứu không liên hệ gì tới việc điều hòa tác phong tính dục. Nhân thượng giao thoa điều khiển nhịp điệu hàng ngày của cơ thể; tính lưỡng hình tại đó chỉ tạo ra một hiệu quả, chứ không phải là nguyên nhân của xu hướng tính dục. Tại sao không khảo sát chính hypothalamus, vùng có liên hệ bẩm sinh với tác phong tính dục.
Năm 1991, LeVay công bố kết luận của mình trong một bài báo tựa là "A Difference in Hypothalamic Structure Between Heterosexual and Homosexual Men" (Một Dị Biệt trong Cơ Cấu Hypothalamus giữa Đàn Ông Dị Tính và Đàn Ông Đồng Tính). Ông bảo hai nhân INAH 2 (interstitial nuclei [nhân kẽ] of the anterior hypothalamus) và INAH 3 trong hypothalamus thì lớn nơi các cá nhân có xu hướng làm tình với đàn bà (tức đàn ông dị tính và đàn bà đồng tính), và nhỏ nơi các cá nhân có xu hướng làm tình với đàn ông (tức đàn bà dị tính và đàn ông đồng tính).
Ông đi đến kết luận đó nhờ mổ xẻ các mô trong óc 40 người đã qua đời, trong đó có 19 người đàn ông đồng tính, tất cả đều qua đời vì bệnh AIDS; 16 người được coi là đàn ông dị tính, trong đó, 6 người chích ma túy và qua đời vì bệnh AIDS; và 6 người được coi là đàn bà dị tính. Không có tế bào nào lấy từ đàn bà đồng tính.
Ông thấy: lượng nhân INAH3 nhiều gấp hai lần nơi đàn ông dị tính, hơn nơi đàn ông đồng tính và cũng có sự dị biệt tương tự giữa đàn ông dị tính và đàn bà dị tính.
Tuy nhiên, chính LeVay, theo Chandler Burr, cũng thừa nhận rằng nghiên cứu của ông có một số vấn đề: mẫu nghiên cứu nhỏ, quá khác nhau về cỡ của các nhân cá thể, và kết quả hơi thiên lệch vì tất cả đàn ông đồng tính đều mắc AIDS cả. Vả lại, cho tới năm 1993, chưa có nhà nghiên cứu nào khác xét nghiệm kết quả của LeVay cả. Burr cho rằng, cho tới lúc có xét nghiệm ấy, ý niệm cho rằng người đồng tính và dị tính khác biệt nhau về giải phẫu học chỉ là một giả thuyết mà thôi.
Chandler Burr cũng cho rằng cả vấn đề lưỡng hình của bộ óc cũng vẫn đang được tranh cãi gay gắt. Nhiều thử nghiệm sau này cho thấy những kết quả không nhất quán. Anne Fausto-Sterling và William Byne liệt kê các thử nghiệm nhằm xét nghiệm tính lưỡng hình tính dục và cho rằng: “1985: không có dị biệt giới tính về hình dáng, chiều rộng hay diện tích. 1988: ba quan sát viên độc lập không phân biệt được nam với nữ. 1989: đàn bà có các diện tích thuộc thể chai (callosal) nhỏ hơn nhưng lại có diện tích lớn hơn về phần trăm ở dải băng (splenium) và dải băng phồng ra hơn”…
Sự không nhất quán trên, theo Burr, một phần do phương pháp sử dụng, tức so sánh óc của những ai, và so sánh thế nào. Người đã chết hay người còn sống? Già hay trẻ hay cả hai? Khỏe mạnh hay đau yếu? Dùng chính bộ óc hay hình chụp?
Kích thích tố và di truyền học
Chính LeVay gọi việc nghiên cứu này là “vở tuồng ướt át kéo dài nhất xưa nay của khoa sinh học thần kinh”. Dù sao, thì cũng không thể dựa vào nó mà đưa ra các kết luận lố lăng. Thiết lập được sự dị biệt không đồng nghĩa với việc tìm được nguyên nhân. Giải phẫu học không phải là căn bệnh học, cùng lắm nó chỉ là khởi điểm cho các nghiên cứu sâu xa hơn về kích thích tố và di truyền học.
Trong nhiều thập niên, các nhà khoa học đã đưa ra “lý thuyết kích thích tố người lớn” về xu hướng tính dục, mà cho rằng người đàn ông đồng tính trưởng thành có lượng testosterone thấp hơn, hay ngược lại có lượng estrogen cao hơn người đàn ông dị tính, và người đàn bà đồng tính và người đàn bà dị tính cũng cho thấy cùng một mẫu mực như vậy.
Năm 1984, Heino Meyer-Bahlburg, một nhà sinh học thần kinh của ĐH Columbia, phân tích kết quả của 27 cuộc nghiên cứu để xét nghiệm lý thuyết trên. Theo ông, nhiều nghiên cứu không cho thấy sự khác nhau nào về mức testosterone và estrogen nơi người đàn ông đồng tính và nơi người đàn ông dị tính. Ba cuộc nghiên cứu cho thấy người đồng tính có mức testosterone thấp hơn nhiều, nhưng ông tin rằng 2 trong 3 cuộc nghiên cứu này không vững về phương diện phương pháp và cuộc nghiên cứu thứ ba cũng ít có giá trị vì tác dụng thuốc an thần của người được nghiên cứu.
Thành thử, các nhà nghiên cứu quay qua các đối tượng tiền sinh (prenatal). Vì họ nghĩ rằng mức kích thích tố khác nhau trước khi sinh có thể tạo ra các xu hướng tình dục khác nhau. Họ tập chú nghiên cứu sự hồi tác của kích thích tố hoàng thể hóa (luteinizing-hormone feedback).
Ta biết óc tiết ra một số kích thích tố, trong đó có kích thích tố hoàng thể hóa (LH), là kích thích tố sẽ khởi diễn việc phát triển trứng trong buồng trứng của người đàn bà. Trứng càng phát triển, buồng trứng càng tiết ra số lượng estrogen nhiều hơn, kích thích não tiết ra LH nhiều hơn, là kích thích tố cổ vũ việc sản xuất thêm nhiều estrogen nữa. Diễn trình này gọi là hồi tác tích cực (positive feedback) . Nơi đàn ông, estrogen hành động thường là để ngăn cản việc sản xuất ra kích thích tố hoàng thể hóa, việc này gọi là hồi tác tiêu cực. Các dị biệt trong hồi tác LH nơi người khiến các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết cho rằng đàn ông đồng tính, vì óc của họ, trước khi sinh, không được các kích thích tố của tinh hoàn tổ chức, giống như đàn bà vậy, nên họ sẽ có hồi tác tích cực LH, giống như đàn bà dị tính, thay vì hồi tác tiêu cực như đàn ông dị tính.
Để chứng minh giả thuyết này, họ phân tích máu đàn ông đồng tính bằng cách chích vào đó một lượng estrogen. Kết quả không lạc quan bao nhiêu. Sự thiếu chắc chắn thuộc hai loại. Trước nhất, câu hỏi là các mẫu hồi tác LH đang tìm kiếm có thực sự hiện hữu nơi người không? Thứ đến, câu hỏi là: dù mẫu hồi tác này có hiện hữu đi chăng nữa liệu nó có nói cho hay được điều gì về các biến cố xẩy ra trước khi sinh?
Các nhà khoa học về thần kinh đã không trả lời nhất quán cho cả hai câu hỏi trên, dù đã cố gắng hết sức. Các cuộc nghiên cứu khác nhau đã đem lại các dữ kiện mâu thuẫn nhau.
Trong một bài báo phát hành năm 1990 của tờ Journal of Child and Adolescent Psychopharmacology, Heino Meyer-Bahlberg, nhà sinh học thần kinh của ĐH Columbia, kết luận rằng “chứng cớ hiện có cho tới nay không nhất quán, phần lớn các cuộc nghiên cứu không thỏa đáng về phương pháp, và ta không thể loại bỏ các giải thích thay thế đối với các kết quả này”.
Chính vì thế, Richard Pillard, một nhà phân tâm học tại ĐH Y Khoa Boston đưa ra một giả thuyết khác về nguồn gốc của đồng tính luyến ái. Theo ông, lúc còn là bào thai (fetuses), con người thuộc cả hai giới tính đều khởi đầu với đủ bộ nguyên bào (anlages) nữ và nam, tức tiền thân của các cơ phận sinh dục bên trong: cửa mình, dạ con, và ống fallopian của đàn bà, và ống dẫn tinh, tuyến tinh dịch và ống xuất tinh của đàn ông. Những ống này có tên là ống Mullerian (nữ) và ống Wolffian (nam), chúng nằm ở phần dưới của bụng.
Lúc thụ thai, một bào thai được cung cấp nhiễm sắc thể giới tính (chromosomal sex) là thứ quyết định nó sẽ phát triển tinh hoàn hay buồng trứng. Nơi người, cũng như nơi chuột, bào thai nữ cứ thế phát triển, không cần bất cứ kích thích tố nào. Diễn trình trở thành nam thì phức tạp hơn, cần tới hai loại kích thích tố: kích thích tố nam (androgen) từ tinh hoàn thúc đẩy ống Wolffian phát triển và chất thứ hai gọi là kích thích tố ngăn cản Mullerian để chặn ống Mullerian không phát triển và phi nữ hóa bào thai nam.
Pillard tin rằng kích thích tố ngăn cản Mullerian có thể ảnh hưởng tới cơ cấu óc. Thiếu nó hay nó hoạt động không đúng cách có thể khiến óc không phi nữ hóa được, do đó, tạo ra tình trạng Pillard gọi là ái nam ái nữ tâm sinh dục (psychosexual androgyny).
Theo Chandler Burr, dù chứng cớ của các cuộc nghiên cứu về kích thích tố, trong một số trường hợp, có cho thấy sinh học đóng vai trò trong xu hướng tính dục, nhưng chưa đạt tới mức có thể kết luận vững chắc. William Byne, chẳng hạn, nói rằng: “Nếu giả thuyết kích thích tố tiền sinh đúng, thì người ta phải thấy tỷ lệ cao các người đồng tính có chứng cớ bị xáo trộn nội tiết trước khi sinh, như các bất bình thường về bộ phận sinh dục hay tuyến sinh dục. Nhưng ta không thấy điều này”.
Nhiều người vì thế đi sâu vào vấn đề bằng cách đi tìm nguyên nhân di truyền học của xu hướng đồng tính. Năm 1963, Kulbir Gill, một khoa học gia từ Ấn Độ nhưng làm việc tại ĐH Yale thử nghiệm trên ruồi dấm Drosophila: áp dụng quang tuyến X vào ruồi dấm rồi quan sát tác phong của con cái chúng, ông nhận thấy ruồi dấm nam do chúng đẻ ra “ve vãn” các con ruồi nam khác, thậm chí leo lên lưng con ruồi dấm nam, nhưng không giao hợp. Đặc tính này truyền tới cả hàng trăm thế hệ về sau. Tính di truyền này có thể áp dụng vào người hay không? Nhà khoa học Jeffrey Hall cho rằng nhân hình hóa tác phong của côn trùng là điều nguy hiểm. Làm sao ta có thể đặt tác phong của ruồi ngang hàng với một chuyện lớn lao vốn sản sinh ra những tri giác thẩm mỹ và trí thức nơi con người, với một điều nói lên cả nhu cầu xúc cảm lẫn tình yêu và cái đau của tình yêu nữa. Hall kết luận: di truyền học về đồng tính nhân bản khó có thể chỉ do một yếu tố như trong ruồi dấm Drosophiala.
Chính vì thế, nhà tâm lý học Michael Bailey của ĐH Northwestern và Richard Pillard của ĐH Boston bắt đầu nghiên cứu các đặc điểm di truyền của những cặp song sinh để tìm ra nguyên nhân của đồng tính nhân bản. Họ so sánh 56 người song sinh từ một trứng duy nhất (monozygotic twins), 54 người song sinh từ hai trứng (dizygotic twins) và 57 anh em nuôi không liên hệ gì về di truyền. Anh em song sinh từ một trứng, mà ta thường gọi là anh em sinnh đôi y hệt nhau (identical twins), rất quan trọng vì họ có bộ gien y hệt nhau, kể cả cặp nhiễm sắc thể tính dục. Nếu đồng tính luyến ái phần lớn do nguồn di truyền, thì càng có liên hệ máu mủ thì xu hướng tính dục càng giống nhau hơn. Và đó là điều hai nhà khoa học này tìm ra. Họ tìm thấy tỷ lệ tương đồng 11% cho anh em nuôi, 22% cho anh em song sinh từ hai trứng và 52% cho anh em song sinh từ một trứng. Từ đó, người ta cho rằng đồng tính luyến ái phần lớn do yếu tố di truyền.
Nhưng phần lớn vẫn không phải là tất cả. Pillard cho rằng các nhập lượng môi trường và sinh học mà đứa trẻ đang phát triển nhận được vừa lớn lao vừa hết sức phức tạp. Theo ông, “bất kể các biến tố khác này là gì, chúng cũng phải hiện diện từ sớm” trong diễn trình phát của đứa nhỏ. Hơn nữa, ông cũng buộc phải thừa nhận rằng: “chắc chắn có những nẻo đường khác nhau dẫn tới cùng một kết quả. Xét về cá thể, chắc chắn có những trường hợp phần lớn hay tất cả do gien, và có những trường hợp rất có thể hoàn toàn do môi trường. Cuộc phân tích của chúng tôi [về các người song sinh] không nói gì về cá thể cả”. Jeffrey Hall cũng nghĩ như thế. Ông cho rằng một tác phong đơn giản như nhẩy cao, chẳng hạn, cũng rất phức tạp về di truyền học, liên hệ tới đủ thứ gien và các yếu tố không ai biết khác. Mà thực sự nhận diện được các gien này lại là một chuyện khác nữa, vì đồng tính luyến ái có thể có tính đa gien (polygenic), trong đó, mỗi gien chỉ có một hậu qủa nhỏ”.
Hiện tình nghiên cứu sinh học đồng tính
Với những trình bầy mà chúng tôi cho là tương đối khách quan trên đây về khuynh hướng đồng tính và nguyên nhân gây ra nó, Chandler Burr, như trên đã nói, vốn là một người đồng tính, vẫn cho rằng “dù là ở một thời điểm tương đối sớm sủa như hiện nay, từ màng nhện đủ thứ phức tạp, người ta càng ngày càng thấy rõ: các yếu tố sinh học đóng một vai trò trong việc xác định ra xu hướng tính dục của con người”. Ông hy vọng một ngày kia người ta sẽ tìm ra một thứ “gien đồng tính”. Tuy nhiên theo ông, “khoa học chỉ có thể là cái giá ọp ẹp để dựng toà nhà nhân quyền. Khoa học có thể soi sáng, giáo huấn, phơi bầy các huyền thoại mà ta vốn sống với. Nó có thể đưa ra các phân biệt khách quan, như giữa bệnh lý học tính dục một bên và bên kia là khuynh hướng tính dục. Nhưng ta không thể dựa trên khoa học để cung cấp các câu trả lời đầy đủ cho các câu hỏi có tính nền tảng liên quan tới nhân quyền, tự do và khoan dung nhân bản. Vấn đề người đồng tính trong sinh hoạt Hoa Kỳ không xuất hiện trong phòng thí nghiệm. Các nguyên tắc để giải quyết vấn đề này cũng không từ đó mà có”.
Trong phần dẫn nhập, Chandler Burr cho rằng điều làm cho khoa học trong trường hợp này trở thành nghi vấn, ngoài những khó khăn kỹ thuật cố hữu trong nghiên cứu sinh học, nhất là nghiên cứu sinh học thần kinh, là ngành nghiên cứu quan trọng nhất trong cuộc tìm hiểu này, phải kể đến bản chất khôn lường (ineffable) của bản ngã tâm sinh dục của ta.
Bản ngã trên bao gồm một vũ trụ kích thích và đáp ứng bao la, đủ mọi nhậy cảm thẩm mỹ và gợi dục. Nhiều người coi các cố gắng dùng các hạn từ sinh học để giải thích vũ trụ này là một thái độ xấc xược, ngạo mạn. Có người không cho đó là ngạo mạn mà chỉ là cường điệu thổi phồng: họ sợ rằng đây chỉ là những khám phá để quảng cáo, không khéo chỉ dẫn tới đường cùng trí thức.
Burr cũng cho rằng điều không ai chối cãi là cuộc nghiên cứu sinh học thần kinh đôi khi được theo đuổi một cach hết sức ngu dốt. Bộ óc vẫn là một cơ quan mầu nhiệm nói chung, chưa kể tới các chức năng chuyên biệt. Phần lớn các khoa học gia vẫn tin là họ chưa biết được bao nhiêu.
Vả lại, theo Burr, hiện nay, vì vấn đề đồng tính sặc mùi chính trị, nên một số nhà nghiên cứu không hẳn được thúc đẩy bởi quan tâm khoa học mà bởi nhiều quan tâm bản thân khác. Chưa kể đa phần các nhà khoa học đang nghiên cứu đồng tính luyến ái đều là người đồng tính.
Có người cho rằng các nhận định trên đây của Burr đã lỗi thời. Từ 1993 đến nay, nhiều phát kiến mới trong lãnh vực này đã được thực hiện làm cho cách nhìn về đồng tính luyến ái đã thay đổi triệt để.
Thực hư ra sao? Bách khoa mở Wikipedia cho rằng: cho đến nay, người ta vẫn chưa chứng minh một cách dứt điểm được yếu tố duy nhất và độc đáo nào xác định ra khuynh hướng tính dục: các nghiên cứu khác nhau đang đưa tới các chủ trương khác nhau, thậm chí chống chọi nhau; nên phần đông các khoa học gia cho rằng một tổng hợp các nhân tố di truyền, kích thích tố và xã hội đã xác định ra khuynh hướng này. Ngay các lý thuyết sinh học, tức các lý thuyết đang ăn khách hiện nay, cũng có thể bao gồm hành động hỗ tương khá phức tạp của các nhân tố di truyền và môi trường tử cung lúc sớm: gien, kích thích tố tiền sinh và cơ cấu bộ não.
Như trên đã nói, Bailey và Pillard từng nghiên cứu các mẫu song sinh để tìm ra sự giống nhau về khuynh hướng tính dục. Nơi những người song sinh từ một trứng, họ tìm thấy tỷ lệ 52% giống nhau. Nhưng mẫu nghiên cứu của họ chỉ là 59 người. Năm 2000, Bailey cùng hai khoa học gia khác mở rộng mẫu nghiên cứu lên 4,901, thì tỷ lệ giống nhau chỉ còn là 20%.
Năm 2002, Bearman và Brückner còn tìm thấy một tỷ lệ thấp hơn nữa: họ nghiên cứu 289 cặp song sinh từ một trứng và 495 cặp song sinh từ hai trứng và chỉ tìm ra tỷ lệ giống nhau 7.7%, khiến họ kết luận rằng “kết quả này không cho thấy ảnh hưởng di truyền độc lập đối với bối cảnh xã hội”.
Kết quả tương tự như thế đã đến với cuộc nghiên cứu gần đây nhất vào năm 2010 trên tất cả các cặp song sinh trưởng thành tại Thụy Điển (hơn 7,600 người song sinh): tác phong đồng tính được giải thích bởi cả nhân tố di truyền lẫn các nguồn môi trường chuyên biệt cá thể, như môi trường tiền sinh, kinh nghiệm với bệnh tật và chấn thương, cũng như bạn bè cùng lứa, và kinh nghiệm tính dục); trong khi ấy, dù ảnh hưởng của các biến tố môi trường chung như môi trường gia đình và các tác phong xã hội có yếu hơn, nhưng vẫn gây hậu quả quan trọng. Kết luận là khuynh hướng tính dục không thể qui duy nhất cho các nhân tố di truyền.
Trên đây, chúng tôi cũng đã nhắc tới hy vọng của Burr rằng một ngày kia một gien đồng tính (gay gene) sẽ được tìm ra. Dean Hamer đã cố gắng làm việc này từ năm 1993: ông nghiên cứu sự liên kết nhiễm sắc thể X nơi các anh em đồng tính: 33 trong số 40 cặp anh em này có gien đẳng vị (alleles) giống nhau tại vùng Xq28. Vùng Xq28 này bao gồm các gien được gọi là gien đồng tính. Tuy nhiên, hai cuộc nghiên cứu sau đó trong thập niên 1990 mang lại các kết quả không đồng nhất. Một cuộc nghiên cứu không được công bố cho thấy sự liên kết yếu ớt với vùng Xq28, trong khi cuộc nghiên cứu năm 1999 không cho thấy sự liên kết có ý nghĩa nào về thống kê với gien đẳng vị. Chính Hamer, sau khi tổng duyệt các nghiên cứu của ông và hai cuộc nghiên cứu này, đã cho rằng vùng Xq28 gây 1 hậu quả có ý nghĩa nhưng không độc chiếm. Đàng khác cũng có nghiên cứu cho thấy các gien khác phải hiện diện mới giải thích được tính di truyền trọn vẹn của khuynh hướng tính dục.
Trong các cuộc phỏng vấn của báo chí, các nhà nghiên cứu vẫn nhấn mạnh rằng không nên coi chứng cớ về ảnh hưởng di truyền như là một thứ định mệnh thuyết. Theo Hamer và Bailey các khía cạnh di truyền chỉ là một trong nhiều nguyên nhân tạo ra đồng tính luyến ái.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Bé Mục Đồng
Nguyễn Ngọc Liên
21:10 30/08/2015
Ảnh của Nguyễn Ngọc Liên
Ngày xưa Ninh Thích chăn trâu
Mà rồi công ấn công hầu trâu ơi !
Ngày nay mình nghé ta ngồi
Mai sau ta có một thời hiển vinh?
(Ca dao)
VietCatholic TV
Giáo Hội Năm Châu 25 – 31/08/2015: Thánh tượng Đức Mẹ Fatima được rước sang Syria
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:02 30/08/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Tính đến đầu tháng 8 năm nay, quân khủng bố Hồi Giáo IS đã chiếm được toàn bộ phần phía Đông của Syria, tức là hơn một nửa nước Syria và tiếp tục giành được những chiến thắng vang dội. Quân khủng bố Hồi Giáo IS giờ đây kiểm soát toàn bộ đường biên giới giữa Syria và Iraq.
Trước tình cảnh điêu linh của người dân Syria với 4 triệu người phải di tản ra nước ngoài, 7,600,000 người phải tản cư bên trong Syria, hầu hết các thành phố đều bị tàn phá nặng nề, Đức Giám Mục giáo phận Leiria-Fátima, Bồ Đào Nha, phối hợp với phong trào Blue Army, hay còn gọi là Đạo Binh Xanh, quyết định đưa thánh tượng Đức Mẹ Fatima từ Đền Thánh Fatima ở Bồ Đào Nha sang thủ đô Damascus của Syria.
Bộ ngoại giao Syria hoan nghênh quyết định thể hiện tình liên đới này và cho biết thánh tượng Đức Mẹ Fatima sẽ đến thủ đô Damascus vào ngày 7 tháng Chín tới đây.
Trong thông báo về diễn biến này, Đức Cha António Augusto dos Santos Marto của giáo phận Leiria-Fátima thúc giục Liên Hiệp Quốc và Liên Hiệp Âu Châu “đừng bỏ rơi các nạn nhân của bất khoan dung và chủ nghĩa cực đoan tôn giáo”.
Đức Cha António nói thêm rằng quyết định của ngài là để đáp lại lời mời gọi của các Giám Mục Trung Đông là những người đang phải đau lòng chứng kiến sự tận diệt Kitô Giáo trong vùng.
Cách đây gần 2 năm, theo lời yêu cầu của Đức Thánh Cha Phanxicô, thánh tượng Đức Mẹ Fatima đã được đưa ra khỏi Đền Thánh Fatima và đưa về Roma hôm 12 tháng 10 năm 2013 trong nghi thức tái thánh hiến thế giới cho Trái Tim Đức Mẹ được tổ chức vào chiều ngày thứ Bẩy 12 và sáng Chúa Nhật 13 tháng 10 tại quảng trường Thánh Phêrô. Dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh tượng Đức Mẹ Fatima cũng đã được đưa về Rôma khi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 cử hành nghi thức phó thác thế giới và Giáo Hội cho Đức Mẹ, vào ngày 8 tháng 10 năm 2000 tại Quảng trường Thánh Phêrô, trước sự hiện diện của 1,500 Giám Mục thế giới.
2. Lần thứ ba Đức Phanxicô được chỉ định trong danh sách Giải Nobel Hòa Bình
Lần thứ ba trong ba năm liền, Đức Thánh Cha Phanxicô có tên trong danh sách 20 người có thể nhận Giải Nobel Hòa Bình năm 2015. Theo Viện Nobel ở Oslo, Đức Giáo Hoàng ở trong số 273 ứng viên được nhiều tổ chức quốc tế và Á Căn Đình đề nghị.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô trở nên một trong những hình ảnh uy tín nhất trong việc trung gian hòa giải các vụ tranh chấp và phục hồi. Một trong những việc ngài vừa làm là giúp Mỹ và Cuba nối lại quan hệ ngoại giao sau hơn 50 năm cắt đứt.
Hội đồng tổ chức Giải Nobel đã công bố trên trang Web của mình họ đã nhận 273 ứng viên cho Giải Nobel năm nay của 68 tổ chức và nhân vật trong số ứng viên này có Đức Giáo Hoàng Phanxicô mà từ năm 2013, ngài luôn được chỉ định để nhận giải.
Ngày 9 tháng 10 sẽ là ngày công bố nhân vật được giải Nobel trong danh sách 20 nhân vật được đề nghị. Hai tháng sau sẽ là ngày phát giải trong một buổi lễ tổ chức ở Oslo.
Giải Nobel Hòa Bình trao cho người nào “làm việc hết sức mình cho tình huynh đệ giữa các quốc gia, hủy bỏ hay giảm các lực lượng vũ trang hiện có và cổ động cho tiến trình kiến tạo hòa bình.” Từ khi ông Alfred Nobel thành lập Giải năm 1895, đến nay, chưa một Giáo hoàng nào nhận được danh dự này.
3. Đức Giáo Hoàng đau lòng trước hai vụ tấn công khủng bố ở Bangkok, Thái Lan
Sau vụ nổ bom ngày thứ hai 17 tháng 8 ở Bangkok làm cho hai mươi người chết và một vụ nổ tiếp theo đó vào ngày thứ ba cũng ở Bangkok, trong một điện tín do Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Parolin ký, Đức Giáo Hoàng đã ngỏ lời chia buồn với Quốc vương Thái Lan Bhumibol. Ngài cho biết, “ngài rất đau lòng và tương trợ sâu xa với Quốc vương và với tất cả các nạn nhân bị tổn thương trong hành động bạo lực này”. Đức Giáo Hoàng cũng cho biết, ngài sẽ cầu nguyện và cầu xin hòa bình đến với quốc gia, ngài tỏ lòng quan tâm đến các nhân viên an ninh, những người cứu cấp, họ phải làm việc hết sức để tìm ra thủ phạm và để giúp đỡ các gia đình có người thân bị chết, bị thương trong các vụ nổ này.
Chưa có tổ chức nào nhận mình là người gây ra các vụ nổ này. Cảnh sát Thái Lan đã công bố hình của người bị tình nghi đặt bom trước đền thờ Erawan ở thủ đô Thái Lan. Theo chỉ huy trưởng cảnh sát, người bị tình nghi này thuộc về một mạng lưới vì đương sự không thể nào hành động một mình.
Còn về vụ nổ thứ nhì, cảnh sát chưa xác nhận vụ này có dính với vụ đầu tiên hay không. Chỉ huy trưởng cảnh sát cho biết, đây có thể là một hành động bắt chước. Còn về các thủ phạm thì cảnh sát Thái Lan hoàn toàn bất ngờ, đây là lần đầu tiên một vụ nổ lớn như vậy xảy ra ở Bangkok, nhiều giả thuyết được nghiên cứu nhưng chưa có một giả thuyết nào là chính.
4. Điện văn của Đức Hồng Y Pietro Parolin gởi cuộc gặp gỡ tại Rimini
Trong điện văn gởi Đức Giám Mục Francesco Lambiasi của giáo phận Rimini, Italia, thay mặt cho Đức Thánh Cha, Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh chào mừng Cuộc Gặp Gỡ Rimini lần thứ 36 do phong trào Hiệp Thông và Giải Phóng tổ chức.
Phong trào Hiệp Thông và Giải Phóng đã được thành lập bởi Tôi Tớ Chúa là Cha Luigi Giussani sinh năm 1922 và qua đời năm 2005. Tiến trình phong chân phước cho ngài đang trong giai đoạn khởi sự.
Chủ đề của hội nghị năm nay được trích từ một câu thơ của thi sĩ Ý Mario Luzi: “Điều đang thiếu vắng đây là một con tim, mà khi có được mọi sự sẽ đột nhiên đầy tràn”
Trong thông điệp của mình, Đức Hồng Y Parolin phản ánh về tình trạng những con trái tim trong đó người ta cố dập tắt những câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống.
“Thiên Chúa, Đấng là Mầu Nhiệm vô hạn, cúi xuống trên những khao khát Thiên Chúa khôn nguôi của nhân loại, và đưa ra những câu trả lời mà tất cả họ đang chờ đợi dù họ không thực nhận ra và vẫn mải mê tìm kiếm thành công, tiền bạc, quyền lực, ma túy các loại, cho những ham muốn nhất thời của họ”
Ngài viết tiếp:
“Chỉ có những sáng kiến của Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa mới có thể lấp đầy con tim; và Ngài đã đến gặp chúng ta, để được tìm thấy bởi chúng ta như một người bạn. Và như vậy, chúng ta có thể nghỉ ngơi ngay cả giữa cơn cuồng phong, bởi vì chúng ta chắc chắn về sự hiện diện của Ngài bên cạnh chúng ta”.
Cuộc Gặp Gỡ Rimini lần thứ 36 đã diễn ra từ 20 đến 26 tháng 8.
5. Hải quân Italia vớt 4,400 người di cư trong một ngày
Những chiến thắng dòn dã vang dội của quân khủng bố Hồi Giáo IS diễn ra trước sự dửng dưng của thế giới đã khiến giấc mơ trở về mái nhà xưa của người tị nạn Iraq và Syria ngày một xa vời.
Thật vậy, hôm thứ Năm 6 tháng 8, quân khủng bố Hồi Giáo IS đã bất ngờ mở cuộc tấn công dữ dội vào al-Qaryatayn, một thị trấn miền trung Syria nơi có 15,000 dân phần lớn là các tín hữu Kitô, và bắt đi hàng trăm cư dân của thị trấn này. Diễn biến này đang gây ra một làn sóng chạy nạn Hồi Giáo mới và những vụ liều chết vượt biển Địa Trung Hải vào Âu Châu của những người tị nạn nay đã mất hết mọi hy vọng nơi quê hương họ.
Hôm 22 tháng 8, các lực lượng Italia trong một nỗ lực phi thường đã giải cứu 4,400 người di cư từ các tàu thuyền trong Địa Trung Hải chỉ trong một ngày duy nhất. Đây là con số lớn nhất trong lịch sử phản ánh tình trạng trầm trọng của thảm họa nhân đạo đang diễn ra tại Trung Đông.
Các quan chức cho biết trong ngày Chúa Nhật thêm ba tầu cứu nạn đã được tung ra để cứu vớt các thuyền nhân.
Hải quân Italia cho biết hôm 22 tháng 8 họ đã nhận được những lời kêu cứu khẩn cấp của 22 tàu, hoặc những thuyền đánh cá bằng gỗ mong manh. Tất cả đều đang gặp nguy hiểm vì chở quá đông, thiếu thiết bị an toàn cơ bản trong điều kiện thời tiết rất xấu.
Các tàu tuần duyên bảo vệ bờ biển Ý, hải quân và cảnh sát hải quan đã được lệnh tham gia vào các hoạt động cứu người cùng với tầu Siem Pilot của Na Uy, tầu Niamh của Ái Nhĩ Lan, và tầu tìm kiếm cứu nạn Triton của Liên Hiệp Châu Âu.
Những người di cư được giải cứu sẽ được gửi tại các trại tị nạn miền nam Ý, nâng tổng số những người tị nạn trên đất Italia lên đến 108,000 người.
6. Tình hình người tị nạn Trung Đông
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Trước một làn sóng chạy nạn Hồi Giáo mới, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc vừa đưa ra những thống kê cho thấy tình trạng bi đát của vùng này.
Đoạn video quý vị và anh chị em đang xem thấy đây ghi lại tình cảnh gian nan giữa cái nóng sa mạc chói chang, hàng chục ngàn người đã phải bỏ chạy về phía biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ cố gắng cõng trên lưng những gì là quý giá nhất đối với họ.
Đây là những hình ảnh những người tị nạn Syria mệt mỏi đang băng qua biên giới vào bên trong Thổ Nhĩ Kỳ. Cho đến nay 4 triệu người Syria đã phải bỏ nước ra đi. Cả 1 triệu người đã phải chạy qua biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ, Li Băng và Jordan trong 10 tháng vừa qua. Thổ Nhĩ Kỳ cho biết chỉ riêng từ đầu tháng 8 đến nay đã có 24,000 người Syria tràn vào lãng thổ của họ. Nhiều người đã rất già và cả những trẻ sơ sinh cũng phải trải qua một cuộc hành trình gian khổ.
Trong năm 2014 vừa qua, Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành quốc gia có đông người tị nạn nhất trên thế giới với hơn 2 triệu người tị nạn trong đó 1.8 triệu là người Syria.
Li Băng đã mở rộng vòng tay đón tiếp 1,172,000 (một triệu một trăm bảy mươi hai ngàn người tị nạn Syria). Đất nước chỉ có 4 triệu dân nay có tới hơn 6 triệu dân.
Tron khi đó, 629,000 người Syria đã xin tị nạn tại Jordan và đang sinh sống trong những hoàn cảnh rất cơ cực. 86% phải sống bên ngoài các trại tị nạn ở dưới mức nghèo cơ cực với 3.2 Mỹ Kim một ngày cho một gia đình.
Nhiều người liều chết vượt biển Địa Trung Hải vào Âu Châu. Tuy nhiên, đa số vẫn sống cơ cực trong vùng. Con số những người tị nạn Syria không ngừng gia tăng. Cho đến cuối năm nay có lẽ con số những người tị nạn Syria sẽ lên đến 4,270,000 người. Bên cạnh đó, ít nhất 7,600,000 người phải di tản bên trong Syria.
7. Tưởng niệm 10 năm thầy Roger Schutz bị sát hại
Lễ tưởng niệm 10 năm vị sáng lập tu viện đại kết Taizé là thầy Roger Schutz bị sát hại đã được cử hành ngoài trời tại Taizé bên Pháp, trước sự tham dự của 7 ngàn bạn trẻ quốc tế, gần 100 tu huynh và khoảng 100 đại diện các Giáo Hội Kitô và tôn giáo khác, trong đó có Đức Hồng Y Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, đại diện Đức Thánh Cha Phanxicô.
Ban sáng ngài đã chủ sự thánh lễ Công Giáo tại Nhà thờ Hòa giải ở Taizé và trong buổi lễ tưởng niệm ban chiều do thầy Alois Tu viện trưởng Taizé chủ sự, Đức Hồng Y đã đọc thư cám ơn của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Vào tối ngày 16 tháng 8 năm 2005 trong một buổi cầu nguyện chung, một phụ nữ người Rumani bị bệnh tâm trí đã đâm thầy Roger nhiều nhát dao khiến thầy từ trần ngay sau đó.
Lễ tưởng niệm thầy Roger cũng là dịp kỷ niệm 75 năm thầy thành lập Tu viện đại kết Taizé.
Dịp này, Đức Hồng Y Kurt Koch ca ngợi tu viện đại kết Taizé “như một phòng thí nghiệm, nơi các bạn trẻ có thể dấn thân đối thoại liên tôn”. Ngài nhắc lại lời Đức Thánh Cha Phanxicô về quan hệ chặt chẽ của ngài với Taizé và Đức Hồng Y cũng tái khẳng định sự gần gũi của ngài với tu viện đại kết này, một nơi có linh đạo sâu xa.
8. Căng thẳng ở bán đảo Triều Tiên
Lúc 16h ngày 20 tháng 8, Quân đội Bắc Triều Tiên đã bắn nhiều quả đạn pháo vào lãnh thổ Nam Triều Tiên. Bộ quốc phòng Hán Thành cho biết miền Nam đã bắn trả bằng một loạt đạn đại bác trong nhiều giờ.
Ngày hôm sau nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên là Kim Jong-un hay còn gọi là Kim Chính Ân đã ra lệnh cho quân đội đặt trong tình trạng thời chiến.
Diễn biến này xảy ra chỉ vài tuần trước khi Triều Tiên kỷ niệm 75 năm ngày chia đôi đất nước vào ngày 8 tháng 9 năm 1945.
Dân chúng Nam Triều Tiên đã xuống đường hô vang các khẩu hiệu đả dảo và đốt các hình nộm của Kim Jong-un.
Trong khi đó, Đức Hồng Y Andrew Yeom Soo-jung, Tổng Giám Mục Hán Thành đã kêu gọi người Công Giáo cầu nguyện cho hòa giải nhân kỷ niệm năm thứ 70 chia cắt hai miền Nam Bắc Triều Tiên. Ngài viết trong thư mục vụ gởi hàng giáo sĩ và anh chị em tín hữu của tổng giáo phận:
"Là Kitô hữu, một trong những điều quan trọng nhất đối với chúng tôi là cầu nguyện. Trong thời gian chia cách, chúng ta được mời gọi cầu nguyện liên liên lỉ cho hòa giải và hòa bình trên bán đảo Triều Tiên, cũng như cho hòa bình ở châu Á, và trên thế giới. Qua lời cầu nguyện, chúng ta xin cho đất nước chúng ta có thể có một sự khởi đầu mới cho hòa bình và hòa giải, để lại sau lưng mọi nghi kỵ và hận thù."
9. Vài nét về lịch sử cận đại của bán đảo Triều Tiên
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Cách đây 70 năm ngày mùng 6 và mùng 9 tháng 8 năm 1945 đã xảy ra các vụ bỏ bom nguyên tử kinh khủng trên hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Ngày 9 tháng 8 năm 1945, xe tăng Liên Xô tràn vào miền Bắc Triều Tiên từ miền Siberia và gặp rất ít sức kháng cự. Ngày 15 tháng 8, Nhật Bản đầu hàng đồng minh. Tương quan lực lượng giữa các cường quốc trên thế giới đã dẫn đến việc chia cắt hai miền Nam Bắc Triều Tiên dọc theo vĩ tuyến thứ 38 với quân Sô Viết kiểm soát phía Bắc và Hoa Kỳ đóng quân ở Miền Nam.
Tháng 12 năm 1945, một hội nghị đã được mở ra tại Mạc Tư Khoa để bàn về tương lai của quốc gia này. Đứng trước những bế tắc của hội nghị, tháng 9 năm 1947, Hoa Kỳ đưa vấn đề Triều Tiên ra trước Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.
Năm 1948, cộng sản thiết lập nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên ở Miền Bắc đặt thủ đô tại Bình Nhưỡng trong khi Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chỉ thừa nhận Cộng Hòa Đại Hàn tại Hán Thành.
Ngày 25 tháng 6 năm 1950, cộng sản vượt vĩ tuyến thứ 38 tràn xuống phía Nam chiếm được thủ đô Hán Thành và gần trọn lãnh thổ phía Nam. Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ủy quyền cho Hoa Kỳ đẩy lui các lực lượng Bắc Triều Tiên.
Trung quốc xua quân vào can thiệp. Chiến tranh giằng dai cho đến ngày 27 tháng 7 năm 1953 mới kết thúc với con số người thiệt mạng lên tới 178,426 người, 32,925 người mất tích và 566,434 người bị thương.
10. Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle nói: Các trường đại học Công Giáo phải là khí cụ truyền giáo
Các trường đại học Công Giáo “phải là các tổ chức truyền giáo. Các trường phải là những công cụ truyền giáo của Giáo Hội". Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, tổng giám mục Manila cho biết như trên tại một hội nghị ở Jakarta, Indonesia.
Chủ đề của hội nghị là "Ex Corde Ecclesiae", là tên một Tông Hiến do Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố ngày 15 tháng 8 năm 1990, trong đó xác định nhiệm vụ của các trường đại học Công Giáo. Đây cũng là một phần trong một loạt các bài suy tư về giáo dục đại học Công Giáo ở Indonesia dưới bảo trợ của Đại học Công Giáo Atma Jaya, phía Nam Jakarta, nhân dịp 55 năm trường này được thành lập.
Đây là chuyến thăm Indonesia đầu tiên của Đức Hồng Y Tagle, chủ tịch Caritas Internationalis. Bàn về những cơ hội và những thách đố mà các tổ chức Công Giáo trên thế giới nói chung và đặc biệt là các trường Đại Học phải đối mặt, Đức Tổng Giám Mục thủ đô Phi Luật Tân nhấn mạnh rằng nhiệm vụ của các tổ chức Công Giáo là đem Tin Mừng đến với tất cả các nhóm xã hội. Trong bối cảnh đó, các trường Đại Học "không chỉ dành riêng cho những người có khả năng chi trả các chi phí giáo dục."
Khi đề cập đến một số yếu tố của thông điệp Laudato Sí, ngài lưu ý rằng "Tiếng kêu của trái đất đi kèm cùng với tiếng kêu của người nghèo. Vì vậy, một trong những nghĩa vụ của các trường đại học Công Giáo là chăm sóc cho môi trường. "
Đối với Đức Tổng Giám Mục Manila, khoa học và công nghệ phải khiêm tốn, lắng nghe và suy ngẫm, để học hỏi từ những người dân nghèo và dân bản địa.
11. Hơn 60,000 tham gia vào cuộc biểu tình đòi chính phủ Mỹ ngưng tài trợ cho tổ chức kế hoạch hóa gia đình Planned Parenthood
Hơn 60,000 người đã tham gia vào các cuộc biểu tình được tổ chức vào ngày 22 tháng 8 ở hàng chục thành phố trên khắp nước Mỹ. Những người biểu tình đã yêu cầu chấm dứt việc chính phủ lấy tiền thuế của dân tài trợ cho tổ chức kế hoạch hóa gia đình Planned Parenthood.
Các cuộc biểu tình đã diễn ra ở hơn 300 địa phương khác nhau, chủ yếu là ở bên ngoài các phòng khám của Planned Parenthood.
Những cuộc biểu tình này của dân chúng Hoa Kỳ đã được tổ chức sau khi một loạt các đoạn video được tung lên Internet cho thấy Planned Parenthood tham gia vào việc bán các mô thu hoạch từ các em bé bị phá thai.
12. Thủ tướng Ai Cập lên án chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo
Thủ tướng Ai Cập Ibrahim Mahlab đã lên án chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo trong một cuộc họp gần đây với sự tham dự của các nhà lãnh đạo tôn giáo trong vùng.
"Cả thế giới đang phải đối mặt với một tình trạng hỗn loạn chưa từng có do sự hiện diện của các nhóm cực đoan, trong khi mạng sống và phẩm giá nhiều người thường dân bị chà đạp".
Ông nói: "Ai Cập đang quyết tâm chống chủ nghĩa cực đoan, và đang đưa nhiều nỗ lực để đối phó với nó, với sự giúp đỡ của các tổ chức tôn giáo."
Mahlab ca ngợi các nhà tổ chức hội nghị vì sự tận tụy của họ cho "một khuôn mặt xứng đáng của Hồi giáo, và giúp đỡ những người Hồi giáo chống lại những nguy hiểm trong việc tìm kiếm những ý tưởng cực đoan."
13. Các Giám mục Nam Phi kêu gọi các công ty khai thác mỏ đừng sa thải công nhân
Người lao động tại các công ty khai thác mỏ hoạt động tại Nam Phi đang đối mặt với những nguy cơ bị sa thải hàng loạt. Đứng trước tình trạng đáng buồn này, Ủy ban Công Lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Công Giáo Nam Phi đã kêu gọi các công ty làm mọi cách để đừng sa thải công nhân.
"Trong bối cảnh giá cả hàng hóa xuống thấp, một số nhà khai thác mỏ nói với chúng tôi rằng khai thác mỏ là một doanh nghiệp, không phải là một tổ chức từ thiện, nếu không có lời bao nhiêu thì chúng tôi đóng cửa, đầu tư vào chuyện khác. Chúng tôi cũng được bảo cho biết rằng trong việc khai thác mỏ chủ yếu là phải kiểm soát được chi phí, bao gồm chi phí lao động, và vốn cố định như tài sản, máy móc để đạt được lợi nhuận tốt nhất cho các cổ đông là các nhà cung cấp vốn."
“Ủy ban thấy cần nhắc nhở các ngành công nghiệp rằng trong những thời gian khai thác khó khăn, ít lời, họ cũng phải nhớ đến các công nhân, đặc biệt là đời sống của những người lao động, là những người đã giúp các công ty khai thác mỏ tạo ra những nguồn lợi nhuận khổng lồ cho các cổ đông trong năm siêu lợi nhuận".
Ủy ban kết luận rằng:
"Chúng tôi đã luôn luôn nhấn mạnh rằng việc khai thác phải hướng về thiện ích chung – chứ không chỉ vì lợi nhuận các cổ đông"