Ngày 03-09-2011
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Bài Giáo Lý về Cầu Nguyện của ĐTC Bênêđictô XVI: Cầu Nguyện nhờ Nghệ Thuật
Phaolô Phạm Xuân Khôi
17:04 03/09/2011
Dưới đây là bản dịch bài giáo lý thứ mười một về Cầu Nguyện của ĐTC Bênêdictô XVI ban hành tại Quảng Trường Tự Do ở Castel Gandolfo, Thứ Tư ngày 31 tháng 8, năm 2011. ĐTC tiếp tục loạt bài giáo lý về Cầu Nguyện. Lần này ngài nói về liên hệ giữa Nghệ Thuật và Cầu Nguyện

Anh Chị Em thân mến,

Trong những tháng vừa qua tôi đã nhiều lần nhắc đến việc mọi Kitô hữu phải dành thì giờ cho Thiên Chúa, để cầu nguyện, giữa nhiều công việc bề bộn hàng ngày. Chính Chúa ban cho chúng ta nhiều cơ hội để nhớ đến Ngài. Hôm nay tôi sẽ nói cách ngắn gọn về một trong những phương tiện có thể đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa và cũng giúp chúng ta trong cuộc gặp gỡ Ngài, đó là cách diễn tả bằng nghệ thuật, qua “con đường thẩm mỹ” mà tôi đã nói đến nhiều lần, mà trong đó con người cần tìm lại được ý nghĩa sâu sắc nhất của nó

Có lẽ anh chị em đã một lần nào đó đứng trước một tác phẩm điêu khắc, một bức tranh, một vài vần thơ của một áng văn hoặc một bài hát, và kinh nghiệm một cảm xúc sâu xa, một cảm giác hân hoan, được cảm nhận một cách rõ ràng rằng trước mặt anh chị em không phải chỉ có vật chất, một khối đá cẩm thạch hoặc một khối đồng, một bức tranh vẽ, một tổ hợp các chữ cái hoặc một sự kết hợp của âm thanh, nhưng một điều gì đó lớn hơn, điều gì "nói được", có khả năng chạm vào tâm hồn, để truyền thông một sứ điệp, để nâng linh hồn lên.

Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của khả năng sáng tạo của con người, là người trước thực tại hữu hình, đã thắc mắc và cố gắng khám phá ra ý nghĩa sâu sắc và truyền đạt ý nghĩa này qua ngôn ngữ của các hình thể, màu sắc và âm thanh. Nghệ thuật có khả năng diễn tả và làm thành hữu hình nhu cầu của con người vượt xa những gì họ thấy; nó cho thấy sự khao khát và tìm kiếm điều vô tận. Qủa thực, nó như một cánh cửa mở ra cho cõi vô biên, cho sự tuyệt mỹ và một sự thật vượt trên những gì là thường nhật. Nó là một tác phẩm nghệ thuật có thể mở mắt trí tuệ và tâm hồn, thúc đẩy chúng ta hướng lên.

Nhưng có những cách diễn tả nghệ thuật là những con đường đưa đến Thiên Chúa, Đấng là Sự Toàn Mỹ tuyệt đối, thực ra, chúng là một cách trợ giúp chúng ta để lớn lên trong mối liên hệ với Ngài trong cầu nguyện. Ở đây chúng ta nói đến những tác phẩm được phát sinh từ đức tin, và những tác phẩm diễn tả đức tin. Chúng ta có thể thấy một thí dụ về điều này khi viếng thăm một Thánh Đường Cổ kiểu Gothic, chúng ta bị mê mẩn bởi các đường thẳng đứng vươn thấu trời cao, cùng hướng cái nhìn và tinh thần của mình lên cao, đồng thời, chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé, nhưng khao khát được no thỏa. … Khi bước vào một nhà thờ kiểu Rôma: chúng ta tự nhiên được mời gọi hồi tâm và cầu nguyện. Chúng ta cảm nhận rằng đức tin của các thế hệ được tàng ẩn trong những tòa nhà tráng lệ này. Hoặc, khi chúng ta nghe một bản thánh nhạc làm cho các nhịp tim của mình rung động, linh hồn chúng ta như nở ra và được giúp để hướng về Thiên Chúa. Tôi nhớ đến một buổi hòa nhạc của Johann Sebastian Bach tại Munich trong vùng Bavaria, được điều khiển bởi Leonard Bernstein. Sau khi kết thúc bài cuối cùng, tôi đã cảm thấy, không phải bằng lý luận, nhưng tận đáy tâm hồn, rằng những gì tôi vừa nghe đã truyền thông chân lý cho tôi, chân lý về soạn giả tối cao, và đánh động tôi để cảm tạ Thiên Chúa. Ngồi bên cạnh tôi là Giám Mục Lutherô của Munich. Tôi bật miệng nói với ông: "Ai đã nghe bài này đều hiểu rằng đức tin là là sự thật”, và vẻ đẹp không thể cưỡng lại được nói lên sự hiện diện của chân lý của Thiên Chúa.

Nhưng biết bao lần, những bức họa hay hình vẽ trên tường cũng là kết quả của đức tin của người nghệ sĩ, trong hình thể, màu sắc và ánh sáng của chúng, thôi thúc chúng ta hướng những suy nghĩ của mình về Thiên Chúa và tăng thêm khao khát được múc từ Nguồn Mạch của mọi sự Toàn Mỹ. Điều mà một nghệ sĩ thời danh, Marc Chagall, đã viết vẫn còn rất đúng, là qua nhiều kỷ nguyên, các họa sĩ đã nhúng cọ của họ trong mẫu tự được tô màu ấy, là Sách Thánh Kinh.

Như thế, đã bao lần, một diễn tả nghệ thuật có thể trở thành một dịp để nhắc nhở chúng ta về Thiên Chúa, để giúp chúng ta cầu nguyện hoặc thậm chí hoán cải tâm hồn mình! Trong năm 1886, Paul Claudel, một thi sĩ, kịch sĩ và nhà ngoại giao nổi danh của Pháp đã vào Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Paris, và ở đó ông đã cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa chính vì nghe người ta hát bài Magnificat trong Thánh Lễ Giáng Sinh. Ông đã không vào nhà thờ vì những lý do đức tin, nhưng đã vào tìm những lý luận chống lại Kitô giáo, thay vào đó ân sủng của Thiên Chúa đã biến đổi tâm hồn ông.

Các bạn thân mến, tôi mời các bạn tái khám phá ra tầm quan trọng của phương thức này đối với việc cầu nguyện, với mối liên hệ sống động của mình với Thiên Chúa. Các thành phố và các quốc gia khắp nơi trên thế giới đang giữ những kho tàng nghệ thuật diễn tả đức tin và mời gọi chúng ta liên hệ với Thiên Chúa. Cho nên, chớ gì việc chúng ta thăm viếng những nơi nghệ thuật không những chỉ là một dịp để làm giàu văn hóa, nhưng trên hết, chúng có thể trở thành một giây phút ân sủng khuyến khích chúng ta củng cố mối liên hệ và cuộc đối thoại của mình với Chúa, để dừng lại và, qua việc đi từ thực tại đơn giản bên ngoài đến thực tại sâu xa hơn mà chúng diễn tả, chiêm ngắm tia sáng của vẻ đẹp đánh động chúng ta, làm cho chúng ta “bị thương” tận thâm tâm và mời gọi chúng ta lên cùng Thiên Chúa.

Tôi sẽ kết thúc bằng một lời cầu nguyện trích từ một Thánh Vịnh, Thánh Vịnh 27 “Chỉ một điều con đã xin cùng Chúa, một điều con tìm kiếm! là xin cho con được ở trong nhà Chúa mọi ngày trong đời con, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Chúa, và học hỏi trong Đền Thánh của Ngài” (câu 4). Chúng ta hãy hy vọng rằng Chúa sẽ giúp chúng ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Ngài, cả trong thiên nhiên lẫn trong các tác phẩm nghệ thuật, để được đánh động bởi ánh sáng của Dung Nhan của Ngài, để chúng ta có thể trở thành ánh sáng cho người lân cận chúng ta. Xin cám ơn.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Hạ nhân phẩm, thách đố đạo đức sinh học lớn nhất
Vũ Văn An
01:13 03/09/2011
Châu Mỹ La Tinh, từng được nhiều vị giáo hoàng coi là lục địa của hy vọng, thực ra đang càng ngày càng phải đối diện với các thách đố đạo đức sinh học vốn đang gây tác hại cho các lân bang phía bắc của họ, trong đó thách đố lớn nhất chính là việc phi nhân vị hóa người đàn ông và người đàn bà. Nhưng trong cuộc chiến đấu này, cả ở Bắc Mỹ lẫn ở Châu Mỹ La Tinh, Giáo Hội đang là người dẫn đường.

Đó là lời tuyên bố của Tiến Sĩ John Haas, giám đốc Trung Tâm Đạo Đức Sinh Học Công Giáo Quốc Gia đặt trụ sở tại Philadelphia, và cũng là sáng lập viên và chủ tịch Viện Văn Hóa Quốc Tế (International Institute of Culture). Ông đang có mặt tại Mexico để thuyết trình cho lớp sinh viên thứ hai dọn thi cao học về đạo đức sinh học tại Trung Tâm Nghiên Cứu Xã Hội Cao Cấp ở Queretaro với đề tài về sinh vô tính (cloning) và các nguy cơ của nó đối với nhân loại.

Nói đến phần đóng góp của Giáo Hội Công Giáo vào lãnh vực đạo đức sinh học, Tiến Sĩ Haas cho rằng ngay trước khi có thuật ngữ đạo đức sinh học, Giáo Hội đã đi bước trước rồi. Thật vậy, ngay từ năm 1972, trung tâm hiện do ông làm giám đốc đã được thiết lập dù với tên khác, mặc dù hồi ấy, phá thai chưa được hợp pháp hóa, chưa ai nói tới AIDS và chưa có việc dùng tế bào gốc phôi thai để nghiên cứu. Tại Hoa Kỳ, sau chính phủ, Giáo Hội Công Giáo là định chế quan trọng thứ hai cung cấp việc chăm sóc sức khỏe cho dân chúng. Mỗi năm, Giáo Hội cung cấp hàng tỷ đôla cho các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho người dân Hoa Kỳ. Sự đóng góp này giúp ta khả năng dự ứng các đề tài nay mai sẽ trở thành quan yếu đối với y khoa và các khoa học về sự sống. Ta phải sẵn sàng để thảo luận các đề tài ấy theo cái nhìn của Tin Mừng.

Theo tiến sĩ Haas, các đề tài quan trọng nhất của đạo đức sinh học ngày nay là vấn đề phi nhân vị và phi nhân bản các dịch vụ y tế. Con người nhân bản đang bị coi là không có quyền lợi gì. Việc hiến các bộ phận người đang trở thành một thứ buôn bán quốc tế. Việc buôn bán ấy cũng đang xẩy ra cho lãnh vực thụ thai trong ống nghiệm, một vụ buôn bán lên đến 5 triệu đôla mỗi năm riêng tại Hoa Kỳ. Người đàn ông và người đàn bà không còn được coi là những con người nhân bản nữa, mà chỉ là những chất liệu được sử dụng để thí nghiệm khoa học, trong đó, nhiều cuộc thí nghiệm được mệnh danh là để cứu người khác.

Trong lịch sử đạo đức sinh học, tuy Giáo Hội bị làm ngơ nhiều, nhưng theo Tiến Sĩ Hass, trong những vấn đề quan yếu, thái độ cương quyết của Giáo Hội nhiều lần đã thắng thế. Như trường hợp thị trưởng New York yêu cầu Đức Hồng Y John O’Connor, cựu Tổng Giám Mục New York, phải bao gồm việc ngừa thai trong các dịch vụ y tế Công Giáo, Đức Hồng Y cho hay ngài không thể làm điều đó được. Thị trưởng vẫn một mực nài ép khiến Đức HY O’Connor phải đe dọa đóng cửa các bệnh viện và trung tâm sức khỏe Công Giáo. Thị trưởng đành bỏ cuộc, vì thành phố New York không thể không có các bệnh viện và trung tâm y tế Công Giáo.

Về việc thiết lập các ủy ban đạo đức sinh học tại các bệnh viện, Tiến Sĩ Haas cho đây là điều hệ trọng. Kể từ 5 năm trở lại đây, cơ quan có nhiệm vụ phê chuẩn các bệnh viện tại Hoa Kỳ đã đưa ra điều lệ qui định rằng tại mỗi bệnh viện phải có một ủy ban đạo đức sinh học. Về phương diện này, Giáo Hội Công Giáo là người dẫn đường, vì bệnh viện Công Giáo nào cũng có một ủy ban đạo đức sinh học, không phải chỉ mới đây, mà luôn luôn vẫn đã có một ủy ban như thế. Trung Tâm Đạo Đức Sinh Học Công Giáo Quốc Gia mà Tiến Sĩ Haas làm giám đốc có chương trình kéo dài một năm để cấp chứng nhận cho các bệnh viện về phương diện này. Các bác sĩ, y tá và quản trị viên phải theo khóa học này trọn vẹn. Nhờ thế, các tiêu chuẩn đạo đức sinh học Công Giáo đã được thống nhất hóa và nền luân lý cũng như các nguyên tắc Công Giáo được đem vào các bệnh viện do Giáo Hội quản trị. Các bệnh viện khác cũng đang mô phỏng chính sách và phương pháp của Giáo Hội.

Đối với thứ “huyền sử đen” cho rằng Giáo Hội Công Giáo chống lại tiến bộ khoa học, Tiến Sĩ Haas cho rằng thực ra “huyền sử đen” là thuật ngữ người ta quen dùng để tố cáo Giáo Hội về tội thực dân hóa Tân Thế Giới, nên ít người Hoa Kỳ nghe nói tới thuật ngữ này. Mặt khác, ở Mỹ, tình hình có khác. Ở đây, phe đa số không phải là Giáo Hội Công Giáo mà là Thệ Phản. Những người này tin rằng các ý nghĩ của họ về tôn giáo là duy nhất đúng. Luther từng cho rằng ta được cứu rỗi nguyên chỉ nhờ ơn thánh và đức tin mà thôi. Đối với ông, lý trí là điều nguy hiểm. Trong cuốn chú giải về thư gửi tín hữu Galát, ông viết rằng muốn được cứu rỗi, các Kitô hữu phải giết chết lý trí đi và dâng nó lên làm hy lễ cho Thiên Chúa. Vấn đề nan giải là tại Hoa Kỳ, nhiều người tin rằng điều đó đúng đối với mọi tôn giáo. Do đó, họ bảo Giáo Hội Công Giáo “phi lý” và “duy luật lệ”. Không có gì xa sự thật bằng câu kết án ấy, như Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI nhiều lần minh xác: đức tin và lý trí là hai sức mạnh ta có được để biết sự thật. Mặt khác cũng không có gì xa sự thật bằng việc cho rằng người Công Giáo bác bỏ phá thai, bác bỏ ngừa thai v.v… là vì ai đó ra lệnh cho họ phải làm thế. Thực ra họ làm thế vì, nhất quán với Tin Mừng, với tinh thần của Tin Mừng, với tự do của Tin Mừng, họ nhìn ra tính vô luân và phi nhân của những thực hành ấy.

Theo Tiến Sĩ Haas, muốn tái dẫn nhập nền văn hóa Công Giáo vào ngữ cảnh đạo đức sinh học ngày nay, ta phải thực hành điều Đức Gioan Phaolô viết trong thông điệp “Chân Lý Sáng Ngời”. Về gần cuối thông điệp ấy, vị giáo hoàng này viết rằng sức mạnh thực sự trong giáo huấn và nền văn hóa Công Giáo là luôn dõi mắt hướng về Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Mọi sự phải phát sinh từ đó: nay không phải là lúc để biện lý, mà là lúc để làm chứng nhân, như Đức Hồng Y Ratzinger có lần đã nói với Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ.

Theo Zenit, 1 tháng 9 năm 2011
 
Đức Thánh Cha ca ngợi Thánh nhạc
Trầm Thiên Thu
06:36 03/09/2011
CASTEL GANDOLFO, Italy (CAN, 2-9-2011) — Sau một buổi hòa nhạc tại dinh thự mùa hè Castel Gandolfo, ngày 1-9-2011, ĐGH Biển Đức XVI đã ca ngợi Thánh nhạc là “phương tiện cầu nguyện”.

Ngài nói: “Tối nay chúng ta chìm ngập trong Thánh nhạc, loại nhạc khá đặc biệt được sinh ra từ đức tin, khả dĩ thể hiện và hiệp thông với đức tin. Giữa sinh hoạt thường nhật, các bạn đã cho chúng tôi thời gian chiêm niệm và cầu nguyện, khiến chúng tôi nhận thức sự hài hòa của Nước Trời”.

Buổi hòa nhạc thể hiện nhiều tác phẩm của ĐHY Domenico Bartolucci, cựu nhạc trưởng dàn nhạc của Nguyện đường Sistine. Vị Hồng y 94 tuổi này từ lâu đã là một nhà soạn nhạc nổi trội về Thánh nhạc. ĐGH Biển Đức XVI nhận thấy điều này bằng cách nâng ngài lên Hồng y vào năm ngoái.

ĐGH khen ĐHY Bartolucci: “Đức tin là ánh sáng luôn hướng dẫn và điều khiển đời sống của ngài, và ngài đã mở lòng ra để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa qua việc sáng tác âm nhạc. Âm nhạc là ngôn ngữ ưu tiên để giao tiếp đức tin của Giáo hội và giúp đỡ những người nghe tác phẩm của ngài trên hành trình đức tin”.

ĐGH đặc biệt khen ngợi ĐHY về giá trị mà ngài đặt vào “kho tàng quý giá là Bình ca và khéo léo vận dụng đa âm, trung thành với truyền thống, nhưng vẫn mở ra những âm thanh mới lạ”.

Chỉ huy dàn nhạc là nhạc trưởng Simon Baiocchi, giọng nữ cao là Lykke Anholm và Enrica Fabbri, với giọng trung nam Michele Govi. Hòa theo là dàn nhạc Rossini Chamber Choir of Pesaro và Marchigiana Philharmonic Orchestra.

Buổi biểu diễn gồm 4 tác phẩm của ĐHY Bartolucci. Trong đó có bài Ave Maria và Baptisma. Nổi bật là bài Benedictus, được viết tặng ĐGH Biển Đức XVI.

ĐGH kết luận: “Tối nay các bạn đã giúp chúng tôi mở lòng ra với Đức Maria trong lời cầu nguyện, lời cầu yêu quý nhất của truyền thống Kitô giáo. Nhưng các bạn cũng dẫn chúng tôi trở lại từ đầu hành trình đức tin, tới bí tích Thánh Tẩy, lúc chúng ta trở nên Kitô hữu: một lời mời gọi uống từ mạch nước duy nhất có thể làm chúng ta hết khát, đó là Thiên Chúa Hằng sống, và từng ngày cương quyết từ bỏ ma quỷ và canh tân đức tin bằng lời xác tín: Tôi tin!”. (Source: NCRegister.com)
 
Giáo hội ở Asansol Ấn Độ lớn mạnh
Trầm Thiên Thu
06:38 03/09/2011
ẤN ĐỘ (CatholicCulture.org, 2-9-2011) – Giáo phận Asansol (Tây Bengal) là vùng rất đông tín đồ Ấn giáo và Hồi giáo, thuộc Đông Ấn, hiện có 29.000 Kitô hữu – gấp đôi số giáo dân khi mới thành lập năm 1997. “Chúng tôi là một Giáo hội đang phát triển, mỗi năm có khoảng 1.000 tân tòng”, ĐGM Cyprian Monis tiên khởi của GP cho biết.

Ngoài ra, số linh mục tăng gấp ba. Hiện nay giáo phận có 44 linh mục, 230 tu sĩ, 7 trường tiểu học và 8 trường trung học. Sứ vụ rõ ràng: “Người Công giáo phải chứng tỏ mình là môn đệ Chúa Kitô bằng lời nói và hành động”.

Tỉnh Asansol có khoảng 500.000 dân, cách Calcutta khoảng 140 dặm về hướng Tây Bắc, thủ phủ Tây Bengal, một trong những bang đông dân nhất Ấn Độ. Asansol có nhiều mỏ than, sắt và thép. Người Công giáo chỉ là thiểu số trong vùng, với 3/4 là Ấn giáo và 1/4 là Hồi giáo.

Trong số các vấn đề đặc biệt của giáo phận là hướng dẫn đức tin cho dân vùng quê và nhiều chương trình giáo dục khác về hướng nghiệp, hướng dẫn áp dụng phương pháp canh nông tốt hơn và cải thiện y tế.

ĐGM Cyprian Monis nói: “Chúng tôi đang bắt đầu mọi thứ từ cơ bản. Chúng tôi cần các nhà thờ, giáo xứ và các trung tâm xã hội, trường học,… Nói tóm lại là cần mọi thứ”.

Theo ngài, giáo dân phải được khuyến khích sống đức tin một cách gương mẫu. Cuộc sống thường nhật của họ gặp nhiều người ngoài Công giáo, nên họ phải sống chứng nhân theo tinh thần Kitô giáo thực sự.

Cho tới nay, người Công giáo thuộc GP Asansol không phải đối mặt với sự cừu địch và đàn áp như nhiều nơi tại Ấn Độ, nhiều tôn giáo khác có thể sống hòa bình với nhau. ĐGM Cyprian Monis nhấn mạnh rằng ngài thường nhận nhiều lời mời tham dự các buổi họp của các tôn giáo khác, và ngài vui vẻ tham dự.
 
Ấn Độ: Các giáo xứ bang Kerala hỗ trợ gia đình đông con
Phạm Kim An
06:48 03/09/2011
Thiruvananthapuram, Ấn Độ - Các giáo xứ Công giáo bang Kerala đã hỗ trợ gia đình Công giáo đông con, do lo ngại rằng dân số Công Giáo đã bắt đầu suy giảm.

Một giáo xứ ở huyện Wayand, Kerala, cung cấp khoản tiền gửi lãi suất cố định là 225 USD, theo tên người con thứ năm của một gia đình Công giáo sinh ra trong năm 2011.

Linh mục Jose Kocharackal, cha sở Giáo xứ thánh Vinh sơn đệ Phaolô ở Kalpetta, nói rằng giáo xứ đã chuyển tiền như thế cho hai gia đình thuộc giáo xứ. Một phần của tiền oi ngày Chủ nhật được dành riêng để tài trợ cho khoản tiền gửi ấy.

Chương trình đã được lên kế hoạch và thiết lập, với sự giúp đỡ của Phong trào Phò sự sống Sion trong Giáo phận Mananthavady, theo hãng tin UCA.

Ông Salu Mecheril, điều phối viên khu vực của tổ chức, nói rằng sự phổ biến của chiến dịch đang gia tăng. Một giáo xứ thứ hai đang chuẩn bị thông qua một kế hoạch tương tự.

Mecheril nói: “Chúng tôi đang làm việc để mở rộng chiến dịch trong mọi giáo xứ của giáo phận".

Một ông bố có năm con, Abraham Jacob Chettipuzha, cho biết ông "hài lòng là Giáo Hội đang cổ vũ văn hóa sự sống".

Kế hoạch này đi trái với một sáng kiến của chính phủ liên bang, vốn khuyến khích các vợ chồng chỉ nên có hai con theo tiêu chuẩn.

Năm 2008, Hội đồng Giám mục Công giáo Kerala cho biết rằng, xu hướng gia đình chỉ có một con hoặc không có con có thể gây nguy hiểm cho cộng đồng Công Giáo.

Cuộc điều tra dân số năm 2001 nói rằng các Kitô hữu chiếm 19% trong hơn 31 triệu công dân của Kerala, giảm hơn so với kết quả điều tra dân số năm 1991, vốn cho thấy dân số Công giáo chiếm 19,5%. Đa số người dân bang Kerala theo Ấn Giáo, nhưng người Hồi giáo chiếm khoảng 25% dân số. (CNA 1-9-2011)
 
Hàn Quốc: Một Tổng Giám mục sẽ thực hiện sứ mạng nhân đạo ở Bắc Triều Tiên
Nguyễn Trọng Đa
06:49 03/09/2011
Ngài nói: "Chúng tôi muốn mở lại cánh cửa đối thoại và hòa bình"

Seoul – Đức Tổng Giám mục Iginus Kim Hee-jong, Tổng giáo phận Quang Du (Kwanju), sẽ viếng thăm Bắc Triều Tiên ngày 21-9, và sẽ cầm đầu phái đoàn gồm bảy nhà lãnh đạo tôn giáo, thành viên của "Hội đồng tôn giáo Hàn Quốc vì hòa bình" (KCRP), mà Đức Tổng Giám Mục là Chủ tịch.

Ngài giải thích với hãng tin Fides trong một cuộc trả lời phỏng vấn rằng, chuyến thăm này “nhằm mở lại cánh cửa đối thoại và hòa bình, một mối quan hệ mà tất cả chúng ta đều hy vọng, từ Bắc đến Nam", trong một giai đoạn rất khó khăn trong các hiệp định quan hệ song phương giữa hai nước, trong đó "mọi kênh đều bị đóng".

Trên thực tế, các mối quan hệ đã ở mức thấp lịch sử gần một năm, sau tai nạn tàu hộ tống Cheonan của Hàn Quốc (bị đánh chìm bởi ngư lôi Bắc Triều Tiên hồi tháng 4-2010), sự cố này gây ra cuộc khủng hoảng chính trị và quân sự, và hệ quả là vụ ném bom vào đảo Yeonpyeong của Bắc Triều Tiên (Tháng 11-2010).

Đức Tổng Giám Mục, cũng là Chủ tịch của Ủy ban Đối Thoại Liên Tôn thuộc Hội đồng Giám mục Công giáo Hàn Quốc, nói rằng Ngài "hy vọng cho chuyến đi sắp tới", vốn cho thấy một Đức Giám mục đặt chân trên đất Bắc Triều Tiên "sau hơn 5 năm".

Đức Tổng Giám Mục nhận định: "Là các nhà lãnh đạo tôn giáo tại Hàn Quốc, chúng tôi tin rằng chúng tôi phải đóng một vai trò, trong nỗ lực xây dựng đối thoại và hòa bình với các anh em của chúng tôi ở miền Bắc. Chúng tôi sẽ cố gắng làm mới mối quan hệ với miền Bắc: Mục đích chính của chuyến thăm này là để cung cấp sự trợ gúp nhân đạo, và sự gần gũi của chúng tôi với anh chị em miền Bắc Triều Tiên".

Đức Tổng Giám mục Iginus nói tiếp: "Đây là một dấu hiệu rất tích cực: các nhà chức trách Bắc Triều Tiên đã mời chúng tôi, và chính phủ Hàn Quốc đã đồng ý việc này. Chúng tôi sẽ gặp các nhà lãnh đạo chính trị và chính quyền. Chúng tôi hy vọng rằng chuyến thăm này sẽ giúp mở lại một cuộc đối thoại chính thức giữa hai nước".

Ngài nói: “Tháng trước, một nhóm các nhân viên cứu trợ đã đi thăm Bắc Triều Tiên, mang theo viện trợ nhân đạo, thuốc men và thực phẩm. Đã có các dấu hiệu của sự cởi mở. Thậm chí Bắc Triều Tiên cần một mối quan hệ. Chúng ta biết rằng chúng ta có nguy cơ bị khai thác, nhưng điều quan trọng bây giờ là... giúp mở lại một kênh liên lạc".

Theo nguồn tin của Fides, Bình Nhưỡng, trong khi mạnh mẽ trừng phạt sự tự do tôn giáo trong cả nước, có ý định sử dụng kênh đối thoại với các nhà lãnh đạo tôn giáo, để có được hỗ trợ tài chính mới. Ngày 3-9, một phái đoàn Phật giáo gồm 37 người, trong đó có cả tu sĩ và tín hữu, bắt đầu một chuyến thăm năm ngày tới Bắc Triều Tiên, tham gia một ngày lễ Phật giáo. Chuyến đi đã được Bộ Thống nhất tại Seoul phê duyệt.

Trong những tháng gần đây, chính phủ Seoul cho phép chuyển hàng cứu trợ, do các tổ chức từ thiện Hàn Quốc chuẩn bị, đến người dân suy dinh dưỡng ở Bắc Triều Tiên, mặc dù có cuộc khủng hoảng chính trị giữa hai nước. Một liên minh gồm 54 tổ chức phi chính phủ đề nghị chính phủ Hàn Quốc hãy mở ra “một hành lang nhân đạo thường xuyên". (Agenzia Fides 2-9-2011)
 
ĐTC nói: việc Truyền Giáo mới phải dựa vào sự Hiệp nhất Kitô hữu
Nguyễn Trọng Đa
06:51 03/09/2011
Castel Gandolfo – ĐTC Biển Đức XVI nhắc lại tầm quan trọng của sự hiệp nhất Kitô hữu cho sự thành công của việc Truyền giáo mới.

ĐTC Biển Đức XVI đã nói về hai ưu tiên của Ngài và mối quan hệ tương tác của chúng, trong một lá thư gửi cho Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Cổ vũ sự Hiệp nhất Kitô hữu, Đức Hồng Y Kurt Koch.

Lá thư được viết nhân Hội nghị chuyên đề Liên Kitô hữu lần thứ 12, được cổ vũ tổ chức bởi Viện Linh đạo Phan sinh thuộc Đại học Giáo hoàng thánh Antôn (the Pontifical Athenaeum Antonianum) ở Roma, và Khoa thần học Chính Thống Giáo thuộc Đại học Aristotle ở Thessaloniki, Hi Lạp.

Cuộc Hội thảo kéo dài bốn ngày đã bế mạc ngày 2-9, tập trung vào chủ đề "Chứng tá của Giáo Hội trong thế giới hiện đại".

Nhắc lại việc thành lập Hội đồng giáo hoàng về việc Truyền giáo mới, ĐTC Biển Đức XVI khẳng định rằng chủ đề hội nghị chuyên đề "có tầm quan trọng rất lớn và là trung tâm của mối quan tâm và lời cầu nguyện của tôi".

Ngài nói: “Qua nhiều thế kỷ, Giáo Hội đã không thất bại trong việc loan truyền mầu nhiệm cứu độ của sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, nhưng việc loan truyền như thế ngày hôm nay cần một sức sống mới ở nhiều khu vực, vốn là các khu vực đầu tiên đón nhận ánh sáng, và đang cảm nghiệm các ảnh hưởng của sự thế tục hóa, vốn có khả năng làm nghèo con người trong chiều kích sâu xa nhất của mình".

ĐTC Biển Đức XVI cho rằng hai hiện tượng mâu thuẫn đánh dấu thế giới hiện đại này: "Một mặt là một mất tập trung khái quát hóa và cũng là sự vô cảm liên quan đến tính siêu việt, mặt khác, có nhiều dấu hiệu chứng minh cho một nỗi nhớ mong Thiên Chúa một cách sâu sắc trong trái tim nhiều người, vốn tự biểu lộ trong nhiều cách khác nhau và đem nhiều người nam nữ đến một thái độ tìm kiếm chân thành”.

ĐTC Biển Đức XVI nhắc nhở rằng các Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo chia sẻ cùng một bối cảnh văn hóa và kinh tế tương tự, do đó cũng chia sẻ các thách thức tương tự. Ngài nói rằng hội nghị chuyên đề này có các hệ quả đại kết quan trọng, và các cuộc thảo luận sẽ làm sáng tỏ các vấn đề chung và sự khác biệt trong quan điểm mỗi bên.

ĐTC Biển Đức XVI khẳng định tầm quan trọng của các nỗ lực đại kết cho nguyên nhân của việc truyền giáo mới, bằng cách trích dẫn lời của ĐTC Phaolô VI: "Là nhà truyền giáo, chúng ta phải cung cấp cho các tín hữu của Chúa Kitô, không những hình ảnh của những người bị chia rẻ và tách rời nhau bằng các sự tranh cãi thiếu xây dựng, mà còn hình ảnh của những người trưởng thành trong đức tin, và có khả năng tìm kiếm một điểm gặp gỡ chung, vượt ra ngoài các căng thẳng thực sự, nhờ vào một sự tìm kiếm chân lý cách chia sẻ, chân thành và vô vị lợi. Vâng, vận mệnh của việc Truyền giáo mới chắc chắn bị ràng buộc với chứng tá về sự hiệp nhất do Giáo hội đưa ra. Đây là một nguồn trách nhiệm và cũng là nguồn an ủi". (Zenit.org 2-9-2011)
 
Tương quan giữa vật lý học và đức tin
Linh Tiến Khải
14:45 03/09/2011
Phỏng vấn Mục Sư Anh giáo vật lý gia John Polkinghorne

Trong các ngày 21-27 tháng 8 năm 2011 đại hội tình bạn lần thứ 32 đã diễn ra tại Rimini, trung Italia, về đề tài ”Sự hiện hữu trở thành một sự chắc chắn mênh mông”. Đại hội quy tụ hàng chục ngàn tham dự viên thuộc mọi giai tầng xã hội: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và tôn giáo với hàng trăm thuyết trình viên và các sinh hoạt đủ loại. Bên cạnh các lễ nghi phụng vụ và cầu nguyện, có các buổi thuyết trình, các cuộc hội luận bàn tròn, các buổi hòa nhạc, triển lãm, văn nghệ và giao lưu văn hóa.

Trong số các thuyết trình viên cũng có mục sư Anh giáo, vật lý gia, thần học gia và nhà văn John Polkinghorne.

Mục sư John Polkinghorne sinh năm 1930 và đã từng là giáo sư toán vật lý nổi tiếng tại đại học Cambrigde bên Anh quốc giữa các năm 1968-1979. Trong thời gian này giáo sư cũng có các thời giờ nghiên cứu tại các đại học Princeton, Berkeley, Stanford và tại Trung tâm năng lượng nguyên tử âu châu ở Genève bên Thụy Sĩ. Năm 1977 cảm thấy mình được ơn gọi dấn thân phụng sự Chúa, ông từ bỏ ghế giáo sư vật lý đại học để gia nhập đại chủng viện học thần học và trở thành mục sư Anh giáo năm 1982. Tiếp đến mục sư phục vụ một giáo xứ ở mạn nam Bristol, rồi trở thành cha sở các xứ Blean và Kent, trước khi trở lại Cambridge rồi trở thành giám đốc trường Cao đẳng của Nữ Hoàng tại đây trong các năm 1988-1996, là năm mục sư về hưu.

Là khoa học gia mục sư Polkinghorne đã viết 5 cuốn sách về vật lý và đã góp phần vào việc khám phá ra vật lý duy lượng tử và vật lý hạt Quark. Như là thần học gia và văn sĩ, mục sư cũng là tác giả của 26 cuốn sách về tương quan giữa khoa học và tôn giáo. Năm 1997 mục sư trở thành Hiệp Sĩ của Nữ Hoàng và năm 2002 được nhiều giải thưởng trong đó có giải thưởng Templeton trị giá 1 triệu bảng Anh, vì các đóng góp giúp khẳng định chiều kích tinh thần của cuộc sống và chứng minh cho thấy vật lý và đức tin cho phép khám phá thực tại với hai con mắt.

Tại đại hội tình bạn Rimini ngày 24-8-2011 mục sư Polkinghorne đã diễn thuyết về đề tài sự chắc chắn của khoa học. Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn mục sư về đề tài tương quan giữa khoa học vật lý và đức tin.

Hỏi: Thưa mục sư Polkinghorne, như là khoa học gia và thần học gia mục sư nghĩ gì về tương quan giữa khoa học và đức tin?

Đáp: Các câu hỏi khoa học phải nhận được các câu trả lời khoa học. Còn các vấn nạn thần học phải có các câu trả lời thần học. Khoa học không thể chứng minh rằng Thiên Chúa không hiện hữu và tôn giáo không thể lo lắng cho thiên nhiên trong các chi tiết của nó, cũng như cho lịch sử của thế giới vật lý. Nhưng khoa học và tôn giáo có thể sống chung. Xung khắc chỉ bùng nổ, khi một trong hai bên xâm lấn bên kia và xúc phạm tới lãnh vực hợp pháp của bên kia.

Hỏi: Thưa giáo sư, các xác thực của khoa học có luôn luôn đáng tin cậy hay không?

Đáp: Khoa học cống hiến cho nhân loại nhiều trực giác và hiểu biết có ý nghĩa và có các lý chứng. Nó hoàn toàn có lý sự nên có thể chấp nhận tin tưởng được nơi các xác thực của nó. Dĩ nhiên là khoa học không thể cho chúng ta sự xác thực tuyệt đối. Một việc kiểm soát quan trọng và việc xem xét lại có thể cần làm, khi sự hiểu biết tiến triển khá hơn, như đã xảy ra trong sự chuyển tiếp từ vật lý học của Newton sang thuyết các lượng tử và sự tương đối.

Hỏi: Các sự thật của khoa học thay đổi, đôi khi từ ngày này sang ngày khác và như vậy sự hiểu biết khoa học khiến cho các chân trời của nó tiến tới. Các ý niệm nền tảng của tư tưởng thần học, trái lại, không bao giờ thay đổi. Với sự phản tưởng tạm thời này các tương tác và sự đối thoại giữa khoa học và đức tin xảy ra như thế nào thưa giáo sư?

Đáp: Cả các trực giác và các phân định thần học cũng phát triển trong thời gian, có thể chậm hơn vì thần học khó hơn khoa học. Chỉ cần nghĩ tới nền thần học kitô đã lớn lên như thế nào trong 5 thế kỷ đầu tiên với các thảo luận của các Công Đồng của Giáo Hội. Các tương tác giữa tôn giáo và khoa học còn tồn tại, bởi vì cả hai bên đều chú ý tới việc tìm kiếm chân lý, mặc dù trên các bình diện khác nhau trong việc tiếp cận với thực tại.

Hỏi: Thưa giáo sư, trong cuốn sách tựa đề ”Tin vào Thiên Chúa trong kỷ nguyên khoa học” giáo sư miêu tả chủ thuyết mghi ngờ bắt giữ được vài tín hữu trong khi sự tiến bộ kỹ thuật phổ biến một quan niệm duy vật về thế giới. Nhưng nếu khoa học gia tăng các nghi ngờ, thì có thể coi nó như là đối thủ của đức tin hay không?

Đáp: Khoa học không khích lệ các nghi ngờ của tín hữu, nếu nó tôn trong lãnh vực chuyên môn của nó, nghĩa là nếu nó chỉ đề cập tới các tiến bộ tự nhiên, mà không thảo luận về các vấn đề giá trị. Như thế đối với một nhà vật lý trong tư cách là nhà vật lý, thì âm nhạc được tạo thành bởi các rung động trong không khí, nhưng không ai có thể bị dẫn đến chỗ tin rằng âm nhạc chỉ là thế, và không có gì khác để nói về điều này.

Hỏi: Thưa giáo sư, có một người đã hỏi giáo sư rằng nên trở thành linh mục hay chuyên gia vật lý, và giáo sư đã trả lời: ”Hãy nhắm tới khoa học và một nền văn hóa giúp xây dựng một một sự nhậy cảm và một nềm văn hóa tôn giáo bắng cách cầu nguyện và dấn thân trong các sinh hoạt trong giáo hội của bạn”, có đúng thế không?”

Đáp: Tôi tin là chúng ta tất cả đều nhận được các tài năng khác nhau do Thiên Chùa ban cho để chúng ta diễn tả chúng ra và sử dụng chúng. Như thế chúng ta phải chờ đợi ai có tài khéo khoa học thì dùng nó một cách thích hợp. Nhưng không được biến nó trở thành trung tâm tuyệt đối của cuộc đời mình. Tật cả mọi người đều phải sẵn sàng gặp gỡ thực tại của sự thánh thiêng.

Hỏi: Giáo sư đã tuyên bố rằng các sự thật của khoa học và các sự thật của đức tin gắn liền nhau một cách sâu xa. Giáo sư có thể giải thích thêm một chút hay không?

Đáp: Chúng ta hãy giải thích nó một cách thô thiển như thế này. Khoa học thì hỏi: các sự việc xảy ra như thế nào; còn tôn giáo thì hỏi tại sao chúng xảy ra. Để có thể hiểu thực tại, chúng ta cần phải đưa ra các câu hỏi và nhận được các câu trả lời cho cả hai câu hỏi như đã nêu lên trên đây. Cái bình nấu nước đang sôi bởi vì hơi đốt đang nung nóng nước lên, và lý do là vì tôi muốn pha cho mình một ly trà nóng. Các câu trả lời có thể khác nhau, nhưng mà chúng phải hòa hợp với nhau: bình nấu nước mà ở trong tủ lạnh thì không phù hợp với ý định muốn uống một ly trà nóng. Trong ý nghĩa của sự phù hợp này khoa học và tôn giáo gấn liền với nhau một cách mật thiết.

Hỏi: Thưa giáo sư, không có gì có thể là thật, nếu không đựơc kiểm thực một cách khoa học. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định như thế. Nhưng giáo sư đã phản bác rằng, dựa trên định lý của Godel, trong toán học thuần túy có các khẳng định thật, nhưng cũng không thể được chứng minh. Nhưng nếu khoa học và đức tin tùy thuộc lẫn nhau, thì tôn giáo siêu vượt trên khoa học và không có gì để chứng minh cả, có phải vậy không?

Đáp: Tôi tin rằng khoa học cũng như tôn giáo đều có mục tiêu là sự thật, và chúng tìm kiếm sự thật qua các xác tín có các lý do hẳn hoi, vì thế có thể tin cậy được, mặc dù biết rằng chúng không tuyệt đối chắc chắn. Dù sao đi nữa thì niềm tin tôn giáo cũng không dựa trên sự quy phục một quyền bính vô lý nào cả và không thể phản kháng được.

(Nguồn: Avvenire 9-8-2011)
 
Top Stories
Vietnamese Parents Beg Prayers After Arrest of 15 Youths Say Their Only ''Crime'' Is Promoting Common Good
Zenit
06:53 03/09/2011
HANOI, Vietnam, SEPT. 2, 2011 (Zenit.org).- Vietnamese authorities arrested 15 Catholic youths in July and August, six of whom are being held in Hanoi, while the whereabouts of the other nine is unknown.

Their families launched an appeal for solidarity in an open letter in which they ask for the active support and prayer of the whole Church, the Eglises d'Asie agency of the Foreign Missions of Paris reported Thursday.

The families say their children are innocent of any crime, and that they should not be punished for involvement in social activities that promote the common good.

Among those arrested is Paul Tran Minh Nhat, a student of the faculty of Foreign Languages and Information Technology of Hanoi. He belongs to a Catholic parish of the Dioceses of Vinh, in the province of Nghe An.

He finished his studies Aug. 27. At the end of his last test, when he was leaving the classroom, four security agents in uniform accompanied him to the door of the university and forced him to get into a waiting car. He was taken to his room, which the police searched in his presence, and then to an unknown destiny.

Since that date, the family has not received a notification of his arrest.

Amnesty

While the police were arresting the student, Vietnamese President Truong Tan Sang was announcing the release of 10,000 detainees on the occasion of today's national feast day.

Bishop Paul Nguyên Thai Hop of Vinh, the diocese where the majority of Catholics have been arrested recently, told the Fides agency that "the amnesty is a practice that is repeated every year and often applies to prisoners sentenced for crimes against security and not prisoners of conscience."

According to the Human Rights Commission in Vietnam, at least 258 political prisoners and prisoners of conscience are in Vietnamese prisons.

The U.S. State Department's 2010 report on religious freedom noted the "significant problems" in Vietnam with regard to this human right.
 
Pope's Letter to Catholic-Orthodox Symposium: ''The Destiny of Evangelization Is Certainly Bound Up With the Witness of Unity''
+Pope Benedictus XVI
15:01 03/09/2011
CASTEL GANDOLFO, Italy, SEPT. 2, 2011 (Zenit.org).- Here is a translation of the Aug. 6 letter Benedict XVI sent to the president of the Pontifical Council for Promoting Christian Unity, Cardinal Kurt Koch, on the occasion of the 12th Inter-Christian Symposium.

The symposium, with the theme "The Witness of the Church in the Modern World," concluded today in Thessaloniki (Salonika), Greece.

To the Venerable Brother
Lord Cardinal Kurt Koch
President of the Pontifical Council for Promoting Christian Unity,

On the occasion of the 12th Inter-Christian Symposium, with the theme "The Witness of the Church in the Modern World," which is being held in Salonika from Aug. 30 to Sept. 2, 2011, I wish to manifest through you, Venerable Brother, my great appreciation for this laudable initiative, promoted by the Franciscan Institute of Spirituality of the Pontifical University Antonianum and by the Department of Theology of the Orthodox Theological Faculty of the Aristotle University of Salonika.

2. The topic that will be discussed at the symposium is of great current importance and is at the center of my concern and prayers, as I already affirmed in the apostolic letter "Ubicumque et Semper," with which I instituted the Pontifical Council for Promoting New Evangelization. In the course of the centuries the Church has not failed to proclaim the salvific mystery of the death and resurrection of Jesus Christ, but this same proclamation today needs a renewed vigor in many of the regions that were the first to receive the light and that are experiencing the effects of a secularization capable of impoverishing man in his deepest dimension. In reality, we are witnessing in the contemporary world contradictory phenomena: On one hand there is a generalized distraction and also an insensitivity in regard to transcendence; on the other, there are numerous signs that attest to an ongoing profound nostalgia for God in many hearts, which manifests itself in many different ways and which brings many men and women to an attitude of sincere searching.

3. The present cultural, social and economic backdrop poses the same challenges to Catholics and Orthodox. The reflection that will take place in the symposium will have an important ecumenical consequence. The interventions will make it possible to draw a clear picture of the common problems and the presentation of the particularities of the different points of view, favoring an exchange of reflections and experiences in a climate of fraternal charity. The mutual knowledge of our traditions and sincere friendship represent, in themselves, a contribution to the cause of Christian unity. I wish to recall here the words of my Venerable Predecessor, the Servant of God Paul VI, when, in regard to evangelization, he affirmed: "As evangelizers, we must offer Christ's faithful not the image of people divided and separated by unedifying quarrels, but the image of people who are mature in faith and capable of finding a meeting-point beyond the real tensions, thanks to a shared, sincere and disinterested search for truth. Yes, the destiny of evangelization is certainly bound up with the witness of unity given by the Church. This is a source of responsibility and also of comfort" (Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, No. 77).

4. Certainly contributing to the good outcome of this work will be the intercession of St. Paul, whose memory is alive in the city of Salonika, where the Apostle preached the Gospel in the first place -- a city to which he remained linked by a special bond of affection. It is necessary that you be animated by the same apostolic zeal that Paul had for a renewed proclamation of the Gospel in the contemporary world.

5. To all those who contributed to the realization of the symposium, to the illustrious speakers and to all the participants, I address my cordial greeting with the hope that the initiative will be a success. I support the works with prayer and with my Apostolic Blessing.

From Castel Gandolfo, August 6, 2011
BENEDICTUS XVI
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo lý: dậy cho các em về sự Linh Thánh
Gioan Lê Quang Vinh
08:13 03/09/2011
Dạy giáo lý cho các em là dạy về kế hoạch Cứu độ nhiệm mầu của Thiên Chúa đối với con người. Và trung tâm của kế hoạch đầy yêu thương ấy là chính Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa.

Tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, cho Dân thánh Ngài, và cho chính các em, là nét chính của từng bài giảng giáo lý. Nhưng có một điều giáo lý viên cũng cần nhớ nhắc nhở các em, đó là sự cao sang của Thiên Chúa và tính cách linh thánh của các mầu nhiệm.

Khi Môisen đến gần bụi gai đang bốc cháy, nơi Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông, ông nghe có tiếng Chúa phán: “Chớ lại gần đây, hãy cởi dép ở chân ra vì nơi ngươi đang đứng là đất Thánh”. Thiên Chúa yêu thương mời gọi ông làm người giải phóng dân Chúa, ông được diện kiến Ngài và lĩnh nhận Thánh Ý Ngài, nhưng không phải vì thế mà ông có thể quên tính cách siêu việt của Thiên Chúa.

Thời Chúa Giêsu đi giảng dạy, dân chúng và các môn đệ đến gần Chúa, chia sẻ vui buồn và mọi chi tiết trong cuộc sống với Người, nhưng con người vẫn không được quên Thiên tính cao trọng của Người.

Chúa Giêsu đến để cứu độ con người, trả lại cho con người phẩm giá và nhân vị, nâng con người lên hàng siêu việt, làm con cái Thiên Chúa. Nhưng không phải vì thế mà con người dám xem mình ngang hàng với Thiên Chúa, hay coi thường tính siêu việt của Ngài.

Các giáo xứ đang khai giảng năm học giáo lý mới. Chắc không phải là thừa khi nhắc lại về khía cạnh linh thánh mà giáo lý viên cần chú ý trong việc giảng dạy của mình. Những điều chúng tôi đã chứng kiến đó đây, xin được ghi lại đây với vài chia sẻ đầu năm học.

Trước hết, giáo lý viên cần cho các em thấy giờ cầu nguyện lúc bắt đầu, trong buổi học và lúc kết thúc là những giây phút linh thánh. Ai trong chúng ta cũng đã chứng kiến những giờ cầu nguyện trong giờ giáo lý một cách qua loa, có tính hình thức hay vội vàng. Giáo lý viên vội vã vào lớp, có khi vừa đúng giờ có khi hơi trễ, bảo các em đứng lên và đọc kinh thật nhanh. Có khi các em đang đọc kinh thì giáo lý viên nhắc em này, khều em kia hay nhíu mày với em nọ vì các em tinh nghịch.

Phải làm sao cho các em hiểu rằng giây phút cầu nguyện có thể xem là quan trọng nhất trong giờ giáo lý. Phải làm sao cho các em hiểu rằng cầu nguyện chính là đến trước Thiên Chúa là Chúa của trời đất để thưa chuyện với Ngài. Phải làm sao cho các em thấy rẳng được hầu chuyện với Thiên Chúa là ân huệ cao quí.

Thứ hai, lời giảng dạy về các mầu nhiệm phải làm nổi bật tính linh thánh của những gì thuộc về Thiên Chúa. Những gợi ý cho bài giảng, chuyện kể, bài hát hay trò chơi là nhằm giúp các em hiểu bài học, chứ không phải để giảm nhẹ tính cao siêu của các mầu nhiệm. Do đó những chuyện kể không đứng đắn, những lời bông đùa lố lăng cần phải chú ý tránh hẳn.

Dạy cho các em về một Thiên Chúa gần gũi với dân Ngài cũng đồng thời cho các em nhìn thấy sự cao sang, huy hoàng và uy quyền của Thiên Chúa. Ngài gần gũi với dân Ngài vì tình yêu Ngài bao la vô cùng, chứ không phải vì sự siêu việt của Ngài suy giảm. Chính ý thức về sự linh thánh sẽ giúp các em vừa yêu mến Thiên Chúa, vừa kính sợ Ngài, đồng thời làm cho các em “yêu mến những sự trên Trời”.

Và cũng quan trọng khi cho các em thấy tính linh thánh trong các nghi thức và lời tuyên xưng. Lời tuyên xưng đức tin hay các tuyên hứa phải được xem là việc của cá nhân, của từng tâm hồn, ngay cả khi tuyên xưng chung trong nhóm hay trong cộng đoàn. Nếu vì lý do thuận tiện hay cho đơn giản mà bỏ qua yếu tố này thì vô tình đánh mất một phần ý nghĩa.

Chúng tôi thích cho các em trong nghi thức tuyên xưng đức tin sau lớp Bao đồng tự cầm giấy và đọc lời tuyên xưng, trong đó có danh tánh của chính em. Em có thể giữ lại lời tuyên xưng này làm kỷ niệm và làm bằng chứng cho lời em tuyên xưng.

Bây giờ kỹ thuật phát triển, máy chiếu và các loại máy móc phát triển, nếu biết dùng cho phù hợp thì sẽ tăng thêm phần long trọng hay thuận tiện cho các giờ phụng vụ. Nhưng nếu lạm dụng, máy móc sẽ làm cộng đoàn chia trí hay làm mất tính linh thánh của các nghi thức trong nhà thờ.

Chúng tôi xin lấy ví dụ cụ thể. Có một số nhà thờ khi linh mục giảng lễ, máy chiếu vẫn hoạt động với nhiều hình ảnh hay lời minh hoạ. Có lẽ người phụ trách máy chiếu chưa hiểu hết ý nghĩa của bài giảng, (homily), chưa biết tính cách cao trọng của giáo huấn của linh mục chủ tế trong Thánh Lễ. Hình ảnh chiếu lên chớp nháy liên tục như thế không biết có minh hoạ được gì không, hay lại làm mất đi tính linh thánh của việc giảng dạy Lời Chúa, làm cộng đoàn chia trí.

Các nghi thức tuyên xưng cũng vậy. Không phải cứ chiếu hết mọi thứ lên cho tiện lợi, bắt các em ngước lên đọc lời tuyên xưng, mà không nhắc cho các em tính cá nhân và ý nghĩa thực sự của việc các em tuyên đọc.

Sử dụng các dụng cụ, máy móc, bài hát, chuyện kể như thế nào không phải là điều đơn giản. Rất mong ước các giáo lý viên không sử dụng như là ngẫu hứng, lấp chỗ trống hay để “hiện đại hoá” các nghi thức, mà phải thật sự giúp các em đi vào chiều kích linh thánh của mầu nhiệm và giúp các em đến gần Thiên Chúa hơn.

Xin Mẹ là thầy dạy của chúng con giúp cho giáo lý viên chúng con biết cung kính và vâng phục trước các mầu nhiệm như Mẹ đã cung kính, vâng phục và suy niệm mọi ngày suốt đời Mẹ.
 
Một bạn trẻ Việt cùng với các các bạn trẻ Chicago mang thánh giá đến Madrid
Nguyễn Công Chính
08:37 03/09/2011
CHICAGO - Một bạn trẻ người Việt mang thánh giá từ Chicago đến Madrid trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Tây Ban Nha rồi mang thánh giá trở lại Hoa Kỳ sau khi đã được ĐGH làm phép. Đó là anh Thomas Trần Trung Hậu là người Việt duy nhất trong tổng số 300 thanh thiếu niên thuộc Tồng Giáo Phận Chicago tham dự ĐHGTTG lần thứ 26 tại Tây Ban Nha. Thomas Trần Trung Hậu, sinh viên ngành kỹ sư điện toán tại Đại học UIC ở thành phố Chicago. Song thân của Thomas là Ông Nguyễn Hồng Phúc và Bà Trần Thị Nhã.

Xem hình ảnh

Với sự chấp thuận và dưới sự hướng dẫn của Cha xứ Nicholas, Thomas đã hợp tác với các bạn trong nhóm hành hương đã vẽ mẫu, đóng và sơn cây thánh giá, biểu trưng cho giới trẻ thành phố Chicago. Để có thể di chuyển từ Chicago đến Madrid bằng đường hàng không, thánh giá nầy đã được thiết kế theo phương pháp tiền chế, nghĩa là có thể tháo ra và ráp lại dễ dàng trong những lần du hành đường trường. Cây thánh giá nầy đã được mang đến nhà thờ Saint Mary ngày 29-07-2011 để được ĐHY Francis Cardinal George chúc lành trong một thánh lễ đại triều do ĐHY Tổng Giám Mục Chicago chủ tế với sự tham dự của trên 300 thành viên ĐHGTTG thuộc Tổng Giáo Phận Chicago và trên một ngàn phụ huynh và thân nhân của các thành viên nầy tham dự.

Khi tới địa điểm hành hương, thánh giá đã được ráp lại và sửa chữa những chỗ bị trầy trụa vì di chuyển đường xa. Sau đó, thánh giá đã được Cha xứ mang đến đền thánh để được Đức Giáo Hoàng đích thân làm phép và chúc lành cho đoàn hành hương đã có công mang thánh giá nầy từ Chicago đến Madrid, Tây Ban Nha.

Cha xứ của nhà thờ Saint Aloysuis là Linh mục Nicholas Desmond cùng hai nữ tu là Sister Juliana và Sister Esther đã hướng dẫn Thomas và 10 thành viên trẻ của giáo xứ đi hành hương ĐHGTTG lần thứ 26. Quý ân nhân bảo trợ cho cuộc hành trình tuổi trẻ năm nay gồm có Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ Saint Alysuis và Hội Nghĩa Sinh Chicago cùng quí ân nhân khác như quý ông bà Marijane Amabile, Bill Beanne, Anne Moore, Brad Schmid, Steve & Catherine Schmid, James & Susan Schmid và Blanche Vedral đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để Thomas cùng các bạn tham dự một sinh hoạt quốc tế đầy lòng yêu thương, hòa ái, đại đồng và chuẩn bị cho Thomas và các bạn một hướng đi vững vàng trong đời sống đạo đức.

Trong một thánh lễ đồng tế tại địa điểm hành hương ở Madrid, thủ đô Tây Ban Nha, ĐHY Francis Goerge và Cha xứ Nicholas Desmond đã nhắc nhở Thomas và các bạn trẻ hành hương về đời sống đạo đức và yêu thương được thể hiện trong thánh lễ và qua bí tích thánh thể. Đi hành hương là để tập luyện tinh thần cải thiện bản thân và thể hiện tinh thần giúp ích tha nhân với niềm tin và hy vọng: Tuổi trẻ là tương lai còn lại của nhân loại. Photographs by Thomas Tran.

Được hỏi về ý nghĩa của sự lựa chọn hành trang Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là cây thánh giá (thay vì những bức tranh, bó hoa, hay một tác phẩm tuyệt tác nào đó), em Thomas Trần Trung Hậu đã giải thích như sau:

Theo sự hiểu biết giới hạn của chúng con thì thánh giá đồng nghĩa với ơn cứu độ và là biểu tượng sống động của tình thương, của khiêm nhu, của hy sinh, của phục sinh. Chúng con quan niệm Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là một hành trình (journey) mà hành trang cần thiết cho cuộc hành trình nầy là sự hy sinh, lòng khiêm nhường, tình yêu thương để được đồng hành và phục sinh với Đức Kitô.

Được hỏi về cảm nghĩ của mình sau khi tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm nay, em Thomas Trần Trung Hậu đã phát biểu như sau:

“Sau chuyến đi này, chúng con đã học hỏi được rất nhiều bài họ quý giá về tôn giáo, lịch sử, văn hóa, xã hội. Đặc biệt là các bạn trẻ của Giáo xứ Saint Aloysuis cảm thấy gần gũi nhau hơn và coi nhau như anh em ruột thịt trong một gia đình thuận hảo, yêu thương, và biết xây dựng cho nhau. Chúng con xin kính lời cám ơn quý ân nhân, thân nhân đã cầu nguyện và hỗ trợ cho chúng con về tinh thần cũng như thể chất trong chuyến đi hành hướng quý báu và hữu ích nầy. Đặc biệt chúng con xin cám ơn Cha xứ Nicholas Desmond và hai nữ tu hướng dẫn (Sister Juliana và Sister Esther).

Cuộc gặp gỡ tại Madrid đã là một biểu lộ đức tin tuyệt vời. Với số đông đảo người trẻ đến từ khắp nơi trên thế giới, ĐHGTTG là cơ duyên hiếm quý cho suy tư, đối thoại, trao đổi, cầu nguyện, canh tân và dấn thân.
 
TGM Leopoldo Girelli thăm viếng và dâng thánh lễ tại Trung Tâm hành Hương Đức Mẹ La Vang
Trương Trí
08:41 03/09/2011
LAVANG - Sáng ngày 3.9, Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, Đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam đã đến thăm Tổng Giáo Phận Huế. Đón tiếp Ngài tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận có Đức Tổng Giám Mục giáo phận Huế Stêphanô Nguyễn Như Thể, Đức Giám Mục phụ tá Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, các linh mục và tu sĩ nam nữ trong giáo phận. Cũng trong buổi sáng, Đức Tổng Giám Mục Đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam đã có buổi gặp gở và trao đổi thân tình với Linh Mục Đoàn giáo phận Huế.

Xem hình ảnh

Buổi chiều, Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli đã ra Quảng Trị, viếng thăm Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang.

Mặc dù cuối mùa Hè, nhưng vẫn có rất đông khách hành hương đến với Mẹ, đủ mọi thành phần cả ba miền Bắc Trung Nam. Các linh mục và các hội đoàn thuộc Hạt Quảng Trị đã tập trung chỉnh tề theo hàng ngũ đế đón đoàn. Đặc biệt có đội cồng chiêng của cộng đoàn dân tộc thiểu số thuộc giáo xứ Khe Sanh do cha quản xứ Giuse Phan Miên dẫn đầu trong đoàn rước. Cha quản nhiệm Trung Tâm Hành Hương luôn tươi cười hướng dẫn các em thiếu nhi vào vị trí tặng hoa và mời cộng đoàn hành hương ổn định đế đón Đức Tổng Giám Mục Đại diện của Đức Thánh Cha.

Đúng 15giờ30, đoàn xe tiến vào Trung Tâm, dưới chân Tháp Cổ các em thiếu nhi hân hoan tặng hoa Đức Tổng Giám Mục Leopol Girelli, Đức Tổng Giám Mục giáo phận Huế và Đức Giám Mục phụ tá. Các ngài biểu lộ niềm hân hoan và vô cùng xúc động khi thấy cộng đoàn hành hương đã bất ngờ tạo cho buổi đón tiếp thêm phần long trọng.

Tại Linh Đài Đức Mẹ, cha quản nhiệm Trung Tâm Hành Hương Giacôbê Lê Sĩ Hiền đã hướng dẫn Đức Tổng Giám Mục Đại diện Tòa Thánh dâng hoa lên Đức Mẹ. Tiếp đó, Ngài cùng hai vị Giám Mục của Tổng Giáo phận Huế cùng niệm hương trước Linh Đài Đức Mẹ.

Với một tâm tình mến yêu và sung mộ, cộng đoàn hành hương đã vây quanh các Ngài để được hôn nhẫn và Thánh Giá, điều đáng nói là trong số đó có những lương dân nhưng họ vẫn rất quý trọng và tín thác lời cầu xin với Mẹ La Vang.

Tại nhà khách Trung Tâm, đoàn đã được cha Đa Minh Phan Anh giới thiệu bằng tiếng Anh một số hình ảnh của Thánh Địa La Vang, nhất là Đại lễ Bế Mạc Năm Thánh Giáo hội Việt Nam hồi đầu năm do Đức Hồng Y Đặc Sứ Ivan Dias chủ sự.

Thánh lễ đồng tế tại nhà nguyện do Đức Tổng Giám Mục Đại Diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam chủ tế, cùng với Đức Tổng Giám Mục giáo phận Huế, Đức Giám Mục phụ tá, Đức Đan Viện Phụ Đan Viện Thiên An và đông đảo linh mục.

Trước khi bước vào thánh lễ, Đức Tổng Giám Mục giáo phận Huế đã giới thiệu với cộng đoàn khoảng trên 10 ngàn người về vị Đại diện không thường trú của Đức Thánh Cha tại Việt Nam, những tràng pháo tay vang dội chúc mừng Ngài nói lên tâm tình của những người con đối với vị đại diện của Đức Thánh Cha vô vàn kính yêu.

Với vốn liếng tiếng Việt chỉ trọ trẹ nhưng Ngài cũng đã nói lên được những cảm xúc mà cộng đoàn dành cho Ngài.

Cuối thánh lễ, bằng tiếng Việt, Ngài đã gởi đến cộng đoàn Dân Chúa Phép Lành của Đức Thánh Cha. Ngài cũng sẵn sàng mời những ai muốn hôn nhẫn, nhưng với số lượng quá đông và với tất cả lòng sùng mộ, ai cũng muốn hôn nhẫn nên Ngài không thể thỏa mãn hết được. Tuy vậy, Ngài cũng đã cố gắng để một số người được hôn nhẫn.

Kết thúc buổi viếng thăm và dâng thánh lễ, Ngài trở về lại Huế. Sáng mai, Chúa Nhật 4.9, Tổng Giáo Phận Huế sẽ có buổi đón tiếp Ngài tại nhà thờ chính tòa Phủ Cam, sau đó Ngài sẽ dâng thánh lễ tại đây. Chúng tôi sẽ bài tường thuật vào ngày mai.
 
Sống tình hiệp thông
Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
22:21 03/09/2011
SỐNG TÌNH HIỆP THÔNG

“Ở đâu có hai ba người họp nhau, ở đó có Ta ở giữa” (Mt 18,20). Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, không chỉ là một khích lệ, không chỉ là một nguyên tắc nhưng là một chân lý để dành cho những người tin. Hội thánh chúng ta được gọi là hội của những người tin. Và vì sống đức tin, noi gương Đấng sáng lập mình là Đấng Thánh, dùng những mầu nhiệm thánh để được nên thánh, Hội thánh qui tụ những con người sống đức tin. Hội thánh không phải là một thể chế xã hội, càng không phải là một công ty liên doanh hay là hợp tác xã. Hội thánh bao gồm những con người sống đức tin và hướng về sự thánh thiện trên quê trời. Bởi vậy, “Ở đâu có hai ba người họp nhau” thì tính thiêng thánh được thể hiện tại đó.

Chuyến đi thăm Hoa Kỳ của chúng tôi dịp hè tháng 7 và tháng 8 năm 2011 vừa qua tại tiểu bang California – là một trong những tiểu bang lớn của Hoa Kỳ - về diện tích thì diện tích của tiểu bang California đã rộng gấp rưỡi diện tích đất nước Việt Nam của chúng ta. Chúng tôi đến thăm miền Nam California, giáo phận Orange. Ở nơi đây có tới 14 cộng đoàn người Việt, vì chưa thành lập nên giáo xứ thì gọi là cộng đoàn, mang những tên gọi rất là Việt Nam. Cộng đoàn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam; cộng đoàn La Vang; cộng đoàn Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội; cộng đoàn Chúa Giêsu Kitô Vua... Đời sống mục vụ của các cộng đoàn Việt Nam này rất sốt sắng. Có thể nói, những ngày đầu, cách đây vài thập niên, có nhiều cụ già đã khóc. Vì buồn tủi, đất nước xa lạ, ngôn ngữ tiếng Anh không biết. Ra đường, không có xe hơi là không thể đi nổi, vì phương tiện chính là xe hơi. Suốt 45 ngày ở Mỹ, chúng tôi chỉ nhìn thấy 2 đến 3 xe máy, mà đó là những chiếc xe của cảnh sát và chỉ nhìn thấy có 2 chiếc xe đạp đi thể thao trong công viên. Còn những người đi bộ thì phải tới New York, thành phố đông dân nhất Hoa Kỳ hoặc là Washington, thủ đô của Hoa Kỳ thì mới thấy có những người đi bộ trên những vỉa hè, còn những free way hay đường trong những thành phố, chỉ nhìn thấy xe hơi nối đuôi nhau. Vì thế, những cụ già khi sang đến đất nước Hoa Kỳ, chỉ biết ngồi khóc nhớ về quê nhà. Bởi vì, ra đường thì không đi được mà đến nơi chung thì ngôn ngữ bất đồng. Nhưng ngày nay, đã có những cộng đồng người Việt Nam. Có cả những Little Saigon – nghĩa là Sài Gòn thu nhỏ; có cả những Phúc Lộc Thọ, là trung tâm thương mại của người Việt Nam. Những người Việt Nam đi đến những trung tâm của người Việt Nam và đặc biệt là người Công giáo đến những trung tâm Công giáo và dâng lễ bằng tiếng Việt. Tôi đã được dự một lớp giáo lý tại Atlanta, có 500 em thiếu nhi tập trung dự khai mạc do Đức Ông Phanxico Phạm văn Phương điều hành. Vừa học giáo lý, vừa học Việt ngữ. Các thầy cô giáo là những người tình nguyện, là những giáo lý viên, là những hiền mẫu trong các cộng đoàn, là những quí chức tình nguyện đến. Làm như vậy để sức sống cộng đồng được phát triển và không ai thấy mình lạc lõng giữa một cộng đồng nói tiếng Việt, dâng lễ bằng tiếng Việt Nam và gặp những con người Việt Nam thân yêu.

Hình ảnh “Ở đâu có hai ba người họp nhau, ở đó có Ta ở giữa” hiển hiện rõ khi chúng tôi đến với những cộng đoàn Việt Nam ở các tiểu bang. Và 11 tiểu bang mà chúng tôi đi – 1/5 nước Mỹ, chúng tôi đều đên với cộng đồng người Việt. Đó là những gì mà chúng tôi được chứng kiến, chính sức sống đức tin của những người dân Việt Nam làm nên hạnh phúc cho họ. Nếu so với Trung Quốc, thì họ có cả một China town - một thành phố người Hoa, nhưng họ lại không có cộng đồng Công giáo người Hoa. Về thương mại, kinh tế thì Việt Nam không sánh được với họ. Nhưng về Công giáo thì người Trung Hoa không thể sánh được với người Việt Nam. Bởi vậy, điều hạnh phúc của người Công giáo Việt Nam ở nước ngoài chính là đời sống đức tin. Các nhà thờ Việt Nam được xây dựng. Chúng tôi đến Trung tâm Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Hoa Kỳ. Bởi vì Hoa Kỳ có một Đền Thánh Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II nâng lên hàng Vương cung thánh đường trong số mười Vương cung Thánh đường trên thế giới . Bước vào Vương cung thánh đường, chúng tôi thấy, xét về mặt diện tích thì Vương cung thánh đường lớn gấp hai lần diện tích Nhà thờ Phát Diệm của chúng ta, nhưng xét về qui mô xây dựng thì mang tầm vóc quốc tế. Bởi vì trong Vương cung thánh đường đó có những phòng nhà nguyện dành cho Hà Lan, cho Hàn Quốc, cho Philippin, cho các nước và cũng vinh dự cho Việt Nam chúng ta là có một phòng nguyện cho Việt Nam. Phòng nhà nguyện đó được dâng hiến cho Đức Mẹ La Vang Việt Nam. Chúng tôi quỳ gối trong phòng nguyện Đức Mẹ La Vang Việt Nam, cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam, cầu nguyện cho đồng bào Công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, và cũng xin cho tình hiệp thông ở Vương cung Thánh đường được vang lên mọi ngôn ngữ, trong đó có ngôn ngữ thân thuộc của người Việt Nam. Nói như vậy để chúng ta hiểu rõ hơn lời Chúa Giêsu hôm nay phán: “Ở đâu có hai ba người họp nhau, ở đó có Ta ở giữa”. Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Hoa Kỳ mà chúng tôi tới thăm là một nơi được vang lên rất nhiều ngôn ngữ của các châu lục: châu Mỹ, châu Âu, châu Á . Những lời cầu nguyện, những lời ca tiếng hát và Chúa luôn luôn ở giữa mọi ngôn ngữ, mọi dân tộc. Bởi vậy những đau thương trong quá khứ dần dần được thay thế bằng yêu thương và bằng sức sống hiệp thông của mỗi cộng đoàn. Ở cộng đoàn Việt Nam nào, chúng tôi cũng thấy tờ báo Hiệp Thông. Ở trong đó đăng tải những bài suy niệm của ngày Chúa nhật, đăng tải cho cộng đoàn trong cùng một giáo phận giờ lễ, giờ sinh hoạt, thông báo cho nhau biết. Những tin tức cập nhật từ thông điệp của Đức Thánh Cha; từ những sinh hoạt lớn của hoàn cầu; ví dụ như Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới vừa qua đến những sinh hoạt nhỏ trong giáo xứ đều được đăng tải trên tờ báo Hiệp Thông để cho mọi người dù ở đâu cách xa hàng trăm cây số. (Ở Mỹ người ta tính theo mile và khoảng cách thì người ta tính bao nhiêu tiếng xe hơi chạy, chứ không tính km như chúng ta). Thì nhờ những tờ báo Hiệp Thông đó mà người ta biết được giờ cử hành thánh lễ ở những cộng đoàn nào để người ta đến hiệp thông thánh lễ. Có thể nói sức sống hiệp thông là sức sống của đức tin. Nhờ tờ báo Hiệp Thông, mọi người biết giờ, biết địa điểm để dự lễ. Và nhờ tình hiệp thông, chúng tôi đã đến tham dự Đại Hội Thánh Mẫu Missouri. Ở đó, chúng tôi đã gặp 70.000 người Công giáo Việt Nam hội tụ và khoảng 200 linh mục đã về cùng đồng tế với 4 Đức Giám mục, trong đó hai Đức cha là Giám mục Hoa Kỳ và hai Đức Giám mục Việt Nam.

Nếu không có sự hiệp thông, không có Thiên Chúa ngự giữa thì làm sao có được những sinh hoạt đầy đức tin như vậy và đã đem lại hạnh phúc cho bao nhiêu gia đình, niềm hạnh phúc cho bao nhiêu cá nhân. Không còn nước mắt tuổi già tủi thân. Không còn những lo âu của các bậc cha mẹ khi sống ở nơi đất khách quê người. Cuối cùng, chúng tôi chỉ nói với nhau rằng: “Ở trên trái đất này, nếu lữ hành thì ở đâu cũng là lữ hành. Nếu là anh em thì ở đâu cũng là anh em. Nếu là một mái nhà thì ở đâu cũng là một gia đình”. Và trong gia đình Công giáo, chúng ta có một Cha ở trên trời. Ngài luôn ngự giữa để chúc phúc cho những đâu có hai ba người hợp nhau cầu nguyện “có Ta ở giữa họ”.

Lạy Chúa Giêsu,

Lời Chúa đã hứa và chính Chúa đã ban ơn.
Một Giáo Hội Hiệp Thông,
Một gia đình hiệp thông.
Xin cho chúng con sống tình hiệp thông
để cảm nghiệm được Chúa đang ở giữa chúng con.
Hạnh phúc đời này,
hạnh phúc đời sau,
hạnh phúc viên mãn trong nhà Cha trên nước Hằng Sống đời đời. Amen.


Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
 
Liên Đoàn CGVN Hoa Kỳ
Cho đến nay có 100 linh mục đã ghi danh tham dự Đại hội Linh mục Emmaus IV
VP Liên Đoàn
09:35 03/09/2011
DANH SÁCH LINH MỤC THAM DỰ ĐẠI HỘI EMMAUS IV – 2011

Danh sách tham dự Đại Hội tính tới ngày 1 tháng 9, 2011. Danh sách đợt 3 sẽ được thông báo trong thời gian tới do một số Cha vừa mới báo tin qua phone hoặc email về Văn Phòng Chủ Tịch Liên Đoàn, nên Ban Điều Hợp chưa kịp cập nhật trong danh sách đợt 2 này. Xin quý Cha cũng gởi ngay Đơn Ghi Danh cùng lệ phí tham dự. Xin vào website: liendoanconggiao.net, để lấy mẫu đơn. Hạn chót ghi danh xin triển hạn đến ngày 15/9/2011 cho một số Cha chưa kịp ghi danh. Ban Điều Hợp Đại Hội kính báo.

Giới thiệu về Đại hội Linh Mục Emmaus IV - Houston 24-27/10/2011

Quý Khách & Thuyết Trình Viên:
Cardinal Daniel DiNardo, Galveston-Houston, TX
Archbishop Joseph A. Fiorenza, Galveston-Houston, TX
Bishop Randolph Calvo, Reno, NV
Bishop Mai Thanh Lương, Orange, CA
Rev. Allan Figueroa Deck, SJ, Washington DC
Rev. Nguyễn Khắc Hy, SS, Baltimore, MD
Br. Rufino Zaragoza, OFM, Oakland, CA

Quý Linh Mục Tham Dự:
1. Rev. Peter Quinn (Quýnh), Upper Darby, PA
2. Msgr. Joseph Trí Minh Trịnh, Philadelphia, PA
3. Rev. John Trần (Giuse Trần Văn Đảm), Monticello, NY
4. Rev. Đoàn Hoàng Khôi Anh, SDD, Portland OR
5. Rev. Phạm Hữu Đạt, SDD, Portland, OR
6. Rev. Joseph Trần Việt Hùng, Bronx, NY
7. Rev. Lương Minh Trí, Harrisburg, PA
8. Rev. Joseph Bùi Dũng, Indianlantic, FL
9. Rev. Quan Đỗ, Louisville, KY
10. Rev. Joseph Hoàng Ngọc Dũng, Silver Spring, MD
11. Rev. Mai Xuân Khoa, Palacios, TX
12. Rev. Bùi Huy Hoàng, Houston, TX
13. Rev. Peter Uông Đình Đạm, St. Peterburg, FL
14. Rev. Giuse Nguyễn Xuân Hương, Sacramento, CA
15. Rev. Francis Sang, Deer Park, NY
16. Rev. Đồng Minh Quang, Las Vegas, NV
17. Rev. Anthony Ton Hung Vu, Portland, OR
18. Rev. Hai D. Dang, New Caney, TX
19. Rev. Phanxico Xavier Trần Quốc Tuấn, Norcross, GA
20. Rev. Giuse Phạm Minh Tân, Norcross, GA
21. Rev. Bùi Sĩ Khuê, Beaumont, TX
22. Rev. Ignatius Nguyễn Ngọc Tước, Tampa, FL
23. Rev. Peter Phan Nguyen, CSsR, Houston, TX
24. Rev. Joseph Châu Xuân Báu, CSsR, Houston, TX
25. Rev. Joseph Bùi Tiến, Houston, TX
26. Rev. Hoàng Minh Toản, Houston, TX
27. Rev. Joseph Vũ Thành, Houston, TX
28. Rev. Duy-An Nguyễn Mạnh Hùng, Houston, TX
29. Msgr. Francis Phạm Văn Phương, Riverdale, GA
30. Rev. Nguyễn Văn Long, SVD, Riverside, CA
31. Rev. Phaolo Cao Thế Bình, SDD, Pensacola, FL
32. Rev. Giuse Le Thu, Houston, TX
33. Rev. Hóa Nguyễn, Lancaster, PA
34. Rev. Anton Nguyễn Quốc Tuấn, SDB, Stockton, CA
35. Rev. Huyền Văn Nguyễn, Knights Landing, CA
36. Rev. Michael Nam Hoàng Nguyễn, Gretna, LA
37. Rev. Dao Vu, SVD, Memphis, TN
38. Rev. Giuse Nguyễn Thanh Liêm, Blairsville, GA
39. Rev. Gioan Vianney Nguyễn Ngọc Thụ, Houston, TX
40. Rev. John Trần Công Nghị, Avalon, CA
41. Rev. Giuse Đoàn Đình Bảng, Houston, TX
42. Rev. Anthony Phạm Hữu Tâm, ICM, Houston, TX
43. Rev. Gioan Baotixita Hoàng Đạ,t Houston, TX
44. Rev. Giuse Đỗ Văn Chung, O.P,. Houston TX
45. Rev. Gioakim Nguyễn Cường, Houston, TX
46. Rev. Gregory Nguyễn Việt, ICM, Houston, TX
47. Rev. Phêrô Hoàng Văn Thiên, O.P,. Houston TX
48. Rev. G.B. Đinh Xuân Chiến, SVD, Houston, TX
49. Rev. Trịnh Tuấn Hoàng, OFM, San Francisco, CA
50. Rev. Michael Mai Khải Hoàn, Santa Ana, CA
51. Rev. Nguyễn Văn Dũng, Milledge, GA
52. Rev. Dominic Phạm Xuân Vũ, L.C., Alpharetta, GA
53. Rev. Đaminh Nguyễn Anh-Tuấn, Pomona, CA
54. Rev. Joseph Nguyễn Đức Dziện, Paradis, LA
55. Rev. Peter Nguyễn Hùng, La Joya, NM
56. Rev. Phạm Quang Thúy, Virginia Beach, VA
57. Rev. Peter Hoàng Xuân Nghiêm, Wyoming, Michigan
58. Rev. Linh Ngoc Nguyen, Houston, TX
59. Rev. Đaminh Trần Văn Điều, SDD, Panama City, FL
60. Rev. Nguyễn Thanh Bình, SVD, Washington, DC
61. Rev. Vincent Nguyễn Văn Đạo, Chewelah, WA
62. Rev. Phan Ngọc Long, Oklahoma City, OK
63. Rev. Dominic Trần Thiện Thanh Toàn, Palm Beach, FL
64. Rev. Nguyễn Kim Sơn, Savannah, GA
65. Rev. John Trần Khả, Katy, TX
66. Rev. Giuse Nguyễn Thanh Châu, Orlando, FL
67. Rev. Nguyễn Văn Chiến, Orlando, FL
68. Rev. Chu Vinh Quang, Huntington Beach, CA
69. Rev. Joseph Hoàng Xuân Viện, SDB, Harvey, LA
70. Rev. Vincent Nguyễn An Ninh, Warren, MI
71. Rev. Thomas Nguyễn Tiến Hạnh, Houston, TX
72. Rev. Phaolo Nguyễn Văn Thường, Chicago, IL
73. Rev. Võ Tá Đề, SVD, Techny, IL
74. Rev. Phạm Xuân Thu, SVD, Fort Wayne, IN
75. Rev. Đặng Ngọc Quý, SVD, Epworth, IA
76. Rev. Trần Công Bằng, SVD, Epworth, IA
77. Rev. Joseph Châu Nguyễn, SVD, Epworth, IA
78. Rev. Phan Trọng Hanh, Kansas City, MO
79. Rev. Phê rô Đinh Đức Hải, Davenport, IA
80. Rev. Thomas Lê Trung Khuê, Fremont, CA
82. Rev. Ansgar Phạm Tĩnh, SDD, Grand Prairie, TX
83. Rev. Peter Lê Thanh Quang, Barling, AR
84. Rev. GB. Trần Kim Tuyến, Augusta, MI
85. Rev. Phêrô Trịnh Minh Quân, Maple Glen, PA
86. Rev. Vincent Tòa Phan, Monroeville, AL
87. Rev. Vũ Hải Đăng, SDD, New Orleans, LA
88. Rev. Nguyễn Văn Phong, SDD, New Orleans, LA
89. Rev. Pham Sĩ Hanh, Ocist, Lucerne Valley, CA
90. Rev. Lâm Phước Hùng, Westminster, CA
91. Rev. Martino Nguyễn Bá Thông, Americus, GA
92. Rev. Philip Đinh Văn Thiếp, Green Bay, WI
93. Rev. Lâm Bá Trọng, CMC, Houston, TX
94. Rev. J. Christopher Cường Nguyễn, Pasadena, TX
95. Rev. Nguyễn Văn Nguyên, New Orleans, LA
96. Rev. Giuse Đặng Xuân Oánh, SVD, Beaumont, TX
97. Rev. Vincent Phạm Minh Châu, SVD, Cincinnati, OH
98. Rev. Thái Quốc Bảo, Orange, CA
99. Rev. Ngô Đức Dũng Bay Point, CA
100. Msgr. Giuse Phạm Quốc Tuấn, Fountain Valley, CA
 
Thông Báo
Lớp Ca Trưởng Trung Cấp Đợt 2 tại Houston, Texas
Vĩnh Thụy
14:02 03/09/2011
Lớp Ca Trưởng Trung Cấp Đợt 2 tại Houston , Texas

LỚP CA TRƯỞNG TRUNG CẤP – ĐỢT 2 – HOUSTON, TX