Ngày 19-10-2025
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Ngày 20/10: Xung đột tài sản – Lm. Vinh-sơn Nguyễn Văn Định, CS
Giáo Hội Năm Châu
04:02 19/10/2025

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

Khi ấy, có người trong đám đông nói với Đức Giê-su rằng : “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi.” 14 Người đáp : “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?” 15 Và Người nói với họ : “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.”

16 Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này : “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, 17 mới nghĩ bụng rằng : ‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu !’ 18 Rồi ông ta tự bảo : ‘Mình sẽ làm thế này : phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. 19 Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng : hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !’ 20 Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta : ‘Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?’ 21 Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”

Đó là Lời Chúa
 
Lẫm lớn
Lm. Minh Anh
14:18 19/10/2025
LẪM LỚN
“Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”.

Đến thăm “Nhà thờ Xương” ở Rôma, bạn bước vào một bảo tàng viện phảng phất ‘mùi thơm’ người chết vốn được thiết kế tuyệt đẹp với 4,000 bộ xương của các thầy dòng Capuchin. Ai không quen với nghệ thuật, nó có thể hơi bệnh hoạn, nhưng ‘cung điện’ này vẫn nói lên rằng, bạn không biết ai phổng phao, ai còi cọc; ai thông tuệ, ai lú lấp; ai duyên dáng, ai thô kệch. Thần chết san phẳng tất cả; mọi lợi thế trần gian tan biến! Một tấm biển ghi: “Một ngày nào đó, bạn giống tôi; tôi giống bạn!”.

Kính thưa Anh Chị em,

‘Lẫm xương người’ đưa chúng ta về những ‘lẫm lúa’ của ông phú hộ trong Tin Mừng hôm nay - nơi Chúa Giêsu như muốn nhắn nhủ rằng, dù ‘lẫm lớn’ đến đâu, của cải vẫn không thể vượt qua ranh giới sự chết; chỉ tình yêu mới có thể đi xa hơn!

Vậy điều gì làm con người hạnh phúc thật sự? Một ‘lẫm lớn’ hay một ‘trái tim lớn?’. Có người nghĩ sẽ hạnh phúc khi xuất hiện trên trang nhất tạp chí; người khác, khi có điều gì đó hơn người. Nhưng rốt cuộc, các ‘lẫm lớn’ ấy đều giống nhau: một ‘biệt phủ’ sang hơn, một chiếc xe ‘đời mới’ hơn, một thỏi son ‘Evà’ hơn, hay một kỳ nghỉ ‘thiên đàng’ hơn. “Những điều tốt đẹp nhất trong đời không phải là ‘những thứ!’” - Art Buchwald.

Người giàu tin khả năng hưởng thụ càng cao, hạnh phúc càng nhiều. Ảo tưởng! Họ khác nào con chuột trên bánh xe quay; nó nhảy nhót, chuyển động rất nhiều nhưng không đi đến đâu. Con người đầu tư tài năng, sức lực để có được nhiều thứ, nhưng đâu biết một ‘lẫm lớn’ thường mang lại một niềm vui nhỏ. Bởi lẽ, chính trái tim, chứ không phải nhà kho, mới là cái thực sự cần được mở rộng; ở đó, niềm vui dẫu nhỏ bé, vẫn là niềm vui vĩnh cửu thiên đàng. Khi trái tim khao khát tình yêu, thì sự bồn chồn ‘kiểu Augustinô’ sẽ không bao giờ cho ai ngơi nghỉ, mãi đến khi họ gặp được Chúa; đồng thời, khám phá ra lòng thương xót của Ngài. “Khoái lạc không phải là niềm vui; khoái lạc tùy hoàn cảnh, còn niềm vui tuôn chảy từ con tim!” - Fulton Sheen.

Hãy nhìn vào Chúa Giêsu, cuộc sống Ngài là một dòng chảy nhận và trao: nhận mọi sự từ Cha, trao lại cho Cha, và trao tình yêu đó cho người khác. Cũng thế, cuộc đời bạn và tôi là quà tặng nhận từ Thiên Chúa - để dâng lại cho Ngài và trao đi cho tha nhân theo ý Ngài. “Ta kiếm sống bằng những gì ta nhận, nhưng ta thật sự sống bằng những gì ta trao!” - Winston Churchill.

Anh Chị em,

“Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”. Vì “Thần chết san phẳng tất cả; mọi lợi thế trần gian tan biến!”, Chúa Giêsu dạy chúng ta xây cho mình một ‘lẫm lớn’ đích thực hơn là chính Ngài, “Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính” - bài đọc một. “Dù chẳng có gì, nhưng có Chúa Kitô, thì đã có tất cả!” - Charles Spurgeon. Vì thế, điều quan trọng không phải là sở hữu nhiều ‘thứ’, nhưng là có một ‘con tim’ đầy Chúa Kitô. Ngài sẽ dạy chúng ta làm giàu nó, nhân nó lên khi biết cho đi.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con sợ ngân hàng sụp, mà chẳng sợ linh hồn rỗng. Dạy con biết sinh ‘lãi’ với Ngài, trước khi tài khoản đời con… ‘đáo hạn!’”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV phong thánh cho 7 vị thánh mới, bao gồm vị đầu tiên đến từ Venezuela và Papua New Guinea
Vũ Văn An
14:30 19/10/2025

Một linh mục người Venezuela, người đồng tế Thánh lễ phong thánh với Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, đã cử hành lễ phong thánh cho các vị thánh đầu tiên của đất nước mình tại Quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 19 tháng 10 năm 2025. | Daniel Ibáñez/EWTN


Courtney Mares của hãng tin CNA, từ Thành phố Vatican, ngày 19 tháng 10 năm 2025, tường trình:

Hôm Chúa Nhật, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã phong thánh cho bảy vị thánh mới trước sự chứng kiến của khoảng 70,000 người tại Quảng trường Thánh Phêrô, bao gồm các vị thánh đầu tiên đến từ Venezuela và Papua New Guinea, và một vị thánh trước đây theo Satan, người đã trải qua một cuộc hoán cải ngoạn mục để trở thành “tông đồ của Kinh Mân Côi”.

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV phát biểu trong bài giảng lễ phong các thánh: “Hôm nay, chúng ta có bảy chứng nhân, những vị thánh mới, những người nhờ ơn Chúa, đã giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng. Thật vậy, chính các ngài đã trở thành những ngọn đèn có khả năng lan tỏa ánh sáng của Chúa Kitô.”

Ngài nói: “Nguyện xin lời chuyển cầu của các ngài giúp chúng ta vượt qua những thử thách và gương sáng của các ngài soi sáng cho chúng ta trong ơn gọi nên thánh chung”.

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã tuyên thánh cho 7 vị thánh mới trong Thánh lễ phong thánh tại Quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 19 tháng 10 năm 2025. Daniel Ibáñez/EWTN


Thánh lễ phong thánh diễn ra dưới ánh nắng rực rỡ của Roma, với những lá cờ Venezuela tung bay khắp quảng trường khi Đức Giáo Hoàng tuyên thánh cho hai nhân vật được yêu mến của đất nước: Thánh José Gregorio Hernández Cisneros, được mệnh danh là “bác sĩ của người nghèo”, và Thánh María del Carmen Rendiles Martínez, một nữ tu sinh ra không có cánh tay trái, người sau này đã sáng lập Dòng Tôi Tớ Chúa Giêsu tại Caracas vào năm 1965.

Trong số các vị thánh mới cũng có hai vị tử đạo. Thánh Phêrô Tô Rốt, một giáo lý viên giáo dân tử đạo tại Papua New Guinea trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng vào Thế chiến II, đã trở thành vị thánh đầu tiên của đất nước này. Thánh Tô Rốt đã bất chấp chính quyền Nhật Bản cho phép chế độ đa thê, bảo vệ hôn nhân Kitô giáo cho đến chết.

Thánh Ignatius Maloyan, một tổng giám mục Công Giáo người Armenia, đã bị hành quyết trong cuộc diệt chủng người Armenia sau khi từ chối cải đạo sang Hồi giáo. Thánh Maloyan nói trước khi qua đời: "Tôi coi việc đổ máu mình vì đức tin là ước muốn ngọt ngào nhất trong lòng tôi. Nếu tôi bị tra tấn vì tình yêu dành cho người đã chết vì tôi, tôi sẽ là một trong những người sẽ có được niềm vui và hạnh phúc, và tôi sẽ được nhìn thấy Chúa và Thiên Chúa của tôi."

Sau khi đám đông đọc Kinh Cầu Các Thánh, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã đọc công thức phong thánh bằng tiếng Latinh, được chào đón bằng những tiếng reo hò nồng nhiệt.

Trong số những vị thánh mới được biết đến nhiều nhất là Thánh Bartolo Longo, một luật sư người Ý thế kỷ 19 đã từ bỏ đức tin Công Giáo để theo Satan giáo trước khi trở lại Giáo hội với lòng nhiệt thành. Sau khi trở lại, Longo đã dành cả cuộc đời mình để quảng bá kinh Mân Côi và xây dựng Đền Đức Mẹ Mân Côi ở Pompeii, hiện là một trong những địa điểm hành hương Đức Mẹ được yêu mến nhất của Ý.

Trong bài giảng, Đức Giáo Hoàng Lêô XVI đã nói rằng “điều quý giá nhất trong mắt Chúa” chính là “đức tin, tức là mối dây liên kết tình yêu giữa Thiên Chúa và con người”.

Đức Giáo Hoàng nói: “Mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa là vô cùng quan trọng bởi vì từ thuở ban đầu, Người đã tạo dựng vạn vật từ hư vô, và đến tận thế, Người sẽ cứu vớt chúng sinh khỏi hư vô. Như thế, một thế giới không có đức tin sẽ tràn ngập những đứa con sống không có Cha, tức là những tạo vật không có ơn cứu độ.”

Ba phụ nữ cũng được tuyên thánh. Ngoài Thánh María del Carmen Rendiles Martínez người Venezuela, vị sáng lập người Ý, Thánh Vincenza Maria Poloni, cũng được tuyên thánh. Bà Poloni đã sáng lập Dòng Nữ tu Thương Xót Verona và được nhớ đến vì sự phục vụ không mệt mỏi của bà đối với người nghèo, kể cả việc liều mạng sống của mình trong trận dịch tả năm 1836.

Đức Giáo Hoàng Lêô cũng đã tuyên thánh cho Thánh Maria Troncatti, một nữ tu Salêdiêng người Ý, người đã dành 44 năm làm nhà truyền giáo cho người Shuar bản địa ở rừng nhiệt đới Amazon của Ecuador. Được gọi trìu mến là "Madrecita" hay "người mẹ nhỏ bé", bà đã phục vụ với tư cách là y tá, bác sĩ phẫu thuật và giáo lý viên với lòng nhiệt thành truyền giáo.

Lễ phong thánh trùng với Chúa Nhật Truyền giáo Thế giới. Trước khi đọc Kinh Truyền tin, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, người từng là một nhà truyền giáo dòng Augustinô ở Peru, đã kêu gọi các tín hữu cầu nguyện cho các nhà truyền giáo ngày nay.

Ngài nói: “Giáo hội hoàn toàn mang tính truyền giáo, nhưng hôm nay chúng ta cầu nguyện đặc biệt cho những người nam nữ đã bỏ lại tất cả để mang Tin Mừng đến cho những người chưa biết đến. Họ là những nhà truyền giáo của hy vọng giữa lòng dân chúng. Xin Chúa chúc lành cho họ”.

Đức Giáo Hoàng cũng đưa ra lời kêu gọi hòa bình chân thành, bày tỏ nỗi buồn trước tình trạng bạo lực tái diễn ở Myanmar.

Ngài nói: “Tin tức từ Myanmar thật đáng buồn. Tôi xin lặp lại lời kêu gọi chân thành của mình về một lệnh ngừng bắn ngay lập tức và hữu hiệu. Cầu mong các công cụ chiến tranh nhường chỗ cho các công cụ hòa bình, thông qua đối thoại toàn diện và xây dựng.”

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV phó thác lời cầu nguyện cho hòa bình của mình cho sự chuyển cầu của các vị thánh mới, đặc biệt cầu nguyện cho Đất Thánh, Ukraine và các nơi xung đột khác.

Ngài nói: “Xin Chúa ban cho tất cả các nhà lãnh đạo sự khôn ngoan và kiên trì để tiến bước trong việc tìm kiếm một nền hòa bình công bằng và lâu dài”.
 
Nguyên văn Bài giảng của Đức Leo XIV trong Thánh lễ phong 7 vị thánh mới:
Vũ Văn An
14:51 19/10/2025

Antoine Mekary | ALETEIA


Anh chị em thân mến,

Chúng ta hãy bắt đầu bài suy niệm bằng câu hỏi kết thúc Tin Mừng vừa được công bố: "Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy đức tin trên mặt đất này nữa không?" (Lc 18:8). Câu hỏi này cho chúng ta thấy điều quý giá nhất trong mắt Chúa: đức tin, tức là mối dây liên kết tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Hôm nay, chúng ta có bảy chứng nhân, những vị Thánh mới, những người, nhờ ơn Chúa, đã giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng. Thật vậy, chính các ngài đã trở thành những ngọn đèn có khả năng lan tỏa ánh sáng của Chúa Kitô.

Khi chúng ta chiêm ngưỡng những kho tàng vật chất, văn hóa, khoa học và nghệ thuật vĩ đại, đức tin tỏa sáng không phải vì những của cải này bị đánh giá thấp, mà vì nếu không có đức tin, chúng sẽ mất đi ý nghĩa. Mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa là vô cùng quan trọng, bởi vì từ thuở ban đầu, Người đã tạo dựng muôn vật từ hư vô, và đến tận thế, Người sẽ cứu vớt những sinh linh phàm trần khỏi hư vô. Như thế, một thế giới không có đức tin sẽ tràn ngập những đứa con sống không có Cha, tức là những tạo vật không có ơn cứu độ.

Vì lý do này, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đặt câu hỏi về đức tin: nếu đức tin biến mất khỏi thế gian, điều gì sẽ xảy ra? Trời đất vẫn như xưa, nhưng niềm hy vọng trong lòng chúng ta sẽ không còn nữa; tự do của mỗi người sẽ bị cái chết đánh bại; khát vọng sống của chúng ta sẽ tan thành hư vô. Không có đức tin vào Thiên Chúa, chúng ta không thể hy vọng vào ơn cứu độ. Câu hỏi của Chúa Giêsu có thể làm chúng ta bối rối, nhưng chỉ khi chúng ta quên rằng chính Chúa Giêsu là người đặt ra câu hỏi đó. Thật vậy, lời Chúa luôn là “Tin Mừng”, lời loan báo đầy hân hoan về ơn cứu độ. Ơn cứu độ này là món quà sự sống đời đời mà chúng ta nhận được từ Chúa Cha, qua Chúa Con, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Các bạn thân mến, chính vì lý do này mà Chúa Kitô nói với các môn đệ của Người về “sự cần thiết phải cầu nguyện luôn, và đừng nản lòng” (Lc 18:1). Cũng như chúng ta không bao giờ mệt mỏi khi thở, chúng ta cũng đừng bao giờ mệt mỏi khi cầu nguyện! Cũng như hơi thở duy trì sự sống của thân xác, lời cầu nguyện cũng duy trì sự sống của linh hồn: đức tin, thực sự, được thể hiện trong lời cầu nguyện, và lời cầu nguyện đích thực sống nhờ đức tin.

Chúa Giêsu cho chúng ta thấy mối liên hệ này bằng một dụ ngôn: một vị thẩm phán vẫn điếc trước những lời khẩn cầu khẩn thiết của một góa phụ, nhưng cuối cùng sự kiên trì của bà đã dẫn ông đến hành động. Thoạt nhìn, sự kiên trì đó trở thành một ví dụ tuyệt đẹp về hy vọng, đặc biệt là trong những lúc thử thách và đau khổ. Tuy nhiên, sự kiên trì của người phụ nữ và vị thẩm phán, người hành động miễn cưỡng, đã mở đường cho một câu hỏi đầy khiêu khích từ Chúa Giêsu: Chẳng lẽ Thiên Chúa, Cha nhân lành, lại không “xét xử công minh cho những kẻ Người tuyển chọn, ngày đêm kêu cầu Người sao?” (Lc 18:7).

Chúng ta hãy để những lời này vang vọng trong lòng mình: Chúa đang hỏi chúng ta rằng liệu chúng ta có tin rằng Thiên Chúa là vị thẩm phán công minh đối với tất cả mọi người hay không. Chúa Con hỏi chúng ta rằng liệu chúng ta có tin rằng Chúa Cha luôn muốn điều tốt lành cho chúng ta và ơn cứu rỗi cho mọi người hay không. Về điểm này, có hai cám dỗ thử thách đức tin của chúng ta: cám dỗ thứ nhất lấy sức mạnh từ sự ô nhục của sự dữ, khiến chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa không lắng nghe tiếng kêu than của những người bị áp bức và không thương xót những người vô tội đang đau khổ. Cám dỗ thứ hai là lời khẳng định rằng Thiên Chúa phải hành động theo ý muốn của chúng ta: lời cầu nguyện sau đó nhường chỗ cho một mệnh lệnh với Thiên Chúa, dạy Người cách sống công bằng và hiệu quả.

Chúa Giêsu, chứng nhân hoàn hảo của lòng tin tưởng con thảo, giải thoát chúng ta khỏi cả hai cám dỗ. Chính Người là Đấng vô tội, đặc biệt trong Cuộc Khổ Nạn, đã cầu nguyện như thế này: “Lạy Cha, xin cho ý Cha được thể hiện” (x. Lc 22:42). Chúa Giêsu cũng ban cho chúng ta những lời này trong Kinh Lạy Cha. Chúng ta hãy nhớ rằng bất cứ điều gì xảy đến với chúng ta, Chúa Giêsu đã phó thác chính mình như Chúa Con cho Chúa Cha. Vì vậy, chúng ta là anh chị em trong danh Người, để chúng ta có thể tuyên xưng: “Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, thật là chính đáng, là bổn phận và là ơn cứu độ của chúng ta, luôn luôn và mọi nơi, chúng ta tạ ơn Chúa, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta” (Kinh Nguyện Thánh Thể II, Lời Tiền Tụng).

Lời cầu nguyện của Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa ban công lý cho tất cả mọi người, hiến mạng sống mình cho tất cả. Vì vậy, khi chúng ta kêu lên Chúa: “Chúa ở đâu?”, chúng ta hãy biến lời kêu cầu này thành một lời cầu nguyện, và khi đó chúng ta sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa hiện diện nơi những người vô tội đang đau khổ. Thập giá của Chúa Kitô mặc khải công lý của Thiên Chúa, và công lý của Thiên Chúa là sự tha thứ. Người nhìn thấy sự dữ và cứu chuộc nó bằng cách gánh lấy nó trên mình. Khi chúng ta bị “đóng đinh” bởi đau khổ và bạo lực, bởi hận thù và chiến tranh, Chúa Kitô đã ở đó, trên thập giá vì chúng ta và với chúng ta. Không có tiếng kêu nào mà Thiên Chúa không an ủi; không có giọt nước mắt nào xa rời trái tim Người. Chúa lắng nghe chúng ta, ôm lấy chúng ta như chúng ta là, và biến đổi chúng ta như Người là. Tuy nhiên, những ai chối bỏ lòng thương xót của Thiên Chúa thì cũng không có khả năng thương xót tha nhân. Những ai không đón nhận hòa bình như một món quà sẽ không biết cách trao ban hòa bình.

Các bạn thân mến, giờ đây chúng ta hiểu rằng những câu hỏi của Chúa Giêsu là một lời mời gọi mạnh mẽ hướng đến hy vọng và hành động: khi Con Người đến, liệu Người có tìm thấy đức tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa không? Thật vậy, chính đức tin này nâng đỡ cam kết của chúng ta đối với công lý, chính bởi vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã cứu thế giới bằng tình yêu, giải thoát chúng ta khỏi chủ nghĩa định mệnh. Khi nghe tiếng kêu của những người đang gặp khó khăn, chúng ta hãy tự hỏi: liệu chúng ta có phải là chứng nhân cho tình yêu của Chúa Cha, như Chúa Kitô đã làm cho tất cả mọi người? Ngài là Đấng khiêm nhường kêu gọi những kẻ kiêu ngạo hoán cải, là Đấng công chính làm cho chúng ta nên công chính. Chúng ta thấy tất cả điều này trong cuộc đời của các vị Thánh mới: họ không phải là anh hùng hay nhà vô địch của một lý tưởng nào đó, mà là những con người đích thực.

Những người bạn trung thành này của Chúa Kitô là những vị tử đạo vì đức tin, như Đức Cha Ignazio Choukrallah Maloyan và giáo lý viên Peter To Rot; họ là những nhà truyền giáo và thừa sai, như Sơ Maria Troncatti; họ là những nhà sáng lập đầy sức lôi cuốn, như Sơ Vincenza Maria Poloni và Sơ Maria del Monte Carmelo Rendiles Martínez; với trái tim cháy bỏng lòng sùng kính, họ là những ân nhân của nhân loại, như Bartolo Longo và José Gregorio Hernández Cisneros. Nguyện xin lời chuyển cầu của các ngài nâng đỡ chúng ta trong những thử thách và gương sáng của các ngài soi sáng chúng ta trong ơn gọi nên thánh chung. Trên hành trình hướng đến mục tiêu này, chúng ta hãy cầu nguyện không ngừng, và tiếp tục những gì chúng ta đã học và vững tin (x. 2 Tim 3:14). Đức tin trên trần gian này nâng đỡ niềm hy vọng vào thiên đàng.
 
Đức Tổng Giám Mục Tây Ban Nha kể lại cuộc chạm trán với những tay súng trong chuyến thăm Mexico
Đặng Tự Do
17:07 19/10/2025


Đức Tổng Giám Mục Jesús Sanz của Oviedo ở Tây Ban Nha,, đã bị chĩa súng vào người trong giây lát nhưng sau đó đã được những người đàn ông đội mũ trùm đầu có súng máy ở Mexico cho phép đi tiếp mà không bị thương trong chuyến đi gần đây để ủng hộ việc thành lập một phái bộ truyền giáo mới tại Giáo phận Tlapa ở tiểu bang Guerrero.

Sanz đã đến thăm khu vực này để quảng bá cho một sứ mệnh mới do hai linh mục và một phó tế thuộc Hiệp hội Lumen Dei (Ánh sáng của Chúa) đứng đầu.

Trong một cuộc phỏng vấn do tổng giáo phận công bố, vị giám mục lưu ý rằng “có lẽ đây là một trong những khu vực bạo lực nhất ở Mexico”, với hai khía cạnh: một là “rất cơ bản, rất nguyên thủy” như trong các cuộc trả thù cá nhân và khía cạnh còn lại liên quan đến buôn bán ma túy.

“Một linh mục và tôi đang đi cử hành Thánh lễ tại một cộng đồng nhỏ vào Chúa Nhật. Rồi tại một khúc cua trên đường, ba người đàn ông trùm đầu, tay cầm súng máy xuất hiện. Họ chặn xe chúng tôi lại và hỏi chúng tôi là ai và đang đi đâu. Khi chúng tôi nói rằng chúng tôi là linh mục truyền giáo, họ nói, 'Đừng lo, cứ đi tiếp,' và thế là xong,” Đức Đức Tổng Giám Mục kể lại.

Đối với vị giám mục, “việc nhìn thấy những người chĩa súng vào bạn mà bạn không thể nhìn thấy mặt” tạo nên một cảm giác nhất định, “nhưng ngoài nỗi sợ hãi dễ hiểu đó, nó không gây ra hậu quả lớn nào, và các nhà truyền giáo luôn được kính trọng”, ngài nói thêm.

Những loại dừng xe này, được gọi là trạm kiểm soát, thường có liên quan đến các băng nhóm tội phạm có tổ chức chuyên giám sát việc ra vào xa lộ và đường bộ để ngăn chặn sự hiện diện của các nhóm đối thủ.

“Bản đồ ma túy Mexico” do tờ báo địa phương Milenio biên soạn ước tính có 24 băng nhóm tội phạm đang tranh giành địa bàn ở Guerrero.

Vụ sát hại Cha Bertoldo Pantaleón Estrada, một thành viên của Giáo phận Chilpancingo-Chilapa, cũng xảy ra tại tiểu bang Guerrero vào đầu tháng này.

Những nhà truyền giáo mới có trụ sở tại San Pedro el Viejo, một thị trấn chỉ có hơn 150 cư dân, nơi hầu hết cư dân đều nói tiếng Mixtec hơn là tiếng Tây Ban Nha.

Theo Tổng giáo phận Oviedo, việc khởi xướng nỗ lực truyền giáo này là nhờ tình bạn giữa vị giám mục, có từ thời còn ở chủng viện, với một linh mục từ Tổng giáo phận Toledo, người đã làm việc trong khu vực một thời gian và đã nhờ ngài giúp đỡ, vì tính phức tạp của nhiệm vụ này.

Sứ mệnh mới sẽ mang Tin Mừng đến một khu vực có nhiều thị trấn rất xa xôi, với địa hình đồi núi hiểm trở, nơi công việc tông đồ phải bắt đầu “từ con số không”, Cha Dionisio Serrano Pascual, tổng thư ký của Lumen Dei, phát biểu với tổng giáo phận.

Sanz giải thích rằng các nhà truyền giáo sẽ phụ trách 45 giáo xứ và họ sẽ không phải là những người cuối cùng được cử đi, vì khả năng có thêm nhiều linh mục giáo phận từ Oviedo đến khu vực này đang được xem xét.

“Giáo hội mang tính truyền giáo. Và khi Chúa Giêsu rời xa các tông đồ, Người nói với họ: 'Hãy đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng, Tin Mừng của Chúa.' Đánh mất mối quan tâm truyền giáo này là đánh mất căn tính Kitô hữu của chúng ta”, vị giám mục nhấn mạnh.

Từ kinh nghiệm đồng hành cùng các nhà truyền giáo trong nhiệm vụ mới, Đức Đức Tổng Giám Mục Oviedo nhấn mạnh rằng, bên cạnh việc trẻ em và thanh thiếu niên là nguồn hy vọng, những người lớn tuổi hơn vẫn mang trong mình “di sản của công cuộc truyền giáo đầu tiên, diễn ra cách đây nhiều thế kỷ, nhờ sự hiện diện của các anh em Phanxicô. Và vì họ không phải lúc nào cũng được sự hỗ trợ của các linh mục, nên họ đã truyền lại, qua lời truyền miệng, đức tin mà họ đã lãnh nhận và những kiến thức cơ bản mà họ đã học được trong sách giáo lý.”


Source:Catholic News Agency
 
Tiến sĩ George Weigel: Rôma cần xét lại chính sách với Nga
J.B. Đặng Minh An dịch
17:08 19/10/2025


Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Russian Reset Required in Rome”, nghĩa là “Rôma cần xét lại chính sách với Nga”.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Khi Thượng phụ Kirill của Mạc Tư Khoa và Toàn nước Nga còn là nhà lãnh đạo bộ phận quan hệ đối ngoại của Giáo hội Chính thống giáo Nga, thỉnh thoảng ông sẽ đến Washington, nơi Thủ thư Thư viện Quốc hội, James Billington, một sử gia lỗi lạc về văn hóa Nga, sẽ chiêu đãi ông một bữa tối nhỏ. Tôi là khách mời trong một dịp như vậy, và ấn tượng mà Kirill để lại đêm đó vẫn còn trong tâm trí tôi: tinh tế và thông minh (theo nghĩa của từ này trong tiếng Anh); có năng khiếu ngôn ngữ; có khả năng quyến rũ; và là một chính trị gia đích thực. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Vài tháng trước sinh nhật lần thứ 26 của mình, Thượng phụ Kirill khi đó đã được bổ nhiệm vào Hội đồng các Giáo hội Thế giới tại Geneva; và vào năm 1971, cách duy nhất để một giáo sĩ trẻ người Nga có được nhiệm vụ béo bở đó là phải chịu sự quản lý, và có lẽ là phải nằm trong biên chế của KGB, cơ quan an ninh Liên Xô.

Với tư cách là giáo chủ, Kirill đã liên minh với một tay sai cũ của KGB, là Vladimir Putin, kẻ giết người hàng loạt và bắt cóc trẻ em, trong cuộc chiến của Nga nhằm phá hoại Ukraine. Ý nghĩa của điều này đối với Giáo hội của ông được trình bày chi tiết trong một báo cáo của Quỹ Nước Nga Tự do, có nhan đề “Giáo hội Chính thống giáo Nga và Chiến tranh”. Nội dung chính của báo cáo được trình bày trong phần Giới thiệu sau:

Đầu tháng 3 năm 2022, khi quân đội Nga xâm lược Bucha và Hostomel, Thượng phụ Kirill đã tuyên bố trong một bài giảng tại Nhà thờ Chúa Cứu Thế: “Nga không tiến hành một trận chiến thể lý, mà là một trận chiến siêu hình chống lại các thế lực tà ác ở Ukraine”. Ông coi cuộc chiến này là cuộc đấu tranh chống lại tội lỗi, tuyên bố rằng nó “không chỉ có ý nghĩa chính trị” mà còn liên quan trực tiếp đến sự cứu rỗi nhân loại—do đó mang lại cho nó sự biện minh về mặt tôn giáo và thiêng liêng.

Kể từ đó, Giáo hội đã tham gia vào cuộc chiến trên nhiều mặt trận:

Tuyên truyền và hỗ trợ tư tưởng

Tương tác trực tiếp với quân đội và hiện diện ở tiền tuyến— “sự hỗ trợ thần bí” liên quan đến các hiện vật thiêng liêng, lời cầu nguyện và nghi lễ để thánh hóa nỗ lực chiến tranh;

Thao túng ngoại giao ở nước ngoài—thúc đẩy lợi ích của Nga trong các tổ chức đại kết quốc tế, các quốc gia Chính thống giáo và thông qua các hoạt động gián điệp.

Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa có một kênh truyền hình, Spas, phát sóng miễn phí đến mọi gia cư Nga. Vài tháng sau khi chiến tranh nổ ra, Kirill đã thuyết giảng trên Spas, trong đó ông tuyên bố rằng bất kỳ người lính Nga nào tử trận trong chiến tranh sẽ được tự động xóa bỏ mọi tội lỗi trước đây – tuyên bố ấy là một tà thuyết. Tệ hơn nữa là Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa còn cho ra mắt bộ phim tài liệu Spas có tựa đề “God at War” (Chúa trong chiến tranh), đó thật sự là một sự báng bổ quá quắt.

Người ta có thể đặt câu hỏi liệu có bao nhiêu binh lính Nga mà Putin đang nhồi nhét vào cối xay thịt lại tin vào thứ tuyên truyền đê tiện này. Bất kể câu hỏi đó được trả lời thế nào, tôi thấy rằng cuốn “Giáo hội Chính thống giáo Nga và Chiến tranh” là tài liệu đọc thiết yếu cho tất cả mọi người trong Tòa thánh, những người tham gia vào ngoại giao Vatican hoặc phong trào đại kết Vatican. Ngoại giao và đại kết có vẻ như là hai lĩnh vực riêng biệt trong nỗ lực của Vatican. Trong trường hợp này, chúng có liên quan mật thiết với nhau.

Khi tôi còn là một nhà nghiên cứu Vatican mới vào nghề vào đầu những năm 1990, những cuộc trò chuyện sâu rộng với các nhà lãnh đạo của Hội đồng Giáo hoàng về Thúc đẩy Hiệp nhất Kitô giáo khi đó đã giúp tôi nhận ra một khái niệm chiến lược đã ăn sâu vào cả phong trào đại kết lẫn “bộ ngoại giao” của Vatican, tức Phân bộ Thứ Hai của Phủ Quốc vụ khanh. Khái niệm đó bắt đầu hình thành vào giữa những năm 1960 và có thể được tóm tắt trong câu: “Con đường từ Rôma đến Constantinople chạy qua Mạc Tư Khoa”. Nói cách khác, việc tái lập sự hiệp nhất Kitô giáo và khôi phục sự hiệp thông trọn vẹn giữa Giám mục Rôma và Thượng phụ Đại kết Constantinople đòi hỏi, như một điều kiện tiên quyết, sự hòa giải với Giáo hội Chính thống Nga, giáo hội Chính thống giáo lớn nhất.

Dù ý nghĩa thực dụng của câu nói này trước đây có là thế nào đi nữa, thì “Con đường từ Rôma đến Constantinople đi qua Mạc Tư Khoa” giờ đây đã trở nên vô lý về mặt thần học, bởi vì giới lãnh đạo Giáo hội Nga đã từ bỏ chính thống giáo Kitô, thể hiện qua những tuyên bố dị giáo và phạm thượng của Kirill trong hơn ba năm qua. Việc bám víu vào chiến lược đó cũng đã cản trở chứng ngôn đạo đức của Tòa Thánh, như đã thấy qua sự do dự của Vatican trong việc nêu tên và lên án kẻ xâm lược khi Nga xâm lược Ukraine vào tháng 2 năm 2022. Nói “do dự” là nói một cách nhẹ nhàng, bao dung.

Nếu một cuộc chiến tranh chớp nhoáng của Nga chiếm được Kyiv hồi đó, nhà lãnh đạo Công Giáo Ukraine, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk, đã bị lên kế hoạch thanh trừng ngay lập tức. Lòng dũng cảm của người Ukraine đã ngăn cản ngài tử đạo. Nhưng có những người không bao giờ bỏ cuộc: Trong thời gian trống ngôi Giáo hoàng gần đây, Đức Tổng Giám Mục Shevchuk đã bị các điệp viên của FSB, cơ quan kế nhiệm KGB, theo dõi ngay tại Rôma.

Những kinh nghiệm bổ ích đó, cùng với việc đọc kỹ báo cáo của Quỹ Nước Nga Tự do, sẽ dẫn đến việc xem xét lại toàn diện chiến lược đại kết của Vatican đối với Đông phương Kitô giáo và mối quan hệ của chiến lược này với chính sách ngoại giao của Tòa thánh đối với một nước Nga muốn trả thù.


Source:First Things
 
Đức Hồng Y Sarah cảnh báo về chiến trường mới về phụng vụ Giáo hội
Đặng Tự Do
17:09 19/10/2025


Đức Hồng Y Robert Sarah đã phát biểu từ nhà riêng của mình ở Rôma về điều mà ngài gọi là “chiến trường” mới xung quanh phụng vụ của Giáo hội.

Trong một cuộc phỏng vấn với hãng truyền thông Pháp Tribune Chrétienne vào ngày 13 tháng 10, vị Hồng Y người Guinea, cựu Tổng trưởng Bộ Phụng tự, đã suy ngẫm về những căng thẳng xảy ra sau những hạn chế đối với Thánh lễ La tinh truyền thống do Tự Sắc Traditionis Custodes đưa ra vào năm 2021.

Ngài cho biết Thánh lễ, “khoảnh khắc duy nhất con người đối diện với Chúa”, đã trở thành nguồn xung đột giữa “những người theo chủ nghĩa truyền thống và những người theo chủ nghĩa cấp tiến”, đồng thời cảnh báo rằng những cuộc cãi vã như vậy có nguy cơ làm ô uế Bí tích Thánh Thể.

Ngài kêu gọi suy tư và hòa giải, nhấn mạnh rằng phụng vụ không bao giờ được trở thành vũ khí gây chia rẽ bè phái trong Giáo hội. “Tại sao chúng ta phải đấu tranh với nhau?” ngài hỏi. “Tại sao lại cấm điều này điều kia? Ai cho chúng ta quyền này?”

Đức Hồng Y Sarah kêu gọi những người tham dự Thánh Lễ La Tinh Truyền Thống không nên bị gạt ra ngoài lề, lưu ý rằng nhiều người Công Giáo ngoan đạo nhất cũng nằm trong số họ. “Đức Giáo Hoàng là cha của tất cả mọi người”, ngài nói. “Ngài là cha của những người theo chủ nghĩa truyền thống, cha của những người cấp tiến, cha của tất cả mọi người.” Ngài nói thêm rằng ngài đã thảo luận vấn đề này với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, và ngài cho biết ngài nhận thức được những khó khăn do việc áp dụng khác nhau quyền giám sát Tự Sắc Traditionis Custodes trong các giáo phận khác nhau.

Trong cuộc phỏng vấn sâu rộng, Đức Hồng Y Sarah cũng đã lên tiếng mạnh mẽ về các vấn đề đạo đức và đức tin. Ngài mô tả phá thai là “một tội ác ghê tởm” và nói rằng những nỗ lực ở Pháp nhằm đưa nó trở thành một quyền hiến định là “một sự xúc phạm trực tiếp đến Chúa”. Ngài nhắc lại rằng việc phong chức linh mục cho phụ nữ là “bất khả thi”, tuyên bố rằng Giáo hội “không có thẩm quyền” để làm như vậy, và cảnh báo rằng bất kỳ nỗ lực nào nhằm tạo ra một chức linh mục dành cho nữ giới sẽ không nằm trong truyền thống tông đồ.

Đề cập đến các vấn đề đạo đức và xã hội mà phương Tây đang phải đối mặt, Đức Hồng Y cho biết những xã hội “tách rời khỏi Thiên Chúa” đang trên con đường “tự sát”, lập luận rằng chủ nghĩa thế tục đã trở thành một “cuộc chiến chống lại Giáo hội”. Ngài nói rằng mặc dù các vụ lạm dụng tình dục của giáo sĩ cần phải bị trừng phạt, nhưng một số người lại lợi dụng tai tiếng này để tấn công toàn thể Giáo hội. Ngài cũng lên án việc treo cờ LGBT tại Đền Thờ Thánh Phêrô, gọi đó là “sự xúc phạm đến Thiên Chúa”, và chỉ trích cái mà ngài gọi là “sự thờ ngẫu tượng” thiên nhiên trong một số phong trào sinh thái.

Những phát biểu của Đức Hồng Y Sarah được đưa ra trong bối cảnh cuộc tranh luận vẫn đang tiếp diễn về tương lai của Thánh Lễ La Tinh Truyền Thống và phản ứng của Giáo Hội trước làn sóng tục hóa đang gia tăng ở Âu Châu. Kể từ khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô ban hành Tự Sắc Traditionis Custodes vào tháng 7 năm 2021, hạn chế việc cử hành Thánh Lễ La Tinh, các giám mục trên khắp thế giới đã thực thi sắc lệnh này với nhiều mức độ nghiêm ngặt khác nhau. Tại Pháp, nơi sự gắn bó với các nghi lễ truyền thống vẫn còn mạnh mẽ, một số giáo phận đã chứng kiến căng thẳng nảy sinh giữa giáo sĩ và cộng đồng giáo dân đang tìm cách duy trì quyền tiếp cận Sách Lễ La Tinh năm 1962.

Đồng thời, Vatican đang phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng trong việc giải quyết tình trạng thực hành đức tin đang suy giảm trên khắp Tây Âu, với việc tham dự Thánh lễ và ơn gọi giảm mạnh ở một số quốc gia Công Giáo truyền thống. Các giám mục bảo thủ cao cấp đã cảnh báo về một cuộc khủng hoảng tâm linh ngày càng sâu sắc khi đời sống công cộng ở Âu Châu ngày càng xa rời các giá trị Kitô giáo.


Source:Catholic Herald
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tham luận về những kỳ bí lạ lùng của ngôi Nhà của Đức Mẹ ở Ephesus, Thổ Nhĩ Kỳ.
Trần Mạnh Trác
20:11 19/10/2025
Xem hình ảnh

Những chuyện lạ lùng:

Giống như một câu chuyện thần kỳ giả tưởng, thu hút trí tưởng tượng của con trẻ trên màn ảnh Hollywood, như chuyện một anh chàng nọ, nhờ thần báo mộng mà tìm ra một kho tàng vô giá chôn giấu hàng ngàn năm dưới lòng đất. Thì câu chuyện về ngôi nhà của Đức Mẹ ở Ephesus, từng bị lãng quên hàng ngàn năm, nhưng nhờ thị kiến của một nữ tu người Đức nằm liệt giường trong thế kỷ 18 tên là Anna Katharina Emmerick mà đã được tìm ra.

Ngôi nhà đó nay có tên là House of Virgin Mary, thuộc thị xã Selcuk, Thổ Nhĩ Kỳ.

Ngôi Nhà, tuy bị Thế Giới Kitô Giáo lãng quên một thời gian rất dài, nhưng một điều lạ lùng là những người Hồi Giáo ở quanh vùng thì lại không, họ đã duy trì một truyền thống lễ hội để cầu phước với Đức Mẹ tại nơi này mỗi năm, đúng vào ngày giỗ của Người, là ngày 15 tháng 8, trùng với ngày lễ “Đức Bà Hồn Xác Lên Trời” của Công Giáo.

Nhờ có truyền thống lễ hội đó mà ngôi nhà đã bị bỏ trống và đổ nát qua nhiều thế kỷ ấy, vẫn được người Hồi Giáo tôn kính không xâm phạm và gọi nó là Panaya Kapulu ("Cửa dẫn đường tới Đức Trinh Nữ, Doorway to the Virgin ")

Với những ai đang ngạc nhiên về sự tôn kính Đức Mẹ của người Hồi giáo thì xin hiểu rằng họ coi Đức Mẹ là người được Chúa chọn một cách riêng để làm gương mẫu cho giới phụ nữ, và Chúa Giêsu con của Đức Mẹ thì được họ coi là một Tiên Tri lớn, và do có một lòng sùng kính như thế cho nên mỗi khi có việc nói về Chúa Giêsu thì họ viết rằng “Giêsu, con Đức Maria”.

Kinh Qu’ran (Kinh thánh của Hồi Giáo) đã ca tụng nhân đức của Đức Mẹ nhiều tới 34 lần, so với toàn bộ Kinh Thánh của Kitô giáo chỉ nhắc tới Đức Mẹ có 19 lần mà thôi (21 lần nếu kể tới Kinh Thánh Gioan không dùng tên nhưng dùng tước hiệu là Mẹ Chúa Giêsu)

Cho nên ngày nay, trong số những người đi hành hương kính viếng Ngôi Nhà của Đức Mẹ ở Ephesus thì phần đông hơn vẫn là người Hồi Giáo. (theo tin năm 2024 của The American Society of Ephesus, là cơ quan quốc tề lo việc quản thủ và bảo trì các thánh tích của Kitô giáo trên toàn Thế Giới).

Bây giờ chúng ta sẽ nhắc tới Sơ Emmerick là người đã có thị kiến về ngôi Nhà và việc này đã dọn đường mở cửa lại cho Thế Giới Kitô giáo như đã nói ở trên.

Chân phườc Anne Catherine Emmerich, CRV (Anna Katharina Emmerick; 8 tháng 9 1774 – 9 tháng 2 1824)

Có lẽ trong chúng ta ít có người nghe đến và biết rõ về Chân Phước Emmerich, nhưng thực ra hầu hết chúng ta đã gặp gỡ Chân Phước về mặt tinh thần rồi và còn hơn thế nữa, đã đồng cảm và cùng thổn thức với nhịp tim thổn thức của vị nữ tu này.

Sau năm 2004 trở về đây, cuốn film The Passion of the Christ của Mel Gibson đã được trình chiếu mỗi năm trong mùa Thương Khó, và các xứ đạo cũng thường chiếu lại nhiều đoạn cảm động trong film. Ông Mel Gibson thay vì bi thảm hóa cảnh Thương Khó bằng những tưởng tượng phong phú nhưng bừa bãi của những nhà văn Holliwood lúc bấy giờ, ông ta đã xử dụng những thị kiến của Chân Phước Emmerich mà bổ xung cho những chi tiết của Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.

Hằng tỷ người trên Thế Giới đã rơi lệ trước những cảnh Thương Khó đau thương đã đành, nhưng hàng tỷ người cũng cảm thấy thấm thía một cách sâu sa vì những mô tả về tình cảm thiêng liêng, như là tình Mẫu Tử trong màn Đức Mẹ tất tưởi chạy đi tìm người con đang vác Thánh Giá, thì những người thân đã giữ Mẹ lại vì lúc đó đám quân lính đang hung bạo quá, đánh đập tàn nhẫn tới cả những người đứng bên vệ đường…Thế nhưng khi Chúa Giêsu ngã xuống đất, thì một người mẹ đã từng nâng đứa con thơ của mình dậy khi “con Trẻ Giêsu” thường ngã xuống đất trong lúc chập chững tập đi những bước đầu đời, thì đâu có gì còn có thể cản trở “cái lòng của người mẹ” ấy được nữa, và Đức Mẹ đã chạy tới mà ôm lấy đứa con của mình đang dính đầy máu.

Bây giờ thì xin được tóm tắt cuộc đời của Chân phước Emmerich.

Ngài là một nữ tu dòng Augustinô, nhà rất nghèo ở làng Flamschen, quận Coesfeld, địa phận Münster, bang Westphalia, Đức quốc. Từ bé Ngài đã thường nói mình được nói chuyện với Chúa Giêsu và nhìn thấy các linh hồn ở luyện ngục, nhưng lúc đó người ta nghĩ rằng con bé này vì thiếu ăn nên hay nói nhảm…Ngài học rất ít hầu như mù chữ, chỉ biết việc giúp gia đình làm ruộng và không có tài năng gì đặc biệt nào ngoài việc chăm chỉ và rất thích đọc kinh. Khi lên 12 tuổi thì bắt đầu lao động ở các nông trại quanh vùng hoặc may vá mà sống qua ngày.

Chân Phước Emmerich đã xin gia nhập nhiều dòng tu nhưng đều bị từ chối vì không có của hồi môn, mãi cho đến lúc 28 tuổi thì được dòng Augustinô nhận (1802), và năm sau thì khấn trọn đời.

Năm 1812, vua của xứ Westphalia là Jérôme Bonaparte (em của Hoàng Đế Napoleon) ra lệnh đóng cửa mọi dòng tu. Sơ Emmerich phải ra ngoài sống nhờ một bà góa.

Vào cuối năm 1812 sang đầu năm 1813, thì Sơ Emmerich bắt đầu chịu 5 dấu thánh ở trên cơ thể, và đau đớn phải nắm liệt giường từ đó, cùng lúc đó Sơ không còn ăn uống gì cả, chỉ sống nhờ vào việc rước Mình Thánh Chúa mà thôi (13 năm). Vị cha sở đã trình lên địa phận để điều tra và bắt đầu áp dụng những biện pháp cô lập để tránh những kẻ tò mò.

Vào năm 1818 thì các vết thương ngưng chảy máu và lành lại, nhưng có người tố cáo rằng Sơ Emmerich đã giả mạo cho nên đã bị chính quyền bắt giữ, và cô lập để điều tra. Sau 3 tuần lễ thì phái đoàn điều tra ấy có nhiều ý kiến trái ngược nhau nên không đưa ra một kết luận nào cả.

Từ năm 1819 cho đến khi lìa đời (1824), Chân phước Emmerich được một nhà Thơ tên là Clemens Maria Brentano đến thăm thường xuyên và ông ta đã ghi lại cách vội vàng những lời kể về các thị kiến của Chân Phước.

Có một trở ngại lớn giữa ông Brentano và Chân Phước Emmerich, đó là hai người nói hai thổ ngữ khác nhau, do thế mà việc ghi chép vội vàng của ông Brentano có nhiều mâu thuẫn và khó hiểu. Chúng ta có thể ví von rằng nó giống như ông Brentano là một người ở Hanoi, đi vào Quảng Nam mà nói chuyện với một bà đang nằm liệt giường trong một làng vùng sâu vùng xa, và thì thào kể lể, thì việc “bà nói gà mà ông viết vịt” là điều dễ hiểu lắm.

(còn tiếp)
 
Văn Hóa
CÁC ĐÓNG GÓP Công Giáo TRONG CÁC THẾ KỶ 20 VÀ 21 CHO KHOA CHÚ GIẢI KINH THÁNH, PHẦN MỘT, M1T3
Vũ Văn An
19:17 19/10/2025

Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh

Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước

Tiết ba: Dẫn nhập vào văn chương tiên tri


(11) Chương một: Tổng quan về văn chương tiên tri



Bruce Vawter, C.M. †,
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition, các trang 186-200


Tài liệu Tham khảo

Blenkinsopp, J., A History of Prophecy in Israel [Lịch sử việc nói tiên tri ở Israel] (Phi, 1983).
Coggins, R., “An Alternative Prophetic Tradition?” Israel’s Prophetic Tradition [Một truyền thống tiên tri thay thế?” Truyền thống tiên tri của Israel] (Fest. P. R. Ackroyd; biên tập R. Coggins, et al; Cambridge, 1982) 77-94.
Culley, R. C. và T. W. Overholt (biên tập). Anthropological Perspectives on Old Testament Prophecy [Quan điểm nhân học về việc nói tiên tri trong Cựu Ước] (Semeia 21; Chico CA, 1982).
Eissfeldt, O., “The Prophetic Literature [Văn học tiên tri]”, OTMS 225-61.
Fohrer, G., “Neuere Literatur zur alttestamentlichen Prophetie [Tài liệu gần đây về lời tiên tri trong Cựu Ước]”, TRu 45 (1980) 1-39, 109-32, 193-225; 47 (1982) 105-35, 205-18.
Graham, W. C., The Prophets and Israel’s Culture [Các nhà tiên tri và văn hóa Israel] (Chicago, 1934).
Gunkel, H., Die Propheten [các tiên tri] (Gottingen, 1917).
Haran, M., “From Early Classical Prophecy: Continuity and Change [Từ lời tiên tri cổ điển ban đầu: Tính liên tục và thay đổi]”, VT 27 (1977) 385-97.
Heschel, A.J., The Prophets [Các tiên tri] (NY, 1962).
Kirkpatrick, A. F., The Doctrine of the Prophets [Học thuyết của các nhà tiên tri] (London, 1901).
Koch, K., The Prophets [Các nhà tiên tri] (2 tập; Phi, 1982-84).
Lang, B., Wie wird man Prophet in Israel? [Nhà tiên tri nào ở Israel?] Dusseldorf, 1980).
Limburg, J., “The Prophets in Recent Study 1967-1977 [Các Tiên Tri trong Nghiên Cứu Gần Đây 1967-1977],” Int 32 (1978) 56-78.
Lindblom, J., Prophecy in Ancient Israel [Lời Tiên Tri ở Israel Cổ thời] (Oxford, 1962).
Mowinckel, S., Prophecy and Tradition [Lời Tiên Tri và Truyền Thống] (Oslo, 1946).
Rinaldi, G., / Profeti Minori [các tiên tri nhỏ] (Turin, 1953).
Ringgren, H., “Prophecy in the Ancient Near East,” Israel’s Prophetic Tradition 1-11 [Lời Tiên Tri ở Cận Đông Cổ thời,” Truyền Thống Tiên Tri của Israel 1-11].
Robinson, T. H., Prophecy and the Prophets [Lời Tiên Tri và các Tiên Tri] (London, 1923).
Sawyer, J. F. A., “A Change of Emphasis in the Study of the Prophets,” Israel’s Prophetic Tradition [Sự Thay Đổi Trọng Tâm trong Nghiên Cứu các Tiên Tri,” Truyền Thống Tiên Tri của Israel] 233-49,
Scharbert, J., Die Propheten Israels bis 700 v. Chr. [các tiên tri Israel đến năm 700 TCN](Cologne, 1965).
Skinner, J., Prophecy and Religion [Lời tiên tri và Tôn giáo] (Cambridge, 1922).
Tucker, G., “Prophets and the Prophetic Literature [Các Tiên tri và Văn chương tiên tri],” HBMI 325-68.
Vawter, B., The Conscience of Israel [Lương tâm Israel](NY, 1961).
Ward, J. M., The Prophets [Các Tiên tri](Nash, 1982).
Widengren, G., Literary and Psychological Aspects of the Hebrew Prophets [Các Khía cạnh Văn chương và Tâm lý trong các Tiên tri Israel] (UUA 10; Uppsala, 1948).
Wilson, R., Prophecy and Society in Ancient Israel [Lời Tiên tri và xã hội ở Israel Thuở xưa] (Phi, 1980).

Dẫn Nhập

(I). Bản chất của việc nói tiên tri

Mặc dù chúng ta quan tâm tới các tiên tri của Cựu Ước, nhất là các tiên tri có tên tuổi dính liền với các sách tiên tri, chúng ta cũng nên bắt đầu bằng cách trước nhất xét đến việc nói tiên tri một cách tổng quát. Bản Bẩy Mươi không dịch chữ nābî’ của tiếng Hípri, nhưng đã nhất quán dùng chữ prophētēs để chỉ về nó; đây là một từ tương đương, có liên hệ với lịch sử Hy Lạp đáng kính thời đó. Điều ấy đủ cho thấy: mặc dù các dịch giả Do Thái là những người trước tiên nhấn mạnh đến tính đặc thù trong việc nói tiên tri của dân tộc mình, nhưng họ vẫn phải thừa nhận rằng việc nói tiên tri ấy có liên hệ cách nào đó với nền văn hóa lớn hơn của con người mà Israel chỉ là một thành phần.

(i) Hiện tượng nói tiên tri

Phần lớn, nếu không phải là tất cả, các tôn giáo đều sản sinh ra hiện tượng nói tiên tri hoặc liên tục hoặc trong một giai đoạn phát triển nào đó của mình. Điều nhận xét ấy đúng không những đối với các tôn giáo mà người ta thường gọi là nguyên khai mà còn đúng đối với các tôn giáo đã tiến bộ cao độ. Tiên tri không hẳn đặc thù hay cả chủ yếu có nghiã là tiên đoán tương lai, một quan niệm chỉ có sau này về tiên tri, nhưng đúng hơn chỉ việc làm trung gian và giải thích tâm trí và ý chí của Thiên Chúa. Chính theo nghĩa này, mà từ thế kỷ thứ 5 trước CN, người ta đã dùng chữ prophētēs, một chữ có nghĩa đen là “người nói thay người khác” hay “người giải thích”, để chỉ những người giải nghĩa tâm trí Thiên Chúa từng tỏ lộ cho họ hay cho người khác. Chức năng các prophētēs vốn được coi là một chức năng nổi bật trong tôn giáo công cộng; các từ ngữ khác được dùng để chỉ các thày bói tư. Chức năng này cũng thường được liên tưởng với các phát biểu và giải thích hữu lý: người được linh hứng đúng nghĩa, người nhận được sự mặc khải mà cần phải giải thích thường được gọi là mantis. Dĩ nhiên, prophētēs mantis có thể cùng là một người; tuy nhiên, chữ sau thường được dùng để đặc biệt nói tới việc tỏ lộ tương lai (Xem H. Krämer, Theological Dictionary of New Testament 6, 781-96).

Xét một cách tổng quát, phương tiện được tiên tri dùng để thông đạt cũng là các phương tiện được các tiên tri trong Cựu Ước sử dụng: các giấc mơ, các thị kiến, các kinh nghiệm xuất thần hay thần bí và nhiều tập quán bói tóan khác. Lòng tôn kính của ta đối với các tiên tri trong Cựu Ước không buộc ta phải bác bỏ sự kiện này là các tiên tri không phải Do Thái cũng có những kinh nghiệm tôn giáo đúng nghĩa. Trong nhiều thế kỷ, các Kitô hữu vốn không thấy khó khăn gì trong việc nhìn nhận các lời tiên tri chân chính trong Các Lời Sấm Si-bi-la (Sybilline Oracles)(mà ngày nay ai cũng nhận là có nguồn gốc Do Thái và Kitô Giáo) đến nỗi đã du nhập chúng vào phụng vụ của Giáo Hội. Vì việc nói tiên tri là một đặc sủng, tự thân, không nói lên điều gì về tính chính thống hay tư cách đạo đức của vị tiên tri, nên ta không có lý do gì để hạn chế tinh thần tiên tri của Thiên Chúa vào những máng chuyển duy nhất của lịch sử cứu độ (heilsgeschichte). Các lời sấm của Bi-lơ-am trong Dân Số 22-24 vốn được coi là những lời tiên tri từ Thiên Chúa mà có, mặc dù các truyền thống Kinh thánh vẫn xếp Bi-lơ-am vào hàng địch thù của Thiên Chúa và của Dân Người (Ds 31:8,16; Gs 13:22; 2Pr 2:15; Gđ 11; Kh 2:14). Theo lời giải thích của Thánh Tôma Aquinô, vì việc nói tiên tri là một động thái có tính giai đoạn (transient) hơn là một lề thói (habit), nên cũng một con người ấy vừa có thể nói sự thật vừa có thể nói điều sai (Quodl. 12, q.17, a.26).

Không phải chỉ thời xa xưa, trong Cựu Ước và Tân Ước, bên trong và bên ngoài dân Chúa, mới có các tiên tri thật và các tiên tri giả, nhưng cả các thời sau này, vẫn có các tiên tri như thế. Dù Giáo Hội không chính thức áp dụng hạn từ “tiên tri” cho bất cứ ai không được nêu tên trong Kinh thánh, nhưng quả Thiên Chúa vẫn nói với dân của Người qua các trung gian như Phanxicô thành Assisi, Vixentê Ferrer, Ca-ta-ri-na thành Xiên-na, Brigitta Thụy Điển, và nhiều người khác, trong các hoàn cảnh giống hệt hoàn cảnh của các tiên tri trong Kinh thánh.

(ii) Việc nói tiên tri tại Cận Đông

Đương nhiên, người ta phải tìm ra các nét tương tự nhất đối với việc nói tiên tri trong Cựu Ước nơi các truyền thống xưa ở Cận Đông, nơi mà Israel chỉ là một phần nhỏ. Trong đó, điều tất yếu là phải xét tới mức độ lệ thuộc, nếu có, của việc nói tiên tri tại Do Thái đối với các định chế tương tự của các dân tộc cao hơn về phương diện văn hóa, chủ yếu là các dân tộc ở Lưỡng Hà và Ai Cập, và cả nền văn minh nguyên khai của Ca-na-an nữa.

Từ những thời xa xăm nhất có ghi chép, người ta đã thấy cả một mẫu mực thầy bói hoặc đoán số mệnh hiện hữu khắp vùng Cận Đông. Họ được sử dụng để đoán chắc về ý muốn bảo bọc của thần minh. “Tôi giơ tay lên với Be‛elshamayn, và Be‛elshamayn nghe lời tôi. Be‛elshamayn (nói) với tôi qua các thầy bói và đoán số. Be‛elshamayn (phán với tôi): đừng sợ, vì ta sẽ làm ngươi thành vua chúa và ta sẽ ở bên ngươi và sẽ giải thoát ngươi…” (Ancient Near Eastern Texts 501). Trong khi A-mốt nói tiên tri ở Israel, thì một ông vua A-ram đã khắc những lời trên vào một phiến đá ở Syria. Việc minh nhiên nhắc tới thầy bói và đoán số đã soi sáng lời tuyên bố của Mesha, vua Mô-áp, vào thế kỷ thứ 9. Viên đá Mô-áp ghi như thế này: “Chemosh phán với tôi, ‘hãy đi, chiếm Nê-bô từ tay Israel’… Chemosh phán với tôi ‘hãy đi đánh lại người Hauronen’…” (Ancient Near Eastern Texts 320-321). Người ta tìm thấy những câu tương tự như thế trong Sách Thánh như câu: “Đa-vít thỉnh ý Gia-vê: ‘Con có nên đi không và có đánh bại được những tên Phi-li-tinh này không?’ Gia-vê phán với Đa-vít: ‘Cứ đi, ngươi sẽ đánh bại người Phi-li-tinh và cứu được Cơ-i-la’” (1Sm 23:2). Đa-vít được tiên tri Gát tháp tùng (1Sm 22:5). Nhiệm vụ của tiên tri này là thỉnh ý như thế với Gia-vê. Mẫu mực này càng minh nhiên hơn ở 1Sm 23:6-12: Ép-gia-tha, vị tư tế từ Nốp tới giúp Đa-vít, có mang theo một dụng cụ gọi là ê-phốt (ephod). Đây là dụng cụ dùng để bói toán. Đa-vít đã nhờ dụng cụ này để được trả lời có hay không cho các câu hỏi như “các thân hào ở Cơ-i-la có nộp con vào tay vua (Sa-un) hay không?” và “Sa-un có xuống đây không?”.

Sự hiện hữu của hình thức tiên tri xuất thần hay chiêu hồn (ecstatic prophecy) tại Phê-ni-xia thế kỷ 11 đã được chứng thực bởi kinh nghiệm của Wen-Amon, một sứ giả Ai Cập tại hải cảng Byblos (Ancient Near Eastern Texts 25-29). Bị quấy rầy, Wen-Amon đã vắn tắt chấp nhận những bất tiện do người thiếu niên bị thần xấu chiếm hữu gây ra cho mình: vì đó chỉ là một tai nạn nghề nghiệp thông thường cho việc nói tiên tri kiểu xuất thần hay chiêu hồn. Đó cũng là trường hợp từng gây rắc rối cho Thánh Phaolô cả một nghìn năm sau (Cv 16: 16-18). Câu truyện sinh động trong 1V 18:19-40 đã minh chứng cho đặc tính của lối tiên tri chiêu hồn nơi người Ca-na-an vào thời tiên tri Ê-li-a. Với một ít sửa đổi, nếu có, các biểu hiện bên ngoài của nó hẳn khó có thể phân biệt được với các biểu hiện nơi các tiên tri thuộc dòng Gia-vít được nhắc tới trong 1Sm 10:5-7; 19:18-24 vào thời Vua Sa-un, và chắc chắn không có sửa đổi gì so với các biểu hiện của thời gian sau này trong Da-ca-ri-a 13:4-6 (lần này thì phải xấu hổ).

Ta còn được cung cấp nhiều tín liệu hơn nữa về mẫu nói tiên tri Cận Đông qua các chứng cớ Ba-bi-lon. Việc nói tiên tri cũng không thoát ra ngoài qui luật tổ chức cứng ngắc của xã hội Ba-bi-lon. Trong các đền thờ của xã hội này, các tư tế bārū ban tētu (sứ điệp) cho các khách hàng của mình chủ yếu qua lối bói gan (lối bói được E-dê-ki-en 21:26 coi như đặc trưng của Ba-bi-lon). Chữ tētu có lẽ cùng một gốc với chữ tôrâ của Hípri, một chữ có nghĩa là giáo huấn tiên tri trong Is 1:10 và nhiều nơi khác. Một kiểu tiên tri tư tế khác của Ba-bi-lon là maḫḫū, xuất thần: các sấm ngôn của họ được nói ra trong lúc được thần minh chiếm hữu giống như trường hợp cậu thiếu niên quấy rầy Wen-Amon trên đây. Ta cũng không nên cho rằng các tiên tri Ba-bi-lon kiểu trên chỉ chạy theo quan niệm ma thuật về tôn giáo mà thôi, một điều vốn được coi là đặc tính của lòng đạo hạnh tại Lưỡng Hà. Vì maḫḫū cũng từng đóng vai thẩm phán và y sĩ. Các công thức thần chú của họ, dù có tính ma thuật, đôi khi vẫn cho thấy họ ý thức được mối liên kết giữa tôn giáo và luân lý mà các tiên tri Israel hay nhấn mạnh tới.

Mẫu mực Cận Đông ít có phân biệt giữa giữa tiên tri và tư tế. Tại Israel, mẫu mực ấy xem ra đã bị bẻ gẫy, vì tại đây, sự phân biệt giữa tư tế và tiên tri khá rõ ràng. Chức tư tế tại Israel là cha truyền con nối và có tính phẩm trật, còn chức tiên tri thì có tính đặc sủng; các tiên tri như Ê-dê-ki-en hay Giê-rê-mi-a cũng có thể là tư tế, nhưng không có dấu chỉ gì là những vị như A-mốt cũng là tư tế, trái lại nhiều dấu chỉ nói ngược hẳn lại. Tuy thế, sự ra khác như trên không hẳn tuyệt đối như người ta thoạt nghĩ, ít nhất khi ta xét việc nói tiên tri như một toàn bộ. Bởi thực ra, khó có thể tách biệt các chức năng tư tế và tiên tri của Sa-mu-en trong câu truyện 1Sm 9:11-26. Suốt trong bản văn, ông được gọi là “thầy chiêm” (the seer), và trong 1Sm 19:18-24, ta thấy ông cầm đầu nhóm tiên tri xuất thần; ấy thế nhưng, một số các nhiệm vụ chính của ông là làm phép hy lễ trên các “nơi cao” và chủ tọa các bữa ăn hy tế. Người ta năng gặp các tiên tri trong các đền thánh của Israel, như tại Si-lô (1V 14:1-2), tại Bết-ên (2V 2:3), tại Ghin-gan (2V 4:38), tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem (Gr 23:11; 35:4) v.v… Các tiên tri và tư tế thường được nhắc tới cùng một lúc và thường là được liên kết với đền thánh (coi Ai Ca 2:20). Các dụng cụ bói toán được các tư tế sử dụng (xem 1Sm 14:3) cũng được các tiên tri sử dụng (xem 1Sm 28:6). Nhiều thánh vịnh nói tới hoàn cảnh sống trong việc phụng tự của người Do Thái cũng giả thiết có sự hiện diện của tiên tri trong việc hành xử một chức năng tư tế nào đó (như Tv 95:7b-11). Nơi người Ả Rập, vị tiên tri được gọi là kāhin, một chữ có cùng gốc với chữ kōhēn (tư tế) của Hípri. Điều ấy cho thấy việc nói tiên tri tại Israel vẫn có những tương đồng với truyền thống của nhiều nước khác tại Cận Đông.

Muốn đánh giá đúng mức các tiên tri của Israel, điều quan trọng là tìm ra những nét tương đồng như trên. Thực thế, tại Cận Đông xưa, nơi mà Israel chỉ là một thành phần rất nhỏ và không quan trọng chi về chính trị, vẫn luôn có một mẫu thức nói tiên tri rất nhất quán, tức những người được linh hứng để nói lời của Thiên Chúa cho các đồng đạo của mình bất kể đó là Ba-bi-lon, Ca-na-an hay Israel. Tuy nhiên, việc nhìn nhận mẫu thức chung ấy không làm ta sao lãng, trái lại càng làm ta chú ý tới các nét độc đáo của ơn gọi tiên tri trong Kinh thánh.

(III) Việc nói tiên tri tại Israel

Sự thịnh hành của mẫu thức tiên tri tại khắp miền Cận Đông vừa là nguồn cội cho việc nói tiên tri tại Israel vừa nhấn mạnh tới các đặc tính đặc trưng của nó. Vì tôn giáo Do Thái có những nét chung với các tôn giáo của các dân tộc khác thuộc miền Cận Đông, nhất là các dân tộc thuộc nhóm Semitic, nên nó có nhiều định chế tôn giáo tương tự như thế nào, trong đó có định chế nói tiên tri, thì cũng vì tôn giáo Do Thái có những nét hoàn toàn đặc thù so với các tôn giáo của vùng này, nên phong trào nói tiên tri của nó cũng là một nét độc đáo riêng khác với thế giới Cận Đông như thế.

(A) Lịch sử việc nói tiên tri tại Israel

Người Do Thái nghĩ gì khi họ nói về nābîʼ, từ ngữ mà Bản Bẩy Mươi dịch là “tiên tri”? Bề ngoài xem ra câu hỏi này khá sơ đẳng, nhưng ta không thể trả lời một cách chính xác cho nó chỉ bằng cách dựa vào các kiến thức hiện nay của ta mà thôi. Bởi vì chưa có bất cứ đồng thuận bác học nào về nguồn gốc của từ ngữ này, một từ ngữ chắc hẳn được ngôn ngữ Hípri vay mượn đâu đó. Ta chỉ có thể dựa vào cách Cựu Ước sử dụng nó để có thể đưa ra bất cứ định nghĩa nào. Việc xem sét này cũng giúp giải quyết một số vấn đề khác, kể cả vấn đề phát sinh do sự kiện nghịch lý này là từ ngữ này từng bị chính những người chúng ta vốn nghĩ là tiên tri bác bỏ hay ít nhất tránh né.

(a) Việc nói tiên tri lúc ban đầu

Truyền thống Kinh thánh vẫn coi nguồn gốc việc nói tiên tri tại Israel là chính Mô-sê, và ít nhất, nếu hiểu điều này có ý nói việc nói tiên tri có cùng lúc với Israel, thì không có lý do gì để không chấp nhận truyền thống ấy. Khung cảnh mô tả tại Ds 11:24-30, thuộc truyền thống E, chắc chắn đã mô phỏng cuộc tập họp của các tiên tri xuất thần thời sau này, nhưng Am 2:11 cũng nhắc tới cùng một loại tiên tri này khi cho rằng thời đại Mô-sê chính là thời khởi nguyên của hình thức nĕbîʼîm. Chắc chắn loại tiên tri này là loại đầu tiên được hiểu qua chữ nābî. Đã đành, trong các bản văn về sau, chữ này có một nghĩa rộng hơn, để chỉ bất cứ ai được linh hứng, hay ít nhất những ai được nhìn nhận là Thiên Chúa che chở, như Áp-ra-ham, trong St 20:7 (EJ) chẳng hạn. Do đó, trong Ngũ Kinh, Mô-sê thường được gọi là nābîʼ, cũng như A-ha-ron (không những trong Xh 7:1 [P] mà cả trong Ds 12:2-8 [E]) và Miriam (trong Xh 15:20 [P]. Trong Tl 4:4, Đơ-vô-ra cũng được gọi là một nĕbîʼâ. Các bản văn này không cho ta biết nhiều về ý nghĩa lúc ban đầu của từ ngữ này; như 1Sm 9:9 đã cho thấy, đến lúc này, từ ngữ nābîʼ không còn chỉ giới hạn vào ý nghĩa một loại “người thánh” duy nhất nào nữa.

Nếu không có lý do gì để tra vấn truyền thống coi nĕbîʼîm đã có nguyên lai từ thời Môsê, thì ta phải nhìn nhận rằng chúng ta không nghe nói đến nguyên lai này trước cuối thời các thủ lãnh và đầu thời các vua khi nó được nhắc đến liên quan tới các cuộc chiến tranh với người Philitinh. Hoàn cảnh này không gây ngạc nhiên chi, vì một chức năng lớn của các tiên tri xuất thần này, cũng như của phái Nazirites, hình như là để kích thích lòng yêu nước và lòng đạo. Thông thường những vị này nói tiên tri theo từng nhóm mà kinh nghiệm có tính cộng đồng của họ được mô tả trong các đoạn đại loại như trong 1Sm 10:6-8, 10-13. Bởi thế, họ thường được dành cho một cái tên chung là “con các tiên tri” (běnêhanněbîʼîm), vốn được giải thích như là “thành viên của phường hội tiên tri”, “các tiên tri chuyên nghiệp và “các môn đệ nói tiên tri” (xem 1V 20:35, 2V 2:3 tt; 5:22; 6:1...) Tất cả các giải thích này đều có thể được biện minh. Kinh nghiệm xuất thần dùng như bầu khí cho việc nói tiên tri thường được gây ra bởi việc bị ảnh hưởng lẫn nhau qua nhẩy múa và âm nhạc. Các tiên tri này cũng thường được coi như các môn đệ hay người tập sự của các tiên tri đã nổi tiếng; tuy nhiên, họ cũng sống biệt lập như các cá nhân tư riêng (xem 2V 4:1). Trong cả hai khả năng này, người ta có thể thấy họ liên kết với các cung thánh như các “tiên tri thờ cúng” (cult prophets) (xem 1V 14:1tt; 2V 22:14-17) hay phục vụ nhà vua trong tư cách “tiên tri triều đình” (xem 2Sm 7:1tt; 12:1tt). Họ mặc loại y phục khác biệt bằng da lông (2V 1:8) và thường mang các đặc điểm khác nữa (xem 1V 20:38, 41) và đôi khi có thể cạo đầu (xem 2V 2:23).

Kinh nghiệm xuất thần biến đổi vị tiên tri, làm ông thành “một người khác” (1S 10:6). Trong tình trạng ấy, các trò cười của ông có thể lố bịch khiến người ta có thể thân mật gọi ông là “người khùng” (2V 9:11) trong khi nghề của ông bị coi như ít phù hợp với tư cách công dân có trách nhiệm, đáng kính (1Sm 10:11). Thời cổ, người ta ít phân biệt được các bất thường tâm linh (psychic abnormalities) không biết chúng phát xuất từ linh hứng, sự mê loạn hay điên khùng. Chắc chắn điều kiện này là phương thế cho trải nghiệm tôn giáo chân chính trong đó, người ta đạt được sự tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa. Nhưng điều cũng chắc chắn là nó dễ dàng là một nguồn lừa đảo và mê tín, như các cuộc bút chiến về sau của các tiên tri cổ điển chống lại nĕbîʼîm sẽ chứng tỏ.

Chủ trương xuất thần vẫn tiếp diễn tới 1 mức nào đó qua suốt thời kỳ tiên tri của Do Thái. Samuen, có lần, đã bị mô tả như đứng đầu nhóm tiên tri xuất thần này (1Sm 19: 20tt). Cả Êlia và Êlisa cũng thường liên hệ với “các con của tiên tri” này trong tư cách bậc thầy và lãnh tụ (xem 2V chương 2). Qui mô ảnh hưởng của chủ trương xuất thần đối với việc nói tiên tri về sau, nhất là tiên tri văn bản cổ điển, hiện vẫn còn là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận có ý nghĩa. Trong 1V 22:5-28, tiên tri giả Xít-ki-gia-hu lấy việc mình sở hữu được “thần khí của Đức Chúa” và các bạn đồng xuất thần của mình làm chứng cớ chống lại việc nói tiên tri của Mi-kha-giơ-hu, người xem ra không có “thần trí” này. Mi-kha-giơ-hu chỉ gán việc nói tiên tri cho thị kiến của mình; cũng nhờ thị kiến này, ông biết kinh nghiệm của Xít-ki-gia-hu là kinh nghiệm của một “thần trí dối trá”. Cũng thế, Gr 29:26 cho thấy tiên tri xuất thần rất thông thường thời Giêrêmia, nhưng chính Giêrêmia thì không bao giờ nại tới việc sở hữu “thần khí” tiên tri. Tuy nhiên, mặt khác, Êdêkien chắc chắn nhận được nhiều lời tiên tri của mình trong những lúc xuất thần và chứng thực nhiều lần rằng mình được “thần trí” và “bàn tay Giavê” chiếm hữu.

Mối liên hệ cổ xưa giữa “thầy chiêm” (1) (rōʼeh hay ḥōzeh, [seer]) và nābîʼ là điều chưa ai biết chắc. Về nguyên tự, thầy chiêm là một người thị kiến chứ không hẳn xuất thần, nhưng không loại bỏ việc các thị kiến này nhận được do một kinh nghiệm xuất thần. Gát, một nābîʼ, cũng được gọi là ḥōzeh của Đavít trong 2Sm 24:11; 1Sb 21:9; điều này chắc chắn phản ảnh việc đồng hóa các từ ngữ này sau đó như được thấy trong 1Sm 9:9. Mặc dù vai trò của thầy chiêm là nói tiên tri (nghĩa là hành động 1 phần của nābîʼ, xem Am 7:12), nhưng thầy chiêm vẫn khác với tiên tri như trong 2V 17:13; Is 29:10; 30:10; Mk 3:6-7. Đệ Nhị Luật 13:2-6 nói đến “tiên tri và kẻ chuyên nghề chiêm bao”; như thế rõ ràng thầy chiêm đồng nhất với những người “chuyên nghề chiêm bao” này. Khi dựa vào các giấc mơ như nguồn mặc khải của Thiên Chúa, Israel cổ thời đã tiếp tục chia sẻ mẫu người được linh hứng của Cận Đông cổ xưa. Việc sử dụng bói toán (divinatory) cũng có thể có vai trò trong các thị kiến của thầy chiêm; tuy nhiên, nói chung, Đạo Do Thái có xu hướng coi bói toán là chuyện mê tín. Từ ngữ “thầy bói” không bao giờ được sử dụng trong Kinh thánh để chỉ người phát ngôn chân thực của Thiên Chúa.

Với việc tinh vi hóa hay đơn giản hóa ngôn ngữ tôn giáo, các từ ngữ được các tôn giáo không phải Do Thái Giáo ưa dùng (“thầy bói”, “thầy chiêm bao”...) trở thành có nghĩa xấu và mọi loại linh hứng đều được ngụ hàm trong hạn từ nābîʼ. Tuy nhiên, xu hướng này dẫn nhập một sự hàm hồ tối nghĩa nào đó, từng được Amốt cảm nhận; ngài chấp nhận nĕbîʼîm của quá khứ nhưng bác bỏ việc ngài là một nābîʼ theo nghĩa của A-mát-gia (7:12-15) nghĩa là một tiên tri thờ cúng xâm phạm lãnh thổ của tiên tri tư tế của Bết-ên.

(b) Nói tiên tri cổ điển

Qua cụm từ “nói tiên tri cổ điển”, chúng ta muốn nói tới kiểu nói tiên tri của những vị mà Cựu Ước dạy ta coi như điển hình cho các tiên tri Do Thái, nghĩa là tất cả những gì tách biệt họ khỏi khuôn mẫu Cận Đông. Đây là những vị tiên tri mà lời dạy được duy trì trong Cựu Ước và nhất là các vị mà tên được dùng đặt tên cho các sách tiên tri. Cựu Ước cũng gọi các ngài là nĕbîʼîm, như thành phần trong diễn trình tiêu chuẩn hóa thuật ngữ, và, ít nhất, chính các ngài, cuối cùng, cũng đã tự gọi mình như thế. Trên thực tế, quả một số tiên tri cổ điển cũng là nĕbîʼîm theo nghĩa chúng ta vừa nói. Các tiên tri chuyên nghiệp cũng có thể trở thành các tiên tri nhờ ơn gọi đặc biệt của Thiên Chúa, dù đây không hẳn là việc thông thường.

Điều trên dẫn ta tới một vấn đề mà nay ta nên bàn tới, tức vấn đề của những người được gọi là tiên tri giả. Đây không phải là 1 hạn từ của Kinh thánh: Kinh thánh Do Thái chỉ biết đến nĕbîʼîm mà thôi (dù họ có thể bị coi như các triên tri nói láo hay có thần trí nói láo), mặc dù các dịch giả của Bản Bẩy Mươi, ở một số chỗ, có đưa vào hạn từ pseudoprophētēs [ngụy tiên tri]. Vì tính hàm hồ tối nghĩa của hạn từ nābîʼ, nên có sự nghịch lý là một số lời tố cáo chua cay nhất tìm thấy nơi các tiên tri văn bản (literary prophets) đã được ngỏ với, hay liên quan, tới “các tiên tri”. Vô vàn các đoạn văn như thế đã tố cáo “các tiên tri” hay, không kém thường xuyên, các tiên tri và tư tế đi đôi với nhau, đã phạm đủ thứ tội luân lý và xã hội chống lại Giavê và dân của Người, và đã hợp tác với các thành phần tồi tệ nhất trong luật lệ và thực hành Do Thái để phản lại thánh ý Thiên Chúa.

Dĩ nhiên, dưới con mắt của Israel và của chính các tiên tri cổ điển, các tiên tri giả là các tiên tri thực sự giống như các tiên tri cổ điển. Mặc dù trong số họ, có những người có thể có những lời tiên tri phỏng theo hay đội lốt (simulated), nhưng ta không nên nghĩ họ “giả” theo nghĩa họ cố tình và cố ý giả, là điều họ không là. Đúng hơn, họ là những tiên tri bị đánh lừa bởi chính các phương thế tiên tri của họ, sai lầm trong phán đoán, lẫn lộn các niềm hy vọng và hoài mong của họ với lời chân chính của Giavê (xem Is 28:7; Gr 25:3tt). Cũng không loại bỏ việc cùng một tiên tri có lúc nói sự thật có lúc nói sai trái, vì lời tiên tri chân thực lúc nào cũng là một hồng ân của Thiên Chúa (xem Đnl 13:2-6, hạn chế tiêu chuẩn có phần không được tinh vi về tiên tri thật và tiên tri giả trong Đnl 18:21-22). Dưới mắt Cựu Ước, hoạt động của tiên tri giả cũng do Giavê muốn có như một phương tiện để thử thách những kẻ trung thành theo Người (Gr 4:10; 1V 22:19-23...)

Các tiên tri giả thường là các tiên tri ở triều đình chỉ biết nói cho vua và các cận thần của ông ta những điều họ muốn nghe; họ cũng thường là những người thu tích được tiền bạc từ những lời tiên tri có lợi cho khách hàng, bảo đảm với họ được Thiên Chúa chúc phúc hay không làm lương tâm họ bối rối. Tuy nhiên, có lẽ phần lớn họ là những người bị cuốn vào thảm kịch chung của dân họ, nghĩa là những người đã trở nên xác tín rằng “lối sống của người Do Thái” tượng trưng cho bất cứ điều gì thuộc về Thiên Chúa đến độ họ có một thứ kể như bản nhiên thứ hai muốn đo lường thánh ý Giavê theo thành quả của Israel chứ không phải ngược lại. Thảm kịch thường được lặp đi lặp lại này không hề chỉ có cổ thời Israel mới có. Trong một thời đại mà niềm tự hào quốc gia nói bằng ngôn từ tôn giáo, thì điều không thể tránh được là ngôn từ này cũng nói bằng tiếng nói tiên tri.

Điều hiển nhiên là sự phân biệt giữa hai lối nói tiên tri giả và tiên tri thật thời các tiên tri cổ điển không luôn luôn rõ ràng. Việc chiếm hữu “thần trí” tiên tri xuất thần không phải là một tiêu chuẩn chắc chắn: các tiên tri có thể có thần trí mà vẫn nói tiên tri giả và phần lớn các tiên tri cổ điển không cho thấy dấu chỉ nào là xuất thần cả. Việc nên trọn lời tiên tri, dù nó luôn hiển nhiên đối với các người đương thời của vị tiên tri, cũng không phải lả dấu chỉ vô ngộ, như Đnl 13:2tt đã chứng tỏ; hơn nữa, các lời tiên tri thật xem ra cũng thường không nên trọn, làm nản lòng cả chính vị tiên tri (xem Gr 20:7tt). Khi tiên tri Kha-na-gia nói tiên tri điều ông mơ tưởng khi tiên đoán cuộc lưu đầy Babilon sẽ kết thúc trong hai năm và việc phục hồi Giơ-khon-gia (Gr 28:1tt), thì Tiên Tri Giêrêmia chẳng phản bác được bao nhiêu ngoài xác tín của ngài về sự thật trong lời tiên tri ngược lại của mình. "A-men! Ước gì ĐỨC CHÚA làm như thế! Ước gì Người thực hiện các điều ông vừa tuyên sấm...” Giêrêmia buồn bã nói thế, vì chính ông cũng muốn nói như Kha-na-gia, nhưng ông biết ông không thể nói thế, vì đó không phải là lời của Giavê.

Giêrêmia cũng biện minh lời tiên tri của ông một cách khiến ta lạ lùng: “Các ngôn sứ có trước tôi và ông từ ngàn xưa đã tuyên sấm về nhiều xứ sở và vương quốc hùng mạnh, là sẽ có chiến tranh, tai ương và ôn dịch; còn ngôn sứ nào tuyên sấm có bình an, thì chỉ khi nào lời ngôn sứ ấy ứng nghiệm, ông mới được nhìn nhận là ngôn sứ ĐỨC CHÚA sai đến thật sự!" (28: 8-9).

Thực sự, Giêrêmia không có ý nói tiên tri sự dữ thì phải được tin còn tiên tri tiên đoán hòa bình thì phải bị bác bỏ. Ngài chỉ đưa ra quan điểm của ngài về truyền thống tiên tri từng phục vụ truyền thống Giavít chân chính; ngài sử dụng cùng một luận điểm như trong Đnl 13:2tt. Bất cứ ai thực sự biết Thiên Chúa đều sẽ nhận ra vị tiên tri đích thực của Người và biện phân vị này với tiên tri giả, vì việc nói tiên tri phải phù hợp với các kế sách của Thiên Chúa như Người đã mặc khải cho họ. Theo Tin Mừng Gioan 5:3 tt, Chúa Giêsu cũng đã tương tự bênh vực quan điểm của Người như thế trước thế hệ của Người. Bất cứ ai nhìn nhận tình thế của Israel trong tương quan với thánh ý Thiên Chúa, đều cũng phải biết rằng lời tiên tri hòa bình giống như lời tiên tri của Kha-na-gia không thể là lời thực sự của Thiên Chúa trong các hoàn cảnh như thế.

Nếu các tiên tri cổ điển chỉ có thể cung ứng cho người đương thời chứng từ của chính lời tiên tri, thì họ đã không làm điều gì khác hơn bất cứ tiên tri đích thực nào vẫn được chờ mong phải làm: chính lời này phải tìm được đáp ứng trong trái tim vốn sẵn sàng tiếp nhận lời lẽ của Thiên Chúa. Xác tín của họ đối với sự thật trong lời tiên tri của mình dựa vào cùng nền tảng; bởi thế, trình thuật ơn gọi tiên tri, cảm nghiệm thánh nhan Thiên Chúa, đóng một vai trò chủ chốt trong việc ghi lại các tiên tri văn bản. Chứng từ này tạo nên uy tín của họ, cho chính họ và cho những người họ được sai đến.

Việc nhìn nhận mục đích độc đáo mà Giavê đã dành cho việc nói tiên tri trong thời đại cổ điển đã được tìm thấy trong Cựu Ước qua câu truyện về Samuen. Vị này là một nābîʼ, đứng đầu một nhóm běnêhanněbîʼîm, sự hiện hữu của những nhóm như thế trên một qui mô lớn vốn đã được giả thiết trong sử biên niên Kinh thánh; thế nhưng, khi Samuen được giới thiệu lần đầu (1Sm 3:1), ta đọc thấy rằng “lời Giavê thật hiếm hoi trong những ngày này – các thị kiến không có thường.” Nói cách khác, với Samuen, việc nói tiên tri ở Do Thái phải đạt được một chiều kích mới. Chiều kích mới này là gì, ít nhất dưới mắt của chính tác giả sách này, đã được nói rõ trong lời biện bạch của Samuen (1Sm 12:1-5), một tuyển tập ngôn từ của Amốt, Mikha, Hôsê và Malaki. Cũng có thể nói cùng điều này về ngôn từ tiên tri được gán cho nābîʼ Nathan trong 2Sm 12:1tt. Việc không sợ sệt tỏ lộ ý muốn của Giavê về luân lý, tức giao ước của Thiên Chúa Israel, một điều phải được coi như đặc điểm của tiên tri cổ điển làm nó khác với mọi tiên tri khác, cả ở Israel lẫn ở những nơi khác, đã bắt đầu với các đại diện của giai cấp nābîʼcổ xưa này.

Theo cách tương tự, Êlia đã tố cáo tội lỗi của A-kháp trong 1V 21:17-24, bằng thứ ngôn ngữ rất xứng danh một Amốt hay một Giêrêmia. 1V 19:4tt mô tả cảm nghiệm “gió hiu hiu” của Êlia trong đó, ngài nghe thấy tiếng của Giavê như chưa bao giờ ngài nghe thấy trước đây, như là ơn gọi mới để nói tiên tri và như khởi đầu của một đường lối tiên tri mới (xem câu 14). Liền ngay sau đó, Êlisa được kêu gọi làm môn đệ của Êlia và, sau cùng, làm người kế nhiệm ngài trong tư cách “cha Israel”. Trong khi tác giả của trình thuật Êlisa phần lớn chỉ lưu ý tới vị tiên tri này trong tư cách làm điều lạ lùng, ông vẫn tìm ra thì giờ để trình bầy cả giáo huấn của ngài nữa bằng những hạn từ có tiếng vang nơi các tiên tri “xã hội” sau này (xem 2V 5:26).

Như thế, quả không khó để thấy lý do tại sao Amốt, dù tự biết mình là một điều gì nhiều hơn là một nābîʼ, vì định chế truyền thống này tiếp diễn qua thời của ngài và sau đó nữa, đã không bác bỏ định chế cổ xưa này. Tuy nhiên, ngài gán đặc tính khác biệt trong việc nói tiên tri của mình cho ơn gọi đặc biệt của Giavê (Am 7:15) như Êlia có lẽ cũng làm và rất nhiều tiên tri văn bản khác cũng làm (xem Hs 1-3; Is 6; Grm 1... Trong cùng một Chúa Thánh Thần, các tiên tri có xu hướng tự cấp cho mình các tên không phải là nābîʼ, những cái tên nói rõ tầm quan trọng của họ như là những người Thiên Chúa chỉ định một cách đặc biệt. Họ là “sứ giả của Giavê” (Is 44:26; Kg 1:13; Mk 3:1), “Tôi trung Thiên Chúa” (Is 20:3; Am 3:7; Gr 7:25; 24:4), “Các mục tử” (Gr 17:16; Dc 1:4); “người giám hộ” (Is 62:6; Kb 2:1), “lính canh” (Am 3:4; Is 56:10; Gr 6:17; Edk 3:17).

Các tiên tri nổi tiếng nhất đối với chúng ta là các vị gọi là tiên tri văn bản (literary prophets) thuộc các thế kỷ 8,7 và 6 trước CN. Theo thứ tự thời gian, đó là các Tiên Tri Amốt, Hôsê, Isaia, Mikha, Nakhum, Xôphônia, Khabacúc, Giêrêmia, và Êdêkien. Trừ Hôsê, tất cả các vị này đều là người Giuđa, mặc dù Amốt, vì các lý do thực tiễn, vẫn tiếp tục truyền thống tiên tri cổ điển của người Do Thái miền bắc, vốn bắt đầu với Samuen và Êlia. Tuy nhiên, không nên hạn chế việc nói tiên tri cổ điển vào các vị này; cũng có các vị tiên tri văn bản khác mà chúng ta không biết. Một trong các vị này, thực sự là một trong các vị tiên tri vĩ đại nhất, là vị tiên tri thời lưu đầy mà chúng ta vẫn gọi là Đệ Nhị Isaia; ngoài ra, còn rất nhiều các tiên tri ẩn danh từng đóng góp các phụ lục cho các sách tiên tri, sách thánh vịnh và các trước tác tiên tri khác tìm thấy ở những nơi khác trong Cựu Ước. Rồi cũng còn các tiên tri khác trong truyền thống cổ điển mà lời lẽ thực sự của các ngài ta được thấy một phần nhỏ hay không thấy chút nào. Thậm chí chúng ta không biết cả tên của một số vị. Giêrêmia 7:25; 11:7 chỉ nói đến truyền thống liên tục của tiên tri thật từ thuở đầu của Israel. Với một số vị, ta chỉ biết tên, như U-ri-gia được nhắc đến ở Giêrêmia 26:20-23; việc nói tiên tri của vị này diễn ra cùng thời với Giêrêmia và trong tinh thần của vị tiên tri này.

Ơn gọi đặc biệt của Giavê, một ơn gọi đã đóng một vai trò quan trọng như thế đối với các suy nghĩ của các tiên tri cổ điển, không phải chỉ là tước hiệu tiên tri của các ngài mà thôi. Theo cung cách nó được lồng vào các lời lẽ tiên tri của các ngài, thì nó là điều chủ chốt đối với việc nói tiên tri của các ngài, vì các tiên tri là những nhà tư tưởng có tính cá nhân cao mà nhân cách khác biệt chính là những dụng cụ đa dạng để qua đó, lời Thiên Chúa được đưa ra. Đã đành là có học lý tiên tri chung dễ nhận thấy nói về những nét chủ yếu của tôn giáo tôn thờ Giavê và cả nhiều chi tiết khác nữa, và trong quá khứ, đã có khuynh hướng quá nhấn mạnh đến khía cạnh thiên tài và độc đáo của các tiên tri cá nhân, nhưng cũng đúng là không ai, khi đã quen thuộc với văn chương tiên tri lại có nguy cơ lẫn lộn vị tiên tri này với vị tiên tri kia. Sự tương tự của các ngài phát sinh từ lòng tôn trọng của các ngài đối với các lý tưởng chung và từ việc các ngài tùy thuộc vào các truyền thống và định chế chung. Tuy nhiên, việc làm trung gian của các ngai cho các lời tiên tri thì có tính bản vị cao. Ít khi các ngài trích dẫn lẫn nhau, thậm chí nhìn nhận sự hiện hữu của nhau. Nói cách khác, thế giá trong các lời các ngài nói phát xuất từ niềm tin tưởng thanh thản có tính cá nhân của các ngài rằng các ngài có thần trí của Giavê.

Trong khi các tiên tri cổ điển trước thời lưu đầy ít nhiều có xu hướng tiên tri phán xét chống lại Israel và Giuđa, thì lời tiên tri của Nakhum rõ ràng là một ngoại lệ. Lời tiên tri của Nakhum là một bản tán tụng ca (paen) chiến thắng trước sự tan rã của đế quốc Átsua, mà kết liễu của nó ngài từng tiên đoán sắp diễn ra. Điều này không nhất thiết có nghĩa Nakhum là một trong các “tiên tri hòa bình” mà niềm tự hào duy quốc gia vốn bị Giêrêmia tởm gớm. Việc làm nhục các quốc gia không phải là Israel cũng là thành phần trong sứ điệp của các tiên tri cổ điển khác vốn không hề là “tiên tri hòa bình”. Một tiên tri khác không dễ dàng bị xếp vào khuôn mẫu tiền lưu đầy là Khabacúc, không hẳn vì nội dung lời tiên tri của ngài, vì ý nghĩa chính xác của nó vẫn có thể còn bị tranh cãi, cho bằng vì hình thức của nó. Tuy nhiên, sẽ là một sai lầm khi nghĩ rằng các tiên tri phải tuân theo một bản liệt kê các đặc điểm độc dạng. Khabacúc rất có thể là một tiên tri thờ cúng giống như nữ tiên tri Khunđa (2V 22:14). Những vị chịu trách nhiệm lo các thánh vịnh vương giả thường cũng là các tiên tri thờ cúng hay triều đình, thế nhưng rõ ràng có sự khác nhau giữa tâm tư người viết Thánh Vịnh 2 và tâm tư người sáng tác Thánh Vịnh 72. Xét theo bản chất của việc nói tiên tri, qua đó lời Thiên Chúa được gióng lên qua đủ loại dụng cụ tuyển chọn, thì kết quả này là điều đương nhiên.

(c) Nói tiên tri thời hậu lưu đầy

Trong thời lưu đầy, Israel được ban cho một viễn kiến mới mẻ về nhiệm cục Thiên Chúa, đó là viễn kiến của các tiên tri vĩ đại thời lưu đầy: Giêrêmia, Êdêkien và Đệ Nhị Isaia. Các đặc điểm của viễn kiến mới này, lẽ dĩ nhiên, sẽ được bàn tới ở các lời nhận định về các vị tiên tri này. Ở đây chỉ xin ghi nhận ảnh hưởng của các ngài đối với giai đoạn cuối cùng của phong trào tiên tri Do Thái, tức thời kỳ Do Thái Giáo ở Palestine sau cuộc lưu đầy.

Việc nói tiên tri thời hậu lưu đầy thiếu nhiều tính mạnh mẽ và bộc phát của việc nói tiên tri tiền lưu đầy; dù sao, nó cũng đã tạo nên một loại riêng mời gọi ta phải tách nó ra khỏi thời kỳ tiên tri cổ điển. Lindlom, trong Prophecy in Ancient Israel, viết rằng “Các tiên tri thời này sống phần lớn nhờ các ý tưởng của các tiên tri trước đó, và đặc biệt, của các tiên tri thời lưu đầy. Các đặc điểm của họ ít thấy trong các ý tưởng độc đáo của riêng họ cho bằng ở trong các khuynh hướng vốn đã nổi bật và trong cung cách họ thay đổi các ý tưởng vay mượn.” Các tiên tri thuộc loại này, liệt kê theo thứ tự thời gian, là tiên tri hay các tiên tri chịu trách nhiệm phần cuối cùng của Isaia: Khácgai, Dacaria, (các chương 1-8), Malakhi, Ôvađia, Gioen và các tiên tri ẩn danh viết Dcr 9-11, 12-14, ấy là chưa kể một số bàn tay tiên tri đã can thiệp vào việc sản sinh ra lần cuối nhiều sách tiên tri cổ xưa hơn, nhất là Isaia, Giêrêmia và Êdêkien.

Hợp tuyển tiên tri hậu lưu đầy có lẽ có tính nhất quán hơn là hợp tuyển tiền lưu đầy. Ôvađia hậu lưu đầy ít nhiều tương ứng với Nakhum tiền lưu đầy trong việc nói tiên tri về hòa bình cho Israel trong khi hủy diệt kẻ thù đáng ghét. Tuy nhiên, sự kiện Cuốn An Ủi của Đệ Nhị Isaia có trước lời tiên tri của Ôvađia đã khiến phải đặt vị này vào truyền thống hậu lưu đầy mạnh mẽ hơn là lời tiên tri của Nakhum đặt ngài vào truyền thống tiền lưu đầy. Nói chung, các tiên tri hậu lưu đầy có cái nhìn “lạc quan” về số phận Israel hơn các tiên tri tiền lưu đầy, vì đại họa mà các vị sau tiên báo nay đã đến rồi đi, và niềm hy vọng mới có thể được tìm thấy trong khuôn mạo của người đầy tớ Chúa được mặc khải trong Isaia lưu đầy. Dacaria và Malakhi biểu lộ sự quan tâm đối với Đền Thờ, lề luật, mà các vấn đề tế tự vốn không thể tìm thấy nơi các tiên tri tiền lưu đầy. Tuy nhiên, sự quan tâm này tiếp nối quan tâm của Êdêkien, một tiên tri đích thực tiên đoán điềm gở cho Isarel và là người đồng thời đã thị kiến được một giao ước mới mà Giavê sẽ thực hiện trên đất Palestine khi các điều kiện thay đổi sẽ đòi sự thống nhất và các căng thẳng mới về tôn giáo. Phần gọi là Trito-Isaia (các chương 56-66) cũng chịu ảnh hưởng lớn của Êdêkien và Đệ Nhị Isaia. Các hình ảnh mạnh bạo có tính khải huyền của Dacaria, Gioen và phần phụ lục Isaia (các chương 24-27, 34-35) đã được báo trước nơi Êdêkien vốn được nhiều học giả coi như cha đẻ của văn chương khải huyền.

Sự đa dạng của lời tiên tri hậu lưu đầy, xem ra, chủ yếu là một trong các văn phong dẫn khởi từ và thiếu sự tươi mát của các sấm ngôn tiên tri trước đó. Các chủ đề khá thông thường và thích hợp với một dân tộc hiện đang sống dưới một Do Thái Giáo khi Đền Thờ và Kinh Tôra đã trở thành các thực tại lâu bền sẽ tiếp diễn như nền thống nhất của Israel sau khi tiếng nói tiên tri bị nín thinh. Chính lời tiên tri đã giúp cho việc chuyển tiếp qua các điều kiện nhờ đó dân Chúa có thể sống còn trong nhiều thế hệ (mặc dù việc thiếu nó được liên tục cảm nhận, xem 1Mcb 4:46; 14:41). Nó làm thế nhờ đáp ứng các nhu cầu mà Giêrêmia và Êdêkien từng đã thấy trước trước thời lưu đầy, bằng cách nhấn mạnh tới trách nhiệm và lòng trung thành cá nhân đối với lề luật, với một Israel mà Thiên Chúa không còn xử lý với chỉ như một dân tộc tốt hay xấu, thịnh vượng hay gian nan, mà như một tôn giáo trong đó mọi thành viên phải tuân theo luật sống đã đặt ra cho họ cho tới hừng đông một hy vọng còn tốt đẹp hơn nữa (xem Edk 3:16-21; 33:1-20). Sau một lưu ý vắn vỏi vào việc phục hồi nhà Đavít (Dcr 6:9-15), nó trở lại với các chủ đề cứu rỗi mà tính đa dạng đã được phong phú hóa nơi lời tiên tri lưu đầy và nhờ cách này, tiếp tục chứng từ tiên tri cho việc thống trị hoàn vũ của Giavê (xem Mk 1:11; Is 19:9-10...). Cuối cùng, nó hứa hẹn rằng lời tiên tri sẽ trở lại (xem Mk 3:22-24) và, thực sự, một cách nào đó, nó sẽ trở thành ơn phúc cho toàn thể dân Thiên Chúa.

Sự mất dạng của việc nói tiên tri ở Israel cũng kín đáo như lúc nó khởi đầu; không thể xác định ai là tiên tri cuối cùng của Cựu Ước. Trong 200 năm trước CN, các tác giả khôn ngoan đã thi hành một cách đầy ý thức truyền thống thừa hưởng được từ các tiên tri (xem Hc 24:32; Kn 7:27) tuy nhiên đã không cho là mình sở hữu thần khí tiên tri.

(B) Các đặc điểm phân biệt của nó

Từ những gì chúng ta đã nói trên đây, hẳn ta sẽ dễ dàng tổng quát hóa đặc điểm phân biệt của lối nói tiên tri ở Israel; ta sẽ đề cập tới một số đặc điểm này trong các phần sau đây.

Vì Israel có các tiên tri thờ cúng và cung đình hay các tiên tri mà năng khiếu là để phục vụ quốc gia hay các khách hàng tham khảo công tư, nên việc nói tiên tri ở Israel cũng là thành phần của khuôn mẫu tiên tri ở Cận Đông như đã nhắc. Nhưng ngay trong trường hợp này, việc phù hợp với khuôn mẫu cũng không có chi là y hệt, vì nội dung của việc nói tiên tri này có tính Do Thái riêng biệt. Người ta dễ dàng tìm thấy một song hành không Do Thái nơi 400 tiên tri được Vua Israel mời ở 1V 22, nhưng không có song hành nào như thế nơi tiên tri Mikhagiơhu, người cũng được nhà vua cho vời. Điều cũng bất khả hữu là tìm ra một tiên tri cung đình không phải người Do Thái nhưng nói chuyện với vua của mình như Nathan nói với Đavít, hoặc ngay cả một tiên tri nói với vua của mình như các tiên tri hoàng gia. Không một song hành thực sự nào đối với nền văn chương như thế đã được tìm thấy bên ngoài Israel, vì đây là biểu thức nói lên một tôn giáo không hề có song hành nào thực sự trong thế giới đương thời.

Không hề có một song hành không phải Do Thái nào đối với việc nói tiên tri thời cổ điển, cả về hình thức lẫn nội dung. Xem ra không hề có lý do vững chắc nào để đặt điều kiện cho phán đoán đã được đưa ra cách nay 80 năm bởi 1 tác giả không ngần ngại tối thiểu hóa điều độc đáo ở Israel là “kết quả cuộc tìm kiếm thực sự các lời nói tiên tri đúng nghĩa ở Babylon đang làm người ta thất vọng” và do đó, tác giả này đã dám “hoài nghi rằng [Babylon và Átsua] không hề có bất cứ lời nói tiên tri nào” (T.K. Cheyne, The Two Religions of Israel [London, 1911] 7-8). Mà cuộc tìm kiếm ấy cũng chẳng thành công gì ở các nơi khác. Một vài mảnh “luân lý tiên tri” có thể ráp nối với nhau từ hàng trăm năm nghiên cứu lịch sử văn chương có nhiều tài liệu của cổ Ai Cập cũng không thể trở thành bất cứ điều gì có thể so sánh với việc nói tiên tri ở Israel, chứ đừng nói bất cứ điều gì có thể biện minh cho lý thuyết kỳ quái có lúc đã được những người say mê Ai Cập Học đề xuất, tức việc giáo huấn luân lý tiên tri của Israel bắt nguồn từ Ai Cập. Các chất liệu Ai Cập, tức văn chương khôn ngoan của Trung Vương Quốc hay của thời kỳ giữa hai vị vua nối tiếp Cổ Vương Quốc (NET, 407-10), là bằng chứng cho thấy Ai Cập đôi khi sản xuất được một số tiếng nói luân lý đáng để so sánh với các tiếng nói trong Cựu Ước nhưng không bao giờ có được truyền thống tiên tri như truyền thống của Israel. Việc nói tiên tri của Israel ly khai với khuôn mẫu cổ thời khi nó bắt đầu sản xuất ra các tiên tri lên tiếng không chỉ từ các định chế Do Thái mà còn phê phán chúng và trở thành lương tâm của chúng nữa. Như thế, ta có được các hình thức văn chương khác biệt mà tiếng dội chân thực của nó không tìm đâu thấy trong nền văn chương khác của cổ thời.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------

(1) Cha Nguyễn Thế Thuấn cũng dịch là “thầy chiêm” trong khi Bản của Tin Lành (Phan Khôi) thì dịch là “người tiên kiến”.

Còn 1 kỳ

 
VietCatholic TV
TT Zelenskiy rời Mỹ buồn hiu. Trận Pokrovsk: Thương vong kinh hoàng của Nga. Lính Nga bắn lính Nga
VietCatholic Media
03:36 19/10/2025


1. Tổng thống Trump từ chối cung cấp hỏa tiễn Tomahawk cho Ukraine - Cuộc gặp gỡ rất căng thẳng

Tổng thống Trump đã từ chối cung cấp cho Ukraine hỏa tiễn Tomahawk mà người đồng cấp Tổng thống Volodymyr Zelenskiy mong muốn, một số nguồn tin cho biết với Axios rằng cuộc gặp giữa hai nhà lãnh đạo đã trở nên rất căng thẳng.

Tổng thống Trump đã bày tỏ mong muốn chấm dứt ngay lập tức chiến tranh Nga-Ukraine, viết trong bài đăng trên Truth Social sau cuộc gặp rằng ông “đã đề nghị mạnh mẽ với Putin rằng đã đến lúc chấm dứt giết chóc và ký kết một THỎA THUẬN! Máu đã đổ đủ rồi, ranh giới tài sản được xác định bởi Chiến tranh và Lòng can đảm.”

Tổng thống Trump viết rằng cả Ukraine và Nga đều nên “dừng lại ở vị trí hiện tại”, cả hai đều “tuyên bố Chiến thắng” và “để Lịch sử quyết định!”, điều này cho thấy sự ủng hộ đối với việc Nga giữ lại phần lãnh thổ mà họ đã giành được trong cuộc xâm lược.

“Không còn bắn giết, không còn chết chóc, không còn phải chi tiêu những khoản tiền khổng lồ và không bền vững nữa”, Tổng thống Trump nói thêm trong bài đăng của mình.

Newsweek đã liên hệ với Tòa Bạch Ốc qua email ngoài giờ làm việc bình thường vào tối thứ Sáu để bình luận và làm rõ.

Hỏa tiễn Tomahawk, nổi tiếng với độ chính xác và khả năng bay xa hơn 1.600 km ở độ cao thấp, đã trở thành vũ khí chủ lực trong các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ kể từ đầu những năm 1990. Chi phí tương đối thấp so với máy bay có người lái và thành tích chiến đấu đã được chứng minh—hơn 2.300 lần phóng trong bốn thập niên qua—khiến chúng trở thành một vũ khí chiến lược trong các nhiệm vụ tấn công sâu.

Nếu được chấp thuận, động thái chuyển giao này sẽ đánh dấu sự leo thang đáng kể trong hoạt động hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ, có khả năng cho phép Ukraine tấn công vào cơ sở hạ tầng sâu trong lãnh thổ Nga.

Ban đầu, Tổng thống Trump đã bày tỏ thiện chí cung cấp hỏa tiễn cho Ukraine, nhưng trước cuộc gặp với Tổng thống Zelenskiy tại Tòa Bạch Ốc vào thứ Sáu, tổng thống Mỹ đã có cuộc điện đàm với Putin, người đã thể hiện với Tổng thống Trump sự phản đối mạnh mẽ của ông đối với việc Ukraine mua hỏa tiễn.

Hai nguồn tin được thông báo về cuộc họp nói với hãng tin này rằng Tổng thống Trump “rất cứng rắn”, một nguồn tin nói rằng cuộc họp “không dễ dàng” trong khi nguồn tin kia gọi nó đơn giản là “không tốt”, đồng thời nói thêm rằng điều tích cực duy nhất là “không ai hét lên”.

Một nguồn tin cho biết: “Tổng thống Trump đã đưa ra một số tuyên bố mạnh mẽ trong cuộc họp và có lúc hơi xúc động”, sau đó Tổng thống Trump đột ngột kết thúc cuộc họp và nói rằng ông muốn “xem điều gì sẽ xảy ra vào tuần tới”.

Do đó, Tổng thống Zelenskiy đã rời Washington mà không có bất kỳ cam kết nào về hỏa tiễn, điều mà ông từng lập luận sẽ là một bước ngoặt cho hệ thống phòng thủ của ông trước cuộc xâm lược của Nga. Trong một cuộc điện đàm với các nhà lãnh đạo Âu Châu ngay sau khi rời Tòa Bạch Ốc, Tổng thống Zelenskiy đã truyền đạt lại sự thay đổi quan điểm của Tổng thống Trump, khiến một số nhà lãnh đạo bối rối trước sự thay đổi này. Tuy nhiên, Tổng thống Zelenskiy cho biết ông tin rằng Tổng thống Trump muốn tránh leo thang căng thẳng.

[Newsweek: Trump Declines to Give Ukraine Tomahawk Missiles—Report]

2. PHÂN TÍCH: Các chuyên gia nhìn thấy động thái ‘thông minh, chiến lược’ trong thỏa thuận ‘đổi máy bay điều khiển từ xa lấy Tomahawk’ của Tổng thống Zelenskiy

Đề xuất của Tổng thống Volodymyr Zelenskiy về việc trao đổi “hàng ngàn máy bay điều khiển từ xa” để lấy hỏa tiễn Tomahawk của Mỹ đã nhận được những đánh giá ban đầu tích cực từ các chuyên gia chính sách đối ngoại, những người coi đây là đòn bẩy thông minh từ lợi thế công nghệ thời chiến của Ukraine.

Đề xuất mà Kyiv tin rằng sẽ cho phép họ tấn công sâu hơn vào bên trong nước Nga để cân bằng thế trận, cũng đã nhận được sự đồng ý sơ bộ từ Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, người cho biết ông sẽ “quan tâm” đến thỏa thuận này.

Shelby Magid, Phó giám đốc Trung tâm Á-Âu của Hội đồng Đại Tây Dương, đã ca ngợi sáng kiến này và nói với tờ Kyiv Post rằng: “Đề xuất của Tổng thống Zelenskiy rất thông minh, mang tính chiến lược và tận dụng được thế mạnh của Ukraine”.

Magid nhấn mạnh những tiến bộ nhanh chóng của Ukraine trong các hệ thống điều khiển từ xa, những hệ thống đã định hình lại chiến tranh hiện đại.

Bà cho biết: “Quốc gia này đã có những tiến bộ đáng kể trong đổi mới và sản xuất máy bay điều khiển từ xa, và Kyiv hiểu rằng công nghệ của họ có sức hấp dẫn lớn đối với Washington”.

Magid nói thêm: “Việc hợp tác với Ukraine để mua và cùng sản xuất máy bay điều khiển từ xa sẽ là một động thái tốt cho Hoa Kỳ và là sự thúc đẩy có giá trị cho an ninh quốc gia của chúng tôi”.

Bài bình luận của chuyên gia phù hợp với lời thừa nhận của Tổng thống Trump về năng lực máy bay điều khiển từ xa của Ukraine.

Khi được hỏi về thỏa thuận “máy bay điều khiển từ xa cho Tomahawk”, Tổng thống Trump trả lời: “Vâng, chúng tôi sẽ làm vậy”, và nói thêm: “Hiện tại chúng tôi có rất nhiều máy bay điều khiển từ xa. Chúng tôi tự chế tạo máy bay điều khiển từ xa, nhưng chúng tôi cũng mua máy bay điều khiển từ xa từ các nước khác, và họ [Ukraine] sản xuất máy bay điều khiển từ xa rất tốt. Chiến tranh máy bay điều khiển từ xa đã thực sự nổi lên trong vài năm qua nhờ cuộc chiến này.”

Nga một lần nữa lại tích cực sử dụng vũ khí mùa đông để chống lại Ukraine. Các cuộc tấn công tăng cường của Điện Cẩm Linh đánh dấu sự chuyển đổi rõ ràng từ khủng bố năng lượng sang chiến tranh cơ sở hạ tầng toàn diện.

Các cuộc thảo luận về hỏa tiễn tầm xa Tomahawk, có tầm bắn vượt xa hầu hết các loại vũ khí hiện đang cung cấp cho Kyiv, đã trở thành chủ đề nổi bật trong cuộc gặp giữa Tổng thống Trump với Tổng thống Zelenskiy tại Tòa Bạch Ốc vào thứ Sáu.

Mặc dù ban đầu Tổng thống Trump tỏ ra quan tâm đến việc trao đổi máy bay điều khiển từ xa, ông dường như do dự về việc chuyển giao hỏa tiễn nhanh chóng, lưu ý đến khả năng leo thang căng thẳng và bày tỏ mong muốn chấm dứt xung đột thông qua đàm phán.

“Một trong những lý do chúng tôi muốn kết thúc cuộc chiến này là… chúng tôi không dễ dàng cung cấp cho các bạn… một số lượng lớn vũ khí cực mạnh”, Tổng thống Trump nói.

“Hy vọng rằng chúng ta có thể kết thúc chiến tranh mà không cần phải nghĩ đến Tomahawk”, ông nói thêm.

Tổng thống Zelenskiy nhấn mạnh sự cần thiết của lệnh ngừng bắn, nhưng nhấn mạnh vào “những bảo đảm an ninh thực sự mạnh mẽ” và vũ khí, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của khả năng tấn công tầm xa.

Tổng thống Trump gọi việc cung cấp hỏa tiễn Tomahawk là một “câu hỏi công bằng”, nhưng quyết định cuối cùng vẫn “chưa được xác định”, tùy thuộc vào các cuộc thảo luận tiếp theo giữa các nhà lãnh đạo. Tổng thống Hoa Kỳ dự kiến sẽ sớm gặp Vladimir Putin tại Hung Gia Lợi.

[Kyiv Post: ANALYSIS: Experts See ‘Smart, Strategic’ Move in Zelensky’s ‘Drone for Tomahawk’ Deal]

3. Đức cam kết viện trợ quân sự mới trị giá hơn 2,3 tỷ đô la cho Ukraine, bao gồm hệ thống phòng không Patriot và IRIS-T

Bộ trưởng Quốc phòng Đức Boris Pistorius tuyên bố vào ngày 15 tháng 10 tại cuộc họp của Nhóm liên lạc quốc phòng Ukraine ở Brussels rằng Đức sẽ cung cấp cho Ukraine một gói viện trợ quân sự bổ sung trị giá hơn 2 tỷ euro hay 2,3 tỷ đô la.

Gói này sẽ bao gồm các hệ thống phòng không tiên tiến, vũ khí dẫn đường chính xác và đạn dược.

“Các bạn có thể tin tưởng vào Đức. Chúng tôi sẽ tiếp tục và mở rộng hỗ trợ cho Ukraine. Với các hợp đồng mới, Đức sẽ cung cấp thêm hỗ trợ lên tới hơn 2 tỷ euro”, Pistorius nói.

Đức cũng sẽ chuyển giao thêm hai hệ thống phòng không IRIS-T, kèm theo một số lượng lớn hỏa tiễn dẫn đường và vũ khí phòng không vác vai. Vũ khí chống tăng, vũ khí hạng nhẹ và hệ thống thông tin liên lạc an toàn cũng dự kiến sẽ nằm trong gói chuyển giao này.

Trong tổng số tiền này, Đức sẽ đóng góp 500 triệu đô la cho sáng kiến của NATO nhằm cung cấp cho Ukraine các loại vũ khí cực kỳ cần thiết do Mỹ sản xuất, liên minh này thông báo vào ngày 13 tháng 8.

Sự hỗ trợ sẽ thông qua cơ chế Danh sách yêu cầu ưu tiên của Ukraine, gọi tắt là PURL của NATO, cơ chế này điều phối nguồn tài trợ cho các nhu cầu cấp thiết nhất trên chiến trường của Kyiv.

Đức cam kết viện trợ quân sự mới trị giá hơn 2,3 tỷ đô la cho Ukraine, bao gồm hệ thống phòng không Patriot và IRIS-T

[Kyiv Independent: Germany pledges over $2.3 billion in new military aid for Ukraine, including Patriot and IRIS-T air defense systems]

4. Chiến dịch Pokrovsk của Putin đang khiến Nga cạn kiệt dân số

Liệu Nga có mất 30.000 quân mỗi tháng khi cuộc chiến tranh mở rộng với Ukraine bước sang tháng thứ 44 không?

Hay là mất nhiều hơn thế nữa - 50.000 quân một tháng... hoặc thậm chí nhiều hơn?

Khi quân Nga đẩy ngày càng nhiều trung đoàn và lữ đoàn vào vùng đông bắc hẹp của thành phố pháo đài Pokrovsk, thương vong của họ ngày càng tăng.

Nhiều nguồn tin khác nhau không thống nhất về con số thương vong chính xác của người Nga. Tuy nhiên, họ đồng ý rằng ngày càng có nhiều người Nga tử vong, bị thương tật hoặc mất tích, nhiều người trong số họ ở trong và xung quanh khu vực hỗn loạn rộng 40 km vuông này.

Các tài liệu bị rò rỉ tiết lộ tổn thất cơ bản của Nga

Một tài liệu bị rò rỉ của Nga cung cấp số liệu cơ sở về tổn thất của Nga từ ngày 1 Tháng Giêng đến ngày 1 tháng 9 năm nay. Theo tài liệu, quân đội Nga đã chịu 281.550 thương vong trong 245 ngày đó:

86.744 người tử trận

33.996 người mất tích trong chiến đấu

158.529 người bị thương trong chiến đấu

2.311 người bị bắt

Con số này tương đương 35.000 thương vong mỗi tháng trong những tuần đầu tiên Nga xua quân chiếm Pokrovsk. Trong số 35.000 thương vong đó, có lẽ vài ngàn người chỉ là thương vong tạm thời vì những người bị thương nhẹ hơn đã hồi phục và trở lại chiến trường.

Với việc Nga tuyển dụng gần 32.000 quân mới mỗi tháng trong cùng tám tháng đó, rất có thể Điện Cẩm Linh sẽ có một lượng nhỏ quân thặng dư trong suốt phần lớn năm 2025.

Nhưng quyết tâm chiếm Pokrovsk của các chỉ huy Nga, một trong những cứ điểm đô thị cuối cùng giữa quân Nga và hai thành phố tự do Kramatorsk và Sloviansk, đã xóa bỏ phần thặng dư đó. Giờ đây, quân Nga gần như chắc chắn đang mất nhiều quân hơn số họ tuyển mộ được mỗi tháng.

Dù vậy, vẫn chưa rõ mức thâm hụt thực tế là bao nhiêu.

Tổn thất tháng 9 cao hơn ước tính của Ukraine

Một tài liệu bị rò rỉ khác, ghi nhận chi tiết thương vong của Nga trong ngày 4 tháng 9, liệt kê tổng cộng 995 thương vong, khoảng một nửa trong số đó thuộc Cụm Lực lượng Trung tâm đang chiến đấu quanh Pokrovsk. Thật khó tin, con số này cao hơn một chút so với số liệu chính thức của Ukraine về tổn thất của Nga trong cùng ngày.

Bộ tổng tham mưu Ukraine, vốn có thể được tha thứ vì đã đưa ra những con số lạc quan, chỉ thống kê được 810 thương vong của Nga vào ngày 4 tháng 9.

Cuộc tấn công của Pokrovsk khiến tổn thất tăng thêm từ 18 đến 20%

Tỷ lệ thương vong của các đội quân dã chiến Nga có lẽ đã tăng lên kể từ đó. “Về hướng Pokrovsk, quân đội Nga đã phát động các cuộc tấn công trên toàn bộ hướng đó, chịu tổn thất lớn hơn từ 18 đến 20% trong tuần qua”, Trung tâm Chiến lược Quốc phòng Ukraine, gọi tắt là CDS, đưa tin hôm thứ Tư.

Nếu CDS chính xác, quân Nga mất khoảng 1.200 quân mỗi ngày. Nếu tỷ lệ thương vong/bị thương/mất tích thông thường được giữ nguyên, thì tổng cộng 1.200 thương vong có thể đồng nghĩa với 400 trường hợp tử vong được xác nhận mỗi ngày. (Các nhà phân tích cho rằng hầu hết binh sĩ Nga mất tích cũng đã tử trận ở đâu đó dọc theo chiến tuyến dài 1.100 km.)

Nhưng ít nhất một nhà phân tích có lý do chính đáng để tin rằng tổn thất của Nga hiện nay lớn hơn nhiều.

Nhà phân tích Andrew Perpetua đã xác nhận trực quan có 825 người Nga tử trận trong năm ngày, bắt đầu từ ngày 9 tháng 10. Trung bình mỗi ngày có 165 người Nga thiệt mạng.

Nhưng Perpetua nhấn mạnh rằng con số của ông có lẽ còn thấp, vì chắc chắn có rất nhiều binh sĩ Nga tử trận mà không để lại bằng chứng hình ảnh hay video. Bản thân Perpetua ước tính ông quan sát được từ 15% đến 30% tổn thất của quân Nga.

Nếu tính toán thận trọng, điều đó có nghĩa là số người Nga tử trận trên chiến trường đang lên tới 500 người mỗi ngày. Áp dụng tỷ lệ thông thường, con số này có thể lên tới 1.000 người bị thương và 250 người mất tích. Một lần nữa, phần lớn những người mất tích có lẽ đã tử trận.

Việc tuyển quân của Nga không thể theo kịp với số thương vong ngày càng tăng

Đó là... rất nhiều người Nga chết, bị thương và mất tích. Tổng số thương vong có thể lên đến 50.000 người hoặc hơn mỗi tháng.

Vấn đề đối với Điện Cẩm Linh là không có bằng chứng nào cho thấy họ đã tăng cường tuyển quân để bù đắp cho tình trạng thiếu hụt ngày càng trầm trọng. Nếu quân đội Nga vẫn tiếp tục tăng thêm 32.000 quân mỗi tháng, thì có khả năng họ đang thiếu hụt khoảng 20.000 quân mỗi tháng mà không thể thay thế.

[Europe Maidan: Putin’s Pokrovsk push is making Russia run out of Russians]

5. ‘Chúng ta cần ngừng bắn trước’ nhưng ‘Vấn đề khó khăn nhất sẽ là lãnh thổ’ - Tổng thống Zelenskiy nói

Sau cuộc gặp gỡ đáng thất vọng với Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tại Washington D.C hôm qua, Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã nhắc nhở các phóng viên trước Tòa Bạch Ốc rằng vấn đề khó khăn nhất trong các cuộc đàm phán hòa bình sẽ là lãnh thổ. Ông nói thêm rằng việc đạt được lệnh ngừng bắn phải được đặt lên hàng đầu.

“Quan điểm của chúng tôi là trước tiên chúng ta cần ngừng bắn, vì vậy chúng ta cần ngồi lại, đối thoại và hiểu rõ tình hình hiện tại. Tôi nghĩ đây là bước đi đầu tiên quan trọng nhất”, Tổng thống Zelenskiy nói.

Tổng thống Zelenskiy và phái đoàn của ông đã đến Washington trong tuần này với hy vọng thuyết phục Tổng thống Trump tăng cường cung cấp vũ khí cho Ukraine. Tuy nhiên, phía Ukraine gần như trắng tay, khi Tổng thống Trump, sau cuộc điện đàm với nhà lãnh đạo Nga Vladimir Putin, dường như đã rút lại bất kỳ gợi ý nào về việc gia tăng áp lực lên Mạc Tư Khoa.

Tổng thống Zelenskiy tránh mọi biểu hiện thất vọng và cho rằng Tổng thống Trump hiểu lập trường của Ukraine về lệnh ngừng bắn và thừa nhận rằng vấn đề lãnh thổ sẽ “nhạy cảm”.

Tổng thống Zelenskiy cho biết: “Tôi nghĩ Tổng thống [Tổng thống Trump] hiểu rằng câu hỏi khó nhất trong bất kỳ cuộc đàm phán nào, dưới bất kỳ hình thức nào, sẽ là vấn đề lãnh thổ”.

Tổng thống Ukraine nhắc lại rằng người Nga muốn “xâm lược mọi thứ” và “bây giờ họ muốn đạt được thỏa thuận về đất đai, về lãnh thổ của chúng ta trước bất kỳ lệnh ngừng bắn nào”.

Đầu năm nay, Tổng thống Trump đã thúc giục Putin ngừng bắn trước khi đàm phán, và phía Ukraine đã đồng ý. Tuy nhiên, Putin khăng khăng đòi giải quyết cái mà ông gọi là “nguyên nhân gốc rễ” của vấn đề, mà theo ông, đã bắt nguồn từ lịch sử chinh phục Crimea của Nữ hoàng Catherine II và khu vực ngày nay là miền Nam Ukraine vào thế kỷ 18, thậm chí xa hơn cả nước Nga Kyivan vào thế kỷ 10.

Vào ngày 11 tháng 3, Kyiv đã đồng ý với đề xuất ngừng bắn 30 ngày do Hoa Kỳ làm trung gian sau cuộc thảo luận kéo dài 8 giờ giữa các quan chức cao cấp của Hoa Kỳ và Ukraine tại Ả Rập Xê Út.

Việc thực thi lệnh ngừng bắn bằng biện pháp răn đe mạnh mẽ để ngăn chặn các bên bắn vào nhau sẽ rất phức tạp và đã kéo theo nhiều cuộc thảo luận sâu sắc.

Kyiv muốn có tư cách thành viên NATO, hoặc ít nhất là các bảo đảm an ninh vật chất, chẳng hạn như quân đội nước ngoài hiện diện trên thực địa để thực thi thỏa thuận. Tuy nhiên, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov từ lâu đã từ chối lực lượng gìn giữ hòa bình phương Tây tại Ukraine.

Anh và Pháp – một trong số 30 quốc gia – đã bày tỏ sự cởi mở về việc điều động quân đội tới Ukraine, nhưng sẽ ở xa tiền tuyến.

Ngoại trừ việc đưa lực lượng của bên thứ ba vào, biện pháp bảo đảm an ninh khả thi duy nhất của Ukraine sẽ là tăng cường năng lực răn đe của quân đội nước này.

[Kyiv Post: ‘We Need Ceasefire First’ but ‘Most Difficult Question Will Be Territory’ – Zelensky Says]

6. Công dân Estonia sẽ được đào tạo sử dụng máy bay điều khiển từ xa theo sáng kiến mới của nhà nước

Bộ Quốc phòng Estonia, Liên đoàn Quốc phòng Estonia và tổ chức phi lợi nhuận HK Unicorn Squad MTU đã ký biên bản ghi nhớ hợp tác vào ngày 14 tháng 10 nhằm nâng cao kỹ năng điều khiển máy bay điều khiển từ xa cho công dân Estonia.

Những công dân trưởng thành quan tâm đến công nghệ máy bay điều khiển từ xa sẽ có cơ hội tiếp thu kiến thức cần thiết và kỹ năng thực hành về vận hành máy bay điều khiển từ xa theo sáng kiến Kuri Kotkas hay “Đại bàng hung ác”.

Bộ trưởng Quốc phòng Estonia Hanno Pevkur cho biết: “Huấn luyện máy bay điều khiển từ xa là một thành phần quan trọng của chiến tranh tương lai. Chúng ta đã có thể thấy điều này ngay hôm nay ở Ukraine”.

[Kyiv Independent: Estonian citizens to receive drone training under new state initiative]

7. Iran nhắn tin cho Putin trước cuộc đối đầu giữa Tổng thống Trump và Nga

Lãnh tụ Tối cao Iran Ali Khamenei đã gửi thư cho Putin, báo hiệu mối quan hệ đối tác ngày càng sâu sắc giữa Tehran và Mạc Tư Khoa trong bối cảnh căng thẳng toàn cầu leo thang. Nội dung bức thư chưa được công bố chính thức, được Bộ trưởng An ninh Iran Ali Larijani chuyển đến hôm thứ Năm.

Cùng lúc đó, Tổng thống Trump tuyên bố trên mạng xã hội rằng ông sẽ gặp Putin tại Budapest “trong vòng hai tuần hoặc lâu hơn” sau một cuộc điện đàm dài, đánh dấu một cuộc gặp cao cấp khác giữa Washington và Mạc Tư Khoa.

Newsweek đã liên hệ với Bộ Ngoại giao cũng như Bộ Ngoại giao Nga và Iran để xin bình luận.

Những diễn biến này làm nổi bật hoạt động ngoại giao quan trọng giữa Hoa Kỳ, Nga và Iran. Việc Tehran tiếp cận Mạc Tư Khoa và cuộc gặp thượng đỉnh dự kiến giữa Washington và Putin không liên quan gì đến nhau, nhưng cả hai đều đặt Tổng thống Nga vào thế khó giữa hai nỗ lực ngoại giao lớn. Ngoài cuộc gặp sắp tới tại Budapest, Tổng thống Mỹ đã tiếp cận Iran trong các nỗ lực riêng biệt nhằm tìm kiếm các sáng kiến hòa bình. Tuy nhiên, Iran vẫn hoài nghi về ý định của Tổng thống Trump, viện dẫn những căng thẳng trong quá khứ, các lệnh trừng phạt và chính sách trước đây của ông đối với Tehran là những lý do cần thận trọng.

Chuyến thăm Mạc Tư Khoa của Larijani bao gồm các cuộc thảo luận về hợp tác kinh tế và chính sách đối ngoại ở cả cấp độ khu vực và quốc tế. Các cuộc gặp nhấn mạnh ý định của Tehran nhằm tăng cường liên kết chiến lược với Mạc Tư Khoa trong bối cảnh bất ổn toàn cầu đang diễn ra.

Trong khi đó, Nga cũng đã chuyển những thông điệp từ Israel đến Iran nhằm xoa dịu căng thẳng, nhấn mạnh vai trò trung gian quan trọng của Mạc Tư Khoa trong các động thái ngoại giao khu vực. Phát biểu tại hội nghị thượng đỉnh Trung Á-Nga ở Dushanbe, Tajikistan, ngày 9 tháng 10, Tổng thống Putin lưu ý về “các mối quan hệ dựa trên lòng tin” đang diễn ra giữa Mạc Tư Khoa và Israel và cho biết giới lãnh đạo Israel muốn giải quyết các vấn đề một cách hòa bình.

Yêu cầu này được đưa ra sau các cuộc tấn công của Israel nhằm vào các cơ sở hạt nhân của Iran vào tháng 6, gây ra cuộc xung đột kéo dài 12 ngày và kết thúc bằng lệnh ngừng bắn đơn phương sau khi Iran trả đũa.

Trong khi Tehran và Mạc Tư Khoa củng cố mối quan hệ, Hoa Kỳ đang theo đuổi hoạt động ngoại giao cao cấp riêng biệt với Nga, tập trung vào các nỗ lực chấm dứt chiến tranh ở Ukraine và phối hợp với Kyiv về hỗ trợ quân sự bổ sung.

Tổng thống Trump đã công bố kế hoạch tổ chức hội nghị thượng đỉnh tại Budapest sau cuộc điện đàm với Putin, mà Điện Cẩm Linh cho biết là do nhà lãnh đạo Nga đề xuất. Cuộc gọi diễn ra trước cuộc gặp dự kiến giữa tổng thống Mỹ và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy tại Tòa Bạch Ốc, nơi Kyiv sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ quân sự bổ sung từ Mỹ.

Các quan chức cao cấp của Hoa Kỳ và Nga dự kiến sẽ gặp nhau vào tuần tới để đặt nền móng cho hội nghị thượng đỉnh Budapest. Ngoại trưởng Marco Rubio sẽ dẫn đầu phái đoàn Hoa Kỳ, cùng với Phó Tổng thống JD Vance.

[Newsweek: Iran Messages Putin Before Trump’s Russian Showdown]

8. Phóng viên Nga bị mất mạng ở Zaporizhzhia

Hãng thông tấn nhà nước Nga RIA Novosti đưa tin hôm Thứ Bẩy, 18 Tháng Mười, rằng một trong những phóng viên của hãng tại khu vực tranh chấp Zaporizhzhia đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine.

“Phóng viên quân sự của RIA Novosti Ivan Zuev đã thiệt mạng tại vùng Zaporizhzhia và đồng nghiệp của ông là Yuri Voitkevich bị thương nặng”, hãng thông tấn này cho biết, đồng thời lưu ý rằng nhà báo này đã làm việc cho RIA Novosti do Điện Cẩm Linh kiểm soát trong nhiều năm và đã nhận được một số giải thưởng nhà nước.

Cơ quan nhà nước này cho biết thêm rằng Zuev đã tử nạn “khi đang làm nhiệm vụ, do bị máy bay điều khiển từ xa của Ukraine tấn công” tại một khu vực thuộc Ukraine hiện do lực lượng Mạc Tư Khoa xâm lược.

Bộ Ngoại giao Nga đã bày tỏ lời chia buồn về cái chết của Zuev và chúc Voitkevich sớm bình phục.

Các nhà báo từ cả Ukraine và Nga đều bị cuốn vào cuộc giao tranh hoặc bị lực lượng Điện Cẩm Linh tấn công kể từ khi Nga bắt đầu cuộc xâm lược kéo dài hơn ba năm.

Vào tháng 4, thi thể của nhà báo Ukraine Viktoriia Roshchyna, người đã chết khi bị Nga giam giữ, đã được trả về Ukraine. Thi thể của bà đã được chuyển giao trong một cuộc trao đổi tù nhân và được xác định danh tính thông qua xét nghiệm ADN.

Nhà báo 27 tuổi này bị lực lượng Nga bắt giữ vào tháng 8 năm 2023 tại Enerhodar, cũng ở Zaporizhzhia, khi thành phố này bị tạm chiếm vào những ngày đầu của cuộc xâm lược.

Một số nhà báo nước ngoài đã bị giết trong cuộc giao tranh.

Ryan Evans, cố vấn an ninh cho hãng tin Reuters của Anh đã thiệt mạng vào tháng 8 năm 2024 khi khách sạn của ông ở Kramatorsk, Donetsk, bị không kích bởi Nga.

Chỉ hai tuần trước, AFP đưa tin, phóng viên ảnh người Pháp Antoni Lallican đã thiệt mạng khi đang làm nhiệm vụ gần tiền tuyến ở khu vực Donetsk, trong khi đồng nghiệp người Ukraine của ông là Georgiy Ivanchenko bị thương trong cùng một vụ tấn công.

Các nhóm nhân quyền cho biết gần hai chục nhà báo đã thiệt mạng ở Ukraine kể từ khi Nga phát động cuộc xâm lược toàn diện vào tháng 2 năm 2022. Trong số đó còn có nhà báo video Arman Soldin của AFP, người đã thiệt mạng do trúng hỏa tiễn vào năm 2023.

Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, gọi tắt là RSF đầu năm nay đã viết rằng ít nhất 47 nhà báo Ukraine và nước ngoài đã bị thương do hỏa lực của Nga khi đưa tin về cuộc xâm lược. Ngoài ra, tổ chức này còn báo cáo vào tháng 2 rằng 19 nhà báo Ukraine đã bị chính quyền Nga bắt giữ tại một số khu vực thuộc lãnh thổ Ukraine bị tạm chiếm sau khi họ từ chối hợp tác với Mạc Tư Khoa.

[Kyiv Post: Russian Correspondent Killed in Zaporizhzhia]

9. ‘Thỏa thuận lớn về máy bay điều khiển từ xa’ của Ukraine với Hoa Kỳ là gì?

Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã gặp Tổng thống Volodymyr Zelenskiy trong một “bữa trưa song phương” tại Tòa Bạch Ốc vào thứ Sáu – trong đó, cùng với những nội dung khác, Tổng thống Trump bày tỏ sự quan tâm đến một hiệp ước máy bay điều khiển từ xa với Ukraine. Vậy chúng ta biết gì về đề xuất của Tổng thống Zelenskiy?

Vào ngày 20 tháng 8, Tổng thống Zelenskiy đã có cuộc họp báo tại Kyiv, nơi ông vạch ra kế hoạch cho một “thỏa thuận máy bay điều khiển từ xa” trị giá 50 tỷ đô la với Hoa Kỳ.

Trong buổi họp báo, tổng thống đã đề cập đến hai đề xuất. Đề xuất đầu tiên, trị giá 50 tỷ đô la, sẽ bao gồm việc Ukraine tận dụng chuyên môn dày dạn kinh nghiệm của mình trong lĩnh vực chiến tranh máy bay điều khiển từ xa để sản xuất hàng chục triệu máy bay điều khiển từ xa cho Hoa Kỳ.

“Về máy bay điều khiển từ xa: thỏa thuận máy bay điều khiển từ xa mà chúng tôi đã chuẩn bị và đề xuất với phía Mỹ trị giá 50 tỷ đô la trong 5 năm – 10 triệu máy bay điều khiển từ xa mỗi năm. Một chương trình lớn như vậy. Nó có thể sẽ hiệu quả sau chiến tranh”, Tổng thống Zelenskiy nói.

Tổng thống Zelenskiy cũng đề cập đến một kế hoạch do Kyiv xây dựng nhằm mua vũ khí Mỹ trị giá 90 tỷ đô la - bao gồm cả hỏa tiễn tầm xa - để sử dụng trong việc bảo vệ lãnh thổ của họ. Sau đó, ông gọi kế hoạch này là “thỏa thuận lớn”.

“Về khoản 90 tỷ đô la mua vũ khí: Tôi tin rằng một lượng lớn vũ khí đã được ghi vào ngân sách mà quân đội Ukraine cần như một phần của các biện pháp bảo đảm an ninh. Con số này là hợp lý”, tổng thống nói.

Về tiến độ đàm phán, chúng tôi đã nghe nhiều hơn từ phía Ukraine so với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Thủ tướng Denys Shmyhal đã gặp Đặc phái viên Hoa Kỳ Keith Kellogg vào tháng trước để thảo luận về các bảo đảm an ninh tiềm năng cho Ukraine - mà theo ông Shmyhal, bao gồm cả thỏa thuận.

Một người Mỹ gốc Ukraine yêu nước nổi tiếng đã trút cơn giận dữ và sự thất vọng của mình về tình hình nước Mỹ đang diễn ra dưới sự lãnh đạo hiện tại.

Đầu tháng 10, một phái đoàn Ukraine đã đến Washington để thảo luận về thỏa thuận.

Trong “bữa trưa song phương” với Tổng thống Trump hôm thứ Sáu, Tổng thống Zelenskiy đã liên hệ rõ ràng thỏa thuận này với hỏa tiễn tầm xa Tomahawk, thứ mà Ukraine từ lâu đã yêu cầu Hoa Kỳ cung cấp. Khi được một phóng viên hỏi liệu ông có quan tâm đến một cuộc trao đổi như vậy không, Tổng thống Trump trả lời “có, chúng tôi sẽ quan tâm”.

Các chuyên gia đã ca ngợi động thái của Tổng thống Zelenskiy khi kết nối hỏa tiễn Tomahawk của Hoa Kỳ với máy bay điều khiển từ xa của Ukraine.

Shelby Magid, phó giám đốc Trung tâm Á-Âu của Hội đồng Đại Tây Dương, phát biểu với tờ Kyiv Post vào thứ sáu rằng kế hoạch này “thông minh, mang tính chiến lược và tận dụng được thế mạnh của Ukraine”.

[Kyiv Post: What Is Ukraine’s ‘Drone Mega Deal’ With the US?]

10. Bên trong cuộc gặp Tổng thống Trump-Tổng thống Zelenskiy: Hỏa tiễn Tomahawk có ý nghĩa gì đối với Nga-Ukraine

Tổng thống Trump đã tỏ ý sẵn sàng cung cấp hỏa tiễn hành trình Tomahawk cho Ukraine, một động thái có thể mở rộng đáng kể năng lực tấn công của Kyiv. Phát biểu trước cuộc gặp dự kiến với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy tại Tòa Bạch Ốc vào thứ Sáu, Tổng thống Trump thừa nhận sự quan tâm của Ukraine đối với vũ khí tầm xa, nói rằng: “Chúng tôi có rất nhiều hỏa tiễn Tomahawk”.

Hỏa tiễn Tomahawk, nổi tiếng với độ chính xác và khả năng bay xa hơn 1.600 km ở độ cao thấp, đã trở thành vũ khí chủ lực trong các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ kể từ đầu những năm 1990. Chi phí tương đối thấp so với máy bay có người lái và thành tích chiến đấu đã được chứng minh—hơn 2.300 lần phóng trong bốn thập niên qua—khiến chúng trở thành một tài sản chiến lược trong các nhiệm vụ tấn công sâu.

Nếu được chấp thuận, động thái chuyển giao này sẽ đánh dấu sự leo thang đáng kể trong hoạt động hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ, có khả năng cho phép Ukraine tấn công vào cơ sở hạ tầng sâu trong lãnh thổ Nga.

Tomahawk sẽ là vũ khí tầm xa nhất mà Mỹ cung cấp cho Ukraine, có khả năng tấn công các mục tiêu cách xa hơn 1.600 km, bao gồm cả Mạc Tư Khoa, thành phố nằm cách Kyiv khoảng 800 km. Độ chính xác, tốc độ và độ nhạy radar thấp của chúng khiến chúng trở thành một công cụ đắc lực cho các nhiệm vụ tấn công sâu. Mặc dù Tổng thống Trump đã sử dụng mối đe dọa cung cấp chúng làm đòn bẩy ngoại giao, việc Ngũ Giác Đài nhanh chóng điều động các bệ phóng trên bộ, chẳng hạn như Typhon, cho thấy sự sẵn sàng ngày càng tăng. Động thái này có thể thay đổi cục diện chiến trường và định hình lại sự tham gia của Mỹ vào cuộc xung đột.

Chiến lược đang thay đổi của Tổng thống Trump về Ukraine đã có một bước ngoặt mới vào thứ Năm, chỉ vài giờ trước cuộc gặp dự kiến của ông với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy. Sau nhiều tuần thể hiện sự hỗ trợ quân sự mạnh mẽ hơn - bao gồm cả việc có thể chuyển giao hỏa tiễn hành trình Tomahawk - Tổng thống Trump đã công bố kế hoạch cho một hội nghị thượng đỉnh mới với Putin tại Budapest.

Thông báo này được đưa ra sau một cuộc điện đàm dài giữa hai nhà lãnh đạo và dường như làm suy yếu những phát ngôn cứng rắn gần đây của các quan chức cao cấp Hoa Kỳ, bao gồm Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth. Các nhà lập pháp và nhà phân tích Ukraine bày tỏ sự bối rối trước đường lối của Tổng thống Trump, với một số người cho rằng ông đang cố gắng thực hiện chiến lược song song: vừa cung cấp vũ khí cho Ukraine vừa gây áp lực ngoại giao lên Putin.

Sự thay đổi này diễn ra trong bối cảnh sự thất vọng ngày càng tăng về các cuộc đàm phán hòa bình bị đình trệ và việc Putin từ chối chấm dứt chiến tranh, bắt đầu bằng cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào năm 2022. Tổng thống Zelenskiy, người ca ngợi thành công gần đây của Tổng thống Trump trong việc làm trung gian cho lệnh ngừng bắn ở Trung Đông, cho biết động lực từ thỏa thuận đó có thể giúp giải quyết xung đột ở Âu Châu.

Các quan chức Ukraine hy vọng sẽ khép lại một tuần đàm phán tại Washington bằng những cam kết cụ thể về phòng không, khả năng phục hồi năng lượng và vũ khí tầm xa. Tuy nhiên, tin tức về một cuộc gặp thượng đỉnh Tổng thống Trump-Putin khác đã làm dấy lên những nghi ngờ mới về ý định của Hoa Kỳ - và liệu Tổng thống Zelenskiy có được đưa vào vòng đàm phán ngoại giao tiếp theo hay không.

Tổng thống Trump gọi cuộc trò chuyện là “rất hiệu quả” và công bố kế hoạch tổ chức hội nghị thượng đỉnh tại Budapest, nơi ông và Putin sẽ thảo luận về việc chấm dứt chiến tranh.

Thời điểm của cuộc gọi - sau nhiều tuần có tín hiệu cho thấy Tổng thống Trump có thể chấp thuận việc chuyển giao hỏa tiễn Tomahawk - đã đặt ra câu hỏi về chiến lược của chính quyền. Tổng thống Trump nói với các phóng viên rằng Hoa Kỳ “không thể cạn kiệt” kho dự trữ của mình, và nói thêm, “Chúng tôi cũng cần chúng... nên tôi không biết chúng tôi có thể làm gì về điều đó.”

Các quan chức Ukraine hy vọng sẽ đạt được các cam kết về phòng không và năng lực tầm xa. Tuy nhiên, thông báo từ hội nghị thượng đỉnh, cùng với cuộc tấn công bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa nghiêm trọng nhất của Nga trong năm nay, đã làm dấy lên nghi ngờ về việc liệu Tổng thống Zelenskiy có được tham gia vào các hoạt động ngoại giao trong tương lai hay không. Phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov cảnh báo rằng việc điều động hỏa tiễn Tomahawk sẽ bị coi là “một sự leo thang nghiêm trọng”.

Tomahawk là hỏa tiễn hành trình tầm xa, có điều khiển, sử dụng động cơ phản lực và được thiết kế để bay như máy bay tầm thấp. Lần đầu tiên được sử dụng trong chiến đấu trong Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, kể từ đó chúng đã được điều động trong hàng chục cuộc xung đột. Ukraine coi chúng là một phương tiện để tấn công các trung tâm chỉ huy, trung tâm hậu cần và phi trường của Nga hiện nằm ngoài tầm với. Tầm bắn của chúng - hơn 1.600 km - cho phép Ukraine tấn công vào các thành phố lớn như Mạc Tư Khoa và St. Petersburg, có khả năng gây áp lực buộc Putin phải quay lại bàn đàm phán.

Các phiên bản Tomahawk mới nhất có giá từ 1,3 đến 2,5 triệu đô la mỗi quả. Chúng mang đầu đạn tương đương 400 pound thuốc nổ TNT và có thể được phóng từ tàu chiến, tàu ngầm hoặc các hệ thống trên bộ, chẳng hạn như Typhon. Hoa Kỳ đã phóng hơn 2.300 hỏa tiễn Tomahawk trong chiến đấu trong hơn bốn thập niên, và hàng trăm hỏa tiễn vẫn còn trong kho. Mặc dù hiệu quả khi phóng loạt, nhưng số lượng hạn chế và tình trạng thiếu bệ phóng có thể hạn chế khả năng sử dụng của Ukraine.

Quân đội Hoa Kỳ đã phát triển hỏa tiễn Tomahawk vào những năm 1970, và Raytheon Technologies hiện đang sản xuất nó. Ngũ Giác Đài đã tiếp tục phát triển khả năng của hỏa tiễn, bao gồm các biến thể có thể tấn công vào tàu thuyền đang di chuyển hoặc vô hiệu hóa lưới điện. Một phiên bản mang đầu đạn hạt nhân đã được cho nghỉ hưu vào năm 2013. Hệ thống phóng Typhon - được phát triển sau khi Hiệp ước Lực lượng Hạt nhân Tầm trung, gọi tắt là INF sụp đổ - hiện là nền tảng mặt đất chính để điều động hỏa tiễn Tomahawk.

[Newsweek: Inside Trump-Zelensky Meet: What Tomahawk Missiles Mean for Russia-Ukraine]

11. Người lính Ukraine bị bắt ở tỉnh Kursk của Nga nhận án tù chung thân

Một tòa án ở Mạc Tư Khoa đã tuyên án tù chung thân đối với binh sĩ Ukraine 42 tuổi Volodymyr Parafilo sau khi anh ta bị bắt tại tỉnh Kursk của Nga, Văn phòng Tổng công tố và Ủy ban điều tra Nga thông báo vào ngày 15 tháng 10.

Theo Bộ Nội vụ Ukraine, Parafilo được tường trình đã bị bắt vào ngày 29 tháng 12 năm 2024, gần thành phố Sudzha, thuộc làng Kamyshovka.

Chính quyền Nga cáo buộc Parafilo thực hiện hành vi khủng bố cũng như bạo lực tình dục.

Parafilo sẽ phải chấp hành 10 năm đầu tiên của bản án trong tù trước khi được chuyển đến trại cải tạo đặc biệt trong suốt quãng đời còn lại.

[Kyiv Independent: Ukrainian soldier captured in Russia's Kursk Oblast receives life sentence]

12. Lính nghĩa vụ Nga nổ súng vào đồng đội ở vùng Mạc Tư Khoa

Một lính nghĩa vụ người Nga đã nổ súng tại một căn cứ quân sự ở Naro-Fominsk, tỉnh Mạc Tư Khoa, bắn chết một lính hợp đồng trước khi tự sát, truyền thông nhà nước Nga đưa tin vào ngày 17 tháng 10.

Vụ việc đã được Quân khu Mạc Tư Khoa xác nhận, cho biết người lính đã “vi phạm quy định sử dụng vũ khí”, dẫn đến cái chết của một quân nhân hợp đồng. Hãng tin Nga Vazhniye Istorii đưa tin vụ việc xảy ra tại một căn cứ ở Naro-Fominsk, nơi đóng quân của một số đơn vị tinh nhuệ.

Trong số đó có Trung đoàn Pháo binh Cận vệ 1182 thuộc Sư đoàn Dù 106 và các đội hình của Sư đoàn Xe tăng Kantemirovskaya.

[Kyiv Independent: Russian conscript opens fire on fellow soldiers in Moscow Oblast]

13. Nga lần đầu tiên tấn công tỉnh Kharkiv bằng bom dẫn đường sử dụng động cơ hỏa tiễn mới

Theo văn phòng công tố khu vực, lực lượng Nga đã thực hiện cuộc tấn công bằng bom dẫn đường đầu tiên vào thành phố Lozova ở tỉnh Kharkiv vào ngày 18 tháng 10.

Vụ tấn công xảy ra vào khoảng 5:40 chiều giờ địa phương, tấn công vào một khu dân cư và làm hư hại nhà cửa cùng các công trình phụ. Ban đầu, chính quyền báo cáo có sáu người bị thương, sau đó xác nhận con số này là năm. Tất cả các nạn nhân đều đang được điều trị y tế.

Các nhà điều tra cho biết vũ khí này được phóng từ vùng lãnh thổ bị Nga tạm chiếm.

Nhà chức trách xác định vũ khí này là một loại bom dẫn đường mới, sử dụng động cơ hỏa tiễn, UMPB-5R, có khả năng bay xa khoảng 130 km. Các công tố viên cho biết Nga đã sử dụng loại bom này chống lại Lozova lần đầu tiên. Họ cũng đã mở một cuộc điều tra sơ bộ về các tội ác chiến tranh có thể xảy ra.

Vụ tấn công diễn ra chỉ hai ngày sau khi chính quyền Mykolaiv báo cáo rằng lực lượng Nga đã sử dụng bom dẫn đường trên không tấn công thành phố này lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện. Thống đốc khu vực Vitalii Kim cho biết vào ngày 16 tháng 10, hai quả bom đã rơi xuống vùng ngoại ô Mykolaiv.

Tỉnh Kharkiv và thủ phủ của tỉnh này đã phải đối mặt với các cuộc tấn công liên tục của Nga trong hơn hai năm, kể từ khi cuộc xâm lược toàn diện bắt đầu vào tháng 2 năm 2022. Trong những tháng gần đây, các cuộc tấn công vào các khu vực đông dân cư của thành phố đã tăng cường.

Vào ngày 13 tháng 10, Nga đã tấn công Kharkiv bằng bom dẫn đường KAB, gây hư hại cho một bệnh viện và làm ít nhất sáu người bị thương. Vào thời điểm xảy ra vụ tấn công, bệnh viện có hơn 100 bệnh nhân, Oleksiy Dotsenko, giám đốc khoa phẫu thuật của bệnh viện, cho biết trong một bình luận với Suspilne Kharkiv.

[Kyiv Independent: Russia hits Kharkiv Oblast with new rocket-powered guided bomb for first time]
 
Bẫy độc của Moscow: Đường hầm Putin-Trump nối Mỹ-Nga. Ukraine bị ép phải nhượng bộ Nga
VietCatholic Media
14:58 19/10/2025


1. Tổng thống Trump yêu cầu Tổng thống Zelenskiy ‘thỏa thuận’ khi lời kêu gọi trao Tomahawk cho Ukraine không thành công

Hôm thứ Sáu, Tổng thống Donald Trump đã yêu cầu Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đạt được thỏa thuận với Nga, dội gáo nước lạnh vào nỗ lực phát triển hỏa tiễn Tomahawk của Kyiv khi nhà lãnh đạo Hoa Kỳ theo đuổi giải pháp ngoại giao cho cuộc chiến.

Tháng trước, Tổng thống Trump còn nói rằng ông tin Ukraine có thể lấy lại toàn bộ lãnh thổ của mình - nhưng một ngày sau khi đồng ý gặp Putin trong một hội nghị thượng đỉnh mới, nhà lãnh đạo Mỹ đã thay đổi quan điểm.

Sau cuộc gặp với Tổng thống Zelenskiy tại Tòa Bạch Ốc, Tổng thống Trump đã chia sẻ trên mạng xã hội rằng cuộc hội đàm của họ “rất thú vị và thân mật, nhưng tôi đã nói với ông ấy, cũng như tôi đã đề xuất mạnh mẽ với Tổng thống Putin, rằng đã đến lúc chấm dứt giết chóc và THỎA THUẬN!”

Tổng thống Trump dường như cũng gợi ý rằng cả hai bên nên chấp nhận chiến tuyến hiện tại của mình. “Họ nên dừng lại ở vị trí hiện tại. Hãy để cả hai tuyên bố Chiến thắng, hãy để Lịch sử quyết định!” ông nói.

Sau cuộc họp, Tổng thống Zelenskiy cho biết Nga “lo sợ” hỏa tiễn hành trình tầm xa Tomahawk do Hoa Kỳ sản xuất, nhưng ông “thực tế” về việc nhận vũ khí từ Washington.

Ông nói với các phóng viên rằng khi ông và Tổng thống Trump thảo luận về vũ khí tầm xa, họ “quyết định rằng chúng tôi không nói về vấn đề này vì... Hoa Kỳ không muốn leo thang căng thẳng”.

Tổng thống Zelenskiy đến Washington sau nhiều tuần kêu gọi tấn công bằng Tomahawk, với hy vọng tận dụng sự thất vọng ngày càng tăng của Tổng thống Trump với Putin sau khi hội nghị thượng đỉnh ở Alaska không đạt được đột phá.

Stefan Korshak, phóng viên quân sự của Kyiv Post, chia sẻ quan điểm của mình về những diễn biến gần đây trong cuộc chiến của Nga tại Ukraine.

Nhưng phe cánh tả Ukraine đã trắng tay khi Tổng thống Trump nhắm tới một bước đột phá ngoại giao mới sau thỏa thuận hòa bình ở Gaza tuần trước.

Tổng thống Trump tỏ ra lạc quan hơn nhiều về triển vọng đạt được thỏa thuận kể từ cuộc gọi kéo dài hai tiếng rưỡi với Putin vào thứ năm, trong đó họ đã đồng ý gặp nhau tại Budapest.

“Hy vọng chúng ta có thể kết thúc chiến tranh mà không cần phải nghĩ đến Tomahawk”, Tổng thống Trump nói với các nhà báo, bao gồm cả phóng viên AFP, khi ông tiếp đón Tổng thống Zelenskiy tại Tòa Bạch Ốc.

Tổng thống Trump nói thêm rằng ông tin Putin “muốn chấm dứt chiến tranh”.

Tổng thống Zelenskiy, người đến Tòa Bạch Ốc để thúc đẩy việc mua vũ khí tầm xa do Hoa Kỳ sản xuất, tuy nhiên cho biết ông sẵn sàng đổi “hàng ngàn” máy bay điều khiển từ xa của Ukraine để lấy hỏa tiễn Tomahawk.

Tổng thống Zelenskiy chúc mừng Tổng thống Trump về thỏa thuận hòa bình Trung Đông gần đây tại Gaza và hy vọng Tổng thống Trump cũng sẽ làm điều tương tự với Ukraine. “Tôi hy vọng Tổng thống Trump có thể làm được điều đó”, ông nói.

Các cuộc đàm phán ngoại giao về việc chấm dứt cuộc xâm lược của Nga đã bị đình trệ kể từ hội nghị thượng đỉnh Alaska.

Điện Cẩm Linh cho biết hôm thứ Sáu rằng “nhiều câu hỏi” cần được giải quyết trước khi Putin và Tổng thống Trump có thể gặp nhau, bao gồm cả việc ai sẽ tham gia vào mỗi nhóm đàm phán.

Nhưng cơ quan này bác bỏ ý kiến cho rằng Putin sẽ gặp khó khăn khi bay qua không phận Âu Châu.

Hung Gia Lợi cho biết họ sẽ bảo đảm Putin có thể vào và “tiến hành các cuộc đàm phán thành công” với Hoa Kỳ bất chấp lệnh bắt giữ của Tòa án Hình sự Quốc tế đối với ông vì cáo buộc phạm tội ác chiến tranh.

Kể từ khi bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai, lập trường của Tổng thống Trump về cuộc chiến tranh Ukraine đã thay đổi đáng kể.

Ban đầu, Tổng thống Trump và Putin đã liên lạc với nhau khi nhà lãnh đạo Hoa Kỳ chế giễu Tổng thống Zelenskiy là “nhà độc tài không có bầu cử”.

Căng thẳng lên đến đỉnh điểm vào tháng 2, khi Tổng thống Trump cáo buộc người đồng cấp Ukraine “không có quân bài” trong một cuộc họp gay gắt được truyền hình trực tiếp tại Phòng Bầu dục.

Mối quan hệ giữa hai bên đã nồng ấm hơn kể từ khi Tổng thống Trump bày tỏ sự thất vọng ngày càng tăng với Putin.

Nhưng Tổng thống Trump vẫn giữ kênh đối thoại mở với Putin, nói rằng họ “hòa hợp”.

Nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã nhiều lần thay đổi lập trường về các lệnh trừng phạt và các biện pháp khác chống lại Mạc Tư Khoa sau các cuộc điện đàm với tổng thống Nga.

Putin đã ra lệnh tấn công toàn diện vào Ukraine vào tháng 2 năm 2022, mô tả đây là một “chiến dịch quân sự đặc biệt” nhằm phi quân sự hóa đất nước này và ngăn chặn sự mở rộng của NATO.

Nga hiện xâm lược khoảng một phần năm lãnh thổ Ukraine -- phần lớn lãnh thổ này bị tàn phá bởi giao tranh.

Vào thứ sáu, Bộ Quốc phòng Nga thông báo đã chiếm được ba thị trấn ở vùng Dnipropetrovsk và Kharkiv của Ukraine.

[Kyiv Post: Trump Tells Zelensky to ‘Make a Deal’ as Tomahawk Plea Misfires]

2. TẦM NHÌN ĐƯỜNG HẦM Đường hầm Putin-Tổng thống Trump trị giá 8 tỷ đô la gây sửng sốt nối liền Hoa Kỳ và Nga do đặc phái viên Điện Cẩm Linh đề xuất - và công ty của Elon Musk có thể xây dựng nó

VLADIMIR Putin có thể thu hút Ông Donald Trump bằng cách đề xuất xây dựng một đường hầm trị giá 8 tỷ đô la nối liền Nga và Mỹ.

Dự án khó hiểu này được đưa ra bởi một người bạn thân thiết của Putin - người này tuyên bố rằng ông chủ Tesla Elon Musk có thể tham gia vào việc khoan lỗ chưa từng có này.

Được mệnh danh là “đường hầm Putin-Tổng thống Trump”, kế hoạch tự đại này được khởi xướng bởi Kirill Dmitriev, bạn thân của con gái Putin.

Những kế hoạch khó tin này là hành động nịnh hót trơ tráo của Điện Cẩm Linh đối với tổng thống Hoa Kỳ – và là nỗ lực tuyệt vọng nhằm dụ Tổng thống Trump không cung cấp hỏa tiễn Tomahawk cho Ukraine.

Đặc phái viên Điện Cẩm Linh Dmitriev, nhà lãnh đạo quỹ đầu tư quốc gia của Nga, cho biết: “Elon Musk, hãy tưởng tượng việc kết nối Hoa Kỳ và Nga, Hoa Kỳ và Phi Châu-Á-Âu, bằng đường hầm Putin-Tổng thống Trump - một tuyến đường dài 70 dặm tượng trưng cho sự thống nhất.”

Nếu đường hầm không thể dò được này được xây dựng, nó sẽ khai thác được khoảng cách gần nhất giữa Nga và Hoa Kỳ – Eo biển Bering.

Hành lang này – chỉ rộng 51 dặm tại điểm hẹp nhất – ngăn cách Mũi Prince of Wales, ở Alaska, với Mũi Dezhnev, ở tỉnh Chukotka.

Nhưng mỗi bên eo biển lại kể một câu chuyện hoàn toàn khác nhau – với Alaska giàu có ở một bên và Chukotka nghèo đói ở bên kia.

Giữa hai quốc gia này có hai hòn đảo nhỏ – Đảo Ratmanov của Nga, được gọi là Diomede Lớn, và Đảo Krusenstern của Mỹ, hay Diomede Nhỏ.

Chỉ cách nhau hai dặm rưỡi, các hòn đảo có thể được sử dụng làm điểm cầu nối, cho phép đường hầm được xây dựng theo nhiều giai đoạn.

Dmitriev tuyên bố đường hầm có thể hoàn thành trong tám năm - khi đó Tổng thống Trump đã 87 tuổi và Putin đã 81 tuổi.

Kế hoạch phù phiếm của Mạc Tư Khoa nhằm quyến rũ Tổng thống Trump khi Putin đấu tranh để ngăn chặn hỏa tiễn tầm xa Tomahawk của Hoa Kỳ đến Ukraine, trước chuyến thăm Tòa Bạch Ốc của Tổng thống Zelenskiy vào thứ sáu.

Sự kiện này cũng diễn ra trước cuộc hội đàm quan trọng giữa Tổng thống Trump và Putin tại Budapest dự kiến diễn ra trong những tuần tới - một hội nghị thượng đỉnh được tổ chức sau cuộc điện đàm giữa hai người vào thứ năm.

Kẻ bạo chúa có thể đưa ra kế hoạch xây dựng đường hầm khó tin ở Hung Gia Lợi để đánh lạc hướng Tổng thống Trump khỏi vấn đề chính đang được quan tâm.

Phát ngôn nhân của Điện Cẩm Linh, Dmitriev, cho biết thêm: “Sử dụng công nghệ hiện đại từ The Boring Company, đây có thể trở thành đường hầm Putin-Tổng thống Trump nối liền Âu Á và Mỹ, [và được xây dựng] với chi phí chưa đến 8 tỷ đô la.”

Nhấn mạnh rằng Nga đã “đầu tư và xây dựng cây cầu hỏa xa đầu tiên giữa Nga và Trung Quốc”, Dmitriev cho biết: “Đã đến lúc kết nối Nga và Hoa Kỳ”.

Ông nói thêm: “Đã đến lúc phải làm nhiều hơn nữa và kết nối các lục địa lần đầu tiên trong lịch sử loài người”.

Về mặt lý thuyết, một kế hoạch như vậy có thể giúp tuyến hỏa xa xuyên Siberia nổi tiếng thế giới được mở rộng tới Bắc Mỹ.

Nhưng đây không phải là lần đầu tiên những kế hoạch như vậy được đề xuất.

Vào thế kỷ 18, nhà hoạt động bành trướng người Mỹ William Gilpin đã đề xuất xây dựng một tuyến hỏa xa xuyên thế giới bao gồm cả tuyến hỏa xa qua Bering.

Và Joseph Strauss, kỹ sư trưởng của Cầu Cổng Vàng, đã từng phác thảo ý tưởng về một cây cầu hỏa xa nối liền hai quốc gia và trình bày với Đế quốc Nga.

Ngay cả Sa hoàng cuối cùng của Nga là Nicholas II cũng để mắt tới dự án vĩ đại này trước khi ông bị lật đổ vào năm 1917.

Chương trình này được Hoa Kỳ khôi phục vào những năm 1960 trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

Cây cầu này được quảng bá là “Cầu hòa bình Kennedy-Khrushchev” – nhưng kế hoạch cuối cùng đã sụp đổ do sự cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa hai siêu cường.

Hội nghị thượng đỉnh quan trọng giữa Tổng thống Trump và Putin sẽ diễn ra tại Hung Gia Lợi sau cuộc điện đàm “rất hiệu quả” giữa hai bên.

Kế hoạch này đánh dấu nỗ lực mới của Tổng thống Trump nhằm chấm dứt chiến tranh ở Ukraine – trong bối cảnh có suy đoán rằng ông sẽ cho phép Ukraine sử dụng hỏa tiễn Tomahawk của Mỹ trong cuộc đàm phán quan trọng với Tổng thống Zelenskiy vào thứ Sáu.

Tổng thống Trump nói: “Tổng thống Putin và tôi sau đó sẽ gặp nhau tại một địa điểm đã thỏa thuận là Budapest, Hung Gia Lợi, để xem liệu chúng tôi có thể chấm dứt cuộc chiến 'đáng xấu hổ' này giữa Nga và Ukraine hay không.”

Đây sẽ là lần thứ hai hai bên gặp nhau trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Trump và là lần thứ tám nói chung.

Thời điểm chính xác điều đó sẽ xảy ra vẫn chưa rõ ràng.

[The Sun: TUNNEL VISION Jaw-dropping $8bn Putin-Trump TUNNEL linking US and Russia proposed by Kremlin envoy – & Elon Musk’s firm could build it]

3. Máy bay điều khiển từ xa của Ukraine được tường trình đã tấn công trạm biến áp điện ở tỉnh Ulyanovsk của Nga

Một trạm biến áp điện ở tỉnh Ulyanovsk của Nga đã bốc cháy sau cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine, các kênh truyền thông Telegram của Nga đưa tin vào ngày 18 tháng 10.

Một video đăng tải trên mạng xã hội dường như cho thấy máy bay điều khiển từ xa tấn công trạm biến áp Veshkaima trong khu vực vào đêm qua, dẫn đến hỏa hoạn tại địa điểm xảy ra vụ tấn công.

Trạm biến áp Veshkaima là trạm biến áp điện 500 kV thuộc sở hữu của công ty con Rosseti, công ty truyền tải điện lớn nhất của Nga.

Ukraine đã tăng cường các cuộc tấn công tầm xa vào cơ sở hạ tầng dầu khí và năng lượng của Nga, một nguồn thu quan trọng của Mạc Tư Khoa, góp phần thúc đẩy cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine. Trạm biến áp Veshkaima nằm cách biên giới Nga-Ukraine hơn 900 km về phía đông.

Đêm ngày 16 tháng 10, máy bay điều khiển từ xa của Ukraine đã tấn công một trạm biến áp tương tự ở Tỉnh Volgograd của Nga, Thống đốc khu vực Andrey Bocharov đưa tin.

Vào cuối tháng 9, Thống đốc tỉnh Belgorod Vyacheslav Gladkov đã báo cáo về một cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng quan trọng cũng như “sự việc mất điện đáng kể” sau khi hỏa tiễn HIMARS của Ukraine được tường trình đã tấn công vào một nhà máy nhiệt điện.

Nga thường xuyên tiến hành các cuộc tấn công trên không quy mô lớn vào các thành phố của Ukraine và làm tê liệt lưới điện của nước này vào mỗi mùa thu và mùa đông trong cuộc chiến toàn diện.

[Kyiv Independent: Ukrainian drones reportedly strike electrical substation in Russia's Ulyanovsk Oblast]

4. Tòa án Nga tuyên án 15 tù binh chiến tranh Ukraine mức án lên tới 21 năm tù

Tòa án quân sự Nga tại Rostov-on-Don đã tuyên án 15 tù binh chiến tranh, gọi tắt là POW Ukraine với mức án tù từ 15 đến 21 năm, cáo buộc họ tham gia vào một “tổ chức khủng bố” và nhận “huấn luyện khủng bố”, trung tâm báo chí của tòa án thông báo vào ngày 17 tháng 10.

Những cá nhân này bị cáo buộc có liên quan đến Tiểu đoàn Aidar, đơn vị mà Nga đã đơn phương liệt vào danh sách khủng bố. Các tổ chức giám sát nhân quyền lưu ý rằng các cáo buộc chỉ dựa trên việc họ từng phục vụ trong đơn vị, chứ không có tội ác chiến tranh cụ thể nào được nêu ra.

Hãng truyền thông Nga Mediazona đưa tin rằng các tài xế và nhân viên y tế cũng bị truy tố với những cáo buộc tương tự, khi các công tố viên tuyên bố rằng ngay cả việc cung cấp viện trợ y tế cũng “duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”.

Hai nữ nhân viên y tế và một cá nhân khác được nêu tên trong vụ án được tường trình đã bị tách ra thành các phiên tòa khác nhau. Các nhân viên y tế này trước đó đã được thả trong một cuộc trao đổi tù nhân.

Những bản án này là bằng chứng thêm nữa cho thấy Nga vi phạm luật pháp quốc tế liên quan đến việc đối xử với tù binh chiến tranh.

[Kyiv Independent: Russian court sentences 15 Ukrainian POWs to up to 21 years in prison]

5. ‘Gây áp lực lên Nga như Hamas’ – Lời kêu gọi mạnh mẽ của Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ về Chiến lược Ukraine được hỗ trợ mạnh mẽ

Một thượng nghị sĩ cao cấp của Hoa Kỳ đã thúc giục chính quyền Tổng thống Trump và các đồng minh NATO duy trì “áp lực đáng kể” lên Nga để chấm dứt chiến tranh ở Ukraine, đồng thời so sánh với thỏa thuận hòa bình gần đây giữa Israel và Hamas do Hoa Kỳ làm trung gian.

Thượng nghị sĩ Jerry Moran Đảng Cộng hòa đơn vị Kansas, thành viên cao cấp của Tiểu ban Ngân sách Quốc phòng Thượng viện, đã tranh luận trên sàn Thượng viện vào sáng thứ Sáu rằng chính sách ngoại giao mạnh mẽ đã bảo đảm lệnh ngừng bắn và thả con tin ở Trung Đông nên là phương án để đối đầu với Mạc Tư Khoa.

“Để chấm dứt cuộc chiến này, Hoa Kỳ và các đồng minh của chúng tôi phải duy trì áp lực lên Mạc Tư Khoa, như chúng tôi vừa chứng kiến đối với Hamas”, Moran nói. Tổng thống Trump và Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã gặp nhau tại Tòa Bạch Ốc hôm thứ Sáu. Tổng thống Trump cũng đã điện đàm với Putin một ngày trước đó.

Moran đã đưa ra thỏa thuận giữa Israel và Hamas - mà ông cho là nhờ nỗ lực của chính quyền Tổng thống Trump - như một ví dụ về sức mạnh có thể đạt được.

Thỏa thuận mà ông cho biết đã thả tất cả các con tin còn sống và giáng một “đòn chí mạng” vào Iran, đã trở nên khả thi nhờ “sức mạnh của quân đội Hoa Kỳ, liên minh vững chắc của chúng tôi với Israel và khẳng định rõ ràng với Hamas rằng Hoa Kỳ sẵn sàng và có khả năng hỗ trợ đồng minh của chúng tôi trong chiến tranh”.

Moran lập luận rằng xung đột ở Ukraine đe dọa an ninh, ổn định kinh tế và vị thế lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ. Ông ủng hộ việc chuyển giao hỏa tiễn Tomahawk của Hoa Kỳ cho Ukraine như một công cụ chủ chốt để gia tăng áp lực lên Putin.

Moran cho biết: “Loại vũ khí này sẽ tăng cường khả năng bảo vệ lãnh thổ của Ukraine, ngăn chặn sự xâm lược tiếp theo của Nga và giúp cân bằng chiến trường khi các cuộc đàm phán hy vọng sẽ tiến triển”.

Ngoài hỗ trợ quân sự, Thượng nghị sĩ nhấn mạnh sự cần thiết của một chiến dịch kinh tế bền vững. Ông lưu ý rằng nền kinh tế Nga “đã chịu áp lực”, nhưng khả năng tài trợ cho chiến tranh của nước này sẽ tiếp tục mà không cần “việc thực thi các lệnh trừng phạt toàn cầu nghiêm ngặt và liên tục”.

Moran đã ủng hộ dự luật đang chờ giải quyết với sự ủng hộ của cả hai đảng tại Thượng viện mà ông cho rằng sẽ “gây ra đòn nghiêm trọng cho nền kinh tế và thương mại của Nga” bằng cách cắt đứt nguồn lực cho chiến dịch quân sự của Putin.

Moran cũng kêu gọi các đồng minh NATO tăng chi tiêu quốc phòng và chia sẻ gánh nặng tài chính lớn hơn cho quốc phòng Âu Châu. Ông ca ngợi thỏa thuận gần đây mà Tổng thống Trump đã đạt được với các đối tác NATO nhằm tăng chi tiêu quốc phòng lên 5% GDP vào năm 2035.

Ông kết luận bằng cách nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ phải kiên quyết ủng hộ Kyiv để gửi đi thông điệp rõ ràng tới các đối thủ trên toàn cầu.

Moran tuyên bố: “Điều bắt buộc là Hoa Kỳ phải kiên định trong việc ủng hộ Ukraine và khi làm như vậy, sẽ gây áp lực đáng kể lên Putin để cho các đối thủ của chúng ta thấy rằng nền dân chủ sẽ không bị bỏ qua”.

Những phát biểu của Moran nhấn mạnh nỗ lực ngày càng tăng tại Thượng viện Hoa Kỳ nhằm tận dụng thành công ngoại giao quan trọng gần đây ở Trung Đông như một mô hình để chấm dứt cuộc xung đột kéo dài ở Đông Âu.

[Kyiv Post: ‘Pressure Russia Like Hamas’ – Top US Senator’s Stark Call for Strength-Backed Ukraine Strategy]

6. Máy bay điều khiển từ xa sản xuất tại địa phương

Ukraine không chờ đợi Washington. Họ đã bắt đầu sản xuất nhiều máy bay điều khiển từ xa và hỏa tiễn nguy hiểm hơn, một lý do chính khiến chiến dịch tấn công sâu năm nay được duy trì và thành công hơn, Tổng thống Zelenskiy nói. Một điểm cộng nữa là sự hợp tác tích cực hơn với tình báo Hoa Kỳ, mặc dù tổng thống từ chối giải thích chi tiết.

“ Các cơ quan tình báo đang hợp tác rất tích cực. Nhưng đối với chúng tôi, điều quan trọng hơn là họ giúp chúng tôi hiểu được ý định của Nga, hỗ trợ phòng không”, một quan chức Ukraine giấu tên nói với POLITICO. “Nhưng vũ khí của chúng tôi đã được cải tiến và điều đó cũng rất hữu ích”.

Tờ Financial Times đưa tin vào cuối tuần rằng Hoa Kỳ đã cung cấp thông tin mục tiêu cho Ukraine để tấn công cơ sở hạ tầng năng lượng của Nga.

“Hỏa tiễn điều khiển từ xa Palianytsia đã bắt đầu tấn công các kho đạn dược của Nga trong hàng chục trường hợp”, Tổng thống Zelenskiy tuyên bố. Một hỏa tiễn điều khiển từ xa khác, tên Ruta, đã tấn công một giàn khoan hàng hải ở khoảng cách 250 km trên Hắc Hải, Tổng thống Zelenskiy nói.

Tổng thống Zelenskiy cho biết các mục tiêu như cảng Ust-Luga và Primorsk ở Baltic của Nga “hiện đã trong tầm tay”. Vào thứ Bảy, máy bay điều khiển từ xa của Ukraine đã tấn công nhà máy lọc dầu Bashneft của Nga ở Ufa gần dãy núi Ural, cách Ukraine 1.400 km.

Hỏa tiễn hành trình Flamingo mới, tầm bắn 3.000 km của Ukraine, được POLITICO đưa tin lần đầu vào tháng 8, cũng đã bắt đầu tấn công Nga, tương tự như hỏa tiễn Neptune tầm ngắn hơn.

“Tôi sẽ không đưa ra con số cụ thể — chúng tôi đã sử dụng hỏa tiễn Neptune và Flamingo theo cặp. Chúng tôi không nói về việc sử dụng hàng loạt cặp hỏa tiễn này. Chúng tôi chỉ nói rằng nó đã được sử dụng, và có những dấu hiệu ban đầu cho thấy thành công tương tự với loại vũ khí đặc biệt này”, Tổng thống Zelenskiy nói.

Mục đích là khiến Putin và người Nga cảm nhận được tác động của chiến tranh và buộc Điện Cẩm Linh phải suy nghĩ lại.

“Cần gây thêm áp lực lên Nga. Áp lực sẽ hiệu quả — khi họ chịu tổn thất nặng nề hơn từ chiến tranh so với bất kỳ kịch bản nào khác. Các cuộc tấn công tầm xa, các lệnh trừng phạt mạnh mẽ, việc giữ vững chiến trường, tự vệ — nhưng chắc chắn cũng phải ủng hộ các sáng kiến hòa bình, bởi vì đó là điều đúng đắn cần làm — điều này sẽ hiệu quả”, Tổng thống Zelenskiy nói.

[Politico: Local production of UAV]

7. ‘Đáng xấu hổ’ — Ukraine lên án Nga vì đã bỏ tù kỹ sư nhà máy điện Zaporizhzhia 16 năm

Ukraine đã lên án Nga vì đã bỏ tù một kỹ sư nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia, gọi tắt là ZNPP một cách “đáng xấu hổ” vì đã quyên góp tiền cho Quân đội Ukraine và bị cáo buộc cung cấp thông tin chi tiết về vị trí của quân đội Nga.

Tòa án khu vực Zaporizhzhia, do chính quyền Nga kiểm soát, đã tuyên án Ruslan Lavryk, một kỹ sư 55 tuổi người Ukraine tại ZNPP, theo Điều 275 của Bộ luật Hình sự Nga (phản quốc), mức án 16 năm tù giam trong chế độ quản thúc nghiêm ngặt, tòa án cho biết trên Telegram vào ngày 15 tháng 10.

Lavryk bị cáo buộc quyên góp tiền cho một hoạt động gây quỹ để mua “thiết bị tác chiến điện tử” cho Quân đội Ukraine vào tháng 4 và tháng 5 năm 2024, đồng thời cung cấp cho Ukraine thông tin về hoạt động di chuyển và điều động lực lượng Nga tại Enerhodar.

ZNPP, nhà máy điện hạt nhân lớn nhất Âu Châu, tọa lạc tại thành phố Energodar, đã bị Nga xâm lược kể từ tháng 3 năm 2022.

Thị trưởng Enerhodar Dmytro Orlov, người sống trên vùng lãnh thổ do Ukraine kiểm soát, nói với tờ Kyiv Independent rằng Lavryk đã bị kết án vào ngày 14 tháng 10 và bị bắt vì vi phạm lệnh giới nghiêm.

“Sau khi bị bắt giữ, anh ta đã bị đưa về nhà, bị khám xét, và bị tịch thu thẻ ngân hàng, điện thoại, máy tính xách tay và các thiết bị khác. Cứ mỗi 30 ngày, thời gian tạm giam lại được gia hạn thêm 30 ngày nữa”, Orlov nói.

Orlov cũng cho biết thêm rằng Lavryk có vấn đề về tim và cần phải vào bệnh viện sau thời gian dài bị giam cầm và tra tấn.

Orlov cho biết trong một tuyên bố vào ngày 15 tháng 10 rằng: “Tất cả các bản án hình sự được đưa ra tại các vùng lãnh thổ tạm thời bị tạm chiếm đều không có giá trị pháp lý và không có hiệu lực pháp lý”.

Trong một bình luận gửi tới tờ Kyiv Independent, công ty hạt nhân nhà nước Energoatom của Ukraine đã lên án mạnh mẽ vụ bắt giữ này, nói rằng “phiên tòa đáng xấu hổ này là một ví dụ nữa về hành vi vi phạm nhân quyền có hệ thống tại các vùng lãnh thổ tạm thời bị tạm chiếm”.

“Chúng tôi coi vụ án bịa đặt chống lại Ruslan Lavryk là sự trả thù cho sự tận tụy của ông ấy với nghề nghiệp và đất nước. Đây là một phần trong chính sách đe dọa và gây áp lực có chủ đích của Điện Cẩm Linh đối với nhân viên ZNPP, những người vẫn ở lại Energodar bị tạm chiếm và không ký hợp đồng với chính quyền xâm lược giả tạo”, Energoatom nói với tờ Kyiv Independent.

Theo Energoatom, ít nhất 14 nhân viên của ZNPP bị “giam giữ trái phép”.

Một cuộc điều tra do Truth Hounds và Greenpeace Ukraine công bố vào ngày 24 tháng 9 đã nêu chi tiết vai trò của Rosatom trong việc gây áp lực lên nhân viên nhà máy, “bao gồm đánh đập, điện giật, bạo lực tình dục, hành quyết giả và đe dọa các thành viên gia đình của những người bị giam giữ”. Rosatom, gã khổng lồ hạt nhân của Nga, đã trở thành đơn vị điều hành ZNPP sau khi xâm lược.

Báo cáo chỉ ra rằng 78 nhân viên đã bị giam giữ trái phép, trong khi sáu người bị “tra tấn đến chết”.

Nhà máy vẫn bị ngắt kết nối khỏi lưới điện của Ukraine trong 25 ngày vì quân đội Nga được tường trình đã tấn công đường dây điện tại ZNPP vào ngày 23 tháng 9. Do đó, nhà máy buộc phải dựa vào máy phát điện diesel dự phòng để duy trì các chức năng an toàn quan trọng và cung cấp điện.

Sáu lò phản ứng của ZNPP đã ngừng hoạt động một tháng sau khi Mạc Tư Khoa xâm lược, nhưng cơ sở này vẫn cần điện để duy trì làm mát và ngăn ngừa sự việc hạt nhân.

Sau khi truyền thông nhà nước Nga đổ lỗi cho Quân đội Ukraine về các cuộc tấn công, Bộ Ngoại giao Ukraine đã tuyên bố vào ngày 6 tháng 10 rằng đây là “một hành động khiêu khích có chủ đích của Nga”.

Greenpeace Ukraine đã công bố một cuộc điều tra vào ngày 1 tháng 10, cho biết không có bằng chứng nào về bất kỳ cuộc tấn công quân sự nào xung quanh cột điện và mạng lưới đường dây điện tại nhà máy.

Chuyên gia hạt nhân Jan Vande Putte của Greenpeace phát biểu với tờ Kyiv Independent vào ngày 7 tháng 10 rằng: “Greenpeace lo ngại về khả năng cao là Nga sẽ tiếp tục leo thang cuộc khủng hoảng hiện tại và một trong những cách họ có thể làm là gây ra thiệt hại lâu dài hơn cho các đường dây điện”.

Phái đoàn giám sát của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, gọi tắt là IAEA đã có mặt tại địa điểm này kể từ tháng 9 năm 2022, nhưng chính quyền Nga thường xuyên hạn chế quyền tiếp cận của phái đoàn.

Rafael Grossi, Tổng giám đốc IAEA, đã đến thăm Mạc Tư Khoa vào ngày 26 tháng 9 để tham dự Tuần lễ nguyên tử thế giới của Nga - đánh dấu kỷ niệm 80 năm ngành công nghiệp hạt nhân của Nga - và gặp gỡ nhà lãnh đạo cơ quan hạt nhân Rosatom của Nga.

Energoatom cho biết: “Chúng tôi một lần nữa kêu gọi cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các quốc gia đối tác và IAEA, tăng cường gây áp lực lên Nga nhằm mục đích phi quân sự hóa và giải phóng hoàn toàn ZNPP và trả lại quyền kiểm soát hoàn toàn cho nhà điều hành hợp pháp của Ukraine, Energoatom”.

“Đây là cách duy nhất để khôi phục an toàn hạt nhân và chấm dứt khủng bố đối với các công nhân hạt nhân dân sự Ukraine.”

[Kyiv Independent: 'Shameful' — Ukraine condemns Russia for jailing Zaporizhzhia power plant engineer for 16 years]

8. Để có thể đàm phán với Tổng thống Trump, Putin bị ruồng bỏ phải đối mặt với hành trình vòng vo nhục nhã dài 2.000 dặm, tránh né Ukraine đang bị chiến tranh tàn phá và Ba Lan đang nổi giận

VLADIMIR Putin phải đối mặt với chặng đường vòng dài 2.000 dặm đầy khó khăn để tránh Ukraine đang chiến tranh và các đồng minh trung thành nhất của nước này để gặp Ông Donald Trump trong các cuộc đàm phán quan trọng tại Hung Gia Lợi.

Con đường dài và quanh co của người Nga bị ruồng bỏ tới Budapest sẽ khiến ông phải tránh không phận NATO và Liên Hiệp Âu Châu khi ông mạo hiểm đi qua phòng tuyến của kẻ thù để gặp tổng thống Hoa Kỳ.

Không có con đường rõ ràng nào đi qua các quốc gia Baltic được giám sát chặt chẽ hay một Ba Lan đang sôi sục, nhà độc tài này sẽ chọn con đường mà ông hy vọng sẽ là một con đường đẹp để đến Hung Gia Lợi.

Đường bay theo lối cửa sau được tường trình đã tăng gấp đôi khoảng cách, với chuyến bay hiện tại ước tính kéo dài tới 2.000 dặm và có thể mất tới năm giờ.

Và nếu muốn hạ cánh an toàn tại Budapest mà không phải đối mặt với Tòa án Hình sự Quốc tế, Putin cũng sẽ cần phải tránh lệnh bắt giữ sắp tới.

Tổng thống Trump dự kiến sẽ gặp nhà lãnh đạo Nga trong những tuần tới sau cuộc gọi “rất hiệu quả” vào thứ năm - như một phần trong nỗ lực mới nhất của Don nhằm chấm dứt chiến tranh ở Ukraine.

John Foreman CBE cho biết Hoa Kỳ cũng được kỳ vọng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Putin gặp mặt Tổng thống Trump để tiến hành các cuộc đàm phán quan trọng.

Cựu Tùy viên Quốc phòng Anh tại Mạc Tư Khoa nói với tờ The Sun: “Tôi nghĩ chúng ta có thể vẽ nhiều tuyến đường khác nhau trên bản đồ – nhưng điểm mấu chốt là Hoa Kỳ sẽ gây áp lực rất lớn lên các nước NATO nhỏ hơn, theo Chính thống giáo ở Balkan để cho phép Putin đi qua theo giấy phép bay ngoại giao.”

Foreman cho rằng tuyến đường có khả năng nhất mà Putin sẽ đi sẽ là chặng đường dài từ Nga đến Thổ Nhĩ Kỳ, sau đó đến Hy Lạp, qua Bắc Macedonia và Serbia, và cuối cùng là đến Hung Gia Lợi.

Đi qua Montenegro rồi vào Serbia từ Biển Adriatic cũng là một con đường thay thế tương tự.

Và chuyên gia an ninh quốc tế Anthony Glees đồng ý rằng Putin sẽ phải đi một chặng đường dài để tiếp cận Tổng thống Trump.

Ông đã vạch ra một chuyến bay tương tự đến Hắc Hải đang có chiến tranh trước khi bay vòng quanh một số quốc gia để đến Hung Gia Lợi.

Nhấn mạnh đến bản chất đáng xấu hổ của chuyến đi, Glees nói với chúng tôi: “Đây thực sự là sự sỉ nhục đối với Tổng thống Putin và thực sự là sự sỉ nhục đối với Hung Gia Lợi.

“Có vẻ như Tổng thống Trump đã nói với họ rằng đó là nơi cuộc họp phải diễn ra.”

Nhưng Glees nói thêm rằng Putin vẫn còn một con đường khác.

Nhà lãnh đạo bị trừng phạt có thể đi trên một “chuyến tàu kín” từ Mạc Tư Khoa đến Budapest để tránh sự truy đuổi của các đồng minh phương Tây.

Trong mọi trường hợp, tất cả các con đường của Putin tới Budapest dường như đều “rất quanh co” và “khiến ông ấy trông thật ngu ngốc”, Glees nói.

Nhưng Foreman cho rằng Putin có thể thích thú khi sử dụng Budapest làm địa điểm gặp gỡ cho hội nghị thượng đỉnh dự kiến.

Thừa nhận rằng điều này sẽ “khiến một số quốc gia trong NATO và Liên Hiệp Âu Châu tức giận”, ông tuyên bố đây chính là lý do chọn Hung Gia Lợi và Thủ tướng Viktor Orban - đồng minh lớn nhất của Nga trong khối.

“Putin sẽ thích nhổ nước bọt vào mắt họ,” Foreman nói.

Orban ca ngợi Hung Gia Lợi vào thứ sáu là “nơi duy nhất ở Âu Châu hiện nay có thể tổ chức một cuộc họp như vậy”.

Hung Gia Lợi luôn là cái gai trong mắt Liên Hiệp Âu Châu – là nước ủng hộ Nga mạnh mẽ nhất trong liên minh.

Orban, con tốt của Điện Cẩm Linh, đã phản đối các lệnh trừng phạt tiếp theo đối với Putin và trước đó tuyên bố sẽ phủ quyết việc Ukraine gia nhập Liên Hiệp Âu Châu.

Budapest cũng tuyên bố rằng họ sẽ không bắt giữ Putin nếu ông nhập cảnh vào nước này, mặc dù Hung Gia Lợi đã ký kết với ICC.

Nhưng năm nay, Orban đã tuyên bố rút Hung Gia Lợi khỏi tòa án quốc tế.

Tuyên bố này được đưa ra sau khi ông trải thảm đỏ đón Benjamin Netanyahu vào đầu năm nay – mặc dù Thủ tướng Israel đang bị lệnh bắt giữ.

Bản thân Bibi trước đây cũng đã đi những con đường dài để tránh các bên ký kết hiệp ước – gần đây nhất là đi vòng qua một số nước Âu Châu để đến Liên Hiệp Quốc tại New York.

Mặc dù Hung Gia Lợi muốn rút khỏi tòa án, nước này vẫn sẽ là một phần của hiệp ước cho đến năm sau.

Hung Gia Lợi có chung biên giới với bảy quốc gia – tất cả đều là bên ký kết ICC và có nghĩa vụ pháp lý phải tuân thủ các lệnh của tòa án.

Kẻ bạo chúa này bị truy nã vì tội ra lệnh trục xuất trẻ em bất hợp pháp khỏi các vùng lãnh thổ do Ukraine xâm lược sau cuộc xâm lược tàn bạo của hắn.

Tránh né những đồng minh trung thành nhất của Ukraine, Putin cũng cần phải cảnh giác với các quốc gia thành viên NATO đã trừng phạt nặng nề đối với nhà độc tài này.

Hầu như tất cả các thành viên của hiệp ước quốc phòng đều cấm máy bay Nga xâm phạm không phận của họ.

Và tất cả các nước có chung biên giới với Hung Gia Lợi đều là thành viên của NATO, ngoại trừ Áo và Serbia.

Mặc dù mối quan hệ giữa NATO và Nga đã lạnh nhạt, nhưng mối quan hệ này lại càng trở nên lạnh nhạt hơn sau vụ máy bay điều khiển từ xa và máy bay phản lực táo bạo của Putin xâm nhập không phận Âu Châu vào tháng trước.

Glees cho biết mặc dù hai bên rõ ràng là kẻ thù, nhưng việc bắn hạ một chiếc máy bay có Putin trên đó sẽ là quá mạo hiểm.

“Nato sẽ quyết định rằng họ nên giữ nguyên chiếc máy bay, rằng họ nên để anh ta vào và ra khỏi đó.

“Nhưng họ sẽ không vui với điều đó đâu.”

Một trở ngại khác đối với Putin là Liên minh Âu Châu, những nước đã áp đặt các lệnh trừng phạt lớn đối với nhà độc tài này và cấm máy bay phản lực của Nga bay vào không phận của họ.

Tất cả các nước láng giềng của Hung Gia Lợi đều là thành viên Liên Hiệp Âu Châu, ngoại trừ Serbia.

Ngoài việc phải thực hiện những biện pháp khó khăn, Putin còn phải bảo đảm đội ngũ an ninh luôn trong tình trạng tốt nhất.

Đặt mình ngay tại sân sau của Âu Châu, trong một đất nước bị NATO và kẻ thù Liên Hiệp Âu Châu bao vây, tên bạo chúa này sẽ không rời khỏi tầm ngắm của những “lính ngự lâm” khét tiếng của mình.

Các cuộc đàm phán tại Budapest đánh dấu nỗ lực mới của Tổng thống Trump nhằm chấm dứt chiến tranh ở Ukraine - trong bối cảnh có suy đoán rằng ông sẽ cho phép Ukraine sử dụng hỏa tiễn Tomahawk của Hoa Kỳ trong các cuộc đàm phán quan trọng với Tổng thống Zelenskiy vào thứ Sáu.

Tổng thống Trump nói: “Tổng thống Putin và tôi sau đó sẽ gặp nhau tại một địa điểm đã thỏa thuận là Budapest, Hung Gia Lợi, để xem liệu chúng tôi có thể chấm dứt cuộc chiến 'đáng xấu hổ' này giữa Nga và Ukraine hay không.”

Đây sẽ là lần thứ hai hai bên gặp nhau trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Trump và là lần thứ tám nói chung.

Thời điểm chính xác điều đó sẽ xảy ra vẫn chưa rõ ràng.

[The Sun: ROUND THE HOUSES Pariah Putin faces humiliating 2,000 mile detour dodging wartorn Ukraine and raging Poland to get to crunch Trump talks]

9. Khu vực ‘ngừng bắn’ cục bộ được tuyên bố tại nhà máy điện hạt nhân Ukraine để sửa chữa thiệt hại

Cơ quan giám sát hạt nhân của Liên Hiệp Quốc cho biết hôm thứ Bảy rằng công tác sửa chữa đang được tiến hành tại nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia của Ukraine sau khi “các khu vực ngừng bắn cục bộ” được thiết lập trong khu vực.

“Việc khôi phục nguồn điện ngoài nhà máy là rất quan trọng đối với an toàn và an ninh hạt nhân. Cả hai bên đã hợp tác chặt chẽ với [Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế] để cho phép kế hoạch sửa chữa phức tạp được tiến hành”, IAEA viết trong một bài đăng trên X.

Cơ sở bị Nga tạm chiếm ở đông nam Ukraine đã bị cắt khỏi lưới điện quốc gia trong bốn tuần - thời gian mất điện dài nhất kể từ cuộc xâm lược của Nga vào tháng 2 năm 2022. Nhà máy đã sử dụng máy phát điện diesel kể từ khi đường dây điện cuối cùng bị hỏng vào tháng trước.

Nếu không có nguồn điện đáng tin cậy, nhà máy điện hạt nhân lớn nhất Âu Châu có nguy cơ mất khả năng làm mát cần thiết để duy trì sự ổn định cho các lò phản ứng.

“Tình hình rất nguy cấp”, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy cảnh báo vào cuối tháng 9. “Các máy phát điện và nhà máy không được thiết kế cho tình huống này, và chưa bao giờ hoạt động ở chế độ này lâu như vậy. Và chúng tôi đã có thông tin rằng một máy phát điện đã bị hỏng”, ông nói.

Bộ Năng lượng Ukraine xác nhận các chuyên gia đang tiến hành đợt sửa chữa đường dây điện mới nhất.

Bài đăng trên Telegram cho biết: “Lý do duy nhất cho những rủi ro và mối đe dọa chưa từng có về sự việc bức xạ ở Âu Châu là hành động xâm lược quân sự của Nga, việc xâm lược Nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhya của Ukraine và việc pháo kích có hệ thống vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Ukraine”.

[Kyiv Independent: Local ‘ceasefire’ area declared at Ukrainian nuclear plant for damage repairs]

10. Các quan chức Hoa Kỳ được tường trình đang để mắt tới cuộc gặp giữa Tổng thống Trump và Kim Chính Ân

Theo CNN, chính quyền Hoa Kỳ đang cân nhắc tổ chức cuộc gặp giữa Tổng thống Trump và nhà lãnh đạo Bắc Hàn Kim Chính Ân trong những tuần tới.

Đây sẽ là lần thứ tư hai nhà lãnh đạo gặp nhau và là lần đầu tiên trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Trump.

“Tôi muốn gặp [Kim Chính Ân] trong năm nay”, Tổng thống Trump phát biểu vào tháng 8 khi chào đón tổng thống mới của Nam Hàn, Lee Jae Myung, đến Tòa Bạch Ốc lần đầu tiên.

Tổng thống Trump sẽ công du Á Châu vào cuối tháng này để tham dự Hội nghị thượng đỉnh Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, gọi tắt là ASEAN tại Malaysia và Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Kinh tế Á Châu - Thái Bình Dương, gọi tắt là APEC tại Nam Hàn. Ông cũng dự kiến sẽ dừng chân tại Nhật Bản.

Nhưng CNN đưa tin, các quan chức vẫn chưa thực hiện “bất kỳ kế hoạch hậu cần nghiêm chỉnh nào” vì họ đang tập trung hơn vào việc sắp xếp một cuộc gặp với nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình trong bối cảnh căng thẳng thương mại giữa Bắc Kinh và Washington gia tăng.

Kim cũng cho biết ông sẵn sàng gặp lại Tổng thống Trump. “Cá nhân tôi vẫn còn những kỷ niệm đẹp về Tổng thống Mỹ Tổng thống Trump”, Kim nói tháng trước. “Nếu Mỹ từ bỏ nỗi ám ảnh hão huyền về phi hạt nhân hóa và muốn theo đuổi sự chung sống hòa bình với Bắc Hàn dựa trên sự thừa nhận thực tế, thì không có lý do gì chúng tôi không ngồi lại với Mỹ “, ông nói.

[Kyiv Independent: US officials reportedly eye meeting between Trump and Kim Jong Un]
 
Đức Tổng Giám Mục bị cướp dí súng. Weigel: Rôma cần xét lại chính sách với Nga. ĐHY Sarah cảnh báo
VietCatholic Media
17:05 19/10/2025


1. Đức Tổng Giám Mục Tây Ban Nha kể lại cuộc chạm trán với những tay súng trong chuyến thăm Mexico

Đức Tổng Giám Mục Jesús Sanz của Oviedo ở Tây Ban Nha,, đã bị chĩa súng vào người trong giây lát nhưng sau đó đã được những người đàn ông đội mũ trùm đầu có súng máy ở Mexico cho phép đi tiếp mà không bị thương trong chuyến đi gần đây để ủng hộ việc thành lập một phái bộ truyền giáo mới tại Giáo phận Tlapa ở tiểu bang Guerrero.

Sanz đã đến thăm khu vực này để quảng bá cho một sứ mệnh mới do hai linh mục và một phó tế thuộc Hiệp hội Lumen Dei (Ánh sáng của Chúa) đứng đầu.

Trong một cuộc phỏng vấn do tổng giáo phận công bố, vị giám mục lưu ý rằng “có lẽ đây là một trong những khu vực bạo lực nhất ở Mexico”, với hai khía cạnh: một là “rất cơ bản, rất nguyên thủy” như trong các cuộc trả thù cá nhân và khía cạnh còn lại liên quan đến buôn bán ma túy.

“Một linh mục và tôi đang đi cử hành Thánh lễ tại một cộng đồng nhỏ vào Chúa Nhật. Rồi tại một khúc cua trên đường, ba người đàn ông trùm đầu, tay cầm súng máy xuất hiện. Họ chặn xe chúng tôi lại và hỏi chúng tôi là ai và đang đi đâu. Khi chúng tôi nói rằng chúng tôi là linh mục truyền giáo, họ nói, 'Đừng lo, cứ đi tiếp,' và thế là xong,” Đức Đức Tổng Giám Mục kể lại.

Đối với vị giám mục, “việc nhìn thấy những người chĩa súng vào bạn mà bạn không thể nhìn thấy mặt” tạo nên một cảm giác nhất định, “nhưng ngoài nỗi sợ hãi dễ hiểu đó, nó không gây ra hậu quả lớn nào, và các nhà truyền giáo luôn được kính trọng”, ngài nói thêm.

Những loại dừng xe này, được gọi là trạm kiểm soát, thường có liên quan đến các băng nhóm tội phạm có tổ chức chuyên giám sát việc ra vào xa lộ và đường bộ để ngăn chặn sự hiện diện của các nhóm đối thủ.

“Bản đồ ma túy Mexico” do tờ báo địa phương Milenio biên soạn ước tính có 24 băng nhóm tội phạm đang tranh giành địa bàn ở Guerrero.

Vụ sát hại Cha Bertoldo Pantaleón Estrada, một thành viên của Giáo phận Chilpancingo-Chilapa, cũng xảy ra tại tiểu bang Guerrero vào đầu tháng này.

Những nhà truyền giáo mới có trụ sở tại San Pedro el Viejo, một thị trấn chỉ có hơn 150 cư dân, nơi hầu hết cư dân đều nói tiếng Mixtec hơn là tiếng Tây Ban Nha.

Theo Tổng giáo phận Oviedo, việc khởi xướng nỗ lực truyền giáo này là nhờ tình bạn giữa vị giám mục, có từ thời còn ở chủng viện, với một linh mục từ Tổng giáo phận Toledo, người đã làm việc trong khu vực một thời gian và đã nhờ ngài giúp đỡ, vì tính phức tạp của nhiệm vụ này.

Sứ mệnh mới sẽ mang Tin Mừng đến một khu vực có nhiều thị trấn rất xa xôi, với địa hình đồi núi hiểm trở, nơi công việc tông đồ phải bắt đầu “từ con số không”, Cha Dionisio Serrano Pascual, tổng thư ký của Lumen Dei, phát biểu với tổng giáo phận.

Sanz giải thích rằng các nhà truyền giáo sẽ phụ trách 45 giáo xứ và họ sẽ không phải là những người cuối cùng được cử đi, vì khả năng có thêm nhiều linh mục giáo phận từ Oviedo đến khu vực này đang được xem xét.

“Giáo hội mang tính truyền giáo. Và khi Chúa Giêsu rời xa các tông đồ, Người nói với họ: 'Hãy đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng, Tin Mừng của Chúa.' Đánh mất mối quan tâm truyền giáo này là đánh mất căn tính Kitô hữu của chúng ta”, vị giám mục nhấn mạnh.

Từ kinh nghiệm đồng hành cùng các nhà truyền giáo trong nhiệm vụ mới, Đức Đức Tổng Giám Mục Oviedo nhấn mạnh rằng, bên cạnh việc trẻ em và thanh thiếu niên là nguồn hy vọng, những người lớn tuổi hơn vẫn mang trong mình “di sản của công cuộc truyền giáo đầu tiên, diễn ra cách đây nhiều thế kỷ, nhờ sự hiện diện của các anh em Phanxicô. Và vì họ không phải lúc nào cũng được sự hỗ trợ của các linh mục, nên họ đã truyền lại, qua lời truyền miệng, đức tin mà họ đã lãnh nhận và những kiến thức cơ bản mà họ đã học được trong sách giáo lý.”


Source:Catholic News Agency

2. Rôma cần xét lại chính sách với Nga

Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Russian Reset Required in Rome”, nghĩa là “Rôma cần xét lại chính sách với Nga”.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Khi Thượng phụ Kirill của Mạc Tư Khoa và Toàn nước Nga còn là nhà lãnh đạo bộ phận quan hệ đối ngoại của Giáo hội Chính thống giáo Nga, thỉnh thoảng ông sẽ đến Washington, nơi Thủ thư Thư viện Quốc hội, James Billington, một sử gia lỗi lạc về văn hóa Nga, sẽ chiêu đãi ông một bữa tối nhỏ. Tôi là khách mời trong một dịp như vậy, và ấn tượng mà Kirill để lại đêm đó vẫn còn trong tâm trí tôi: tinh tế và thông minh (theo nghĩa của từ này trong tiếng Anh); có năng khiếu ngôn ngữ; có khả năng quyến rũ; và là một chính trị gia đích thực. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Vài tháng trước sinh nhật lần thứ 26 của mình, Thượng phụ Kirill khi đó đã được bổ nhiệm vào Hội đồng các Giáo hội Thế giới tại Geneva; và vào năm 1971, cách duy nhất để một giáo sĩ trẻ người Nga có được nhiệm vụ béo bở đó là phải chịu sự quản lý, và có lẽ là phải nằm trong biên chế của KGB, cơ quan an ninh Liên Xô.

Với tư cách là giáo chủ, Kirill đã liên minh với một tay sai cũ của KGB, là Vladimir Putin, kẻ giết người hàng loạt và bắt cóc trẻ em, trong cuộc chiến của Nga nhằm phá hoại Ukraine. Ý nghĩa của điều này đối với Giáo hội của ông được trình bày chi tiết trong một báo cáo của Quỹ Nước Nga Tự do, có nhan đề “Giáo hội Chính thống giáo Nga và Chiến tranh”. Nội dung chính của báo cáo được trình bày trong phần Giới thiệu sau:

Đầu tháng 3 năm 2022, khi quân đội Nga xâm lược Bucha và Hostomel, Thượng phụ Kirill đã tuyên bố trong một bài giảng tại Nhà thờ Chúa Cứu Thế: “Nga không tiến hành một trận chiến thể lý, mà là một trận chiến siêu hình chống lại các thế lực tà ác ở Ukraine”. Ông coi cuộc chiến này là cuộc đấu tranh chống lại tội lỗi, tuyên bố rằng nó “không chỉ có ý nghĩa chính trị” mà còn liên quan trực tiếp đến sự cứu rỗi nhân loại—do đó mang lại cho nó sự biện minh về mặt tôn giáo và thiêng liêng.

Kể từ đó, Giáo hội đã tham gia vào cuộc chiến trên nhiều mặt trận:

Tuyên truyền và hỗ trợ tư tưởng

Tương tác trực tiếp với quân đội và hiện diện ở tiền tuyến— “sự hỗ trợ thần bí” liên quan đến các hiện vật thiêng liêng, lời cầu nguyện và nghi lễ để thánh hóa nỗ lực chiến tranh;

Thao túng ngoại giao ở nước ngoài—thúc đẩy lợi ích của Nga trong các tổ chức đại kết quốc tế, các quốc gia Chính thống giáo và thông qua các hoạt động gián điệp.

Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa có một kênh truyền hình, Spas, phát sóng miễn phí đến mọi gia cư Nga. Vài tháng sau khi chiến tranh nổ ra, Kirill đã thuyết giảng trên Spas, trong đó ông tuyên bố rằng bất kỳ người lính Nga nào tử trận trong chiến tranh sẽ được tự động xóa bỏ mọi tội lỗi trước đây – tuyên bố ấy là một tà thuyết. Tệ hơn nữa là Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa còn cho ra mắt bộ phim tài liệu Spas có tựa đề “God at War” (Chúa trong chiến tranh), đó thật sự là một sự báng bổ quá quắt.

Người ta có thể đặt câu hỏi liệu có bao nhiêu binh lính Nga mà Putin đang nhồi nhét vào cối xay thịt lại tin vào thứ tuyên truyền đê tiện này. Bất kể câu hỏi đó được trả lời thế nào, tôi thấy rằng cuốn “Giáo hội Chính thống giáo Nga và Chiến tranh” là tài liệu đọc thiết yếu cho tất cả mọi người trong Tòa thánh, những người tham gia vào ngoại giao Vatican hoặc phong trào đại kết Vatican. Ngoại giao và đại kết có vẻ như là hai lĩnh vực riêng biệt trong nỗ lực của Vatican. Trong trường hợp này, chúng có liên quan mật thiết với nhau.

Khi tôi còn là một nhà nghiên cứu Vatican mới vào nghề vào đầu những năm 1990, những cuộc trò chuyện sâu rộng với các nhà lãnh đạo của Hội đồng Giáo hoàng về Thúc đẩy Hiệp nhất Kitô giáo khi đó đã giúp tôi nhận ra một khái niệm chiến lược đã ăn sâu vào cả phong trào đại kết lẫn “bộ ngoại giao” của Vatican, tức Phân bộ Thứ Hai của Phủ Quốc vụ khanh. Khái niệm đó bắt đầu hình thành vào giữa những năm 1960 và có thể được tóm tắt trong câu: “Con đường từ Rôma đến Constantinople chạy qua Mạc Tư Khoa”. Nói cách khác, việc tái lập sự hiệp nhất Kitô giáo và khôi phục sự hiệp thông trọn vẹn giữa Giám mục Rôma và Thượng phụ Đại kết Constantinople đòi hỏi, như một điều kiện tiên quyết, sự hòa giải với Giáo hội Chính thống Nga, giáo hội Chính thống giáo lớn nhất.

Dù ý nghĩa thực dụng của câu nói này trước đây có là thế nào đi nữa, thì “Con đường từ Rôma đến Constantinople đi qua Mạc Tư Khoa” giờ đây đã trở nên vô lý về mặt thần học, bởi vì giới lãnh đạo Giáo hội Nga đã từ bỏ chính thống giáo Kitô, thể hiện qua những tuyên bố dị giáo và phạm thượng của Kirill trong hơn ba năm qua. Việc bám víu vào chiến lược đó cũng đã cản trở chứng ngôn đạo đức của Tòa Thánh, như đã thấy qua sự do dự của Vatican trong việc nêu tên và lên án kẻ xâm lược khi Nga xâm lược Ukraine vào tháng 2 năm 2022. Nói “do dự” là nói một cách nhẹ nhàng, bao dung.

Nếu một cuộc chiến tranh chớp nhoáng của Nga chiếm được Kyiv hồi đó, nhà lãnh đạo Công Giáo Ukraine, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk, đã bị lên kế hoạch thanh trừng ngay lập tức. Lòng dũng cảm của người Ukraine đã ngăn cản ngài tử đạo. Nhưng có những người không bao giờ bỏ cuộc: Trong thời gian trống ngôi Giáo hoàng gần đây, Đức Tổng Giám Mục Shevchuk đã bị các điệp viên của FSB, cơ quan kế nhiệm KGB, theo dõi ngay tại Rôma.

Những kinh nghiệm bổ ích đó, cùng với việc đọc kỹ báo cáo của Quỹ Nước Nga Tự do, sẽ dẫn đến việc xem xét lại toàn diện chiến lược đại kết của Vatican đối với Đông phương Kitô giáo và mối quan hệ của chiến lược này với chính sách ngoại giao của Tòa thánh đối với một nước Nga muốn trả thù.


Source:First Things

3. Đức Hồng Y Sarah cảnh báo về 'chiến trường' mới về phụng vụ Giáo hội

Đức Hồng Y Robert Sarah đã phát biểu từ nhà riêng của mình ở Rôma về điều mà ngài gọi là “chiến trường” mới xung quanh phụng vụ của Giáo hội.

Trong một cuộc phỏng vấn với hãng truyền thông Pháp Tribune Chrétienne vào ngày 13 tháng 10, vị Hồng Y người Guinea, cựu Tổng trưởng Bộ Phụng tự, đã suy ngẫm về những căng thẳng xảy ra sau những hạn chế đối với Thánh lễ La tinh truyền thống do Tự Sắc Traditionis Custodes đưa ra vào năm 2021.

Ngài cho biết Thánh lễ, “khoảnh khắc duy nhất con người đối diện với Chúa”, đã trở thành nguồn xung đột giữa “những người theo chủ nghĩa truyền thống và những người theo chủ nghĩa cấp tiến”, đồng thời cảnh báo rằng những cuộc cãi vã như vậy có nguy cơ làm ô uế Bí tích Thánh Thể.

Ngài kêu gọi suy tư và hòa giải, nhấn mạnh rằng phụng vụ không bao giờ được trở thành vũ khí gây chia rẽ bè phái trong Giáo hội. “Tại sao chúng ta phải đấu tranh với nhau?” ngài hỏi. “Tại sao lại cấm điều này điều kia? Ai cho chúng ta quyền này?”

Đức Hồng Y Sarah kêu gọi những người tham dự Thánh Lễ La Tinh Truyền Thống không nên bị gạt ra ngoài lề, lưu ý rằng nhiều người Công Giáo ngoan đạo nhất cũng nằm trong số họ. “Đức Giáo Hoàng là cha của tất cả mọi người”, ngài nói. “Ngài là cha của những người theo chủ nghĩa truyền thống, cha của những người cấp tiến, cha của tất cả mọi người.” Ngài nói thêm rằng ngài đã thảo luận vấn đề này với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, và ngài cho biết ngài nhận thức được những khó khăn do việc áp dụng khác nhau quyền giám sát Tự Sắc Traditionis Custodes trong các giáo phận khác nhau.

Trong cuộc phỏng vấn sâu rộng, Đức Hồng Y Sarah cũng đã lên tiếng mạnh mẽ về các vấn đề đạo đức và đức tin. Ngài mô tả phá thai là “một tội ác ghê tởm” và nói rằng những nỗ lực ở Pháp nhằm đưa nó trở thành một quyền hiến định là “một sự xúc phạm trực tiếp đến Chúa”. Ngài nhắc lại rằng việc phong chức linh mục cho phụ nữ là “bất khả thi”, tuyên bố rằng Giáo hội “không có thẩm quyền” để làm như vậy, và cảnh báo rằng bất kỳ nỗ lực nào nhằm tạo ra một chức linh mục dành cho nữ giới sẽ không nằm trong truyền thống tông đồ.

Đề cập đến các vấn đề đạo đức và xã hội mà phương Tây đang phải đối mặt, Đức Hồng Y cho biết những xã hội “tách rời khỏi Thiên Chúa” đang trên con đường “tự sát”, lập luận rằng chủ nghĩa thế tục đã trở thành một “cuộc chiến chống lại Giáo hội”. Ngài nói rằng mặc dù các vụ lạm dụng tình dục của giáo sĩ cần phải bị trừng phạt, nhưng một số người lại lợi dụng tai tiếng này để tấn công toàn thể Giáo hội. Ngài cũng lên án việc treo cờ LGBT tại Đền Thờ Thánh Phêrô, gọi đó là “sự xúc phạm đến Thiên Chúa”, và chỉ trích cái mà ngài gọi là “sự thờ ngẫu tượng” thiên nhiên trong một số phong trào sinh thái.

Những phát biểu của Đức Hồng Y Sarah được đưa ra trong bối cảnh cuộc tranh luận vẫn đang tiếp diễn về tương lai của Thánh Lễ La Tinh Truyền Thống và phản ứng của Giáo Hội trước làn sóng tục hóa đang gia tăng ở Âu Châu. Kể từ khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô ban hành Tự Sắc Traditionis Custodes vào tháng 7 năm 2021, hạn chế việc cử hành Thánh Lễ La Tinh, các giám mục trên khắp thế giới đã thực thi sắc lệnh này với nhiều mức độ nghiêm ngặt khác nhau. Tại Pháp, nơi sự gắn bó với các nghi lễ truyền thống vẫn còn mạnh mẽ, một số giáo phận đã chứng kiến căng thẳng nảy sinh giữa giáo sĩ và cộng đồng giáo dân đang tìm cách duy trì quyền tiếp cận Sách Lễ La Tinh năm 1962.

Đồng thời, Vatican đang phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng trong việc giải quyết tình trạng thực hành đức tin đang suy giảm trên khắp Tây Âu, với việc tham dự Thánh lễ và ơn gọi giảm mạnh ở một số quốc gia Công Giáo truyền thống. Các giám mục bảo thủ cao cấp đã cảnh báo về một cuộc khủng hoảng tâm linh ngày càng sâu sắc khi đời sống công cộng ở Âu Châu ngày càng xa rời các giá trị Kitô giáo.


Source:Catholic Herald