Ngày 31-10-2017
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Ơn gọi nên thánh
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
01:42 31/10/2017
Lễ các Thánh Nam Nữ

Năm phụng vụ diễn tả lịch sử cứu độ và tuyệt đỉnh của lịch sử này là cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô.

Năm phụng vụ có năm mùa nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất - mầu nhiệm cứu độ: Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.

Năm mùa phụng vụ đều quy về chính Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ.Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể,đã sinh ra,đã chết,đã sống lại,lên trời ngự bên hữu Chúa Cha,và gởi Thánh Thần đến với Giáo hội.

Các ngày lễ về các Thánh nói lên thành quả của ơn cứu độ.Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.Các ngày lễ này có hai cao điểm:

- Lễ Đức Maria hồn xác lên trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ.Thiên Chúa cứu độ là cứu cả hồn xác,toàn diện con người: “Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ…Người đã làm những điều cao cả”.

- Lễ các Thánh Nam Nữ là chiều rộng của ơn cứu độ: “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”.

Theo lời Sách Khải Huyền, Các Thánh trên trời là “một đoàn người đông đảo, không sao đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ”. Họ đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta.

Trong lịch Phụng Vụ của Giáo Hội Công Giáo, hầu như trong thánh lễ Misa nào cũng có mừng kính thánh này thánh kia; tuy nhiên vẫn chưa thể mừng hết được. Bởi chưng hơn 10 ngàn vị đã được Giáo Hội tôn phong hiển thánh, mỗi một năm chỉ có 365 ngày, cho nên không thể nào mừng kính tất cả Các Thánh từng ngày trong năm phụng vụ. Vì vậy, ngày 1.11, mừng toàn thể Chư Thánh trên Thiên Quốc, cả những vị thánh chưa được tôn phong chưa được ai biết đến, là trọn tình vẹn nghĩa nhất.

1. Các Thánh Nam Nữ là ai?

Các Thánh Nam Nữ là những phúc nhân (chữ của Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc), những người đang hưởng hạnh phúc đời đời bên cạnh Thiên Chúa. Các Ngài là tất cả những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, đang thuộc trọn về Chúa. Các Ngài sung sướng, vui mừng vì thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, được thấy Thiên Chúa tốt lành.

Các Thánh Nam Nữ là những người đã thực hiện những điều mà Thánh Phanxicô Assidi dệt thành Kinh Hòa Bình: Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…

Các Thánh Nam Nữ đông vô kể: “Tôi lại thấy một Thiên Thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên… Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn” (Kh 7,2-4). Con số “một trăm bốn mươn bốn ngàn” chỉ là một cách nói để bày tỏ sự viên mãn và hoàn hảo của dân Thiên Chúa, dân mới được Thiên Chúa cứu chuộc, thuộc về Thiên Chúa, chứ không thể hiểu theo nghĩa số học, số lượng. “Một trăm bốn mươn bốn ngàn” trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tròn đầy (12 x 12 = 144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy.Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa,12 ngàn thuộc chi tộc Ruben,12 ngàn thuộc chi tộc Gad…không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ. Bởi ngay sau đó, thánh Gioan viết tiếp: “tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nỗi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành thiên tuế” (Kh 7,4).

Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Đó là cộng đoàn các Thánh Nam Nữ. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản: “Ta bảo thật các ngươi,nhiều kẻ tự phương đông,phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham,Isaac và Giacop trong nước trời”.

Chính vì thế, ngoài những vị thánh mà Giáo Hội đã xác định được và đã kính nhớ các Ngài vào các ngày lễ trong năm, Giáo Hội còn dành ra một ngày lễ đặc biệt để long trọng kính nhớ hằng hà sa số các vị thánh mà Giáo Hội chưa hoặc không thể xác định được, gọi chung là Các Thánh Nam Nữ. Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi dân tộc.

2. Bí quyết nên thánh

Thánh Gioan viết: “Một trong các kỳ mục lên tiếng hỏi tôi: những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu tới? Tôi trả lời: thưa Ngài, Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao” (Kh7,13).Thánh Tông đồ đã nhìn thấy họ trên Thiên đàng, tràn đầy hân hoan, ca hát chúc tụng Thiên Chúa: “Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Quả thực, việc thanh tẩy tội lỗi chỉ thành tựu nhờ máu Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, các Thánh đã phải trải qua cuộc gian truân lớn. Vì tình yêu Đức Kitô, tất cả đã phải giao chiến với quyền lực của sự dữ, với muôn nghìn đau khổ và khó nhọc. Nhưng thánh Gioan cũng giới thiệu phần thưởng lớn lao của các Ngài: “Họ đêm ngày thờ phượng trong đền thờ của Thiên Chúa… Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh” (Kh 7,15-17).

Các Thánh “đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”. Như thế, họ không phải là những con người hoàn hảo,thánh thiện,tinh tuyền,không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, không là những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại.Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người,nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống Tám Mối Phúc Thật,là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với ân sủng đó,vâng theo ý Chúa,chọn điều thiện,luyện tập nhân đức.

Có rất nhiều vị thánh bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã trình bày tám con đường nên thánh, tám con đường để được hạnh phúc đích thực.

Có người nên thánh, vì sống khó nghèo, không ham mê của cải trần gian, chỉ ham mê một điều là thích được Chúa yêu và đáp trả lại tình yêu của Chúa. Có người nên thánh, vì sống hiền lành, tử tế với mọi người, nhịn nhục, yêu thương mọi người không trừ một ai. Có người nên thánh, vì đã phải chịu đau khổ nhiều mà không ngã lòng thất vọng, còn biết dùng những đau khổ của mình, kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dâng lên cho Thiên Chúa làm của lễ. Có người nên thánh, vì có lòng nhân từ quảng đại và hay tha thứ, có lòng xót thương xót đối với những người đau khổ tinh thần hay thể xác. Có người nên thánh, vì khao khát Chúa, muốn sống công chính đẹp lòng Chúa. Có người nên thánh vì tâm hồn trong sạch, không vương vấn tội lỗi trần gian, không bị các thứ đam mê xác thịt làm chủ. Có người nên thánh vì hiếu hòa, không gây hấn với ai, mà còn dấn thân hoà giải những người khác, đem lại bình an cho mọi người. Có người nên thánh, vì sống tốt, sống ngay thẳng, trung thành với Chúa và giáo huấn của Người, dù phải bách hại khổ sở, có khi còn bị giết chết nữa. Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là chủng sinh, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người. (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).

Tuy có nhiều cách thức nên thánh, có vị nên thánh trong bậc tu trì, có vị lại nên thánh trong đời sống gia đình, có vị nên thánh bằng các hoạt động tông đồ năng nổ, có vị nên thánh trong một đời sống âm thầm, lặng lẽ, có vị nên thánh nơi pháp trường đẫm máu, có vị nên thánh chốn sa mạc cô liêu… Nhưng tựu trung, tất cả các thánh đã gặp nhau trên một con đường. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, Chúa Giêsu đã đi “qua đau khổ đến vinh quang”.

“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống

Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng”.

Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội phong thánh để tôn vinh Thiên Chúa và khuyến khích chúng ta noi theo gương sống của Các Thánh.

3. Ơn gọi lớn nhất của con người là nên thánh

Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: "Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện" (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: "Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người" (GH 11.3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Đức Chân Phước Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.

Trong Năm Phụng Vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Giáo hội tôn kính tất cả các vị Thánh, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội tuyên phong.

Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ.
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:38 31/10/2017
18. NGƯỜI GIÀ QUÊN LỜI
Thái thượng lão quân đã nói:
- “Thông hiểu ngàn quyển kinh, thân vút lên mây xanh”.
Có đạo sĩ nọ rất là tin tưởng câu nói này bèn học thuộc lòng các kinh, khi thuộc đến chín trăm chín mươi chín quyển kinh bèn bắt đầu tắm gội, cáo biệt người thân, ngồi trên đài cao để đợi bay vút lên mây.
Trong lúc ông ta thành khẩn đọc xong kinh thứ một ngàn thì nhắm đôi mắt, từng giây từng phút đợi bay lên, nhưng đợi đến trời tối mà thân cũng không nhấc lên được nửa tấc, ông đạo sĩ ấy bèn chỉ hình tượng của Thái thượng lão quân than thở nói:
- “Ai ngờ được, ngài chừng nấy tuổi rồi mà vẫn còn nói dối.”
(Giải Uẩn thiên)

Suy tư 18:
Nói láo hoặc nói lời dối trá là bày tỏ một tâm hồn không thật thà, nhưng người nghe tin lời nói dối thì lại càng khốn khổ thêm, nghĩa là biểu hiện một tâm hồn thiếu lòng tin.
Có một những người Ki-tô hữu không nghe lời cha sở giảng, nhưng lại nghe theo và tin theo lời người nói dối nên bị lừa mất tiền bạc; có người trong nhà có sách Knh Thánh, có sách đạo rất nhiều nhưng không đọc và không tin, mà lại thích đọc những truyện tiểu thuyết dâm ô, nghe lời bạn xấu để rồi sa ngã vào những tội lỗi tày trời; lại có người cha mẹ dạy dỗ không nghe, nhưng lại đi nghe đứa nói dối về nhà cắp tiền cha mẹ để tiêu xài, rốt cuộc bị bỏ tù vì tội ăn trộm...
Người nói láo nói dối chính là người cam tâm làm phát ngôn viên của ma quỷ, là công cụ tuyên truyền tội ác trên mặt đất, là vi trùng tội lỗi gây bệnh truyền nhiễm từ tâm hồn người này qua tâm hồn người khác, mà người bị nhiễm vẫn cứ tưởng rằng mình là người mạnh khoẻ.
Con người ta không ai thích người nói láo nói dối, nhưng có nhiều người thích nghe lời người nói láo nói dối, vì lời nói láo phỉnh phờ lừa bịp thì dễ nghe, vì “xảo ngôn” thì không biết góp ý mà chỉ muốn tâng bốc nịnh bợ mà thôi, và tội lỗi từ đó mà phát sinh.
Đáng sợ thay tội nói láo nói dối, và suy cho cùng thì tội nói láo nói dối là tội to lắm, bởi vì Đức Chúa Giê-su đã nói: có thì nói có, không thì nói không, thêm điều bịa đặt là do ma quỷ mà ra.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:42 31/10/2017

7. Cầu nguyện là hấp thụ lương thực làm việc thiện của chúng ta, đem nó phân phát đến tất cả các phần của linh hồn.

(Thánh Barnard)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách n gôn thần học tu đức"

----------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Lễ Các Thánh Nam Nữ: Niềm Vui Với Các Thánh Trên Trời
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
04:06 31/10/2017
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
NIỀM VUI VỚI CÁC THÁNH TRÊN TRỜI
01/11
Kh 7,2-4,9-14; 1 Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a

1- Ngày lễ của niềm vui
Ngày nay, các nhà khoa học đã phóng những tín hiệu vào không trung, với hy vọng có thể nhận được những tín hiệu liên lạc với những sinh linh trên những hành tinh đã biến mất. Nếu có một lớp con người nào đã sống và tồn tại ở ngoài hệ hành tinh chúng ta, sự liên lạc với họ có lẽ là không thể, bởi vì khoảng cách giữa câu hỏi và câu trả lời là hàng triệu năm qua rồi.
Hôm nay, chúng ta cử hành đại lễ các Thánh Nam Nữ. Qua thánh lễ này, Giáo Hội muốn diễn tả mầu nhiệm hiệp thông của chúng ta với những người thuộc thế giới khác, đó là với vô số Các Thánh Nam Nữ trên thiên đàng. Đây là chân lý mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin Các Thánh thông công.” Đối với đức tin Kitô giáo, câu trả lời là trực tiếp và rõ ràng, bởi lẽ, chúng ta có một trung tâm điểm cho sự hiệp thông và nối kết này là Đức Kitô Phục Sinh.
Có lẽ lễ Các Thánh là lễ mà người tín hữu rất thích tham dự, bởi vì, nó được cử hành trong một thời điểm đặc biệt là gần cuối năm phụng vụ, nhưng đặc biệt hơn, nó diễn tả ý nghĩa cuộc đời và định mệnh mỗi người mà ai cũng khát khao hướng về với niềm hy vọng lớn lao. Lý do hệ tại ở điều được thánh Gioan nói tới trong bài đọc II: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ” (1 Ga 3,1-3). Chúng ta giống như phôi thai trong dạ mẹ mong được sinh ra. Các Thánh đã được “sinh ra.” Vì thế, phụng vụ coi ngày từ trần của Các Thánh là “ngày sinh nhật” của các ngài trên trời (dies natalis). Chiêm ngắm Các Thánh là chiêm ngắm vận mệnh chúng ta. Mùa thu về, thiên nhiên như tàn lụi, cây cối tàn úa, mùa lá rụng, nhưng lễ Các Thánh mời gọi chúng ta nhìn xa hơn, nhắc nhở mỗi người ý thức rằng chúng ta không được tiền định để tàn lụi mãi mãi như lá cây, nhưng là để sống vĩnh cửu với Thiên Chúa như Các Thánh.
2- Các Thánh là ai?
Vậy thì, Các Thánh là những ai? Bài đọc I của ngày lễ giúp chúng ta hiểu Các Thánh là ai. Họ “đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ là những người đã giặt áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Các Thánh là những người đã chấp những thử thách, đau khổ để theo bước theo Đức Kitô, họ đón nhận sự thánh thiện từ Chúa Kitô; họ được kết hợp với Chúa Kitô.
Các Thánh là những người đã trung thành và kiên nhẫn sống các giá trị Tin Mừng, đặc biệt sống trọn vẹn các mối phúc như được nói ở Bài Tin Mừng. Các Thánh đã sống tinh thần nghèo khó vì Nước Trời. Các Thánh là những người hiền lành vì Nước Trời. Các Thánh là những người phải chịu sầu khổ vì Nước Trời. Các Thánh là những người chịu bách hại vì sống công chính vì Nước Trời là của họ (Mt 5,10). Tắt một lời, Các Thánh không chấp nhận sống một cuộc sống tầm thường; họ không hài lòng với kiểu sống nửa vời, nhưng chấp nhận đánh mất mọi sự, để sống thánh thiện theo lý tưởng của Chúa Kitô.
Các Thánh không chỉ là những người được đề cập trong lịch phụng vụ hoặc trong sách Hạnh Các Thánh. Nhưng còn có rất nhiều vị thánh mà chúng ta chưa biết đến: Các thánh là “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9). Có vô số Các Thánh là những người đã sống một cuộc đời thánh thiện trong sự âm thầm, nhưng đã được Thiên Chúa vinh thăng. Có rất nhiều vị âm thầm hy sinh cuộc đời của mình vì tha nhân; có nhiều vị phải tử đạo vì công lý và tự do; có nhiều vị một đời tận tụy phục vụ người khác nơi bệnh viện, nơi học đường, nơi các gia đình và các tổ chức Giáo Hội… Dầu không ai biết đến, nhưng họ là những người đã giặt áo mình trong máu Con Chiên, vì họ sống theo tiếng nói lương tâm và họ luôn xây dựng hòa bình và vì thiện ích của tha nhân.
3- Các Thánh làm gì trên thiên đàng?
Một câu hỏi đặt ra cho chúng ta ở đây: Các Thánh trên trời làm gì? Chúng ta tìm thấy câu trả lời ở đây trong bài đọc I: “Họ sấp mặt xuống, phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô rằng: Amen! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! Amen!” (Kh 7,11-12). Như thế, ơn gọi đích thực của con người được thành toàn trong họ, đó là được “ca ngợi vinh quang Thiên Chúa (Eph 1,14). Dưới sự hướng dẫn của Đức Maria, ca đoàn Các Thánh tiếp tục hát bài thánh thi tạ ơn trên thiên đàng: “Linh hồn tôi tung hô Chúa.” Trong lời ca ngợi này các thánh tìm thấy hạnh phúc và niềm vui. “Linh hồn tôi hớn hở trong Thiên Chúa.” Một người đang yêu là người luôn biết ngưỡng mộ và ca ngợi. Khi yêu mến và ca ngợi Thiên Chúa, chúng ta sẽ trở nên giống Thiên Chúa, tham dự vào vinh quang và hạnh phúc của Người.
Một ngày nọ, thánh Saint Simon The New Theologian trải qua kinh nghiệm thần bí về Thiên Chúa rất mãnh liệt, ngài kêu lên rằng: “Đủ cho con rồi, Thiên đàng không thể hơn thế này được.” Nhưng Chúa Kitô nói với ngài: “Con là người rất tội nghiệp nếu con chỉ bằng lòng với điều đó. Niềm vui mà con vừa trải nghiệm so sánh với thiên đàng giống như bầu trời được vẽ trên giấy.”
Như thế, lễ Các Thánh là ngày cử hành niềm vui của chúng ta, bởi vì Các Thánh là những thành viên trong gia đình, giáo xứ, công đoàn chúng ta. Các ngài đã được vinh thăng. Đồng thời, ngày lễ này nhắc nhở và cũng cố niềm hy vọng lớn lao cho chúng ta về định mệnh cao cả nhất của mỗi người là được kết hợp với Đức Kitô.
Nguyện xin Các Thánh Nam Nữ trên trời cầu bầu cho chúng ta. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
 
Thánh lễ kính Các Thánh Nam Nữ 01/11/2017 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
04:44 31/10/2017
Bài Ðọc I: Kh 7, 2-4, 9-14

“Tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng”.

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan đã nhìn thấy một thiên thần khác từ phía mặt trời mọc đi lên, tay cầm ấn Thiên Chúa hằng sống, và lớn tiếng kêu gọi bốn thiên thần được lệnh tàn phá đất và biển mà rằng: “Chớ có tàn phá đất, biển và cây cối trước khi ta đóng ấn trên trán những tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta”. Và tôi đã nghe biết số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel.

Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Ðấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”.

Rồi tất cả các thiên thần đến đứng chung quanh ngai vàng, và các trưởng lão cùng bốn con vật sấp mình xuống trước ngai mà thờ lạy Thiên Chúa rằng: “Amen! Chúc tụng, vinh hiển, khôn ngoan, cảm tạ, vinh dự, uy quyền và dũng lực cho Thiên Chúa chúng tôi muôn đời. Amen”. Rồi một trong các trưởng lão lên tiếng hỏi rằng: “Những người mặc áo trắng này là ai vậy? Và họ từ đâu mà đến?” Tôi đáp lại rằng: “Thưa ngài, hẳn ngài đã rõ”. Và người bảo tôi rằng: “Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6

Ðáp: Lạy Chúa, này là dòng dõi của những kẻ tìm Chúa (c. 6a).

Xướng: 1) Trái đất và muôn loài trên mặt đất là của Chúa, hoàn cầu và muôn vật trên địa cầu. Vì chưng Chúa đã xây dựng nền móng trái đất trên biển cả, và Người đã tạo dựng nó trên các sông ngòi. – Ðáp.

2) Ai sẽ được trèo lên núi Chúa? Ai sẽ được dừng bước trong thánh điện? Ðó là người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá. – Ðáp.

3) Người đó sẽ hưởng phúc lành của Chúa và lượng từ bi của Chúa, Ðấng giải thoát họ. Ðấy là dòng dõi của những kẻ tìm Người, những kẻ tìm tôn nhan Thiên Chúa của Giacóp. – Ðáp.


Bài Ðọc II: 1 Ga 3, 1-3

“Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, các con hãy coi: Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và thực sự là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy. Và bất cứ ai đặt hy vọng nơi Người, thì tự thánh hoá mình cũng như Người là Ðấng Thánh.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mc 11, 28

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các con”. – Alleluia.

Phúc Âm: Mt 5, 1-12a

“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:

“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. – Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. – Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. – Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. – Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. – Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. – Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. – Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.

“Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời”.

Ðó là lời Chúa.
 
Thi ca suy niệm Chúa Nhật tuần 31 thường niên
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
08:23 31/10/2017
Chúa Nhật 31 THƯỜNG NIÊN. A
(Mt. 23:1-12)
GIẢ HÌNH


Các thầy thông luật ngồi trên,
Có quyền dậy dỗ, khuyên nên nghe lời.
Hãy làm, tuân giữ lời mời,
Đừng theo tật xấu, có nơi các thầy.
Không làm mà nói rất hay,
Chất vai gánh nặng, đắng cay muộn phiền.
Phô trương công đức triền miên,
Thẻ kinh nới rộng, may viền khoe khoang.
Dành phần chỗ nhất huênh hoang.
Bái chào nơi phố, huy hoàng giả danh.
Xưng hô kính trọng đã dành,
Giả hình rỗng tuếch, thực hành thì không.
Danh ‘thầy’ thích gọi đám đông,
Anh em chung sống, mặn nồng có nhau.
Một Thầy chỉ đạo trước sau,
Giê-su chí ái, hãy mau phụng thờ.
Ai người quyền thế bây giờ,
Là người phục vụ, cậy nhờ đỡ nâng.
Khiêm nhu tự hạ xin vâng,
Tập tành nhân đức, phó dâng đổi đời.

Chúa Giêsu đã vạch trần sự giả hình của những người Biệt Phái. Nhóm người Biệt Phái được coi như những bậc thầy trong tôn giáo. Họ thay mặt Chúa lãnh đạo, hướng dẫn và dạy bảo dân chúng. Họ đặt ra nhiều thứ luật lệ và chất gánh nặng lên vai người khác. Họ nói mà không làm và chỉ dạy mà không giữ. Lời nói của họ không đi đôi với việc làm.

Chúng ta cảm thấy Lời Chúa như đang nói với chính chúng ta. Biết rằng vì bản tính yếu đuối, chúng ta thấy có sự cách biệt không ít giữa lý tưởng và cuộc sống thực tế. Giữa lời giảng dạy, khuyên bảo và cuộc sống thực còn cách xa. Sự cách biệt này đươc gọi là giả hình. Mỗi người chúng ta đều sống giả hình trong mức độ nào đó. Thánh Phaolô nói rằng sự lành tôi muốn, tôi không làm; còn sự dữ, tôi không muốn, tôi lại làm.

Không ai trong chúng ta có thể tự nhiên là người hoàn hảo. Bản tính yếu đuối lầm lạc chính là cơ hội giúp chúng ta vươn lên. Điều Chúa trách cứ không phải là sự yếu đuối, nhưng là thái độ cố chấp và mù quáng. Cố tình từ chối tình trạng bất toàn của mình để sửa đổi.

Đôi khi chúng ta nghe rằng có vài người rời bỏ Giáo Hội, cộng đoàn hay nhóm hội. Họ nghĩ rằng các giám mục, linh mục đã không thực hành điều họ dạy. Điều này có phần đúng. Những việc giữ đạo và sống đạo cần thiết giúp chúng ta nên hoàn thiện mỗi ngày. Chúng ta cũng biết rằng là con người, trong chức vụ nào cũng thế, cần phải cố gắng không ngừng để hoàn thiện chính mình. Lời khuyên sống đạo vẫn có giá trị cho cuộc sống mỗi người. Các giám mục , linh mục là dụng cụ Chúa dùng. Họ cũng có những yếu đuối cần khắc phục. Không ai quá xấu như chúng ta tưởng.

Chỉ có Chúa là thầy dạy hoàn hảo. Còn tất cả chúng ta là anh em với nhau. Chúng ta cần có nhau để sống bác ái trong tình người. Qua các ơn gọi, Chúa trao cho mỗi người một trách nhiệm. Sự hiện diện của Chúa qua các bề trên như giám mục, linh mục, cha mẹ, thầy cô, những người lãnh đạo… Chúng ta cùng thông cảm với những yếu đuối của họ. Họ cũng là những con người bất toàn như chúng ta. Đây là những con người cần được chữa lành, soi sáng và nâng đỡ.

Xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành lời Chúa trong cuộc sống.

THỨ HAI, TUẦN 31 THƯỜNG NIÊN
(Lc 14, 12-14).
TRI ÂN


Ngỏ lời thủ lãnh trong dân,
Chúa khuyên tế nhị, ân cần nghĩ suy.
Khi ông dọn tiệc đại bi,
Đừng mời bạn hữu, tông chi họ hàng.
Đáp tình, mời lại người làng,
Chẳng công ân nghĩa, tiếng vang ở đời.
Khi ông đãi tiệc hãy mời,
Những người nghèo khó, không nơi nương nhờ.
Đui mù, tàn tật, khù khờ,
Đền ơn chẳng có, chỉ chờ thi ân.
Lập công cao quý thế trần,
Nêu gương bác ái, thế nhân cao vời.
Muối men ánh sáng giữa đời,
Thương người nghèo khó, ơn trời phúc ban.
Yêu người mến Chúa sẻ san,
Ngày sau hưởng phước, chứa chan ơn lành.

THỨ BA, TUẦN 31 THƯỜNG NIÊN
(Lc 14, 15-24).
TIỆC CƯỚI


Đồng bàn dự tiệc thưa rằng:
Phúc ai ăn tiệc, vĩnh hằng trời cao.
Dụ ngôn Chúa kể truyền rao,
Người kia dọn tiệc, đãi khao mọi người.
Thiệp mời thực khách nhiều nơi,
Tới giờ khai tiệc, chối mời không đi.
Lý do xin kiếu phụ tùy,
Có người tậu ruộng, phải đi khám điền.
Đôi bò mới tậu chợ phiên,
Ở nhà đi thử, nơi miền đất xa.
Có người cưới vợ hôm qua,
Thật lòng xin kiếu, bỏ qua đừng phiền.
Chủ nhà nổi giận dĩ nhiên,
Sai người đầy tớ, ra hiên đón mời.
Công trường ngõ hẻm mọi nơi
Đui mù hành khất, xin mời vào ngay.

THỨ TƯ, TUẦN 31 THƯỜNG NIÊN
(Lc 14, 25-33).
TIÊN LIỆU


Đám đông theo Chúa hằng ngày,
Chúa không câu nệ, giãi bày cảm thông.
Chối từ cha mẹ, vợ chồng,
Hy sinh mạng sống, góp công Nước Trời.
Vác mang thập giá ở đời,
Trở thành môn đệ, gọi mời hiến thân.
Dụ ngôn Chúa dậy thế nhân,
Trước tiên tính toán, từng phần đắn đo.
Muốn xây lầu tháp phải lo,
Bao nhiêu phí tổn, trong kho sẵn sàng.
Ra công hoàn tất mọi đàng,
Không ai chế diễu, bẽ bàng cười chê.
Vua nào giao chiến tư bề,
Phải lo dự liệu, cận kề đối phương.
Biết rằng yếu kém nhún nhường,
Giải hòa cuộc chiến, mở đường cầu an.

THỨ NĂM, TUẦN 31 THƯỜNG NIÊN
(Lc 15, 1-10).
TRỞ VỀ


Những người tội lỗi đến gần,
Lắng nghe Thầy giảng, tinh thần cải tân.
Các thầy Luật Sĩ góp phần,
Mấy người Biệt Phái, tự phân phê bình.
Ông nầy đón tiếp cùng đinh,
Gian tham tội lỗi, chúng sinh ngồi cùng.
Dụ ngôn Chúa dậy bao dung,
Con chiên lạc mất, trong vùng đồng hoang.
Bỏ đàn, tìm thấy, ôm choàng,
Trên vai mang vác, cả làng mừng vui.
Đàn bà mất đồng tiền xui,
Kiếm tìm đồng bạc, tới lui trong nhà.
Đốt đèn dọn dẹp lối ra,
Tới khi tìm được, quí bà hân hoan.
Tội nhân sám hối cải hoàn,
Trên trời mừng rỡ, trần hoàn vui ca.

THỨ SÁU, TUẦN 31 THƯỜNG NIÊN
(Lc 16, 1-8).
CÔNG BẰNG


Một người phú hộ giầu sang,
Có người quản lý, lầm đàng gian tham.
Anh ta mánh khóe việc làm,
Chủ nhân sa thải, sao cam phận đời.
Khôn lanh tính toán tiền lời,
Đến từng con nợ, gọi mời sửa sai.
Kiểm tra văn tự quản cai,
Khấu trừ sửa chữa, kê khai số thùng.
Kho hàng thua thiệt vô cùng,
Lấy phần của chủ, lạm dùng riêng tư.
Tha cho kẻ nợ bù trừ,
Số lương sổ sách, của dư đáp đền.
Mai sau thất sủng tựa bên,
Đền công ưu đãi, không quên bạn bè,
Quản gia khôn khéo áp phe,
Bất lương gian dối, bao che lỗi lầm.

THỨ BẢY, TUẦN 31 THƯỜNG NIÊN
(Lc 16, 9-15).
CHỌN LỰA


Dùng tiền gian dối ở đời,
Tìm mua bạn hữu, kiếm lời mai sau.
Phòng khi mất hết qua mau,
Bạn bè đón tiếp, kiếp sau hưởng nhờ.
Kẻ nào trung tín trông chờ,
Dù là việc nhỏ, đơn sơ cõi đời.
Mỗi người một chủ trong đời,
Làm tôi Thiên Chúa, tuyệt vời biết bao.
Chủ ông tiền bạc tự hào,
Đồng tiền gian dối, dẫn vào bến mê.
Tham lam Biệt Phái lỗi thề,
Nhạo cười phỉ báng, khinh chê lời Thầy.
Chúa còn nhắc nhủ thế nầy,
Phô trương công chính, khen hay người đời.
Trước tòa Thiên Chúa trên trời,
Tinh tường thấu tỏ, lòng người thế gian.
 
Suy Niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn 2017
Lm. Anthony Trung Thành
10:32 31/10/2017
Suy Niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn 2017

Những người vô thần chủ trương rằng chết là hết. Vì chủ trương chết là hết, nên họ không sợ án phạt đời sau, không cần làm lành lánh dữ... Cho nên, họ không ngừng gây ra biết bao tội ác cho nhân loại. Thậm chí, vì chủ trương chết là hết nên mỗi khi gặp bế tắc đau khổ trong cuộc sống nhiều người đã tìm đến cái chết để giải thoát mình.

Thời Đức Giêsu, nhóm Sa-đốc không tin có đời sau. Họ phịa ra câu chuyện bảy anh em trai lần lượt là chồng của một người đàn bà, khi sống lại thì bà ta là vợ của ai. Đức Giêsu mới cho họ biết: sau cái chết không có chuyện dựng vợ gã chồng mà con người giống như các thiên thần (x. Mt 22,23-33).

Là người Kitô hữu, chúng ta tin rằng chết không phải là hết. Nó chỉ là cửa ngõ để bước vào cõi thiên thu. Hay nói như Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu: Chết là đi vào cõi sống. Thật vậy, sau khi chết, mọi người sẽ đi gặp Thiên Chúa để tính số cuộc đời mình. Cuộc gặp gỡ này chúng ta gọi là sự phán xét riêng. Nếu những ai sống trong ân nghĩa của Ngài, thì sẽ được trọng thưởng, được vào Thiên đàng để hưởng hạnh phúc muôn đời, như lời Chúa khẳng định: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa” (Mt 25,34). Ngược lại, nếu những ai khi chết đang mang trọng tội thì sẽ bị trầm luân Hoả ngục với những lời chúc dữ: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó.” (Mt 25,41). Chúa Giêsu cũng đã từng nói : “Ai đã làm điều lành, thì sống lại để được sống, ai làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29). Còn những người khi chết không còn mắc trọng tội, nhưng vẫn chưa được thanh sạch hoàn toàn thì cần phải một thời gian thanh luyện, như vàng được thử trong lửa. Giai đoạn thanh luyện này gọi là Luyện Tội. Nơi Luyện tội, họ được tái tạo lại theo hình ảnh của Thiên Chúa. “Lửa” Luyện Tội sẽ đốt cháy tất cả những lớp bụi bặm mà họ đã làm nhơ bẩn cho mình trong cuộc sống. Sau thời gian thanh luyện đã được ấn định bởi vị Thẩm phán, họ sẽ được lên Thiên Đàng để hưởng hạnh phúc trọn vẹn với Chúa như các Thánh. Đó là niềm tin của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Niềm tin này giúp chúng ta sống tốt ở đời này để được hạnh phúc đời sau. Đồng thời, niềm tin này nhắc nhở chúng ta nhớ đến các linh hồn đang bị giam cầm trong luyện ngục. Chúng ta giúp đỡ các linh hồn trong luyện ngục bằng việc xin lễ, cầu nguyện, dâng hy sinh và các việc lành chỉ cho các linh hồn. Giúp các linh hồn trong luyện ngục đó là bổn phận của chúng ta, vì các Ngài có thể là ông bà, cha mẹ, anh chị em, ân nhân, bạn bè của chúng ta. Giúp các linh hồn trong luyện ngục cũng là việc làm bác ái, vì các linh hồn trong luyện ngục không tự cứu mình được, các ngài ra khỏi đó được sớm hơn là nhờ sự giúp đỡ của chúng ta. Giúp đỡ các linh hồn trong luyện ngục cũng là việc làm có lợi cho chúng ta, vì khi các ngài được lên Thiên đàng, các ngài sẽ bầu cử cho chúng ta.

Câu chuyện sau đây phần nào giúp mỗi người chúng ta cố gắng sống tốt và làm việc đền tội ở đời này nhiều hơn, đồng thời ra sức làm những gì có thể để cứu các linh hồn trong luyện ngục.

Sách truyện các linh hồn có kể lại câu chuyện như thế này : có hai chị em bạn gái nọ, rất siêng năng kinh nguyện và dự thánh lễ. Một hôm, một trong hai người được Chúa cất về. Được một tháng, linh hồn này được Chúa ban phép về báo tin cho chị bạn của mình. Điều làm cho người chị bạn gái còn sống bất ngờ là thấy chị bạn kia, hiện về với một nửa trên trắng, nửa dưới đen và chung quanh là hỏa hào phừng phừng thiêu đốt. Quá xót xa cho người bạn đã qua đời, chị này lên tiếng hỏi : tại sao chị lại rơi vào hoàn cảnh lửa thiêu đốt như thế? Linh hồn trả lời rằng : hẳn chị không quên những lần em và chị lo ra cười đùa trong lúc tham dự thánh lễ phụng vụ Chúa. Chúa công thẳng vô cùng không bỏ qua những lỗi lầm, thiếu sót và khinh thường của chúng ta, nhất là trong việc thờ phượng.

Câu chuyện trên, gợi lên chúng ta một vài suy nghĩ :

- Linh hồn được Chúa cho hiện về có nửa trên trắng nửa dưới đen. Phần tối tăm, đen đủi kia chính là những tội lỗi, thiếu sót còn đang mắc nợ với Chúa.

- Chính vì còn có những điều thiếu sót, lỗi lầm, chưa được thanh tẩy, giờ đây các linh hồn còn phải chịu đựng, trải qua những tháng ngày thử thách. Cả một lò lửa phừng phừng đêm ngày thiêu đốt làm cho các ngài đau xót khôn vơi. Một que củi đang cháy chẳng may rơi vào chân, còn làm cho chúng ta đau đớn đến chảy nước mắt, phương chi là cảnh lửa thanh tẩy bừng cháy hằng ngày, làm cho các linh hồn đớn đau chừng nào.

- Và điều bất hạnh lớn lao cho các linh hồn là không chỉ thấy Chúa tốt lành, thánh thiện, mà hơn nữa, không thể tự mình lập công đền tội được vì thời gian đã hết. Cho nên, chúng ta mới dễ hiểu tại sao linh hồn được Chúa cho hiện về báo lại với chị bạn còn sống ở đời xin nhớ đến mình và dâng những lời kinh hy sinh cầu nguyện để Chúa bớt phần phạt đang đêm ngày nung nấu.

Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con luôn nhớ tới sự chết, nhớ tới sự thưởng phạt đời sau, để chúng con chuẩn bị chu đáo cho ngày gặp mặt Đấng Thẩm Phán Chí Công. Đồng thời, xin Chúa nhắc nhở chúng con chu toàn bổn phận và thực thi tinh thần bác ái đối với các linh hồn bằng việc xin lễ, cầu nguyện và làm việc lành phúc đức để nhờ đó các linh hồn sớm được về Thiên đàng hưởng trọn vẹn hạnh phúc với Chúa. Amen.

Lm. Anthony Trung Thành
 
Dẫn Nhập & Lời Nguyện Giáo Dân Lễ Chư Thánh. 1.11.2017
Lm Francis Lý văn Ca
14:59 31/10/2017
ÐẦU LỄ: Anh Chị Em thân mến,
Cùng với Giáo Hội khắp nơi trên thế giới, chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Các Thánh Nam Nữ. Với niềm vui chung với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng kính Các Thánh ở trên trời, trong số đó có ông bà, cha mẹ, bà con họ hàng, bạn hữu đã an nghỉ trước chúng ta. Các Ngài đang được hưởng kiến nhan thánh Chúa. Chúng ta hãnh diện vì được Các Ngài cầu bầu cho chúng ta trước tòa Thiên Chúa.

Hôm nay, cũng là ngày áp lễ kính Các Linh Hồn. Theo tinh thần phụng vụ mới của Giáo Hội, thì lễ kính Các Linh Hồn không còn là lễ trọng buộc theo luật của Giáo Hội nữa. Nhưng theo lòng hiếu thảo, chúng ta là con cái của những tiền nhân đã yên nghỉ trước chúng ta, đòi buộc chúng ta phải dâng lễ, xin lễ và cầu nguyện cho Các Ngài khi chúng ta còn được may mắn hơn Các Ngài. Nếu Các Ngài không vào số Các Thánh chúng ta mừng lễ hôm nay, thì qua những công đức của chúng ta dâng cho Các Ngài, Chúa sẽ ban cho Các Ngài ơn siêu thoát.

Giờ đây, với niềm vui của Ngày Mừng Chư Thánh Hiển Vinh, cùng với ca đoàn, chúng ta xướng lên bài ca nhập lễ sau đây:

TRƯỚC BÀI I:
Ðoạn sách chúng ta sắp nghe có ý an ủi những tín hữu trong thời bị bách hại. Những con số được nêu ra chỉ là tượng trưng cho một đoàn lũ đông đảo những người đã được cứu rỗi do máu của Con Chiên.

TRƯỚC BÀI II:
Thánh Gioan nhắc nhở chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa, vì chúng ta được nhận biết Thiên Chúa qua Giáo Hội.

TRƯỚC BÀI TIN MỪNG:
Làm thế nào để nên thánh? Ðường lối nên thánh được chỉ vẽ qua 8 mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu đã rao giảng. Con đường đó đòi hỏi nơi chúng ta những hy sinh, chịu đựng gian khổ.


LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN

Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Cùng hiệp nhau, mừng kính thành trì của Giáo Hội được xây dựng do cộng đoàn của Các Thánh, qua lời chuyển cầu của Các Ngài, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những ý nguyện sau đây:

1. Xin cho Ðức Thánh Cha Phanxicô và Các Phẩm Trật của Giáo Hội luôn hướng dẫn Giáo Hội Lữ Hành Trần Thế luôn tiến bước trên đường trọn lành. Chúng ta cầu xin Chúa.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

2. Xin Chúa giúp chúng ta biết chu toàn đời sống của một người Kitô hữu, trong việc tuân giữa các giới răn của Chúa và Giáo Hội, để ngày sau chúng ta cũng được hợp đoàn với Các Thánh của Chúa trong nước vinh hiển. Chúng ta cầu xin Chúa.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

3. Xin cho Giáo Hội luôn là Hiền Thê hoàn hảo của Ðức Kitô, để các dân tộc nhìn thấy hình ảnh khả ái của Ðức Kitô trong nhiệm thể của Giáo Hội hữu hình. Chúng ta cầu xin Chúa.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

4. Chúng ta nhớ đến từng vị thánh mà chúng ta đã chọn, hoặc cha mẹ hay người đỡ đầu đã chọn cho chúng ta, dịp rửa tội hay thêm sức. Xin cho những gương sáng nơi từng vị thánh, là đèn soi bước cho chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Chúng ta cầu xin Chúa.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

5. Cùng với Giáo Hội Hoàn Vũ, chúng ta đã bước vào tháng Các Linh Hồn. Xin cho những công đức chúng ta dâng trong tháng nầy sẽ là những huân nghiệp cứu thoát Các Ngài, qua tình thương và lượng hải hà của Cha trên trời. Chúng ta cầu xin Chúa.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

Linh mục:
Lạy Chúa, là niềm vui, là niềm hoan lạc của các tôi trung đang hưởng kiến nhan thánh của Chúa. Qua ơn thánh trợ lực của Chúa và lời của cha ông cầu bầu, ngày sau chúng con sẽ được hợp tiếng với Các Ngài mà ca tụng Chúa trên thiên quốc. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.
Amen.
 
Sống giả hình
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
19:36 31/10/2017
Chúa Nhật XXXI Thường niên, năm A

Mt 23, 1- 12

Lối sống giả hình của Pharisêu, Biệt phái và những người Do Thái xưa làm Chúa Giêsu phẫn nộ và chống đối. Chúa đến để chu toàn lề luật. Ngài kêu gọi con người sống hoàn thiện như Cha trên trời. Những vị lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu sống giả hình, họ cùng với những người Biệt phái, nhóm Pharisêu bầy ra đủ thứ luật lệ. Họ chỉ vẽ ra luật lệ nhưng thực tế họ không bao giờ giữ mà lại bắt người khác giữ. Chúa Giêsu lên án thái độ sống giả hình những vụ việc của những hạng người này, đồng thời Ngài còn muốn dạy đám đông dân chúng và các môn đệ của Ngài về tinh thần mới của lề luật.

Vâng, đọc Tin Mừng của Đức Kitô, chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, từ những vụ việc nực cười đến chảy nước mắt, đặc biệt khi chúng ta chứng kiến lối sống giả hình, đầy cao ngạo của những người Biệt phái và Pharisêu: “ Họ giống mồ mả tô vôi bên ngoài trông đẹp mắt, trông lòe loẹt nhưng thực chất bên trong là hôi thối, là xương khô như lời Chúa cảnh giác “. Những người Pharisêu, Kinh sư, Biệt phái và những nhà lãnh đạo tôn giáo lúc đó luôn tìm vinh danh cho bản thân của mình. Do đó, họ muốn được người khác bái chào, tung hô ngoài đường, nơi công cộng. Họ mặc áo dài, áo thụng, tay đeo thẻ kinh. Họ kênh kiêu, ngạo mạn muốn người ta coi trọng, tung hô, và nhận biết địa vị của mình.Họ khinh chê kẻ khác, đặc biệt những người nghèo khổ, thấp cổ bé họng vv…Tin Mừng đã thuật lại hình ảnh, lối sống, cách ứng xử của lớp người giả hình này. Họ đầy tội lỗi nhưng lại kết án người khác, muốn tiêu diệt kẻ khác.Ví dụ người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và nhóm giả hình muốn Chúa Giêsu ra lệnh ném đá người phụ nữ này đã cho chúng ta thấy bộ mặt đầy giả hình của họ hoặc người Biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện.Những ví dụ ấy cho chúng ta nhận ra bộ mặt thật của những người có lối sống giả hình, những con người đầy kiêu hãnh, tự kiêu, biến dạng. Chúa Giêsu đã làm một cuộc cách mạng toàn diện đối với Do Thái giáo, vì Do Thái giáo bầy ra nhiều điều cấm kỵ, dị dạng: ” Người ta không được ăn thịt heo, thịt thú chết ngạt, không được sờ đụng vào xác chết, không được ngồi đồng bàn với người thu thuế, những người tội lỗi, những người ngoại giáo…phải đóng thuế rau thì là, rau húng vv…Những người Pharisêu, những người Do Thái đã bầy đặt đủ thứ luật lệ quá tỉ mỉ, nặng nề làm dân chán ngán, ngột ngạt “. Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia nói với những người Pharisêu và những người Do Thái: ” Dân này tôn kính Ta bằng môi, bằng miêng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì Giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân “ và Ngài nói tiếp: ” Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, và duy trì truyền thống của người phàm “ ( Mc 7, 8 ).

Thái độ sống giả hình của những người Pharisêu, Kinh sư, Biệt phái,của những người lãnh lãnh đạo tôn giáo lúc xưa đã khiến họ không nhận ra khuôn mặt thật của chính họ, khiến họ càng ngày càng xa rời Thiên Chúa. Thái độ sống giả hình của họ cũng làm biến dạng khuôn mặt đầy yêu thương, nhân từ và lòng thương xót của Thiên Chúa.Nên, chính họ đi sai đường lối Chúa, đồng thời họ cũng kéo theo và làm cho nhiều người khác bị chao đảo bước chân theo họ. Lối sống của họ không phải là Phúc Âm nhưng chính là cái vinh quang tạm bợ, cái danh vọng hão huyền của chính họ.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con nhận ra chính Chúa là Đấng thiện hỏa, đầy lòng từ bi nhân hậu và cho chúng con nhận ra chúng con chỉ là loài thụ tạo yếu hèn, luôn cần có Chúa và xin cho chúng con biết yêu thương, tha thứ, cảm thông với tha nhân như chính Chúa đã làm cho chúng con.Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1.Sống giả hình là thế nào ?

2.Tại sao những Pharisêu, Biệt phái và Kinh sư lại chống đối Chúa Giêsu ?

3.Tại sao những Pharisêu và Biệt phái lại bầy ra nhiều thứ luật lệ ?

4.Chúa đến trần gian có phải để phá lề luật không ?

5.Thái độ sống giả hình có tốt không ?
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Mục tử tốt lành gần gũi dân chúng và có lòng trắc ẩn
Hồng Thủy
12:36 31/10/2017
Mục tử tốt lành là người đến với những người bị loại bỏ hất hủi, là người có lòng thương xót và không xấu hổ khi đụng chạm đến các thân thể bị thương tích. Ngược lại, những người theo chủ nghĩa giáo sĩ trị thì luôn tìm cách tiếp cận với quyền lực hoặc là tiền bạc. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh những điều này trong bài giảng Thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta, dựa trên đoạn tin mừng theo thánh Luca chương 13, thuật lại sự kiện Chúa Giêsu chữa lành người phụ nữ bị còng lưng từ 18 năm trời.

Vào ngày sabát, ngày thứ 7, ngày nghỉ lễ của người Do thái, Chúa Giêsu vào hội đường và ngài gặp một phụ nữ bị còng lưng, không thể đứng thẳng được. Tin mừng nói là bà bị bệnh; đó là một căn bệnh khiến cho bà phải chịu cảnh cúi gầm, không thể đứng thẳng và nhìn lên, từ nhiều năm trời. Thánh sử Luca dùng 5 động từ để nói về những việc Chúa Giêsu làm: Chúa nhìn thấy bà, Chúa gọi bà, nói với bà, “đặt tay trên bà và chữa lành cho bà”.

Đây là 5 động từ diễn tả sự gần gũi, bởi vì một mục tử luôn luôn gần với dân của mình. Trong dụ ngôn người mục tử nhân lành, người mục tử gần với con chiên lạc, bỏ lại những con chiên khác và đi tìm con chiên lạc. Mục tử không thể xa rời dân của mình.

Trái lại, các giáo sĩ, tiến sĩ luật, những người biệt phái, Sađusêu, lại sống tách biệt khỏi dân chúng và luôn luôn trách mắng họ. Đây không phải là những mục tử tốt lành; họ là những người chỉ thu mình trong nhóm của mình và không quan tâm đến dân chúng. Có thể, đối với họ, điều quan trọng là đến cuối các nghi thức phụng vụ, đi xem có bao nhiêu tiền được dâng cúng. Họ không gần với dân chúng. Nhưng Chúa Giêsu thì ngược lại, sự gần gũi của Ngài với dân chúng xuất phát từ điều ngài cảm thấy trong tim Ngài. Một đoạn Tin mừng khác nói rằng “Chúa Giêsu động lòng thương.”

Do đó, Chúa Giêsu luôn luôn ở với người dân bị loại bỏ hắt hủi bởi một nhóm nhỏ các giáo sĩ: ở đó có những người nghèo, người đau yếu bệnh tật, các tội nhân, những người phong cùi, nhưng tất cả họ ở đó, bởi vì Chúa Giêsu có khả năng động lòng thương trước bệnh tật; Ngài là một mục tử tốt lành. Một mục tử tốt lành đến gần dân và có khả năng thương xót. Đức tính thứ ba của một mục tử tốt lành là không xấu hổ, dám đụng chạm đến thân xác thương tích, như Chúa Giêsu đã tỏ ra đối với người phụ nữ: Ngài chạm đến bà và đặt tay trên bà, Ngài chạm đến người cùi, Ngài chạm đến người tội lỗi.

Mục tử tốt lành thì không nói “được rồi, tôi gần với anh em trong tinh thần”; đó là sự xa cách. Nhưng mục tử tốt lành thực hiện những điều mà Chúa Cha đã làm, đó là gần gũi, để cảm thông, để thương xót, trong thân xác của chính Con của Ngài.” Chúa Cha, vị Mục tử cao cả, đã dạy chúng ta cách thức trở nên mục tử tốt lành: hạ mình xuống, làm cho mình trở nên không, tự loại bỏ mình, mang lấy thân nô lệ.

Còn những người theo con đường của chủ nghĩa giáo sĩ thì họ gần ai? Họ luôn gần hay tiếp cận với quyền lực hay tiền bạc. Đó là mục tử xấu. Họ chỉ nghĩ đến việc leo lên nắm quyền cao hơn, nghĩ đến làm bạn với quyền lực và thỏa hiệp với mọi thứ hoặc nghĩ đến túi tiền của họ. Đây là những kẻ giả hình, có khả năng làm mọi điều. Đối với họ, dân chúng không quan trọng. Và khi Chúa Giêsu dùng tính từ “giả hình”, nhiều lần, để nói về họ, thì họ phản đối: “nhưng chúng tôi không làm vậy, chúng tôi tuân giữ lề luật.”

Mục tử tốt lành là Chúa Giêsu; Ngài nhìn, Ngài nghe, Ngài nói, Ngài đụng chạm và chữa lành. Đó chính là Chúa Cha, qua Chúa Con nhập thể làm người, thực hiện những điều này vì lòng thương xót

Đối với dân Chúa, thật là một ân phúc khi có được những mục tử tốt lành, những mục tử như Chúa Giêsu, những mục tử không xấu hổ khi chạm đến thân thể bị thương tích , những mục tử biết rằng không chỉ họ, mà cả chúng ta, sẽ bị phán xét về điều này: Chúa Giêsu sẽ hỏi: khi Ta đói, khi Ta bị giam tù, khi Ta đau bệnh… Các tiêu chuẩn cuối cùng là tiêu chuẩn gần gũi dân chúng, các tiêu chuẩn gần gũi hoàn toàn, để động chạm, chia sẻ với hoàn cảnh của dân Chúa. Chúng ta đừng quên điều này: mục tử tốt lành luôn đến gần dân chúng, luôn luôn, như Chúa Cha của chúng ta, Ngài đã đến gần chúng ta trong chính Chúa Giêsu, Con của Ngài sinh ra làm người để ở gần và ở cùng chúng ta. (REI 30/10/2017)
 
Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi các tu hội đời
LM. Trần Đức Anh OP
12:38 31/10/2017
VATICAN. ĐTC kêu gọi các thành viên các tu hội đời hãy mang vào trần thế, vào những hoàn cảnh mình sinh sống, lời đã lắng nghe từ Thiên Chúa.

Ngài đưa ra lời mọi gọi trên đây trong sứ điệp gửi các tham dự Hội nghị các tu hội đời Italia, nhóm tại Học Viện Augustinianum ở Roma trong hai ngày 28 và 29-10-2017 nhân dịp kỷ niệm 70 năm Tông hiến ”Provida Mater Ecclesiae” (Mẹ quan phòng của Giáo Hội), do ĐGH Piô 12 ban hành về các tu hội đời. Chủ đề của Hội nghị là ”Đi xa hơn và ở giữa. Các tu hội đời: những chuyện say mê và ngôn sứ cho Thiên Chúa và thế giới”.

Trong sứ điệp, ĐTC nhắc đến tính chất ”cách mạng” trong hình thức mới của đời thánh hiến: các giáo dân và linh mục giáo phận được kêu gọi sống các lời khuyên Phúc Âm giữa đời trong cuộc sống thường nhật hoặc trong sứ vụ mục vụ. Ngài viết: ”Ngày nay, anh chị em được kêu gọi trở thành những người khiêm tốn và hăng say mang ý nghĩa của thế giới và lịch sử, trong Chúa Kitô và trong Thánh Linh của Người. Sự kiện anh chị em ở giữa đời không phải chỉ là một hoàn cảnh xã hội học, nhưng còn là một thực tại thần học, giúp anh em chú ý, nhìn, nghe, đồng cảm, chia sẻ niềm vui và trực giác những nhu cầu”.

ĐTC gợi ý với các thành viên tu hội đợi 5 thái độ tinh thần giúp tiến bước trong hành trình ơn gọi đặc thù của mình, đó là:

- Cầu nguyện để kết hiệp với Thiên Chúa; gần gũi với tâm hồn và lắng nghe tiếng Chúa;

- Biết phân định những điều thiết yếu với những điều phụ thuộc; làm cho sự khôn ngoan trở nên nhạy bén bằng cách vun trồng nó ngày qua ngày, giúp nhìn thấy đâu là những trách nhiệm cần lãnh nhận và đâu là những công tác ưu tiên.

- Chia sẻ số phận của mỗi người nam nữ, dù những biến cố của thế giới bi thảm và đen tối, vẫn không bỏ mặc cho số phận của thế giới, như Chúa Giêsu và cùng với Chúa yêu thương đến cùng.

- Với ơn Chúa, mang lại can đảm, không bao giờ mất niềm tín thác, biết nhìn điều tốt trong mọi sự.

- Sau cùng là có thiện cảm với thế giới và con người.

Hội nghị các tu hội đời Italia đã kết thúc với thánh lễ lúc 1 giờ trưa Chúa Nhật 29-10 do ĐHY João Braz de Aviz, Tổng trưởng Bộ các dòng tu và tu hội đời chủ sự tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Trên thế giới hiện nay có 193 tu hội đời với tổng cộng gần 32.400 thành viên (Rei 28-10-2017)
 
Đức Thánh Cha kêu gọi cải tổ tinh thần Âu Châu
LM. Trần Đức Anh OP
12:41 31/10/2017
VATICAN. ĐTC kêu gọi các tín hữu Kitô góp phần cải tổ tinh thần của Âu Châu và ngài cũng kêu gọi chính quyền đại lục này nhìn nhận vai trò tích cực của tôn giáo trong xã hội.

ĐTC đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài diễn văn dài tại buổi kiến kiến 350 tham dự viên Hội nghị về đề tài ”Nghĩ lại Âu Châu” nhóm tại Roma trong hai ngày 27 và 28-10-2017, với sự tham dự của các nhà chính trị, các HY, GM, các đại sứ, đại diện các phong trào và nhiều tín hữu Kitô khác. Hội nghị do Ủy ban GM Liên hiệp Âu Châu, gọi tắt là Comece, tổ chức.

ĐTC tái khẳng định nền tảng của Âu Châu chính là con người và các cộng đoàn mà Kitô hữu mong muốn và có thể góp phần xây dựng. Những ”viên gạch” trong công trình này là ”sự đối thoại, bao gồm mọi ngừơi, tình liên đới, phát triển và hòa bình”. Ngài nói:

”Từ Đại Tây dương đến rặng núi Ural, từ Bắc Cực đến Địa Trung Hải, Âu Châu phải là một nơi đối thoại, theo một nghĩa nào đó, giống như diễn trường Agorà ngày xưa. Âu Châu không phải chỉ là một không gian kinh tế, nhưng còn là một con tim của chính trị”.

Và ĐTC mời gọi mọi người hãy cứu xét vai trò tích cực của tôn giáo trong xã hội, cũng như việc đối thoại liên tôn là điều có thể giữa các tín hữu Kitô và Hồi giáo tại Âu Châu. Trong chiều hướng này, ngài cảnh giác chống lại một thứ thành kiến duy thế tục vẫn còn thịnh hành: người ta không nhận thức được giá trị của tôn giáo trong đời sống công cộng, và muốn đóng khung tôn giáo trong lãnh vực riêng tư. Nhưng làm như thế, người ta thiết lập một sự thống trị của một thứ tư tưởng duy nhất, một hiện tượng rất phổ biến trong các môi trường quốc tế, để rồi coi việc khẳng định căn tính tôn giáo là một nguy hiểm đối với chủ nghĩa bá quyền của họ, và rốt cục tạo nên một sự đối nghịch giữa quyền tự do tôn giáo và các quyền cơ bản khác”.

ĐTC cũng đề cập đến vấn đề thời sự là di dân. Ngài nói: ”Âu Châu phải trở thành một không gian bao gồm mọi người, nhưng đồng thời cũng đề cao giá trị của những khác biệt. Trong viễn tượng này, những ngừơi di dân là một tài nguyên, hơn là một gánh nặng, và không thể bị gạt bỏ tùy ý. Đàng khác, các chính quyền cũng phải quản lý một cách thận trọng vấn đề di dân. Tuy không phải là dựng lên những bức tường, nhưng cần làm sao để tiến trình di dân tuân hành các quy luật. Về phía những ngừơi nhập cư, họ phải tôn trọng và hấp thụ nền văn hóa của quốc gia tiếp đón họ”.

Đề cập đến sự xung đột các thế hệ chưa từng có ở Âu Châu kể từ thập niên 1960, ĐTC cũng nhắc đến mùa đông dân số ở đại lục này và nói rằng: tại Âu Châu người ta ít sinh con, và quá nhiều thai nhi bị tước bỏ quyền được sinh ra, đó cũng là vì người ta khám phá thấy mình không có khả năng chuyển giao cho người trẻ những phương tiện vật chất và văn hóa để đương đầu với tương lai. Ngoài ra, Âu Châu cũng đang ở trong tình trạng thiếu trí nhớ, do đó cần phải tái khám phá giá trị quá khứ của mình để làm cho hiện tại của mình được phong phú và trao lại cho các thế hệ mai sau một tương lai hy vọng. Bao nhiêu người trẻ đang ngỡ ngàng lạc hướng đứng trước sự vắng bóng các căn cội và viễn tượng, trong khi nền giáo dục phải có sự can dự của toàn thể xã hội” (Rei 28-10-2017)
 
Đức Hồng Y Fernando Filoni ca ngợi chứng tá anh hùng của người Công Giáo Uganda
Đặng Tự Do
15:38 31/10/2017
Trưa thứ Bảy, ngày 28 tháng 10, Đức Hồng Y Fernando Filoni đã chủ tọa lễ cung hiến Đền thờ Các Thánh Tử Đạo Uganda tại Munyonyo. Trong bài giảng, Đức Hồng Y nói:

“Hôm nay chúng ta cũng tụ tập tại nơi này, nơi các nhà truyền giáo đầu tiên đã từng tuyên xưng Lời Chúa và thành lập nên cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Giống như Dân Thiên Chúa cổ xưa, ở đây chúng ta lắng nghe Lời Chúa, mà các Thánh Tử Đạo ở Uganda đã vâng phục đến mức đổ máu mình.” Đức Hồng Y chỉ ra rằng “ngay từ đầu các vị đã hiểu tầm quan trọng của việc dạy bảo cho dân chúng Lời Chúa mà họ đã lãnh nhận; và có lẽ là bằng chứng nổi bật nhất về sự gắn bó của các Thánh Tử Đạo đối với Lời Chúa là cách các vị ra đi truyền giáo. Những người giáo dân này gánh vác trọng trách lãnh đạo các cộng đồng Kitô hữu và tiếp tục hướng dẫn họ trong đức tin để khi những nhà truyền giáo quay trở lại, họ đã thấy một sự gia tăng kỳ diệu số lượng người dạy giáo lý và mức độ trung thành với Lời Chúa”.

“Một động lực mới nhằm thúc đẩy phúc âm hoá, và cũng là một trong những ước muốn của tôi dành cho anh chị em trong Năm Thánh này là một sự gắn bó mới với Lời Chúa, đặc biệt là trong các gia đình. Các gia đình Công Giáo cần có sự tiếp xúc trực tiếp hơn với Kinh Thánh; nếu không, các giáo phái sẽ tiếp tục lợi dụng điểm yếu đó và do đó tiếp tục gây lầm lạc nơi nhiều tín hữu Công Giáo của chúng ta, như nó đang xảy ra”

Buổi chiều Bảy, 28 tháng 10, Đức Hồng Y Filoni đã viếng thăm một ngôi nhà dành cho người cao niên do các Nhà truyền giáo người nghèo, một giáo đoàn do cha Ambrose Kulandairaj và cha Murray Goodman thành lập vào năm 1999, tại Nalukolongo, và sau đó ngài thăm một nhà trẻ ở Busega.
 
Quốc Hội Pakistan có thể sẽ thông qua dự luật nhìn nhận hôn nhân Kitô Giáo
Đặng Tự Do
15:55 31/10/2017
Bộ Nhân quyền Pakistan đã gửi cho Bộ Tư pháp nước này văn bản về việc công nhận dân sự phép hôn phối được cử hành trong các nhà thờ Kitô Giáo. Bộ Tư pháp sẽ xem xét lại toàn bộ văn bản trước khi gửi đến Văn phòng Thủ tướng Chính phủ để duyệt xét và đưa ra bỏ phiếu tại Quốc hội .

Quyết định này đã Bộ trưởng Nhân quyền, Mumtaz Ahmed Tarar loan báo trong cuộc gặp gỡ với một phái đoàn đại diện cho các cộng đồng Kitô hữu hôm 29 tháng 10.

Bộ trưởng nói với các thành viên của phái đoàn rằng dự luật được soạn thảo sau khi tham khảo ý kiến với tất cả các cộng đồng Kitô hữu, bao gồm các nhà lãnh đạo các tôn giáo chính trong nước (Anh Giáo, Công Giáo, và các hệ phái Tin Lành). Ông cho biết thêm văn bản đã được gửi tới Bộ Tư pháp để xem xét “các vấn đề pháp lý” và để xác định rằng không có mâu thuẫn với các luật khác, trước khi Quốc hội bỏ phiếu chung thẩm.

Kitô hữu ở Pakistan chiếm khoảng 2% dân số. Người Ấn Giáo tuy ít hơn (chỉ khoảng 1.5%) nhưng năm 2016, chính phủ đã thông qua “Đạo luật kết hôn Ấn Giáo năm 2015”, chính thức công nhận về mặt dân sự việc kết hôn thực hiện tại các đền thờ Ấn Giáo.
 
Phòng Báo Chí Tòa Thánh bác bỏ tin tức nói Đức Thánh Cha đang giúp đàm phán với Kim Jong-un
Đặng Tự Do
16:19 31/10/2017
Phòng báo chí Tòa thánh đã đưa ra một tuyên bố vào ngày 30 tháng 10, phủ nhận rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đang tham gia vào các nỗ lực nhằm làm trung gian đàm phán với nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong-un, hay còn gọi là Kim Chính Ân.

Các báo cáo về sự can thiệp của Đức Giáo Hoàng trong cuộc khủng hoảng giữa Hoa Kỳ và quốc gia cộng sản này đã nảy sinh sau khi Tòa Thánh thông báo về một hội nghị giải trừ quân bị sẽ được tổ chức tại Vatican vào tuần tới.

Thông cáo báo chí, trước hết, khẳng định rằng “Đức Thánh Cha đang làm việc với quyết tâm thúc đẩy các điều kiện cần thiết cho một thế giới không có vũ khí hạt nhân.”

Ông Greg Burke, giám đốc Phòng báo chí Tòa thánh viết:

“Đức Thánh Cha đang làm việc với quyết tâm thúc đẩy các điều kiện cần thiết cho một thế giới không có vũ khí hạt nhân như ngài đã nhắc lại hồi tháng 3 năm ngoái trong một thông điệp gửi đến một hội nghị Liên Hợp Quốc, được triệu tập cho mục đích này.

Do đó, một hội nghị quan trọng sẽ được Bộ Phục Vụ Phát Triển Nhân Bản Toàn Diện tổ chức vào tuần tới với chủ đề ‘Triển vọng cho một Thế giới không có vũ khí hạt nhân và cho sự phát triển toàn diện’ . Tuy nhiên, hoàn toàn không đúng khi nói đến vai trò hòa giải của Đức Thánh Cha.”
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Tuần Đại Phúc tại Giáo Xứ Thánh Tâm Cabramatta - Sydney.
Giáo Xứ Thánh Tâm
10:11 31/10/2017
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima 1917 – 2017 Giáo Xứ Thánh Tâm Cabramatta Sydney đã tổ chức Tuần Đại Phúc mừng Kính Đức Mẹ từ ngày 24/10 đến 29/10/2017.

Thứ Ba 24/10/2017 Cha Phêrô Dương Thanh Liêm Chính xứ Thánh Tâm Cabramatta ngỏ lời chào mừng tất cả mọi người trong Giáo xứ và các nơi đến tham dự Tuần Đại Phúc đồng thời Cha giới thiệu Đức Giám Mục Giuse Nguyễn Tấn Tước Giám Mục Giáo Phận Phú Cường, Đức Giám Mục Giuse Đặng Đức Ngân Giám Mục Giáo Phận Đà Nẵng, quý Cha Úc- Việt cùng hiệp dâng Thánh lễ khai mạc Tuần Đại Phúc Kỷ Niệm 100 Năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima.

Xem Hình

Sau khi kết thúc Thánh lễ, mọi người di chuyển qua hội trường Giáo Xứ cùng tham dự các buổi tĩnh tâm do Cha Micae Phạm Quang Quang Hồng thuyết giảng về đề tài “Sống Đẹp Nhờ Mẹ” và qua ngày hôm sau Đức Giám Mục Giuse Đặng Đức Ngân Giám Mục Giáo Phận Đà Nẵng thuyết giảng với đề tài: Đức Maria Thừa Sai Tiên Khởi và đề tài “Phải chăng Thiên Chúa của tôi đã bị đánh cắp ?..” Song song với những chủ đề việt ngữ giáo xứ cũng có những chủ đề bằng anh ngữ do qúy cha từ TGP Sydney cũng như một Linh mục đến từ Phi Châu.

Những ngày trong tuần ngoài Thánh lễ tạ ơn, thì mọi người tĩnh tâm nghe thuyết giảng và hội thảo nêu những thắc mắc trong đời sống tâm linh, đã được Đức Giám Mục và quý Cha tận tình giải đáp và cùng chia sẻ. Ngoài ra còn có xổ số những ai may mắn sẽ được lãnh nhận tượng Đức Mẹ Fatima rất đẹp và sẽ được Đức Giám Mục Giuse Đặng Đức Ngân làm phép tại chỗ. Đặc biệt là đêm văn nghệ Đại Nhạc Hội tối thứ Sáu 27/10/2017 với chủ đề Fatima Suối Nguồn Ân Phúc diễn tả lại cảnh Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima cách nay 100 năm rất ngoạn mục và đặc sắc. Sau đại nhạc hội thì mọi người cùng kiệu cung nghinh Thánh Thể Chúa Giêsu và canh thức cầu nguyện suốt đêm.

Sáng Chúa Nhật 29/10/2017 khoảng 3000 người đã đến Giáo xứ Thánh Tâm Cabramatta tham dự Lễ bế mạc Tuần Đại Phúc 100 Năm Fatima do Đức Đức Giám Mục Anthony Randazo Phụ tá Tổng Giáo Phận Sydney, Đức Giám Mục Giuse Đặng Đức Ngân, Cha Chính xứ Phêrô Dương Thanh Liêm và quý Cha đến hội trường nhà thờ tham dự nghi thức Dâng Hoa mừng kính Đức Mẹ và Đức Giám Mục Anhthony Randazo xông hương kiệu Thánh tượng Đức Mẹ Fatima và khởi hành cuộc rước kiệu chung nghinh Đức Mẹ rất trang nghiêm và long trọng.

Khi kiệu Thánh tượng Đức Mẹ Fatima tiến vào Thánh đường và an vị trên bàn thờ. Cha Chính xứ Phêrô Dương Thanh Liêm ngỏ lời chào mừng Đức Giám Mục Phụ Tá TGP Sydney Anthony Randazo, Đức Giám Mục Giuse Đặng Đức Ngân Giáo Phận Đà Nẵng Việt Nam, qúy Cha và tất cả mọi người đã đến cùng hiệp dâng Thánh lễ bế mạc Tuần Đại Phúc 100 Năm Fatima. Sau đó Đức Giám Mục Anthony, ĐGM Đặng Đức Ngân và quý Cha Úc Việt cùng hiệp dâng Thánh lễ.

Đặc biệt trong Thánh lễ với nghi thức cung nghinh Phúc Âm của Cộng Đồng Sắc dân Tonga rất long trọng và ngoạn mục, ngoài ra các sắc dân trong Giáo Xứ dâng Lời Nguyện lên Thiên Chúa với chính ngôn ngữ của mình.

Trước khi kết thúc Thánh lễ, Cha Chính xứ Dương Thanh Liêm ngỏ cám ơn hai Đức Giám Mục, quý Cha và toàn thể mọi người đã đến tham dự Thánh lễ bế mạc Tuần Đại Phúc.

Thánh lễ kết thúc mọi người đều ở lại thưởng lãm Văn Nghệ do các sắc dân trong Giáo xứ Việt Nam, Ba Lan, Tonga, Samoa cùng phối hợp trình diễn và thưởng thức những món ăn của những gian hàng ẩm thực đã bán suốt trong tuần qua tại khuôn viên nhà thờ.

Chiều cùng ngày trong thánh lễ cuối cùng của giáo xứ lúc 7.15pm hơn 1000 anh chị em giáo dân đã tận hiến cho Đức Mẹ Maria trước sự hiện diện của Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân.

Tạ ơn Chúa vì muôn hồng ân Chúa đã ban cho Giáo Xứ chúng con.

Giáo Xứ Thánh Tâm
 
Khóa Tập Huấn Truyền Thông Giáo Tỉnh Hà Nội Tại Lào Cai Năm 2017
Lm Giuse Nguyễn Văn Thành
10:19 31/10/2017
WGPHH - Từ ngày 27 - 28.10.2017, giáo xứ Lào Cai, giáo phận Hưng Hóa hân hoan chào đón 38 thành viên Ban Truyền thông (BTT) đến từ 8 giáo phận trong Giáo tỉnh Hà Nội về tham dự Ngày gặp mặt và Khóa tập huấn Truyền thông với chuyên đề: “Tạo App và làm Video trên điênt hoại thông minh”. Khóa học do các chuyên viên đến từ Philippin hướng dẫn. Hiện diện trong Ngày gặp mặt và khóa học còn có cha Giuse Vũ Hữu Hiền – Tổng thư ký Ủy Ban Truyền Thông Xã Hội (UBTTXH) trực thuộc HĐGMVN.

Xem Hình

Ngay từ chiều 26.10, các thành viên BTT của các giáo phận: Thái Bình, Vinh, Thanh Hóa, Phát Diệm, Hải Phòng, Lạng Sơn, Bắc Ninh và Hưng Hóa đã có mặt tại giáo xứ Lào Cai. Dù đường xá xa xôi nhưng khuôn mặt ai cũng rạng rỡ nụ cười khi đặt chân đến miền sơn cước xinh đẹp này. Niềm vui hội ngộ như được nhân lên với Thánh lễ đồng tế vào lúc 19g30, tại nhà thờ Lào Cai, do cha Giuse Nguyễn Văn Thành – Trường BTT giáo phận Hưng Hóa chủ tế. Cuối Thánh lễ, các em giới trẻ giáo xứ Lào Cai dành một bài cử điệu đẹp mắt và vui tươi để hân hoan chào đón quý cha, quý giảng viên và quý tham dự viên đến từ 8 giáo phận miền Bắc.

Vào lúc 8g00, sáng ngày 27.10, sau những giây phút gặp gỡ thân tình giữa những người làm công tác truyền thông của 8 giáo phận, khóa tập huấn “Tạo App và làm Video trên điênt hoại thông minh” chính thức được khai mạc tại Hội trường giáo xứ Lào Cai. Trong lời phát biểu khai mạc khóa học, cha Giuse Nguyễn Văn Thành – Trưởng BTT của giáo phận Hưng Hóa, cũng là một người rất tâm huyết với lãnh vực truyền thông, đã nói lên thao thức thúc đẩy, mở rộng và nâng cao chất lượng của công tác truyền thông, nhằm góp phần tích cực trong công cuộc truyền rao Tin mừng cho thế giới hôm nay.

Với tâm tư thao thức của những người đam mê công tác truyền thông, và bầu nhiệt huyết của những nhà truyền giáo, các chuyên viên đến từ Philippin đã tận tình hướng dẫn cho các học viên biết cách tạo App cho website riêng của mỗi giáo phận và sử dụng hữu ích App này trên điện thoại thông minh có kết nối internet. Ngoài ra, các giảng viên cũng chia sẻ kinh nghiệm để làm sao có thể kể được một câu chuyện đầy cảm xúc qua một video clip ngắn mà tạo được sự ảnh hưởng và chạm được tới khán giả. Một video clip chỉ dài một phút nhưng có thể tạo được một sự tác động, làm lay động trái tim người xem…để mỗi video đó đều trở nên một sứ điệp Tin mừng.

Ngày thứ nhất kết thúc tốt đẹp với Thánh lễ đồng tế vào lúc 19g30, với sự hiện diện của quý cha trong BTT của các giáo phận và các tham dự viên, cùng của quý ông bà anh chị em trong cộng đoàn giáo xứ Lào Cai. Thánh lễ do cha Giuse Vũ Hữu Hiền – Tổng thư ký UBTTXH.

Ngày thứ hai cũng là ngày cuối của khóa học, các học viên được hướng dẫn và thực tập cách làm video một phút với các phần mềm dành cho điện thoại thông minh. Trước khi thực tập quay và biên tập thành một video hoàn chỉnh, các học viên được hóa thân mình trong vai một người kể chuyện, những câu chuyện thật mà người kể đã từng chứng kiến hay trải qua. Mỗi câu chuyện kể ra đều mang những cảm xúc thật thật nhất của chính người kể, và chỉ có những câu chuyện đầy cảm xúc chân thật ấy mới có sức lay động lòng người. Các giảng viên và các học viên say sưa với các video cho đến những giây phút cuối của khóa học. Niềm vui thể hiện rõ nét trên khuôn mặt của mỗi thành viên khi được xem những video do các giáo phận thực hiện. Đó cũng là thành quả đáng vui mừng cho cả thầy và trò trong suốt hai ngày miệt mài học tập. Và dường như, hai ngày là quá ngắn ngủi so với lòng nhiệt huyết và niềm đam mê nơi các giảng viên cũng như các học viên của khóa tập huấn. Chỉ hai ngày thôi, nhưng khóa học đã giúp các tham dự viên có thể thực hiện được những video một phút một cách dễ dàng. Và chắc chắn, trong tương lai các học viên này sẽ làm được những video hay và hoàn thiện hơn, ý nghĩa hơn, cảm xúc hơn để gửi tới khán giả trên website của giáo phận mình.

Ngày thứ hai kết thúc với Thánh lễ bế mạc khóa học vào lúc 15g00, do cha Giuse Nguyễn Văn Thành chủ tế. Đồng tế trong Thánh lễ có quý cha trong BTT của các giáo phận và quý thầy phó tế. Tham dự Thánh lễ còn có quý học viên và cộng đoàn giáo xứ Lào Cai. Trước khi kết thúc Thánh lễ, cha Vicenté Phạm Văn Thượng – Trưởng BTT giáo phận Thái Bình, đại diện cho khóa học có lời cám ơn quý giảng viên, cha xứ Lào Cai, cộng đoàn giáo xứ Lào Cai, quý ân thân và tất cả quý tham dự viên của khóa học.

Hai ngày gặp gỡ và tập huấn trôi qua quá nhanh, niềm vui và lòng nhiệt huyết cũng như tinh thần ham học hỏi của các thành viên vẫn còn đong đầy. Hi vọng với sự nỗ lực cố gắng cũng như những kiến thức đã thu lượm được trong khóa học này sẽ giúp các thành viên BTT của các giáo phận hoạt động tích cực hơn, hiệu quả hơn và trang web, cũng như công tác truyền thông của các giáo phận trong giáo tỉnh Hà Nội sẽ ngày càng phát triển hơn, mở rộng hơn và chất lượng hơn để góp phần tích cực trong công cuộc truyền giáo, giới thiệu Tin Mừng của Chúa cho hết mọi người.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Ý niệm tội lỗi trong một thế giới phức tạp về luân lý
Vũ Văn An
01:13 31/10/2017
Đôi khi các sách thần học luân lý được viết như các thủ bản vi tính hay sách sửa xe: nếu bạn tuân theo mọi chỉ dẫn và không làm bất cứ “thao tác bất hợp lệ” nào thì chắc chắn bạn sẽ có cuộc sống hạnh phúc, tránh được mọi trục trặc nghiêm trọng hay tan vỡ dọc đường. Nói cách khác, các nhà thần học luân lý ít khi lưu tâm tới phía tối của cuộc sống luân lý, tức thế giới tội lỗi và thất bại.

Nói cho ngay, rất nhiều tác phẩm thần học đã nói tới thế giới này, nhưng vẫn chưa thể nào chọc thủng được bức màn mầu nhiệm của nó. Thứ mầu nhiệm vốn được Thánh Phaolô thú nhận khi ngài kêu lên: “Tôi không hiểu chính các hành động của mình. Vì tôi không làm điều mình muốn, mà lại làm chính điều mình không muốn” (Rm 7:15). Một tông đồ vĩ đại thuộc hàng đầu của Chúa Giêsu mà còn như thế, huống hồ những kẻ phàm phu tục tử như chúng ta.

Ấy thế nhưng, cũng vị thánh vĩ đại kia đã cho rằng bất kể tội lỗi hiện diện ở đâu và bất kể sức kềm kẹp của nó mạnh mẽ dường nào, ơn thánh của Thiên Chúa luôn dồi dào và mạnh mẽ hơn nó (Rm 5:20-21).

Và dù không thể bật mí mọi chi tiết của mầu nhiệm này, song không nền thần học luân lý nào, nếu muốn đề cập tới tính phức tạp của thế giới luân lý, mà lại không nói tới tội lỗi.

Cái nhìn thông sáng của Thánh Kinh về tội lỗi và thất bại luân lý

Thánh Kinh, cả Cựu và Tân Ước, đều minh nhiên nói tới tội lỗi và thất bại luân lý. Tuy nhiên, điều lưu ý đầu tiên là phải đọc Thánh Kinh trong ngữ cảnh của nó. Mặt khác, vì mạc khải dứt khoát của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô, nên ta phải đặt sự biện phân về tội lỗi và cách đáp ứng của ta đối với nó trên các thái độ và đáp ứng của Chúa Giêsu.

Ta đã rõ: Chúa Giêsu không đến trần gian để kết án kẻ tội lỗi và trừng phạt tội lỗi họ, mà đúng hơn, để tha thứ và hoà giải họ: trước hết hòa giải với chính họ, rồi với nhau và với Thiên Chúa. Thành thử ta không thể đồng ý với những người cho rằng bệnh AIDS là cách Thiên Chúa trừng phạt những kẻ làm bậy vì những việc bậy họ làm. Dù luận lý học có thể đúng khi cho rằng ta đáng bị trừng phạt vì các việc bậy ta làm, nhưng đức tin bảo ta rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa của yêu thương, chăm sóc, từ bi, thương xót, và hoà giải vô tận. Trả thù và trả đũa dường như không thích hợp với việc Thiên Chúa tự mạc khải một cách sâu sắc về chính Người trong Chúa Giêsu Kitô.

Nếu hỏi đâu là giáo huấn luân lý trung tâm của Thánh Kinh, chắc chắn bạn sẽ trả lời là mười giới răn. Điều này quả không sai, nhưng ta phải đọc mười giới răn trong ngữ cảnh của chúng. Ngữ cảnh này là: Mười giới răn được ban hành trên Núi Sinai không phải chủ yếu như cách để Thiên Chúa kìm hãm các quá trớn luân lý của Dân Do Thái mà là một ơn phúc của Giao Ước nói lên một viễn kiến dân Do Thái phải sống hòa hợp và công chính thế nào với cả Thiên Chúa lẫn chính họ. Thực thế, truyền thống Do Thái gọi ơn phúc này là Thập Điều (Decalogue) hay mười lời. Ta có thể gọi Thập Điều là Bộ Luật Thánh Thiện theo nghĩa đây là việc san định luật luân lý mà cũng là một hồng ân đặc biệt, một thứ bộ luật đặt cộng đồng Do Thái biệt lập đối với các dân tộc khác, vì Thiên Chúa đã mạc khải bộ luật thánh thiện này cho họ ở thời điểm lịch sử ấy, chứ không mạc khải cho các dân tộc khác.

Vậy Thiên Chúa đã xử sự với dân Do Thái ra sao khi họ vi phạm hay thất bại thi hành viễn kiến đã diễn tả trong Thập Điều? Đoạn văn sau đây, trích từ tiên tri Hôsê là đoạn văn hay nhất trả lời cho câu hỏi này.

“Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó, từ Ai-cập Ta đã gọi con Ta về. Nhưng Ta càng gọi chúng, chúng càng bỏ đi; chúng dâng hy lễ cho các Ba-an, đốt hương kính ngẫu tượng. Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó, nhưng chúng không hiểu là Ta chữa lành chúng. Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng. Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má; Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn.

Nó sẽ không trở về Ai-cập nữa, nhưng Át-sua sẽ lại làm vua nó, vì nó không chịu về với Ta. Gươm đao sẽ hoành hành trong các thành của nó, sẽ làm cỏ và ngốn sạch con cái nó, vì chúng có những ý đồ xấu xa. Dân Ta cứ miệt mài buông theo bội tín, chúng được kêu mời hãy vươn lên, mà chẳng một ai ngóc đầu dậy!

Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi! Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành! Làm sao Ta xử với ngươi như với Át-ma, để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim được? Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi. Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận, sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im nữa, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh, và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ. Chúng sẽ bước theo ĐỨC CHÚA. Người sẽ rống lên như sư tử. Quả thật, Người sẽ rống lên, và từ phía tây, con cái sẽ vui mừng chạy tới. Chúng sẽ chạy tới lẹ như chim từ Ai-cập, như bồ câu từ đất Át-sua, và Ta sẽ cho chúng cư ngụ trong nhà của chúng, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA” (Hs 11:1-11).

Trong đoạn văn trên, Thiên Chúa được mô tả như đang đấu tranh với việc để lòng từ bi thương xót thống trị trái tim Người, chứ không phải sự tức giận. Đã đành, có nhiều đoạn văn trong Cựu Ước mô tả Người như vị thần khó khăn, đòi hỏi, ưa trừng phạt. Nhưng nếu đọc toàn bộ Cựu Ước và lùi lại xem xét đức tin mà lịch sử đã trình bầy, ta thấy hình ảnh tổng quát quả là một Thiên Chúa yêu thương, tha thứ và nhiên hậu không dùng các tội lỗi và thất bại của ta chống lại ta. Đàng khác, trong Cựu Ước, tội lỗi thường được mô tả không như các thiếu sót bản thân hay vi phạm cá nhân cho bằng như việc nổi loạn tập thể của toàn bộ cộng đồng Do Thái chống lại giao ước đã thiết lập với Thiên Chúa. Đã đành tội lỗi có chiều kích bản thân của nó, nhưng nhấn mạnh thường được đặt lên trách nhiệm tập thể của toàn dân. Các tiên tri Cựu Ước như Hôsê thường kêu gọi dân trở về với viễn kiến công chính và hoà hợp của giao ước nguyên ủy qua diễn trình hồi tâm. Tội lỗi thường được mô tả như có các yếu tố quyền lực, một tình trạng của hiện hữu, thậm chí, ở một mức độ nào đó, còn như một mầu nhiệm.

Đáp ứng có tính nghi lễ hàng đầu của dân Do Thái trước thực tại tội lỗi là cử hành Yom Kippur, ngày Xá Tội hàng năm, với một cặp dê. Mọi tội lỗi của dân được đổ tượng trưng lên đầu một con dê bị bốc thăm, rồi họ đuổi con dê này vào hoang địa, mang theo nó, tội lỗi của dân. Tập tục này khiến đời sau gọi là “dê tế thần” (scapegoat). Còn con dê kia thì bị làm thịt và dâng lên Thiên Chúa làm của lễ hòa giải, và thế là toàn dân mừng vui vì được tái giảng hòa với Thiên Chúa.

Ngoài tội lỗi ra, Cựu Ước nhìn nhận nhiều thất bại, như các thảm kịch hay bất hạnh khiến một số người của cộng đồng mắc nợ. Do đó, cứ mỗi 50 năm, lại có một năm hồng ân (Jubilee) trong đó, mọi nợ nần được xóa bỏ và tình trạng hòa hợp và công chính ban đầu được tái lập cho toàn bộ cộng đồng giao ước.

Dù xét về lịch sử, Năm Hồng Ân này không được dân Do Thái đem ra thực hành cụ thể, tuy nhiên nó vẫn là một viễn kiến quan trọng cho thấy Thiên Chúa muốn dân của Người sống với nhau và Chúa Giêsu từng trích dẫn tiên tri Isaia 61:1-2 để trình bầy chủ đề này như cương lĩnh chính của thừa tác vụ công cộng của Người. “Thần Trí Chúa ở trên tôi, vì Người đã xức dầu để tôi mang tin vui cho người nghèo. Người đã sai tôi đi công bố việc phóng thích người bị giam cầm và phục hồi thị lực cho người mù, giải thoát người bị áp bức và công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18-19). Năm hồng ân cũng cung cấp một phần nền tảng cho truyền thống Công Giáo mừng Năm Thánh, cử hành mỗi 25 năm, trong đó, các ân xá đặc biệt được ban cho các tín hữu tham dự. Các ân xá này và toàn bộ nền thần học ân sủng cho ta hay: Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ và Người chỉ những muốn ta chấp nhận ơn phúc nhưng không này của Người.

Há không có chỗ nào để tội lỗi và thất bại luân lý hiện hữu hay sao? Chắc chắn là có, chỗ ấy chính là UTOPIA (không tưởng), chữ Hy Lạp có nghĩa là “không chỗ nào cả”. Mọi địa điểm khác ở phía bên này của việc xuất hiện sự viên mãn của Nước Chúa, ta phải dành cho tính phức tạp, hàm hồ luân lý, tội lỗi, thất bại, và các thử thách liên tục cũng như cám dỗ. Thánh Kinh quả có cho ta một số tầm nhìn thông sáng, giúp ta hiểu ra rằng cám dỗ không hề tương đồng với tội lỗi và cũng có rất nhiều trình độ thất bại khác nhau khi ta không thành công trong việc đề kháng cám dỗ. Các bản dịch Thánh Kinh thường không lột tả hết ý nghĩa nguyên bản. Chữ Hy Lạp chỉ cám dỗ là peirasmos, cũng chỉ việc thử, kiểm chứng (test). Cám dỗ ai chắc phải khác với thử thách ai hay kiểm chứng ai. Nhưng thường chúng ta bỏ qua nghĩa thứ hai và chỉ chú trọng tới nghĩa thứ nhất. Trong Cựu Ước, các cá nhân và cộng đồng đều bị cám dỗ và thử thách (xem “việc thử thách” Ápraham hiến tế con trai ở St 22:1-19). Các cá nhân và cộng đồng cũng vừa cám dỗ vừa thử thách Thiên Chúa như dân Do Thái nhiều lần thực hiện trong cuộc lang thang 40 năm trong hoang địa của họ. Ngay các lãnh tụ do Thiên Chúa chọn lựa, như Gideon, cũng được phép thử thách Thiên Chúa để có thể chứng minh cho mình thấy Người quả hiện diện với họ (xem Tl 6:26-40).

Một khía cạnh có liên hệ tới ý niệm thử thách này là công nhận rằng đôi khi việc thử thách và sự thất bại của nó về phần chúng ta không hề nói lên tội lỗi chi cả. Đúng hơn, chúng chỉ cho thấy trong tư cách cá nhân hay cộng đồng, ta chưa đạt tới sự tròn trịa toàn diện (wholeness) vốn hàm chứa trong sự thánh thiện của Nước Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ hay thử thách khi ma qủy cố gắng làm Người sao lãng việc vâng phục Thiên Chúa và tín thác Chúa Cha. Chỉ sau khi chiến thắng cuộc thử thách này, Chúa Giêsu mới khởi đầu thừa tác vụ công cộng của Người để phục vụ Nước Thiên Chúa.

Ta cần chú ý tới mẫu mực đáp ứng của Chúa Giêsu, một phản điển hình có tính sửa chữa điển hình thất bại của Israel trong hoang địa. Ta cũng cần nhớ rằng Chúa Giêsu đã đến thực rồi, nhưng dù Nước Thiên Chúa đã đến một phần rồi, nhưng sự viên mãn của nó sẽ không được thể hiện ở đời này, mà đúng hơn ở đời sau. Nên đời này chỉ có tính tạm bợ và như một địa bàn chuẩn bị cho ta bước vào sự viên mãnh của Nước Thiên Chúa. Việc bước vào này đòi ta phải có một cõi lòng thay đổi và lời công bố khởi đầu của Chúa Giêsu trong thừa tác vụ công cộng của Người là lời kêu gọi metanoia, nghĩa là hồi tâm, vì Nước Thiên Chúa đã gần kề (xem Mt 4:17; Mc 1:15).

Đôi khi chữ Hy Lạp metanoia được dịch là “thống hối” và dù lối dịch này nắm được một phần của diễn trình hồi tâm, nó chưa phải là bức tranh đầy đủ. Ta có khuynh hướng coi “thống hối” như là hối tiếc, ân hận hay thậm chí cả ước muốn có thể xóa bỏ điều đã làm bằng cách cho chạy lại cuốn video ở ngay chỗ trước khi chúng ta làm bậy, để rồi ghi lại phần ấy bằng cách thực hiện sự việc khác đi. Ta có bao giờ xóa được dĩ vãng kiểu này đâu, nên metanoia đích thực là kêu gọi ta tiến tới với một trái tim và một tinh thần mới. Cùng một công bố về metanoia này được ngỏ với ta, và như các môn đệ ban đầu, chúng ta cần đáp ứng bằng cách bước chân theo mẫu mực và giáo huấn của Chúa Giêsu giữa các thử thách và cám dỗ của ta. Công bố của Tin Mừng là một sứ điệp hy vọng chứ không phải kết án, do đó, ta phải ấm lòng lên khi hiểu ra rằng Chúa Giêsu không bước vào lịch sử để công bố sắc lệnh Phán Xét Cuối Cùng đầy khốc liệt sắp tới.

Đối diện với tội lỗi và thất bại luân lý, ta cần nhìn xem Chúa Giêsu xử lý ra sao với các thực tại này. Điều hữu ích là nhớ lại một số cuộc gặp gỡ khác nhau của Chúa Giêsu với tội lỗi, với người tội lỗi, và những người tự coi là công chính. Như Thánh Phaolô vốn nhắc nhở chúng ta trong phương diện này, không những ta “nên” mà còn phải biến thái độ của ta nên y hệt như thái độ của Chúa Kitô (xem Pl 2:5), và, do đó, một đoạn văn như đoạn văn dưới đây về cuộc gặp gỡ người đàn bà bị bắt quả tang đang ngoại tình trong Tin Mừng Gioan có thể nhắc ta nhớ Chúa Giêsu đã xử lý ra sao với cả người tội lỗi lẫn những người sẵn sàng kết án người khác vì một tội lỗi đặc thù mà chính họ có thể không vi phạm:

“Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: ‘Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?’ Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: ‘Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.’ Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. Người ngẩng lên và nói: ‘Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?’ Người đàn bà đáp: ‘Thưa ông, không có ai cả.’ Đức Giê-su nói: ‘Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!’" (Ga 8:3-11).

Ta tự nhận mình là ai trong số các nhân vật trên? Nói cho ngay không thiếu người Công Giáo muốn đứng về phe Biệt Phái để lên án tác phong người đàn bà. Phần Chúa Giêsu, Người không nói điều người đàn bà làm là điều không quan trọng, nhưng chủ điểm là ở câu nói này của Người: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Nếu ta lấy làm lòng những lời này, thì liệu chúng ta còn ngã lòng hay chăng khi cứ phạm đi phạm lại cùng những thứ tội, như lời kêu than của Thánh Phaolô?

Thánh Phaolô thường đóng một vai trò quan trọng trong các suy tư thần học của Giáo Hội về tội lỗi. Nhưng thư 1 của Thánh Gioan có một cung giọng hơi khác khi nói về tội. Tội được ngiêm chỉnh nói tới ở đây chỉ vì tác giả nhìn nhận rằng việc tha tội là sứ mệnh trung tâm của Chúa Giêsu. Một nhị phân rõ nét được phân biệt ở đây giữa việc ở trong tội và ở trong Chúa. Trong đường hướng này, tác giả gọi tội là “vô luật lệ” (lawlessness), còn những ai phạm tội được gọi là “con cái ma qủy” (1 Ga 3:4; 8). Trong ngữ cảnh này, có một câu làm chúng ta thoạt đầu mất hy vọng: “không ai ở trong Người (Chúa Giêsu) mà lại phạm tội; không ai phạm tội đã được thấy Người hay biết Người” (1Ga 3:5). Tuy nhiên cũng thư này nhấn mạnh với ta rằng Chúa Giêsu đến để cứu ta khỏi tội lỗi, và do đó, ta phải chấp nhận thánh ý cứu rỗi của Thiên Chúa, đã thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, hay nói cách khác, ta được mời gọi trước nhất và trên hết để được giải thoát khỏi vòng nô lệ tội lỗi, chứ không phải giải thoát khỏi mọi bất toàn (xem 1Ga 1:8-2:6). Nghiêm túc đối với tội lỗi nghĩa là coi nó như Thiên Chúa vốn coi, một điều vừa có thật vừa khủng khiếp, nhưng cái vòng nô lệ của nó đối với nhân loại nói chung đã bị Chúa Giêsu bẻ gẫy rồi…

Như thế, Thánh Kinh đem lại một khởi điểm và cơ sở quan trọng cho nền thần học của ta về tội lỗi: đó là, mạc khải của Thiên Chúa về tình yêu, về tha thứ, về lời mời gọi hồi tâm và hòa giải của Người. Chính sứ điệp Thánh Kinh này đặt nền tảng cho việc biện phân luân lý của ta, chứ không phải thứ đạo đức học về thất bại, trả đũa, và trừng phạt. Nếu không, sẽ có nguy cơ ta chỉ nói về tội bằng những hạn từ cuối cùng sẽ làm méo mó ý nghĩa của nó trong bối cảnh cái hiểu của tin mừng Kitô Giáo về cứu rỗi. Nếu chỉ nói đến tội chủ yếu như “thất bại” hay “bất toàn” hoặc “thiếu chu toàn bản thân”, thì liều mình ta chỉ đã quay vào chính mình và ngoảnh mặt đi khỏi lòng thương xót, yêu thương, tha thứ và hòa giải vô tận của Thiên Chúa.

Thánh truyền đối với tội lỗi và thất bại luân lý

Dù truyền thống không luôn xử lý với tội lỗi như Thánh Kinh dạy trên đây, tuy nhiên nó duy trì được nhiều sợi chỉ xuyên suốt tích cực từng dệt nên tấm thảm tình yêu hòa giải của Thiên Chúa. Có lẽ phần quan trọng nhất của truyền thống này là việc lập ra và sau đó khai triển bí tích hòa giải.

Thoạt đầu, đây là một bí tích “không lặp lại”, giống như Phép Rửa, chỉ lãnh nhận một lần duy nhất trong đời người. Qui định là chỉ dành cho các tội nặng, với một việc đền tội công cộng lâu dài, đôi khi cả mấy năm. Trong thời gian đền tội này, hối nhân phải ngồi bên ngoài cộng đoàn cử hành Thánh Thể. Khi thời gian đền tội đã xong, toàn bộ cộng đoàn đưa hối nhân trở vào nhà thờ và họ cùng nhau cử hành Lễ Tạ Ơn, thực sự tạ ơn lòng thương xót của Thiên Chúa (“eucharist” trong tiếng Hy Lạp quả có nghĩa “Tạ Ơn’). Cả chữ “confessio” (xưng tội) cũng thế, thực ra, trước hết và trên hết nó có nghĩa ca ngợi Thiên Chúa vì lòng thương xót của Người và việc đưa hối nhân trở lại gặp gỡ Thiên Chúa qua ơn thánh. Chính ơn thánh này làm cho diễn trình hồi tâm thành khả hữu. Chỉ mãi sau này và một cách phụ thuộc, chữ “confessio” mới được dùng chủ yếu để chỉ việc thừa nhận các tội lỗi và sai sót của con người. Thành thử điều chủ yếu là phục hồi nghĩa xưa này. Vì trong bí tích hòa giải, quả tình chúng ta cử hành tình yêu thường hằng của Thiên Chúa được tuôn đổ qua việc tha thứ tội lỗi ta và ban ơn thánh giúp ta tiếp tục diễn trình hồi tâm và hoà giải.

Tới thời Trung Cổ, người ta chú trọng nhiều hơn tới các hành vi tội lỗi cá nhân, các hành vi mà hối nhân có nhiệm vụ phải kể ra theo mức độ trầm trọng và số lần vi phạm. Tội lỗi được coi như một tội ác hình sự chống lại luật lệ. Mà đã là tội ác hình sự thì người có tội là phạm nhân và giải pháp tất yếu là phải trừng trị họ và bắt họ phải đền trả một điều gì đó. Điều này dẫn tới cái hiểu bí tích hoà giải như một thứ hệ thống thuế quan (tariff), trong đó, vị linh mục đóng vai quan tòa, cân đo trách nhiệm tội lệ tương đối của hối nhân để ấn định một mức đền tội xứng đáng, như một hình thức thuế quan đối với tội ác phạm phải.

Tội cũng đã được phân chia thành hai phạm trù chính là tội trọng (làm chết mối tương quan với Thiên Chúa) và tội nhẹ (không giết chết mối tương quan với Thiên Chúa). Truyền thống còn cho rằng chỉ làm một hành vi nặng (grave action) mà thôi chưa nhất thiết tạo thành một tội trọng (xem Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, các số 1854-64). Bởi vì ngoài khía cạnh khách quan gọi là “việc nặng” (grave matter) ra, còn có hai khía cạnh chủ quan khác gọi là “hiểu biết đầy đủ” (full knowledge) và “thuận tình đầy đủ” (full consent) mới làm thành một tội trọng. Nói cách khác, chỉ phạm một tội trọng, khi không những ta phạm chính hành vi rất nặng, mà còn đồng thời hiểu rõ sự xấu xa của hành vi này. Đó chính là ý nghĩa của thuật ngữ “hiểu biết đầy đủ”. Tuy nhiên, đây không phải là việc trả lời đúng/sai cho câu hỏi liệu Giáo Hội có coi việc này hay việc nọ là có tội trọng hay không; sự hiểu biết ở đây là sự hiểu biết luân lý, chứ không phải hiều biết theo nghĩa học thuật. Nói cách khác, ta phải hiểu rõ tính xấu xa thực sự của hành vi. Cùng với sự hiểu biết đầy đủ, ta còn phải muốn thực hiện hành vi này nữa. Thuận tình đầy đủ ở đây cũng thế, không phải chỉ là không bị cưỡng bức từ bên ngoài, mà là ước muốn vi phạm hành vi thực sự xấu xa này. Chính vì hai tiêu chuẩn chủ quan nói ở đây nằm rất sâu trong trái tim ta, nên rất khó mà thấy. Cũng vì thế, mà nhiều người lầm cứ nghĩ rằng hễ phạm một hành vi nặng là phạm tội trọng rồi.

Cùng lúc ấy, khoa giải nghi học (casuistry) phát triển quanh việc xác định tội trạng (culpability) tương đối của một người đối với các hành vi tội lỗi phạm phải. Sự nặng nề tương đối của một hành vi tội lỗi, việc người này có tránh dịp hay cơn cám dỗ phạm tội hay không, dịp này gần hay xa, trình độ ý thức hay mức độ thuận tình, các yếu tố giảm khinh như mê mẩn hay tỉnh táo, v.v…, tất cả đều là thành phần của ngữ vựng nổi bật về tội lỗi trong thời kỳ này. Tất cả đã dẫn tới 3 nhấn mạnh tiêu cực sau đây, theo nhận định của John Mahoney (The Making of Moral Theology: A Study of the Roman Catholic Tradition, Oxford, Clarendon Press, 1987, tr.27): “bận tâm tới tội lỗi; tập trung vào cá nhân; và ám ảnh bởi luật lệ”.

Rất không may, một số nét trong truyền thống trên vẫn còn tới nay và cùng hiện diện song song với viễn kiến tích cực của Thánh Kinh về tội là tha thứ và hòa giải. Dù một số người vẫn muốn quay trở lại với viễn kiến trước Vatican II về tội, nhưng quả viễn kiến này có nhiều yếu điểm và bất nhất đối với sứ điệp tin mừng căn bản được Chúa Kitô giảng dậy và ủy thác cho Giáo Hội tiếp tục thi hành. Sự căng thẳng này khiến luôn đặt ra câu hỏi liệu viễn kiến Thánh Kinh như trình bầy trên đây có là qui phạm hướng dẫn qui phạm (norma normans) cho nền thần học luân lý của ta hay không.

Cái yếu của cái hiểu trên là đã quá bận tâm tới tội lỗi hiểu như các hành vi cá nhân. Nó sao lãng việc phát triển tính tình luân lý cho người ta và trọn bộ năng động tính của việc hồi tâm như một diễn trình cả đời liên tục quay mặt đi khỏi tội lỗi và đồng thời trở về với Thiên Chúa. Quan điểm trước Vatican II này cũng làm nghiêng cái hiểu của ta về bản chất chân thực của Thiên Chúa. Người thực sự không phải là một đốc công khó tính, nhưng là Người Cha đầy yêu thương và tha thứ chỉ ngong ngóng đứa con hang đàng trở về (xem Lc 15:11-32).

Còn một kỳ
 
Đoàn người đông đảo trên trời.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
10:04 31/10/2017
Hằng năm vào ngày 01.Tháng Mười một, Giáo Hội Công Giáo mừng kính toàn thể các Thánh nam nữ trên trời.

Giáo Hội Công Giáo trong suốt năm hầu như mỗi ngày đều mừng kính một hay nhiều vị Thánh với tên tuổi ngày tháng cùng nơi sinh ra, và ngày tháng năm nơi chốn qua đời. Nhưng vẫn còn nhiều Vị Thánh chưa hay không được biết đến tên tuổi, như Thánh Gioan viết thuật lại:

„ Kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế.“( Kh 7,9)

Nên Giáo hội mừng tất cả mọi Vị Thánh chung vào ngày 01. Tháng mười một hằng năm.

Đức Giáo Hoàng Benedictô XVI. đã có suy tư về ngày lễ kính: „ Ngày lễ mừng kính các Thánh chúng ta hướng tầm nhìn lên với lòng biết ơn đoàn thể lớn lao các Tín Hữu đang cùng tham dự vào vinh quang của Chúa ở trên trời. Chúng ta tất cả được kêu mời sống theo con đường Tám mối phúc thật, như Chúa Giesu Kito rao giảng, Đấng hằng muốn dẫn đưa chúng ta về quê hương vĩnh cửu, nơi là nguồn đời sống. Trên con đường đời sống đó các Thánh phù giúp chúng ta qua gương sáng làm chứng và lời chuyển cầu của các ngài.“

Lễ mừng kính chung các Thánh là ngày lễ trọng trong Giáo Hội Công Giáo. Lễ mừng kính này là một trong những ngày lễ mừng trọng thể, có thể nói là cao điểm như lễ mừng Chúa Giesu giáng sinh, lễ mừng Chúa Giesu phục sinh, những ngày lễ trong tuần thánh, lễ mừng kính Chúa Giêsu lên trời hay lễ mừng Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Như các ngày lễ trọng mừng Chúa Giesu giáng sinh và phục sinh, phẩm phục phụng vụ trong lễ mừng này là mầu trắng. Mầu trắng trong phụng vụ diễn tả ý nghĩa sự trong trắng tinh tuyền và sự vui mừng của ngày lễ mừng kính các Thánh.

Nguồn gốc ngày lễ này có từ thế kỷ thứ tư. Trước hết lễ mừng kính các Thánh được mừng vào ngày Chúa Nhật sau lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Bên Giáo hội Tây phương - Roma- Đức Giáo Hoàng Binifatius IV. năm 610 đã làm phép thánh hiến đền thờ các vị Thần Roma, đền thờ Pantheon tôn kính các Vị Thần của thế giới cổ đế quốc Roma, cho Đức trinh nữ Maria và toàn thể các Thánh, và truyền hằng năm mừng kính ngày lễ vào ngày Thứ Sáu sau lễ Phục sinh.

Đức Giáo Hoàng Gregor III. đã làm phép thánh hiến một nhà nguyện ở trong đền thờ Thánh Phero dâng kính tất cả mọi Vị Thánh, và do đó thành phố Roma mừng kính lễ vào ngày 1. Tháng Mười một hằng năm. Và từ đó ngày lễ mừng kính được phổ biến rộng rãi trên toàn thể Giáo hội bên Tây phương.

Đến thời Đức Giáo Hoàng Gregor IV. năm 835 lễ mừng kính các Thánh được ấn định trong toàn thể Giáo hội vào ngày 01. Tháng Mười Một hằng năm.

Từ thời Đức Giáo Hoàng Sixtus IV. năm 1475 ngày lễ này trở thành lễ trọng trong toàn thể Giáo hội khắp hoàn vũ.

Theo khía cạnh thần học đạo đức lễ mừng kính toàn thể các Thanh Nam Nữ ngày 01.Tháng Mười một là ngày lễ tất cả mọi người đã đạt tới sự trọn vẹn yên nghỉ trong Chúa Giêsu Kitô, nguyên thủy được mừng kính vào ngày Chúa Nhật sau lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, và đến thời Đức Giáo Hoàng Gregor IV. lễ được ấn định mừng vào ngày 01.Tháng Mười một.

Ngày 02.Tháng Mười một là ngày lễ cầu cho các Linh hồn do Tu Viện trưởng Odio thành Cluny năm 998 đã thiết lập để tưởng nhớ cầu nguyện trước hết cho các Tu sĩ trong các hội dòng của họ.

Hai ngày lễ liền sát gần nhau cùng với ý nghĩa cho các Thánh đã qua đời và cho các người đã qua đời, và bước sang mùa Đông, theo thời tiết xứ lạnh bên Âu châu, gợi lên suy nghĩ hai ngày lễ song đôi này đan quyện vào nhau.

Ngày lễ mừng kính các Thánh 01. Tháng Mười một hằng năm là ngày lễ diễn tả vẻ muôn mầu sắc của tất cả mọi người, của mọi dân tộc. Họ là chúc lành cho thế giới hôm qua và hôm nay.

Ngày lễ mừng kính các Thánh 01. Tháng Mười một hằng năm chung cho tất cả mọi người đã có đời sống tin tưởng vào tình yêu thương, và đã sống theo tình yêu thương với mọi người. Đời sống chan chứa tình yêu thương của họ được Thiên Chúa an ủi chúc phúc lành.

Gương đời sống các Thánh giúp con người chúng ta thêm nhuệ khí can đảm sống trong công trình thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng như mình là, như mình có thể.

Mỗi người đều được Thiên Chúa ban cho một con đường đời sống riêng. Và Thiên Chúa cần mỗi người, như các Thánh, là chúc lành cho hoàn vũ.

Lễ Các Thánh, 01.11.2017

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
 
Ý niệm tội lỗi trong một thế giới phức tạp về luân lý, tiếp theo
Vũ Văn An
16:41 31/10/2017
Thần học đương thời về tội lỗi và tha thứ

Với cuộc cải tổ bí tích của Vatican II, ít là trong lý thuyết, ta đã trở lại với việc tập chú nhiều hơn vào diễn trình chữa lành và hồi tâm liên tục, cả trong tư cách cá nhân lẫn trong tư cách cộng đồng. Chiều kích cộng đồng được thấy rõ hơn trong các nghi thức thứ hai và thứ ba, trong đó, việc xưng tội và cử hành sự tha thứ của Thiên Chúa được cộng đồng thi hành như một toàn thể. Điểm nổi bật nhất của thời sau Vatican II này là không tội lỗi nào tư riêng hay cá nhân cả, mà luôn có hậu quả xã hội, dù tội này phạm tư riêng bởi một người trong thẳm sâu tâm hồn họ. Bởi thế, đáp ứng phụng vụ và bí tích đối với tội lỗi cũng nên có một chiều kích cộng đồng.

Chắc chắn một trong các khai triển gần đây nhất trong cái hiểu của ta về tội là nhìn nhận rằng nó vượt quá các con người cá thể; nó có thể lây nhiễm các cộng đồng, các nền văn hóa, và nhất là các cơ cấu và định chế xã hội và kinh tế của ta. Cho dù mô hình tội lỗi cá nhân có lẽ vẫn còn nổi bật trong tâm trí người ta, tội lỗi và thất bại luân lý đã được tri cảm là phức tạp hơn việc giải thích thông qua bất cứ tập hợp cá nhân nào. Những người làm thần học trong bối cảnh có những cơ cấu áp bức hoặc đẩy người ta ra bên lề, như các nền thần học giải phóng và duy nữ, nhìn thực tại có thể rõ ràng hơn phần lớn chúng ta, những người quá quen với thẩm quyền, quyền hành dù là quyền hành trong học thuật, trong xã hội, trong chính trị, kinh tế, văn hóa hoặc giáo hội. Ngôn từ luân lý hiện nay thường có chiều kích thuật truyện. Giống mọi câu truyện khác, trình thuật luân lý cũng có phía tối của nó. Điều chắc chắn là chúng ta đã thấy các điển hình khắc nghiệt và bi thảm của những câu truyện tối tăm trong các trình thuật từng hỗ trợ cho nạn nô lệ, kỳ thị chủng tộc, apartheid, thanh trừng sắc tộc, và Diệt Chủng. Nhưng tất cả chúng ta đều có những câu truyện che dấu (cover stories) với xu hướng che đậy khỏi chính ta và người khác khía cạnh đích thực của thực tại như Thiên Chúa trông thấy. Đây là nơi việc liên tục nối kết với câu truyện của Thiên Chúa trong Thánh Kinh và dùng phê phán áp dụng nó vào đời sống ta có thể là nguồn ơn thánh để xử lý tội lỗi và sai sót của chính ta, tội lỗi và sai sót của những người khác, và các cơ cấu và định chế xã hội tội lỗi và bất toàn trong đó, ta bắt buộc phải sống. Không tưởng không phải là thiên đường; nói một cách đơn giản, nó không hề hiện hữu.

Cho dù ngữ vựng về tội xã hội và cái ác cơ cấu là những điều tương đối mới, nhưng chúng vốn đã có một số vết tích trong truyền thống tiên khởi của Giáo Hội. Điển hình rõ ràng nhất có lẽ là toàn bộ nền thần học về nguyên tội. Tín lý này dạy rằng có một sự ác luân lý thực sự trong thế giới nơi chúng ta sinh ra và không ai thoát khỏi, ngoại trừ Trinh Nữ Diễm Phúc Maria. Mà cả Đức Maria cũng chịu ảnh hưởng của nguyên tội theo nghĩa ngài chắc chắn trải nghiệm sự ác trong đời ngài, nhất là lúc ngài phải mục kích con trai duy nhất của mình bị phạt tử hình. Các nhà thần học tiên khởi như Thánh Augustinô, từng thắc mắc về việc làm thế nào nguyên tội lại có thể lưu truyền suốt trong lịch sử nhân loại và dù vấn đề đặc thù này không làm bận tâm các nhà thần học đương thời cùng một cách như thế, nhưng ta vẫn tin rằng điều quan trọng là phải thận trọng xem xét mọi tội lỗi một cách nghiêm túc nếu muốn an tâm chuyển vần trong thế giới phức tạp về luân lý này.

Ngoài tội nguyên tổ, còn có một số nguyên tắc luân lý quan trọng nữa trong truyền thống sách cẩm nang (manualist), là truyền thống, ta có thể nói, đã mặc nhiên thừa nhận tội xã hội và sự ác cơ cấu. Các nhà viết sách cẩm nang luân lý thực sự rất thông thạo trong việc nhận ra tính phức tạp và tính hàm hồ của thế giới thực, và họ biết rõ chúng ta thường không có khả năng tuyệt đối tránh được mọi cái ác. Cách riêng, một số nguyên tắc đã được khai triển nhằm giúp người ta đương đầu một cách có trách nhiệm trong các tình huống cụ thể, trong đó, ta đơn giản không thể làm điều đúng và có được toàn kết quả tốt. Nguyên tắc đầu tiên là nguyên tắc hậu quả kép, theo đó, một hành động có hai hậu quả thấy trước, một hậu quả tốt và có ý nhắm tới, còn hậu quả kia thì xấu, nhưng chịu đựng được. Cắt bỏ một tứ chi bị bệnh để cứu sống là thí dụ cổ điển của nguyên tắc này.

Tuy nhiên, có nhiều nguyên tắc khác phức tạp hơn trong các tình huống y khoa. Ba trong số này có liên hệ với nhau đó là nguyên tắc dung tha (tolerance), nguyên tắc thỏa hiệp (compromise) và các qui định để có thể hợp tác cứ sự (material cooperation) vào sự ác. Có bao giờ bạn dung tha sự ác hay thỏa hiệp điều bạn nhận thấy nên thực hiện một cách lý tưởng trong một tình huống nhất định nào đó, hoặc thậm chí, trong một số hoàn cảnh chính bạn phải hợp tác cách nào đó vào sự ác đang được thực hiện chưa? Câu trả lời vắn ngọn là có, đã đành là một tiếng có có điều kiện, nhưng vẫn là một tiếng có. Các nguyên tắc dung tha, thỏa hiệp và hợp tác cứ sự vào sự ác này không phải là các sáng chế gần đây để lý giải hay làm sạch các xu hướng tội lỗi của ta; chúng cũng không được dùng như một thứ đường ngang ngõ tắt luân lý. Đúng hơn, các nguyên tắc này đã được thiết lập vững vàng trong truyền thống luân lý và nhờ thận trọng căn cứ vào chúng, ta có thể được trợ giúp để đương đầu với các thất bại thuộc loại không luân lý, cũng như an toàn khỏi rơi vào thứ chủ nghĩa giáo điều luân lý và/hoặc thứ chủ nghĩa nhị phân giả tạo chia thế giới thành các phạm vi hay các con người “xấu” và “tốt”. Các nguyên tắc này lưu ý tới tính hữu hạn và giới hạn của ta, điều mà triết học gọi là tính thực, tính dữ kiện (facticity) của ta. Chúng ta sống trong một thế giới tội lỗi và không ai trong chúng ta là toàn năng về luân lý. Do đó, tất cả chúng ta đều sẽ phải hợp tác và/hoặc dung tha các hoàn cảnh ác ở một lúc nào đó trong đời. Điều này nói thì dễ, nhưng kinh nghiệm cho hay phần lớn người ta ngần ngừ trong việc chấp nhận cho mình và cho người khác rằng dung tha một hoàn cảnh ác hay thậm chí thay thế điều ta thích làm với điều họ có thể làm là điều trung thực, đúng về luân lý, và thậm chí có khi còn là giải pháp tốt nhất nữa.

Thỏa hiệp trong một vấn đề luân lý, tự nó, không phải là một điều nhất thiết nguy hiểm hay phản bội một sự thiện luân lý. Tốt hơn, nên nhìn thỏa hiệp như một cố gắng trung thực để thể hiện bao nhiêu có thể một sự thiện đặc thù trong một hoàn cảnh cụ thể. Thỏa hiệp liên hệ tới một hành vi luân lý làm cho “điều khả hữu trở thành thực tại. Các khả thể thực tiễn như thế thường có giới hạn, và các giới hạn này không phải là một thiếu sót do chính việc thỏa hiệp tạo ra. Mục đích của thỏa hiệp không phải là giảm thiểu sự thiện, mà đúng hơn là tìm sự thể hiện tối đa nhất có thể trong một hoàn cảnh cụ thể hiện có. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tái khẳng định các nguyên tắc luân lý truyền thống về thỏa hiệp và hợp tác vào sự ác này trong thông điệp của ngài tựa là Tin Mừng Sự Sống (Evangelium Vitae) khi ngài quả quyết rằng sẽ hợp luân khi các chính trị gia ủng hộ một đạo luật đặc thù cho phép việc phá thai, miễn là đạo luật này là đạo luật tốt nhất có thể có vào thời điểm đặc thù này và có triển vọng giảm thiểu cách nào đó việc thấy cần phải sử dụng phá thai (xem EV, các số 73-74).

Một linh đạo để sống trong một thế giới luân lý phức tạp

Muốn bàn đầy đủ về các nguyên tắc luân lý vừa nói và các hệ luận của chúng, chắc chắn cần tới cả một pho sách. Tuy nhiên, bàn tới chúng ở đây chỉ là tái khẳng định thực tại của thế giới luân lý phức tạp. Thế giới này gần như không bao giờ hoàn toàn trắng hay đen, tốt hay xấu, đúng hay sai. Đôi khi , điều tốt nhất ta có thể làm được là tối thiểu hóa sự ác. Làm điều tốt nhất ta có thể làm trong bất cứ và mọi hoàn cảnh cụ thể nào luôn hợp luân. Có một câu phương châm thần học rất xưa về việc này: “Deus impossibilia non iubet”, nghĩa là, Thiên Chúa không truyền điều bất khả. Nếu điều gì đó thực sự bất khả, thì đơn giản, nó không thể do Thiên Chúa muốn có cho chúng ta.

Khi nói tới sự bất khả ở đây, ta không có ý nói tới sự bất khả thể lý theo nghĩa vi phạm một luật vật lý như luật trọng lượng chẳng hạn, mà đúng hơn là điều có thể gây hại cho ai cách trầm trọng hoặc tạo cho họ những đau đớn lớn lao. Thiên Chúa không thể là tác giả của những lệnh truyền như thế, và đây là một kiểm nghiệm thực tại (reality check) cần phải ghi nhớ khi cố gắng tìm ra đường đi nước bước trong một thế giới phức tạp về luân lý. Cũng trong tinh thần này, ta thấy Lời Kinh Thanh Thản (Serenity Prayer) được nhiều người quen đọc đáng để ta suy niệm ở đây: “Lạy Chúa, xin Chúa ban cho con ơn can đảm để con thay đổi những điều con có thể thay đổi; xin ban cho con ơn thanh thản để con biết chấp nhận những điều con không thể thay đổi; và xin ban cho con ơn khôn ngoan để con nhận ra sự khác biệt”. Can đảm , thanh thản và khôn ngoan tất cả đều là các nhân đức để ta sống một cách có trách nhiệm trong tư cách Kitô hữu ở đây và lúc này, trong khi vẫn duy trì một đức tin vững vàng và một lòng hy vọng ở sự viên mãn của Nước Thiên Chúa đang tới.

Mang lời kinh trên ra sống đòi ta phải có một thứ linh đạo nào đó. Một trong các phương châm truyền thống nói về bản chất chân thực của Giáo Hội là ecclesia semper reformanda, Giáo Hội luôn cần cải cách. Đây không phải chỉ là một thứ khiêm nhường giả tạo. Giống bất cứ cơ cấu nhân bản nào khác, cho dù thừa nhận tư cách định chế thần linh của nó, Giáo Hội gồm các cá nhân có thể sai lầm và tội lỗi ở mọi bình diện, và Giáo Hội như một toàn thể luôn cần dấn thân vào diễn trình metanoia hay hồi tâm. Dù ta luôn nhắm việc phải làm tốt bao nhiêu có thể, nhưng ta không nên thất vọng khi thấy mình đôi đi không làm được như thế. Thực thế, sự thiếu sót này chính là một trong các từ vựng chỉ tội lỗi trong nền văn hóa vụ Hy Lạp của thế giới Tân Ước. Chữ Hy Lạp là hamartia và nguyên thủy là một từ ngữ của môn bắn cung với nghĩa “không trúng đích” hay đúng hơn, không trúng điểm đen của bia bắn (bull’s eyes). Và quả thực, môn thần học về tội lỗi vốn được gọi là hamartologia (học về việc không trúng đích). Môn học này quả là một phần trong lời than của Thánh Phaolô ở Rm 7:15: “Vì tôi không làm điều mình muốn, mà lại làm chính điều mình không muốn”.

Có một hạn từ Hy Lạp nữa nói lên một khía cạnh khác của tội đó là hubris mà người ta quen dịch là kiêu ngạo. Tuy nhiên, đối với người Hy Lạp, hubris không có nghĩa là kiêu ngạo cho bằng quên rằng mình chỉ là phàm nhân chứ không phải thần thánh. Ở đền thờ Delphi, nơi người Hy lạp tới để lãnh ý thần minh, có hàng chữ viết nổi tiếng “Hãy biết chính bạn”. Một lần nữa, đây không phải là lời khuyên nội suy, tự đánh giá các điểm mạnh và điểm yếu của mình, mà là lời cảnh tỉnh để ta nhớ rằng là một người phàm, bạn đang bước vào nơi thánh thiêng, chỗ cư ngụ của các thần minh. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta không tin các thần minh của người Hy Lạp, nhưng với chúng ta, một khía cạnh của điều thần học Kitô Giáo coi như tương đương với hubris có thể là việc tin rằng ta chịu trách nhiệm đối với sự cứu rỗi của mình và chính nhờ các cuộc sống chính trực và việc làm tốt, chúng ta đáng được cứu rỗi. Dù quan điểm này có tính lôi cuốn về luận lý, nhưng nó vốn bị Giáo Hội kết án khi lên án lạc thuyết Pêlagiô (tự sức mình, không cần Thiên Chúa) mà có người gọi là lạc giáo Hoa Kỳ.

Trên đây đã nói đến thư thứ nhất của Thánh Gioan. Thư này nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu xuống trần gian để cứu chúng ta khỏi tội lỗi, và do đó, ta phãi chấp nhận thánh ý cứu rỗi của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô. Nói các khác, trước hết và trên hết, chúng ta được mời gọi thoát khỏi vòng nô lệ của tội lỗi, chứ không phải được mời gọi thoát khỏi mọi bất toàn. Xét tội một cách nghiêm túc là xét nó như Thiên Chúa xem xét, nghĩa là một điều có thực và gớm ghiếc. Xét tội một cách nghiêm túc cũng đòi chúng ta điều này: ta phải nhớ rằng xiềng xích tội lỗi đã bị Chúa Giêsu bẻ gẫy và một phần ơn gọi làm người của chúng ta là chấp nhận lời mời gọi nhận lãnh ơn phúc này. Đó là cái nhìn thông sáng chính của Martin Luther, điều mà ông phát biểu thành phương châm coi con người nhân bản vừa công chính vừa là kẻ có tội, simul justus et peccator. Không phải các hành động của ta làm ta ra công chính, mà đúng hơn là ơn thánh của Thiên Chúa đổ xuống qua Chúa Giêsu Kitô, điều được Luther hiểu là sola gratia (chỉ ơn thánh mà thôi) và solus Christus (chỉ Chúa Kitô mà thôi).

Có lẽ điều ta cần là việc phục hồi tội lỗi, không theo nghĩa thăng tiến việc thực hành nó, mà là phục hồi ý thức rằng tội lỗi là điều muốn thống trị ta. Như nhà giáo sử người Anh, Norman Tanner, từng nói, sự yếu đuối của xã hội đương thời, “được nuôi dưỡng bởi các phương tiện truyền thông và quảng cáo tiêu thụ, là người ta bị phỉnh gạt để tin rằng họ có thể, và do đó, đến một mức nào đó, nên làm mọi chuyện. [Điều này] đã khiến người ta quá nhấn mạnh tới việc đạt được hoàn thiện bằng cố gắng bản thân; người ta quá dễ dàng bỏ cuộc hoàn toàn khi không thể đạt được mọi chuyện, một não trạng tất cả hay không gì cả, mà, trong mấy năm gần đây, đã đem lại một hệ quả đáng buồn đối với những người Công Giáo thôi không thực hành tôn giáo của mình nữa”. Một hiệu quả phụ của cố gắng muốn tránh đối chất với tội lỗi và thất bại thực sự trong đời là nhìn thế giới theo cách phân chia nó thành hai loại tốt và xấu…

Thiển nghĩ, không những nên trở lại với ý niệm trung cổ về tội lỗi, thậm chí còn xa hơn thế nữa, tức trở lại thời Chúa Giêsu và thời Thánh Phaolô. Thánh Tông Đồ nói với ta rằng “Thiên Chúa đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su” (2Tm 1:9). Nếu ta thực sự tin sứ điệp này, ta sẽ ở một vị trí tốt hơn để phục hồi được mối tương quan chân thực của tội lỗi và ơn thánh, và được giải thoát thực sự khỏi tội lỗi. Chúng ta sẽ đạt được điều này, không phải bằng cách tái tạo mình thành những nhái theo (clones) của Vô Nhiễm Thai mà bằng cách chấp nhận ơn phúc nhưng không của sự sống đích thực mà ta phải đem ra sống bằng diễn trình “xưng tội” theo ý nghĩa nguyên thủy tức là trước hết ý thức được và ca ngợi tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa; chính tình yêu và lòng thương xót này sẽ đem đến cho ta sức mạnh để ta nhìn nhận các tội lỗi và thất bại của ta. Nhưng, việc nhìn nhận này không bao giờ là lời nói cuối cùng cả, mà chỉ là lời nói tiếp theo mà thôi. Sau việc “xưng tội” này, ta sẽ được ơn thánh lên sinh lực để sẵn sàng dấn thân vào diễn trònh hồi tâm kéo dài suốt đời.

Tại Vatican II, đã có một cuộc tranh luận kéo dài về việc phải nói làm sao về Giáo Hội. Sơ đồ chuẩn bị do Giáo Triều soạn thảo thích lặp lại điều họ coi là giáo hội học đã được thử nghiệm và chân thực của Công Đồng Trent; giáo hội học này coi Giáo Hội như một “xã hội hoàn hảo” từ trong yếu tính vốn có tính phẩm trật. Nhưng sau cùng, khi các Nghị Phụ chấp nhận “Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội” (Lumen Gentium), đặc điểm nền tảng của Giáo Hội không trước hết và trên hết là khía cạnh phẩn trật, mà là chiều kích bao gồm mọi con người bình thường tức Dân Thiên Chúa (Lumen Gentium, ch.2).

Do Phép Rửa, tất cả chúng ta đều tham dự vào chức linh mục vương giả của mọi tín hữu và do đó, nền linh đạo của ta phải phản ảnh tri cảm thay đổi này là không còn các công dân bậc nhất, bậc nhì hay bậc ba trong Giáo Hội nữa. Lumen Gentium chương 5 cũng nhấn mạnh rằng mọi người trong Giáo Hội đều được mời gọi nên thánh. Do đó, “nên thánh” không thể được coi như ơn gọi đặc biệt của giai cấp tu trì chuyên nghiệp trong Giáo Hội nữa, nhưng là ơn gọi của mọi tín hữu. Môi trường trong đó các tín hữu sống thực ơn gọi của mình, dĩ nhiên, khác nhau, nhưng có một yếu tố chung, tức là, ơn gọi này phải được thực sự sống trong cõi đời này. Thế giới thực trong đó ta đang sống đây rất phức tạp, chắc chắn như thế, nhưng tính phức tạp của nó đem lại một thách thức Kitô giáo phải sống trong sự trung thành nhưng trung thành một cách sáng tạo, và tự do, đối với viễn kiến và các giá trị của Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu Kitô không những đã công bố mà còn khai mở nữa.

Dù ta không còn mong Người tiếp tục tiến bước trên trần gian bằng xương bằng thịt nữa, nhưng ta tin lời Người hứa ban Chúa Thánh Thần cho ta và ở với ta cho tới cùng, không phải tận cùng đời sống trần thế cá nhân của ta, mà là tận cùng thế giới (Mt 28:18-20). Ơn Chúa Thánh Thần là ơn cho tòan thể Giáo Hội chứ không phải cho nhóm này hay nhóm nọ trong Giáo Hội. Lời Chúa Giêsu hứa ở lại đã được ngỏ với mọi người thế nào, thì ủy nhiệm thư để ta ra đi giảng dậy muôn dân cũng được ngỏ với mọi môn đệ chúng ta như vậy. Chúng ta làm việc này với nhau như một Dân Hành Hương trong một ecclesia semper reformanda, một Giáo Hội luôn cần cải cách. Hành hương gợi lên một mục tiêu thánh thiện, nhưng nó cũng bao hàm điều này: dù đang ở trên đường, nhưng chúng ta chưa tới đích. Là các người hành hương, nếu tin Chúa Kitô, chu toàn sự ủy thác của Người, và làm tất cả các điều này trong một Giáo Hội chưa hoàn hảo, thấy mình còn đang hiện diện trong một thế giới rối rắm, thì ta cần phải có một nền linh đạo cho thế gian này, một nền linh đạo biết nhận thế giới như nó hiện có, trong mọi nét phức tạp, hàm hồ, rối rắm của nó, với mọi thất bại, thậm chí cả tội lỗi và tội lệ của nó. Tuy nhiên, nền linh đạo này không chỉ nhận thế giới này như nó hiện là và cứ để nó như thế, nhưng nối kết với thế giới trong một sự chính trực đầy can đảm, đầy hy vọng, khôn ngoan, và yêu thương, tất cả là các nhân đức nền tảng giúp ta sống trung thành trong một thế giới phức tạp về luân lý.

Viết theo Linh Mục James T. Bretzke, S.J. trong “A Morally Complex World, Engaging Contemporary Moral Theology”, Liturgical Press, 2003
 
Văn Hóa
Tản mạn đời tha hương : Tháng các linh hồn và lòng hiều thảo
Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư
14:47 31/10/2017

Giáo lý ‘Các Thánh cùng thông công’



Đề tài hôm nay mời chúng ta đề cập tới một điều quan trọng của tín lý đạo Công Giáo, đó là (cùng với giáo lý về Thiên đàng nơi hưởng phúc dài lâu của các thánh nhân) sự hiện hữu của ‘Luyện ngục’ nơi các hồn bất tử có khả năng sẽ được thưởng phúc Thiên đàng sau khi xác phàm qua đời, nhưng tạm cần được thanh luyện, dựa vào những lỗi lầm khiếm khuyết xưa cũ. Thánh Phao lô cắt nghĩa mục này ở thơ 1 Cor 3:13-14; rồi sách 2 Maccabees 12:39-46 nói về chuyện cho hồn kẻ chết; rồi thơ 1 của thánh Phê rô 3:18-22; đặc biệt Phúc âm Matt.12:32. Rất tiếc các giáo hội Tin Lành không chịu công nhận tín điều này.

Chữ ‘thông công’ ở đây là sự thông hiệp, giao tiếp : Ta cần nguyện xin các thánh trên trời bầu cử, và ta có thể dâng lời nguyện, thánh lễ, hy sinh, việc lành hỗ trợ cho các hồn trong luyện ngục mau về trời…Trong thực tế, trần gian, thiên đàng và luyện ngục cùng tạo nên một GIÁO HỘI duy nhất của Chúa. Cả 3 cùng được phép chia sẻ ân sủng thiêng liêng do long từ bi của Chúa. Riêng trong giáo hội ‘chiến đấu’ ở trần gian, chúng ta được phép cùng chia sẻ một đức tin, một ân huệ siêu nhiê, một kho tàng các bí tích cũng như các loại đặc sủng.

Hàng ngày chúng ta được khích lệ tôn kính và cầu nguyện với các thánh trên trời, nhất là vào ngày kính đặc biệt toàn thể các ngài vào 1 tháng 11 mỗi năm (đồng thời được khuyên học hỏi các gương sáng và nhân đức của các ngài). Ta cần các ngài hơn các ngài cần ta. Trái lại lúc này các linh hồn trong luyện ngục cần chúng ta hỗ trợ về mặt thiêng liêng, tiếp tay trong việc đền tội với các hồn đó (lúc còn sống các hồn chưa kịp làm). Đây là hành vi hỗ tương rất ý nghĩa cũng như tạo những lợi ích thiêng liêng cao đẹp cho cả 2 bên.

Người sống nhớ tới kẻ đã qua đời



Tôn giáo nào cũng dạy về lòng hiếu thảo với các đấng sinh thành, ông bà tổ tiên. Giới răn thứ 4 trong đạo Chúa nói rất rõ bổn phận này. Riêng tại Việt Nam, đạo ‘Ông Bà’ hình như là đạo của mọi gia đình. Thời mới đón nhận tin mừng, để tránh sự nhầm lẫn thờ kính Chúa và tôn kính ông bà, giáo hội xem chừng khá khắt khe trong việc thực hành chuyện bái lậy di ảnh ông bà cha mẹ. Còn bây giờ ít ai còn chưa phân biệt vị trí của Thiên Chúa và ông bà cha mẹ, nên chúng ta thoải mái hơn trong việc niệm hương bái lậy hình ảnh ông bà tổ tiên.

Bên nhà Phật có đại lễ Vu Lan (rằm tháng 7 âm lịch) hướng về các hồn ông bà tổ tiên, cũng như các ‘cô hồn’ chốn âm ty. Còn bên Công Giáo thì có ngày lễ đặc biệt cầu cho các đẳng linh hồn vào mồng 2 tháng 11 dương lịch hằng năm. Chẳng những thế, giáo hội còn mời các tín hữu chú tâm đặc biệt vào chuyện hỗ trợ các linh hồn ở luyện ngục trong suốt cả tháng. Dịp cầu hồn réo gọi thân hữu bạn bè còn tại thế đừng quên kẻ đã ra đi. Các Linh mục được đặc cách cử hành 3 thánh lễ ‘cầu hồn’ trong ngày 2/11 này. Giáo dân thì hay kéo nhau ra đất thánh để cầu nguyện và dự một thánh lễ riêng dâng cho các linh hồn. Giáo hội dạy rõ : Không có hồn nào tại luyện ngục bị bỏ quên. Thành ra bên đạo Chúa không bao giờ chính thức dùng chữ các ‘linh hồn mồ côi’ (bị hiểu lầm về các hồn không có thân nhân nhớ tới). Hàng ngày, trong suốt năm phụng vụ, có ngàn vạn Linh Mục dâng lễ và luôn khấn cầu Chúa thương các linh hồn chốn ‘luyện hình’.

Đây tháng của ký ức. Đây mùa của tưởng nhớ. Kẻ ở người đi để lại bao mến thương.



Uống nước nhớ nguồn. Lá rụng về cội. Ta quên sao được những chân lý cao đẹp này. Thành ra hãy tỏ ra biết ơn các vị đi trước chúng ta. Làm như thế là ta thi hành đức HIẾU THẢO một cách tuyệt vời. Đền ơn về phần hồn còn cao quý hơn phần thể xác rất nhiều. Vào ngày 9 tháng 12 năm 1939, thánh bộ Truyền giáo đã ra một sắc lệnh đòi giáo dân thi hành điều hiếu thảo thiêng liêng này như một bổn phận trọng đại của mỗi người.

Tháng 11 khởi đầu ‘mùa tưởng nhớ’. Dẫu sống trên xứ người, tâm tư chúng ta nhiều lần như bị xoáy tròn theo 4 mùa thay đổi. Lúc này, Thu đã dần kết thúc để đưa ta vào tiết lạnh. Lòng người tỵ nạn tha hương cũng bắt đầu se lại.

(nhà thờ tại Ba Lan : có 3 ngàn sọ và 20 ngàn khúc xương người đã chết)

Chúng ta tạm phác họa vài cách thi hành thực tế : Trưng bày di ảnh ông bà cha mẹ dưới phần bàn thờ chính của gia đình. Ngoài dịp đại lễ cầu hồn 2/11, ta cũng nên tổ chức những ngày giỗ, mời mọi thành viên gia đình và thân nhân dự thánh lễ và đọc kinh cho các ngài tại tư gia. Dĩ nhiên quan trọng hơn là phải thực hành lòng hiếu thảo này ngay khi ông bà cha mẹ còn sống (thi hành vào các dịp lệ tết, sinh nhật…) nhất là phải dạy cho đoàn con lũ cháu hiểu và thấm tinh thần này. Quan trọng hơn nữa là đoan hứa sẽ chân thành tuân giữ những điều hay lẽ phả, lễ cầu hồn 2 tháng 11 năm 1963 mà ông bà cha mẹ đã liên tục nhắn nhủ cho con cháu. Ước mơ lớn nhất là sau này con cháu sẽ cùng được về chung hưởng quê trời với các ngài.

Cần tưởng nhớ cố Tổng Thống Diệm



Dân Việt quen gọi là cụ Ngô, hay chí sĩ Ngô đình Diệm. Ngài bị thảm sát cùng với người em là Ngô đình Nhu vào đúng ngày lễ cầu hồn 2 tháng 11 năm 1963. Chúng ta tưởng nhớ ngài không phải vì ngài là một thiên tài chính trị với đủ mưu mô trần đời, nhưng vì ngài là một nhân vật có đức độ, hết lòng yêu nước thương dân. Là những người tỵ nạn Cộng Sản, chúng ta biết ơn ngài đã đứng lên lập chiến tuyến chống Cộng, khai mở chính thể Cộng hòa và xây đắp nền tự do dân chủ thực sự cho miền Nam Việt Nam, sau hiệp định chia đôi đất nước vào tháng 7 năm 1954. Lúc đó ngài còn cố gắng đón nhận và giúp định cư gần một triệu dân miền Bắc lánh nạn Cộng Sản để vào Nam sống. Chỉ có vỏn vẹn 9 năm ngắn ngủi, ngài đã biến miền Nam thành một đại gia đình đầy ắp tình thương và hăng say tiến thẳng về tương lai tươi sáng.

(Tổng thống Diệm tại nhà nguyện riêng trong dinh Độc lập)

Dù có những phản chứng đầy thiên vị và ác ý, đa số dân Việt Nam ngày nay vẫn đã nhìn ra sự thật về con người và cuộc đời của ngài. Tiếc rằng trong tình trạng sơ khai của nền độc lập, miền Nam phải đối diện với quá nhiều kẻ thù nội cũng như ngoại. Từ chính trị tới tôn giáo. Kẻ nội thù hung bạo, từ những viên chức và sĩ quan bất mãn đã khờ khạo, chạy theo đồng tiền và danh vọng, cùng sự dỗ dành xúi bẩy tứ phía, để hùa nhau sát hại ngài, lấy danh nghĩa làm…cách mạng.

Hôm nay chúng ta cùng nhau thắp nén hương lòng hướng về cố tổng thống kính yêu, người mà lịch sử sẽ phải ghi công là vị anh hùng lớn của dân tộc trong thời cận đại. Mong sao hương hồn ngài sớm được về hưởng nhan thánh Chúa trên Thiên Quốc.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Lễ Hội Halloween
Joseph Ngọc Phạm
21:57 31/10/2017
LỄ HỘI HALLOWEEN
Ảnh của Joseph Ngọc Phạm
Ngày ba mươi mốt tháng mười
Sân nhà đèn chớp ma trơi hiện về
Nhện giăng lơ lửng tứ bề
Đầu lâu lủng lẳng trên lề đường đi.
(Trích thơ của Bạch Liên)