Ngày 27-11-2020
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Thứ Bẩy 28/11: Anh em hãy tỉnh thức, để thoát khỏi mọi điều sắp đến – Lm. Phêrô Nguyễn Văn Cao, SJ
Giáo Hội Năm Châu
02:49 27/11/2020


Tin Mừng Lc 21,34-36

Anh em hãy tỉnh thức, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”

Ðó là lời Chúa.
 
Hãy Tỉnh Thức
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
15:32 27/11/2020
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG

Hãy Tỉnh Thức

Is 63,16-19; 64,2-7; 1Cr 1,3-9; Mc 13,33-37

Với Chúa Nhật I này, chúng ta bắt đầu Mùa Vọng, khởi đầu năm phụng vụ mới, thời gian của canh tân tâm linh, của hy vọng và đợi chờ niềm vui.

Trong thời gian này, dân Chúa sống lại năng động kép của Mùa Vọng: một đàng, chúng ta hướng cái nhìn về mục đích tối hậu của cuộc lữ hành đời mình trên trần gian, để chuẩn bị đón chờ Chúa Kitô trở lại trong vinh quang vào ngày cánh chung (parousia); đàng khác, chúng ta sốt sáng tưởng nhớ và cử hành biến cố Con Thiên Chúa sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Bêlem cách đây hơn hai ngàn năm (x. Gl 4,4).

Trong viễn cảnh đó, Lời Chúa hôm nay nói nhiều đến chủ đề tỉnh thức: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. Anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến” (Mc 13,33.35).

1- Tỉnh thức là gì?

Vậy thì tỉnh thức có nghĩa là gì? Tỉnh thức để làm gì và để gặp ai?

Theo nghĩa đen về phương diện thể lý, tỉnh thức có nghĩa là tỉnh táo, không có ngủ gật, không ngái ngủ, không ủ rủ, nhưng là trạng thái tỉnh táo và minh mẫn.

Theo nghĩa Kinh Thánh, từ tỉnh thức mang một ý nghĩa sâu sắc và có tính biểu tượng. Nó diễn tả một thái độ sống nền tảng của người theo Chúa, một cách thế sống của người Kitô hữu. Đó là thái độ nhạy bén, sẵn sàng và ngoan ngùy, như những tôi tớ trung thành luôn biết chờ đợi chủ trở về bất thình lình (x. Mc 13,34-36).

Theo nghĩa này, trước hết người tỉnh thức là người nhạy bén với sự hiện diện của Thiên Chúa, nhạy bén với lời mời gọi của Chúa và với những giá trị Tin Mừng; người tỉnh thức là người biết đọc những dấu chỉ cuộc sống và nhận ra Thiên Chúa qua mọi biến cố xảy ra trong đời mình. Người tỉnh thức là người có khả năng để học hỏi từ mọi nơi, mọi lúc, từ bất cứ ai hay hoàn cảnh nào, cả những sai lầm và thất bại trong đời mình, để lớn lên và trưởng thành không ngừng.

Trái với thái độ sống tỉnh thức là lối sống u mê, nghĩa là lối sống của một người tự cuốn mình trong cái tôi ích kỷ, không còn cặp mắt tích cực để nhìn đời và đọc ra những giá trị cuộc sống, những hoạt động của Thiên Chúa, không còn khả năng đón nhận những điều kỳ diệu, điều tích cực và những hồng ân quý báu đến từ Thiên Chúa qua mỗi ngày sống của mình.

Thứ đến, người sống tỉnh thức là người luôn sẵn sàng để đón Chúa đến, như những trinh nữ với đèn sáng trong tay, háo hức và hân hoan chờ chàng rể tới. Đó là người luôn biết hướng tâm hồn mình về một điều gì tốt đẹp, và hơn thế nữa, hướng lòng mình để gặp gỡ một Con Người, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Động lực giúp chúng ta tỉnh thức đó là tình yêu. Bởi vì, ai yêu thì cũng biết sống tỉnh thức, ngay cả lúc còn đang ngủ! Điều này được diễn tả rất hình ảnh và ý nghĩa trong sách Diễm Ca: “Suốt đêm, trên giường ngủ, tôi tìm người lòng tôi yêu dấu. Tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp!” (Dc 3,1-2); hay như Thánh Thi kinh tối nói: “Dầu mắt ngủ nhưng lòng vẫn thức, vẫn tin yêu một mực chân tình.”

Người tỉnh thức là người thi hành thánh ý Thiên Chúa và quảng đại giúp đỡ anh chị em trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh một cách vô điều kiện. Người luôn biết sẵn sàng phục vụ người khác như người lính gác canh đêm (Mc 13,34).

Cuối cùng, người sống tỉnh là người rất “ngoan ngùy” và biết vâng theo Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong chúng ta còn mật thiết hơn chúng ta và hướng dẫn chúng ta từ sâu thẳm nhất của lòng trí chúng ta. Trong tiếng La Tinh có hạn từ “docibilitas” diễn tả thái độ của người biết lắng nghe và vâng theo Thánh Thần, người để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn và biến đổi mình trở nên phong phú, thánh thiện về mọi phương diện, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô (bài đọc II), khi mặc lấy những tâm tư và tình cảm của Đức Kitô trong tương quan đối với Chúa1 Cha và đối với tha nhân.

2- Gương sống tỉnh thức

Đây chính là thái độ của Đức Maria, nhân vật Mùa Vọng, một người phụ nữ tràn đầy Thánh Thần. Mẹ luôn sống tỉnh thức, sẵn sàng và tín thác vào ơn Chúa. Mẹ đã để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trên mình để cho Con Thiên Chúa “nhập thể” trong lòng. Chính vì thế, Mùa Vọng cũng được gọi là thời gian của Chúa Thánh Thần. Noi gương Đức Maria, chúng ta hãy để cho Chúa Thánh Thần hoạt động để Con Thiên Chúa “nhập thể” và nên hình dạng trong lòng chúng ta một cách thiêng liêng.

Cha Anthony de Mello kể câu chuyện khá thú vị về thái độ tỉnh thức như sau: có một kẻ ăn mày khố rách áo ôm đang ngồi bên một bờ sông, anh mơ thấy một chiếc xe rất sang trọng chạy đến bên anh, rồi bỗng nhiên, cánh cửa xe mở ra, một cô gái rất xinh đẹp bước ra và đến ngồi bên cạnh anh, cô nhìn anh đắm đuối. Anh thấy mình là “số hưởng,” liền xích lại gần cô và từ từ, anh cầm lấy tay cô, rồi hôn cô. Lập tức, anh rơi tỏm xuống sông và tỉnh! Từ lúc nãy tới giờ anh mơ mà cứ tưởng thật.

Nhiều lúc chúng ta cũng rất giống với anh này, sống mơ mơ màng màng! Khi chúng ta rơi xuống sông, hay bị dồn vào bức tường, lúc đó chúng ta mới tỉnh ngộ. Sự tỉnh ngộ đó là rất quý, đôi khi dầu muộn màng, nhưng muộn còn hơn không.

Như thế, Mùa Vọng mà chúng ta bắt đầu hôm nay không chỉ là một thời gian quý báu mời gọi chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng để đón chờ Chúa đến trong mọi hoàn cảnh hay bất cứ lúc nào, đồng thời mời gọi chúng ta sống tốt giây phút hiện tại qua việc chu toàn bổn phận và thánh ý Chúa mỗi ngày. Với cách sống như thế, Chúa đến lúc nào, chúng ta cũng sẵn sàng ra đón Người. Amen!

ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An

http://nguoinguphu.blogspot.com/
 
Đầy tớ nhớ lời chủ dặn
Lm. Nguyễn Xuân Trường
15:43 27/11/2020
ĐẦY TỚ NHỚ LỜI CHỦ DẶN

Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng bắt đầu một Năm Phụng vụ mới: Năm B. Nếu ngày Đầu Năm được gọi là Tết, thì ngày Chúa Nhật đầu năm Phụng vụ phải được gọi là Tết Đạo. Cầu chúc Tết Đạo rạo rực niềm vui Chúa đến.

Mùa Vọng mang ý nghĩa gì? Vọng có nghĩa là mắt nhìn, trí hướng, lòng mong về nơi, về người mà mình yêu mến, như người Việt thường nói: “Vọng về quê hương,” “Vọng Phu chờ chồng.” Thế nên, Mùa Vọng là hướng về Nước Trời, là mong Chúa đến. Mùa Vọng mời gọi chúng ta hướng về Chúa trong cả 3 chiều kích thời gian: Hướng về quá khứ mừng Chúa giáng sinh, hướng tới tương lai mong chờ Chúa quang lâm, và nhất là hướng vào hiện tại mời Chúa ngự vào lòng mình, gia đình mình.

Ngày xưa dân Chúa khát khao mong mỏi: “Phải chi Chúa xé trời mà ngự xuống”, và Chúa đã ngự xuống trần gian rồi. Bây giờ lại là lúc Chúa mong mỏi ước gì loài người mở lòng ra cho Chúa ngự vào tâm hồn, vào cuộc đời mỗi người. Chúa muốn nhập thể trong cuộc đời chúng ta để mỗi người có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi.”

Để sống được như thế, thì Phúc Âm tuần này bảo chúng ta: hãy tỉnh thức. Tỉnh thức quan trọng nhất là nhận thức sâu sắc rằng Chúa là chủ, còn chúng ta chỉ là những đầy tớ được chủ trao cho trông coi chăm sóc thế giới này. Bổn phận căn bản của đầy tớ là nhớ lời chủ dặn, làm theo ý chủ. Thế nên, tỉnh thức là phải cảnh giác trước những nguy cơ xã hội đang đi ngược lại với lời Chúa dạy. Hãy để Chúa hướng dẫn chứ không phải để xã hội lôi cuốn chúng ta. Tỉnh thức nên không ngủ mê nằm im, nhưng hăng hái chu toàn những nhiệm vụ Chúa trao cho mỗi người.

Mùa Vọng chúng ta hy vọng vào Chúa. Và Chúa cũng đặt niềm hy vọng nơi chúng ta. Hãy sống sao để Chúa có thể nói: Con là niềm hy vọng của Ta. Mỗi người hãy sống tốt đẹp để trở thành niềm hy vọng cho nhau. Amen.
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:32 27/11/2020

7. Phàm người muốn được vinh quang mãi mãi thì nhất định phải coi thường vinh quang tạm bợ.

(sách Gương Chúa Giê-su)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


-----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:35 27/11/2020
94. VU CÔNG SAY RƯỢU

Vu công uống rượu nơi nhà bạn đến say mèm. Khi về nhà đi ngang qua cổng nhà của Lỗ Chính thì đột nhiên ói ra, người gác cổng chửi mắng:

- “Ai uống rượu say vậy, đem đồ dơ bẩn mà ói trước cổng nhà người ta?”

Vu công say khước đưa mắt liếc nó một cái và nói:

- “Cái cổng của nhà mày vốn không nên nhắm hướng miệng của ta mà mở !”

Người gác cổng nghe thế thì dở khóc dở cười, nói:

- “Cái cổng nhà của chúng tôi làm cả mấy năm rồi, lẽ nào hôm nay có chủ ý nhắm theo hướng miệng của ngài mà mở sao?”

Vu công đáp:

- “Thì cái miệng ông bố mày đây cũng rất lâu năm rồi vậy !”

(Vu Tiên biệt ký)

Suy tư 95:

Cổng cũng là cửa, mà miệng cũng là cửa.

Cổng là cửa lớn của nhà và miệng là cửa của cái bụng.

Cổng thì đón tiếp mọi người làm cho tình bạn thêm thắt chặt, và miệng thì tiếp nhận thức ăn làm cho thân xác khỏe mạnh.

Đưc Chúa Giê-su là cổng chinh của tòa nhà Hội Thánh và là cửa chuồng chiên, ai không từ cổng chính mà vào thì là đạo chích và ai không từ cửa chuồng mà vào thì là kẻ cướp, nghĩa là ai không tin vào Đức Chúa Giê-su là Thiên Chúa và là người thật thì không được ơn cứu độ, bởi vì ơn cứu độ chỉ đến từ nơi Đưc Chúa Giê-su là cổng nhà Hội Thánh và là cửa chuồng chiên.

Người Ki-tô hữu là người đi vào nhà Hội Thánh bằng cổng chính nơi bí tích Rửa Tội, là người tin vào Đức Chúa Giê-su, cho nên họ cũng là những người trở thành cổng để người ta đi vào nhìn và thấy Đức Chúa Giê-su nơi cuộc sống của họ, và họ không chỉ là những người chỉ biết tin mà thôi, nhưng còn là những người biết chỉ cho người khác tin và sống những gì mà họ cảm nghiệm và đã sống...

Cái cổng không thể hướng về cái miệng của con người để mở ra, nhưng con người ta phải qua cổng để vào nhà, trái lại ơn cứu độ của Thiên Chúa thì hướng về con người và con người cần phải cộng tác với ơn sủng để được cứu độ, ai không cộng tác thì không thể trở thành cổng và cửa cho anh em chị em...

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


---------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Tuần SỐNG Một Câu Lời Chúa (CN I MV B)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:38 27/11/2020
CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG (Năm B)

Bài đọc 1: Is 2, 1-5.

Bài đọc 2: Rm 13, 11-14a.

Tin mừng: Mc 13, 33-37.

“Anh em phải canh thức: anh em không biết khi nào chủ nhà đến.”


Bạn thân mến,

Đã có ít nhất là một lần bạn canh thức đợi điện thoại của người yêu từ phương xa gọi đến, người yêu xa cách bạn cả ngàn cây số, và đã lâu rồi chưa bạn chưa được nghe giọng nói dễ thương của người yêu. Tâm hồn bạn hồi hộp, tim bạn đập mạnh và lòng trí bạn thì vui mừng không biết sẽ nói gì với người yêu. Đó là tâm trạng chờ đợi của bạn cũng như của nhiều người khác.

Bài Phúc Âm hôm nay Đức Chúa Giê-su mời gọi bạn và tôi cùng tỉnh thức, không phải để đợi người yêu từ phương xa gọi điện về, nhưng là đợi ông chủ về, ông chủ này đã ưu ái đón nhận chúng ta vào làm công trong nhà của Ngài, Ngài trao cho bạn và tôi mỗi người một công việc tùy theo tài năng và sở trường của mình. Ngài trở về bất thình lình không báo trước, để bạn và tôi luôn thức tỉnh chờ đợi trong niềm vui, vì chúng ta đã và đang chu toàn bổn phận của mình.

Bạn và tôi đang tỉnh thức, nhưng vẫn có lúc nào đó vì mệt nhọc mà ngủ mê trong kiến thức, trong tài năng của mình; bạn và tôi đang đợi chờ, nhưng cũng có lúc nào đó quên mất mình đang đợi ông chủ nên vẫn cứ mãi mê thóa mạ, dọa nạt, ngạo mạn anh chị em của mình; bạn và tôi đang cố gắng chu toàn công việc mà ông chủ -Đức Chúa Giê-su- trao phó, nhưng vẫn có lúc lơ là trể nãi vì những cám dỗ của ma quỷ.v.v...

Năm phụng vụ mới của Giáo Hội đã bắt đầu từ hôm nay –chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng- Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đợi chờ Chúa đến, không phải đến trong hang lừa máng cỏ nơi thành Bê-lem xưa kia, nhưng đến trong tâm hồn của bạn và tôi, và của những ai thành tâm đón nhận Ngài như các mục đồng ngày xưa ấy đã tin và đến thờ lạy Ngài.

Bạn thân mến, Đức Chúa Giê-su đã đến rồi –hằng ngày trong bí tích Thánh Thể- nhưng có lẽ bạn và tôi chưa chuẩn bị đón Ngài vào trong tâm hồn của mình; Đức Chúa Giê-su đã đến rồi, Ngài đến với nhiều hình ảnh trong cuộc sống của chúng ta: dưới hình ảnh người ăn xin, người bất hạnh, người lỡ đường, người bị khinh dễ, người vui vẻ, người buồn phiền... do đó, mà Ngài muốn chúng ta hãy tỉnh thức, tỉnh táo để nhận ra Ngài ngay khi Ngài đến gõ cửa tâm hồn của bạn và tôi...

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các phương tiện truyền thông cho rằng tiên đoán của Tổng thống Trump về vắc-xin là ‘hoang đường’. Họ sai rồi
Đặng Tự Do
16:53 27/11/2020


Trong bản tin gửi cho các ký giả vào đúng ngày Lễ Tạ Ơn, Tòa Bạch Ốc đã trích thuật một bài báo của Joseph Curl cho thấy thái độ bất công của các phương tiện truyền thông tại Hoa Kỳ đối với Tổng thống Trump.

Bài báo có tựa đề “Media said Trump's COVID-19 vaccine prediction would take 'miracle.' They were wrong”, nghĩa là “Các phương tiện truyền thông cho rằng tiên đoán của Tổng thống Trump về vắc-xin là ‘hoang đường’. Họ sai rồi.” được đăng trên tờ Just The News và được Tòa Bạch Ốc gởi cho các ký giả.

Hồi tháng 5, ngay sau khi COVID-19 tăng vọt trên khắp nước Mỹ, Tổng thống Trump đã đưa ra một dự đoán táo bạo về một loại vắc-xin dành cho coronavirus.

“Chúng tôi đang tìm cách đạt được nó vào cuối năm nếu có thể, có thể là trước đó,” Tổng thống Trump nói ngày 14 tháng 5 trong một sự kiện ở Vườn Hồng của Tòa Bạch Ốc.

Ngày hôm sau, tổng thống viết trên Twitter rằng “Công việc nghiên cứu vắc xin đang có vẻ RẤT hứa hẹn, trước khi kết thúc năm nay.”

Các phương tiện truyền thông chính thống không thích dự đoán đó, họ không thích một chút xíu nào.

NBC News viết ngày 15 tháng 5 trong một bài gọi là “kiểm chứng thực tế”:

“Nhưng các chuyên gia nói rằng việc phát triển, thử nghiệm và sản xuất vắc-xin cho công chúng vẫn còn phải mất ít nhất từ 12 đến 18 tháng và bất cứ điều gì ít hơn như thế sẽ được coi là một phép lạ trong y khoa.”

Mạng NBC News trích dẫn lời Tiến sĩ Paul Offit, giáo sư tại Phân Khoa Y Perelman thuộc Đại học Pennsylvania và là giám đốc Trung tâm Giáo dục về vắc xin tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia. Offit nói: “Tôi nghĩ rằng có thể bạn sẽ thấy một loại vắc-xin trong vòng tay mọi người vào năm tới - vào giữa hoặc cuối năm sau. Nhưng đây là điều chưa từng xảy ra nên rất khó đoán”.

NBC cũng đã tìm kiếm lời bình luận từ Tiến sĩ Stanley Plotkin, người được cho là đã phát minh ra vắc xin phòng bệnh rubella vào năm 1964. “Trong trường hợp sớm nhất, chúng ta có thể có một loại vắc xin - hay được cho là vắc xin - trong khoảng thời gian từ 12 đến 18 tháng,” Plotkin nói.

Trong khi đó, FactCheck.org đã điều tra các phúc trình cho rằng hồi tháng Chín, Tổng thống Trump cho biết một loại vắc-xin sẽ ra đời “vào cuối năm nay”.

“Tôi không nói những gì bạn vừa nói,” Tổng thống Trump nói trong một cuộc họp báo vào Ngày Lễ Lao động. “Những gì tôi đã nói là 'vào cuối năm nay.' Nhưng tôi nghĩ nó thậm chí có thể sớm hơn thế. Thực ra có thể là vào tháng 10. Có thể là trước tháng mười một”.

“Chúng tôi đã xem xét các bình luận trước đây của Tổng thống Trump về một loại vắc-xin và không tìm thấy bất kỳ trường hợp nào mà ông ấy tuyên bố vắc-xin chắc chắn sẽ có sẵn vào tháng 10 hoặc tháng 11”, FactCheck.org viết vào ngày 11 tháng 9 trong một đoạn tiêu đề: “Tổng thống Trump đang phóng đại các tiến bộ”.

“Nhưng ông ấy đã gợi ý rằng khung thời gian sớm hơn thậm chí còn có nhiều khả năng hơn là phải chờ đến cuối năm. Các chuyên gia và quan chức chính phủ không đồng ý với đánh giá đó”.

Sau đó, CNN đã viết một bài vào tháng 8 với tiêu đề: “Kiểm tra sự thật: Liệu có vắc-xin coronavirus vào tháng 11 không?”

“Không có gì là chắc chắn, và sự lạc quan của Tổng thống Trump có thể bị nghiền nát trong những tháng tới,” CNN viết. “Một số chuyên gia cảnh báo không nên đưa ra các ngày và mốc thời gian cụ thể. Tôi nghĩ rằng rất nguy hiểm vào thời điểm này nếu đưa ra ngày cụ thể”, cựu bác sĩ phẫu thuật, Tiến sĩ Vivek Murthy nói với Wolf Blitzer của CNN.”

Nói cho đúng, Tổng thống Trump đã chính xác. Không chỉ có một loại vắc xin – nhưng có đến ba loại.

Hôm 9 tháng 11, Pfizer cho biết kết quả từ các thử nghiệm gần đây nhất trên người đối với vắc xin coronavirus cho thấy nó có hiệu quả hơn 95%. Giám đốc điều hành của Pfizer là Albert Bourla cho biết hôm thứ Ba rằng một khi vắc xin của họ được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm, gọi tắt là FDA phê duyệt, nó sẽ được vận chuyển nhanh chóng đến các địa điểm ở Mỹ.

Sau đó vào tuần trước, một loại vắc-xin mới từ nhà bào chế Moderna - được phát triển cùng với Chiến dịch Warp Speed của chính quyền Tổng thống Trump - đã xuất hiện và cũng có hiệu quả gần 95%, nhưng công ty cho biết vắc-xin mới không phải giữ ở nhiệt độ dưới 0 như vắc-xin của Pfizer.

Và hôm thứ Hai, AstraZeneca và Đại học Oxford cho biết vắc-xin COVID-19 do họ cùng tạo ra đã được chứng minh là có hiệu quả lên đến 90% và dễ phân phối hơn một loại vắc-xin tiềm năng khác.

“Những phát hiện này cho thấy chúng ta có một loại vắc-xin hiệu quả có thể cứu sống nhiều người”, giáo sư Andrew Pollard của Đại học Oxford, người từng là điều tra viên chính của quá trình thử nghiệm loại thuốc này cho biết. “Bởi vì vắc xin có thể được bảo quản ở nhiệt độ tủ lạnh, nó có thể được phân phối trên khắp thế giới bằng hệ thống phân phối tiêm chủng thông thường. Và vì vậy đối với mục tiêu được đề ra của chúng ta là bảo đảm rằng chúng ta có vắc-xin có thể sử dụng được ở mọi nơi, tôi nghĩ chúng ta đã thực sự làm được điều đó”.

Pfizer dự kiến sản xuất tới 50 triệu liều vào năm 2020 và lên đến 1.3 tỷ liều vào năm 2021. Moderna dự kiến sản xuất 20 triệu liều vào năm 2020 và lên đến 1 tỷ liều vào năm 2021. Và AstraZeneca dự kiến sản xuất tới 3 tỷ liều vắc xin vào năm 2021.

Vắc xin không chỉ sẵn sàng trước cuối năm 2020 mà còn có thể được sử dụng trong vòng vài tuần tới.

Hôm Chúa Nhật, nhà vắc-xin hàng đầu của Mỹ cho biết việc chủng ngừa COVID-19 có thể bắt đầu trong khoảng ba tuần và Mỹ có thể đạt được tình trạng miễn dịch cộng đồng vào mùa xuân tới.

Moncef Slaoui, người giám sát việc phát triển vắc-xin cho Tòa Bạch Ốc, cho biết trên CNN rằng một khi vắc-xin được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm chấp thuận cho sử dụng khẩn cấp, tất cả 50 tiểu bang sẽ có thể bắt đầu chủng ngừa.

“Kế hoạch của chúng tôi là có thể vận chuyển vắc xin đến các điểm tiêm chủng trong vòng 24 giờ kể từ khi được phê duyệt, vì vậy tôi có thể mong đợi vào Ngày thứ Hai sau khi được phê duyệt,” Slaoui nói trong chương trình “State of the Union” của CNN. “Vào ngày 11 hoặc 12 tháng 12, hy vọng rằng những người đầu tiên sẽ được chủng ngừa trên khắp Hoa Kỳ, trên tất cả các tiểu bang”.

Jake Tapper, người dẫn chương trình của CNN, hỏi:

“Ông đã nói ông có kế hoạch tiêm phòng cho 20 triệu người trong tháng mười hai tại Hoa Kỳ và lên đến 30 triệu người khác mỗi tháng sau đó. Như thế, có bao nhiêu người Mỹ cần được chủng ngừa để cuộc sống có thể trở lại bình thường, và khi nào điều đó có thể xảy ra?”

“Thông thường, với mức độ hiệu quả mà chúng tôi có là 95%, chỉ cần khoảng 70% dân số được chủng ngừa sẽ cho phép khả năng miễn dịch thực sự của cộng đồng diễn ra,” Slaoui nói. “Điều đó có khả năng xảy ra vào khoảng tháng 5, hoặc gần đó dựa trên kế hoạch của chúng tôi.”


Source:The Just News
 
Thế giới bác bỏ đề xuất dùng hệ thống QR của Tập Cận Bình trong du lịch quốc tế
Đặng Tự Do
16:54 27/11/2020


Từ tháng Hai năm nay, Trung Quốc đã sử dụng các mã vạch QR, có thể được đọc qua điện thoại thông minh, để xác minh tình trạng sức khỏe của công dân tại các trạm kiểm soát. QR màu xanh lá cây có nghĩa là chủ sở hữu khỏe mạnh và có thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác; màu cam hoặc màu đỏ ngụ ý là có vấn đề cần kiểm dịch hay cách ly.

Ngày 23 tháng Giêng, Trung Quốc mới chính thức nhìn nhận đang xảy ra đại dịch coronavirus. Nhưng đầu tháng Hai, nước này đã bắt đầu sử dụng hệ thống QR. Điều này chứng minh cho nhận định rằng Bắc Kinh đã theo đuổi việc áp dụng hệ thống QR nhằm kiểm soát dân chúng từ rất lâu.

Trong hội nghị thượng đỉnh ảo của 20 cường quốc kinh tế thế giới, gọi tắt là G20, do Arab Saudi tổ chức vào cuối tuần qua, Tập Cận Bình đã đề xuất một cơ chế toàn cầu sử dụng hệ thống QR để khuyến khích nối lại các chuyến du lịch quốc tế, đã giảm đáng kể do sự bùng phát của đại dịch coronavirus.

Theo dự báo của các chuyên gia, lượng du lịch hàng không toàn cầu năm nay sẽ dừng ở mức một phần ba so với năm 2019 do tình trạng khẩn cấp về sức khỏe. Với đề xuất của mình, ông Tập nói rằng ông muốn tạo điều kiện để nối lại có trật tự các luồng du lịch cũng như để kích hoạt lại chuỗi cung ứng toàn cầu.

Lo ngại về những nguy hiểm đối với quyền tư ẩn, các tổ chức nhân quyền đã bác bỏ ý tưởng của Tập Cận Bình. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch lập luận rằng chiêu bài chú ý đến việc phòng bệnh của Tập Cận Bình thực ra chỉ là “con ngựa thành Troy” nhằm thực hiện đồng thời hai sách lược. Thứ nhất là “kiểm soát” và thứ hai là “loại trừ” trên cơ sở chính trị.

Đối với các nhà phân tích, các nước phương Tây không thể nào chấp nhận đề xuất của Tập Cận Bình. Điều đáng lo ngại là Bắc Kinh đang cố áp đặt lên toàn thế giới các tiêu chuẩn kiểm soát xã hội của riêng mình, bao gồm cả các tiêu chuẩn về truy cập internet. Hôm thứ Hai 23 tháng 11, trong một thông điệp được đọc tại lễ khai mạc Hội nghị Internet Thế giới, một sáng kiến do bọn cầm quyền Trung Quốc tổ chức ở Chiết Giang (Wuzhen, 乌镇), Tập Cận Bình đã lên tiếng mời tất cả các quốc gia cùng hợp tác để tạo ra một “cộng đồng mạng được chia sẻ”.

Trung Quốc thường bị chỉ trích vì sự kiểm soát tràn lan đối với Internet, một mô hình dường như khó xuất khẩu sang phương Tây. Ví dụ, Mỹ đang tiến hành một chiến dịch quốc tế tẩy chay Huawei 5G internet. Công ty này bị buộc tội làm gián điệp cho tình báo Bắc Kinh. Các sáng kiến “Clean Network”, nghĩa là “các mạng sạch” không có các mã của Tầu đang được tiến hành tại hàng chục quốc gia ở Âu châu, Á châu, Bắc và Nam Mỹ.


Source:Asia News
 
Chuyện lạ bốn phương: Một Tổng Giám Mục Công Giáo Đức yêu cầu Tòa Thánh mở cuộc điều tra ngài
Đặng Tự Do
16:56 27/11/2020


Trong một diễn biến khá hi hữu, một Tổng Giám Mục Công Giáo người Đức đã yêu cầu Tòa Thánh mở một cuộc điều tra về cách thức ngài giải quyết các cáo buộc lạm dụng của hàng giáo sĩ thuộc quyền.

Đức Tổng Giám Mục Stefan Heße của Hamburg đã viết thư cho Bộ Giám mục ngày 20 tháng 11 liên quan đến các trường hợp lạm dụng mà ngài đã giải quyết khi phục vụ tại Tổng giáo phận Cologne.

Đức Cha Heße là tổng đại diện của tổng giáo phận Cologne từ năm 2012 cho đến khi được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Hamburg vào năm 2015.

Trong lá thư gửi Bộ Giám Mục, Đức Cha Heße bày tỏ nỗi buồn về cuộc tranh cãi hiện nay liên quan đến cách giải quyết các khiếu nại lạm dụng ở tổng giáo phận Köln, nơi ngài đã phục vụ sau khi được thụ phong năm 1993.

Đức Cha Heße sinh tại Köln, vào ngày 7 tháng 8 năm 1966. Năm 1986, ngài theo học thần học và triết học tại Đại học Bonn và Đại học Regensburg.

Ngài được Đức Hồng Y Joachim Meisner tấn phong vào ngày 18 tháng 6 năm 1993 tại nhà thờ chính tòa Köln. Từ năm 1993 đến năm 1997, ngài là cha sở tại Nhà thờ Thánh Remigius ở thành phố Bergheim. Từ năm 1997 đến năm 2003, ngài là cha giáo tại Collegium Albertinum, một chủng viện ở Bonn, trong khi vẫn còn theo học tiến sĩ. Năm 2001, ngài nhận bằng Tiến sĩ Thần học từ Trường Triết học-Thần học ở Vallendar với luận văn về Hans Urs van Balthasar, nhà thần học Công Giáo Thụy Sĩ. Từ năm 2003 đến năm 2005, ngài đứng đầu Ban Mục vụ của Tổng Giáo phận Köln. Cũng trong năm 2003, ngài đảm nhận thêm chức vụ đại diện tổng giáo phận về phát thanh và truyền hình, một chức vụ mà ngài đã giữ cho đến năm 2012.

Ngày 1 tháng 5 năm 2006, cha Heße được bổ nhiệm làm Phó Tổng Đại diện Tổng Giáo phận Köln, và vào ngày 16 tháng 3 năm 2012, ngài chính thức trở thành cha Tổng Đại diện của tổng giáo phận.

Vào ngày 28 tháng 2 năm 2014, Đức Hồng Y Joachim Miesner, Tổng Giám Mục Köln, từ chức vì tuổi cao. Cùng ngày, cha Heße được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa, về cơ bản đảm nhận các nhiệm vụ của Tổng Giám Mục cho đến khi một người mới được bổ nhiệm.

Vào ngày 20 tháng 9 năm 2014, Đức Hồng Y Rainer Maria Woelki được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục của Köln. Trong buổi lễ nhận tòa, Đức Hồng Y đã xác nhận cha Heße làm Tổng Đại diện.

Vào ngày 26 tháng 1 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám Mục Hamburg.

Đức Tổng Giám Mục Heße nói rằng ngài sẽ gửi cho Vatican kết quả của một cuộc điều tra hiện đang được tiến hành ở Köln, dự kiến sẽ được công bố vào tháng 3 năm 2021.

Đức Cha Heße cho biết trong tuyên bố ngày 20 tháng 11 của mình rằng: “Hôm nay tôi đã viết thư cho Tổng trưởng Bộ Giám mục, là Đức Hồng Y Marc Ouellet, và mô tả tình hình với ngài. Tôi giải thích với ngài rằng tôi luôn tham gia với hiểu biết và lương tâm tốt nhất của mình trong việc xử lý các trường hợp lạm dụng tình dục ở tổng giáo phận Köln và không bao giờ che đậy những trường hợp như vậy”.

“Cuộc tranh luận công khai về thời gian của tôi ở Köln, đã diễn ra trong nhiều tháng, không chỉ là gánh nặng đối với cá nhân tôi mà còn đối với những người Công Giáo trong tổng giáo phận”.

“Vì lo lắng cho Tổng giáo phận Hamburg, tôi coi nhiệm vụ của mình là phải thông báo cho các nhà chức trách Rôma về tình hình hiện tại và kết quả điều tra từ Köln, sẽ có vào tháng Ba”.

“Đối với tôi, rõ ràng là tôi không thể là thẩm phán trong trường hợp của riêng mình, nhưng tôi yêu cầu cơ quan đã bổ nhiệm tôi vào chức vụ của tôi với tư cách là Tổng Giám Mục mở cuộc điều tra”.

Một ngày trước tuyên bố của mình, Đức Cha Heße thông báo rằng ngài sẽ tạm thời từ bỏ vai trò cố vấn tinh thần cho Ủy ban Trung ương những người Công Giáo Đức, viết tắt theo tiếng Đức là ZdK.

Các quy định của Tông thư dưới dạng tự sắc Vos estis có hiệu lực vào ngày 1 tháng 6 năm 2019, trong thời gian thử nghiệm ba năm. Một số giám mục ở Hoa Kỳ và Ba Lan đã bị điều tra theo các điều khoản của tông thư này.


Source:Catholic News Agency
 
Điện tặc tấn công làm tê liệt 7 trang web của tổng giáo phận St. Louis liên tục trong 11 ngày
Đặng Tự Do
18:21 27/11/2020
Một cuộc tấn công bằng ransomware đã làm tê liệt 7 trang web của Tổng giáo phận St. Louis, nhưng dữ liệu đã không bị đánh cắp trong cuộc tấn công. Tổng giáo phận đã cho Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, biết như trên. Hàng loạt Web sites liên kết với tổng giáo phận đã được tắt máy để đối phó với cuộc tấn công.

“Vào ngày 16 tháng 11, công ty lưu trữ trang web của chúng ta đã trải qua một chiến dịch tấn công đồng loạt được phối hợp với nhau và được thực hiện bằng ransomware. Để bảo đảm cho dữ liệu không bị đánh cắp và nguyên vẹn, đối với một số lượng hạn chế các trang web bị ảnh hưởng - bao gồm cả các web sites của chúng ta – các máy chủ có liên quan đã được tắt đi”, Tổng giáo phận St. Louis thông báo cho người Công Giáo vào tuần trước.

“Sau khi điều tra thêm và hết sức thận trọng, công ty lưu trữ của chúng ta đã gỡ bỏ toàn bộ hệ thống của họ xuống để bảo đảm rằng dữ liệu của chúng ta không bị xâm hại. Nhóm bảo mật dữ liệu của chúng ta đang làm việc cần mẫn để loại bỏ những mối đe dọa và khôi phục sao cho trang web của chúng ta có thể hoạt động với công suất đầy đủ”.

Bảy url của tổng giáo phận bị ảnh hưởng, trong số đó có Archstl.org, stlreview.org, và các trang dành cho nghĩa trang tổng giáo phận và các trang gây quỹ. Một phát ngôn viên của tổng giáo phận nói với CNA hôm thứ Ba rằng “chúng tôi không có thông tin về lịch trình dự kiến cho việc khôi phục trang web của chúng tôi”.

“Chúng tôi đã được thông báo rằng không có database nào của Tổng giáo phận St. Louis bị xâm phạm và công ty lưu trữ đã gỡ các trang web của chúng tôi xuống để bảo vệ chúng tôi”, người phát ngôn nói thêm.

Ransomware là một thủ đoạn tấn công mà các trang web bị chiếm dụng chỉ được hoạt động lại sau khi trả tiền chuộc cho bọn tội phạm. Trong một số trường hợp, tin tặc đe dọa sẽ tiết lộ dữ liệu bí mật thu được từ cuộc tấn công trừ khi chúng nhận được tiền chuộc.

Maria Lemakis, giám đốc đa phương tiện của tổng giáo phận, nói với CNA rằng vì vụ tấn công xảy ra với công ty lưu trữ, vấn đề có trả tiền chuộc hay không hoàn toàn không phụ thuộc vào tổng giáo phận.

“Việc trả tiền chuộc hay không là do nhà cung cấp dịch vụ lưu trữ quyết định,” cô Lemakis giải thích.

“Chúng tôi hiểu rằng nhà cung cấp đang làm việc với các cơ quan liên bang về vấn đề này,” cô nói thêm.

Tin mới nhất là vào đúng ngày lễ Tạ Ơn, trang web chính của tổng giáo phận đã được khôi phục.


Source:Catholic News Agency

 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Sứ điệp cây nến mùa Vọng.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
10:57 27/11/2020
Sứ điệp cây nến mùa vọng.

Vào mùa Vọng hằng năm, trong các nước theo Kitô giáo có tập tục làm vòng tròn, hay có nơi làm thành một khúc thẳng. Trên có có 4 cây nến hoặc mầu tím, hoặc mầu trắng họăc mầu đỏ, được dựng trưng bày nơi cung thánh nhà thờ, hay nơi nhà tư nữa.

Đâu là ý nghĩa vòng mùa vọng với bốn cây nến?

Vòng mùa vọng được bện theo hình tròn không có khởi đầu và cũng không có tận cùng như hình mặt trời. Vòng tròn là biểu hiệu cho Thiên Chúa, Đấng không có khởi đầu và cùng tận.

Còn làm theo hình đường thẳng trong ý nghĩa chỉ về con đường Chúa đến trần gian, như Thánh Gioan tiền hô kêu gọi: Hãy sửa dọn con đường cho Chúa đến! ( Mc 1,3)

Vòng hình tròn hay khúc thẳng được bện bằng các cành lá cây thông xanh tươi. Mầu xanh tươi tốt là biểu hiệu của niềm hy vọng, của tương lai cho đời sống luôn luôn đổi mới. Chúa Giêsu giáng sinh làm người là niềm hy vọng tương lai cho đời sống.

Bốn cây nến được lần lượt thắp sáng trong bốn tuần lễ mùa Vọng muốn nói lên ý nghĩa: Nước Thiên Chúa cũng triển nở lần lượt như bốn cây nến được thắp lên cho tới ngày lễ Chúa Giêsu giáng sinh, Đấng là ánh sáng trần gian. Ánh sáng bốn cây nến toả ra bốn phương trời đất trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Bốn cây nến là mốc cho bốn chặng đường, bốn tuần lễ chuẩn bị đón mừng lễ Thiên Chúa xuống thế làm người. Trong thời gian này Hội thánh Công Giáo kêu mời mọi người dành thời giờ dọn tâm hồn đón mừng lễ Chúa xuống làm người, lễ ánh sáng mặt trời công chính.

Cây nến là hình ảnh Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng trần gian ( Gioan 8,12 ). Ánh sáng toả ra từ cây nến không làm chói mắt khi nhìn thẳng vào nó, nhưng cảm thấy thi vị đầm ấm. Khi nhìn thẳng vào Chúa Giêsu trong nhà tạm, khi tiếp nhận người qua tấm Bánh Thánh Thể, khi nghe lời người trong phúc âm, ta không có cảm giác khó chịu. Nhưng trái lại tìm được bình an ơn tha thứ làm hoà cho tâm hồn. Một điều rất cần thiết cho cuộc sống thể xác lẫn tâm hồn.

Khi cây nến được đốt lên cũng cắt nghĩa về hình ảnh Chúa Giêsu. Chất sáp làm nên cây nến là hình ảnh thân xác con người của Chúa Giêsu. Thân xác con người được Thiên Chúa dựng nên có khởi đầu, có phát triển, có những yếu đuối bệnh tật giới hạn và sau cùng có cùng tận. Chúa Giêsu xuống trần gian làm người, sống cuộc sống hy sinh của con người như chất sáp bị cháy hao mòn thiêu huỷ.

Còn ngọn lửa đốt sáng cây nến là hình ảnh bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa và cũng là người, nên ngài có hai bản tính: Thiên Chúa và con người.

Ngọn lửa đốt cháy chất sáp và tỏa ra ánh sáng hơi ấm tình yêu cho mọi người.

Tuần lễ thứ nhất mùa Vọng, cây nên thứ nhất được đốt thắp sắng lên. Cây nến này chiếu sáng phát tỏa sứ điệp của Chúa Giêsu nói "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến.“ ( Phúc âm Thánh Marco 13,33)

Canh chừng tỉnh thức luôn là lời được nói đến, được nghe đến trong, được suy nghiệm cuộc sống con người. Cha mẹ canh chừng tỉnh thức trong vịệc nuôi dậy giáo dục con em mình. Bạn trẻ canh chừng tỉnh thức trong việc học hành tập luyện cho đời sống được thành công. Người làm việc canh chừng tỉnh thức vào việc phải thi hành cho đạt đúng tiêu chuẩn đề ra.

Trong hết mọi lãnh vực đời sống canh chừng và tỉnh thức luôn cần thiết giúp tập trung chú ý đến đích điểm cần phải đạt tới.

Từ những tháng ngày qua, bệnh đại dịch Covid 19 lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người ngày càng lan rộng kéo dài. Nên canh chừng tỉnh thức giữ gìn đề phòng để cho không bị lây nhiễm bệnh gây nguy hiểm sức khoẻ mạng sống luôn hằng được các Chính phủ, các nhà khoa học, các nhà y tế nhắc cho mọi người.

Lời nhắc bảo canh chừng tỉnh thức nghe có vẻ là đe dọa, nhưng không phải như thế, mà mang âm hưởng tích cực cần thiết giúp phản tỉnh nhớ đến việc bổn phận, đến luật lệ nguyên tắc sống xử sự cho đúng tiêu chuẩn.

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
 
Văn Hóa
Tháng Các Linh Hồn- Ngẫm Nghỉ Chuyện Đời
Lm. Anton Trần Xuân Sang
10:49 27/11/2020
Tháng Các Linh Hồn- Ngẫm Nghỉ Chuyện Đời

Trong tâm tình “Uống nước nhớ nguồn, leo cây nghỉ tới gốc” của tháng Các Linh Hồn, chúng tôi đã hiệp dâng thánh lễ cầu cho các linh hồn người thân cũng như các thành viên trong Dòng đã qua đời, và viếng thăm huyệt mộ cũng như công Công Viên Phục Sinh-nơi đang cất giữ các hài cốt của các vị tiền bối và những người từng làm việc trong Dòng.

Tháng Các Linh Hồn cũng sắp kết thúc nhưng dư âm mùa bão lũ năm nay vẫn còn và từng đoàn người ở khắp nơi vẫn hướng về miền Trung và Tây Nguyên cũng như những nơi khác ở đất nước hình chữ S đang phải oằn mình chống chọi với cơn bão lũ.

Nhà Dòng cũng đã phân chia các anh em đồng hành với những nơi đang gặp khó khăn bởi cơn bão lũ. Bản thân chúng tôi cũng tình nguyện đi đến vùng Tây Nguyên giúp những hộ gia đình người thiểu số bị cô lập do cơn lũ quét của cơn bão số 9 làm trôi đi những cây cầu huyết mạch nối với đất liền. Dù đường đi khó khăn vì trơn trợt và những cơn mưa dầm không ngớt cộng với tin bão dồn dập sắp đến, nhưng khi nghĩ đến những em bé học sinh và những gia đình bị mất nhà cửa và thiếu thốn tư bề sau cơn lũ quét, chúng tôi vẫn hăng hái lên đường để đem niềm vui và chút hơi ấm cho những người đáng thương ấy. Khi nhận được những món quà do mồ hôi và công sức của những người biếu tặng cũng như những người đem tới, họ rất vui mừng và những em bé người thiểu số dù không nói được tiếng Kinh, các em cũng ra dấu chỉ cảm ơn và gương mặt rạng ngời hạnh phúc vì cảm thấy không bị lãng quên giữa vùng sơn cước xa xôi, hẻo lánh này.

Trong khi ở Việt Nam đang gặp khó khăn trăm bề về cơn đại dịch Covid-19 chưa chấm dứt cộng thêm hàng loạt cơn bão ập đến chưa có hồi kết, thì ở chính trường Mỹ lại đấu đá nhau vì có sự gian lận bầu cử đến giờ vẫn chưa phân thắng bại. Cơn bão truyền thông một lần nữa lại làm cho người ta mất niềm tin khi phải nghe hay đọc các tin tức liên quan đến chính trị, xã hội. Ai cũng nói rằng nước Mỹ là tựu trung của nền văn minh và dân chủ nhưng giờ đây lại phải chứng kiến cảnh huynh đệ tương tàn khi chính đảng Dân Chủ bị tố cáo là gian lận và làm hoen ố hình ảnh dân chủ. Phải nói rằng con người càng văn minh thì sự gian lận, suy đồi đạo đức cũng tỉ lệ thuận theo. Mong sao mọi sự đều diễn ra theo tiến trình dân chủ để nước Mỹ sớm lấy lại thanh danh và người dân Mỹ biết hành xử văn minh trước những chuyện không hay đã xảy ra.

Những ngày cuối tháng 11 cũng là những ngày khá bận rộn vì phải giải quyết những chuyện tồn đọng do đại dịch Covid-19. Tuy nhiên chúng tôi cũng cố gắng thu xếp để tham dự kỳ tĩnh tâm năm với linh mục đoàn giáo phận Nha Trang nơi chúng tôi đang thuộc về.

Từ ngày chịu chức linh mục và ra đi truyền giáo đến giờ thì năm nay là năm đầu tiên chúng tôi tham dự kỳ tĩnh tâm linh mục với linh mục đoàn giáo phận Nha Trang. Nha Trang chính là nơi tôi đã từng tu học nhiều năm, rồi khấn trọn, chịu chức phó tế và chịu chức linh mục. Rồi cũng chính tại Nha Trang tôi ra đi truyền giáo. Bởi thế, Nha Trang đối với tôi có rất nhiều kỷ niệm, và không biết vô tình hay hữu ý Nhà Dòng lại sắp đặt tôi về Nha Trang sau nhiều năm truyền giáo xa quê hương.

Kỳ tĩnh tâm lần này có sự hiện diện gần 250 linh mục triều và Dòng thuộc giáo phận Nha Trang tham dự mà đa số còn rất trẻ. Chúng tôi còn nhớ cách đây 15 năm lúc chúng tôi rời Nha Trang đi truyền giáo thì con số linh mục làm việc trong giáo phận lúc ấy chỉ hơn 100, mà hiện giờ số linh mục ở Nha Trang cả Triều và Dòng đã hơn 300. Ngày ấy những anh em chủng sinh phải chờ đợi quota để vào Chủng Viện hay vào các Dòng Tu vì chính quyền cũng như giáo quyền xét duyệt rất kỹ, và số người đi tu cũng rất đông. Rồi ngày chịu chức cũng phải chờ nhà nước đồng ý qua nhiều ban ngành nhưng anh em đều chấp nhận hết vì thời cuộc. Còn ngày nay mỗi năm có thể vào bao nhiêu tùy ý nhưng nhiều nơi cũng bắt đầu vắng bóng ơn gọi. Nhìn lực lượng hùng hậu của linh mục đoàn với những vị tiền bối lớn tuổi đầy kinh nguyện, những vị trung niên đầy nhiệt huyết và những vị trẻ trung đầy tài năng khiến chúng tôi cảm thấy ấm lòng và thầm tạ ơn Chúa vì đã ban nhiều ơn lành cho giáo phận xinh đẹp này. Cũng chỉ trong vòng 15 năm qua mà giáo phận cũng phát triển không ngờ từ 3 giáo hạt và 75 giáo xứ mà giờ đây có đến 9 giáo hạt và 116 giáo xứ. Trong khi ở Âu châu mỗi năm phải thu hẹp giáo xứ vì thiếu linh mục và không đủ ngân sách để bão dưỡng những giáo xứ cổ kính thì tại Việt Nam mỗi ngày một tăng thêm giáo xứ và số linh mục đến giờ vẫn tăng theo cấp số nhân. Tương lai không biết thế nào nhưng hiện tại đó là điều đáng mừng.

Hai vị giảng thuyết là Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, nguyên tổng giám mục Hà Nội nay đã 82 tuổi nhưng rất còn khỏe, minh mẫn và giọng nói vẫn trầm ấm như ngày nào dù đã nghỉ hưu. Ngài chia sẻ tâm tình của người mục tử là phải có những giây phút thinh lặng để đắm mình trong Chúa Thánh Thần để rồi từ đó có nguồn năng lực thiêng liêng mà lãnh đạo dân Chúa. Cụ già 82 tuổi vẫn còn dí dỏm đưa ra những kinh nghiệm mục vụ mà ngài đã từng sống và mong muốn anh em linh mục cần có chương trình sống để đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc trong đời sống linh mục thánh hiến.

Vị giám mục giáo phận dù đã bước qua tuổi 76 nhưng vẫn còn rất trẻ, vui vẻ và tận tâm với sứ vụ cũng đã có những bài chia sẻ tâm tình với linh mục đoàn thuộc giáo phận của ngài. Ngài nhắn nhủ với các linh mục phải là thầy dạy đức tin, là mục tử có trái tim nhân hậu của người mẹ hiền và phải là người lãnh đạo có uy tín. Tập tài liệu do ngài viết trong tuần tĩnh tâm có tựa đề: “Linh mục đồng hành với dân Chúa” được rút tỉa từ câu chuyện phục sinh khi Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường về Emmaus, và trong tập tài liệu này ngài muốn chia sẻ rằng linh mục trước hết phải là người môn đệ của Chúa, nghĩa là luôn ở phía sau vị thầy của mình, phải nên giống thầy mình. Linh mục cũng phải là người tông đồ trong Hội Thánh vì nếu là người ngoài Hội Thánh thì không thể đồng hành với dân Chúa được. Linh mục cũng phải là người linh hướng ở giữa dân Chúa, nghĩa là phải hướng dẫn đời sống tâm linh cho người dân xứ đạo mình sống theo lời Chúa dạy để nên thánh và làm chứng nhân giữa lòng đời.

Kỳ tĩnh tâm cũng là dịp để anh em linh mục có những giờ chung với nhau như các giờ kinh nguyện, các thánh lễ đồng tế, những giờ chầu Thánh Thể và những bữa ăn huynh đệ vừa bồi bổ thể xác vừa nạp thêm năng lượng thiêng liêng sau những tháng ngày phục vụ dân Chúa. Linh mục đoàn cũng được các ban ngành trong giáo phận thông tri và cập nhật những tin tức trong giáo phận mình để đồng trách nhiệm với giám mục- vị cha chung của giáo phận và với anh em linh mục đồng môn của mình. Thêm vào đó, anh em cũng được kiểm tra sức khỏe thể lý để chuẩn đoán và ngăn ngừa kịp thời những căn bệnh có thể làm ảnh hưởng đến cuộc sống và công việc mục vụ.

Kỳ tĩnh tâm kết thúc với thánh lễ phong chức phó tế cho 19 tân chức tuổi đời còn rất trẻ và sẽ kế thừa các bậc tiền bối và đàn anh đi trước. Linh mục đoàn cùng quây quần bên giám mục của mình để tạ ơn Chúa vì đã ban muôn hồng ân cho giáo phận. Đức Hồng Y Phero trong bài giảng đã chia sẻ phó tế có ba nhiệm vụ chính là phục vụ Lời Chúa, bàn thờ và bác ái. Người nào đó đã nói đùa với các phó tế rằng: “Tình chỉ đẹp khi còn mang dây chéo; đời mất vui khi dây chéo thẳng hàng”. Quả vậy, khi còn là phó tế với dây Stola chéo qua người thì người theo Chúa còn phải phấn đấu nhiều trong học hành, trong đường nhân
đức để tiến tới chức linh mục. Nhưng khi dây Stola đã được đeo thẳng, nghĩa là đã lãnh nhận chức linh mục, nhiều người lại không muốn phấn đấu nữa vì tưởng rằng đã đến đích. Tuy nhiên đời tu là phải phấn đấu và không ngừng xin ơn Chúa giúp để trở nên mỗi ngày hoàn thiện hơn. Tạ ơn Chúa và Mẹ Maria Nhân Lành- Mẹ của giáo phận Nha Trang mà sắp tới đây nếu không bị ngăn trở bởi dịch bệnh Covid-19, đoàn con trong giáo phận cùng với các mục tử của mình sẽ hành hương kính viếng. Kỳ tĩnh tâm này giúp ích cho bản thân chúng tôi rất nhiều dù tôi hiện đang phụ trách cộng đoàn Nhà Mẹ với những công việc không tên ngổn ngang. Dịp này tôi cũng được gặp lại những bạn bè thuở xưa đã bị mất liên lạc từ lâu và hiện đang làm việc ở các giáo xứ hay cộng đoàn trưởng ở các tu viện. Chúng tôi cảm thấy mình hạnh phúc vì được ở trong nhà Chúa như lời chia sẻ của một nữ tu bác sĩ khám bệnh cho tôi nói rằng không có bằng cấp “sỹ” nào sánh được với hai từ “tu sỹ” dù đôi lúc đời tu khiến chúng ta mệt mỏi, chán chường. Nếu có Chúa chúng ta sẽ có tất cả.

Hai ngày nữa là chúng ta sẽ bước vào năm phụng vụ mới để chuẩn bị đón mừng Chúa Giáng Sinh. Xin Chúa và Mẹ Maria ban cho chúng con bước qua một năm phụng vụ mới với tinh thần mới, sức sống mới và nhất là con virus Corona biến mất để chúng con được an tâm làm việc và phụng sự Chúa. Amen.

Nha Trang ngày 27 tháng 11 năm 2020

Lm. Antôn Trần Xuân Sang, SVD.
 
Chúa Giêsu trong lịch sử văn hóa, Chương Một
Vũ Văn An
19:05 27/11/2020

Chúa Giêsu trong lịch sử văn hóa
Nguyên tác: Jaroslav Pelikan,
Bản tiếng Việt: Vũ Văn An





CHƯƠNG MỘT: Thầy

Một ánh sáng cho vinh quang Dân Israel của Ngài

Việc nghiên cứu về chỗ đứng của Chúa Giêsu trong lịch sử văn hóa con người buộc phải bắt đầu với Tân Ước. Điều này không hẳn chỉ vì lý do dễ hiểu là mọi trình bầy về Người từ thế kỷ thứ nhất trở đi đều dựa vào, hay it nhất cho rằng được dựa vào, Tân Ước. Nhưng ta sẽ không thể hiểu được lịch sử các trình bầy tiếp theo ngoại trừ bắt đầu xem xét bản chất và hình thức văn chương của các nguồn truyền lại cho ta trong 4 sách Tin Mừng. Vì việc trình bầy Chúa Giêsu trong Tân Ước thực sự là một việc trình bầy lại: nó giống một bộ tranh vẽ hơn là một hình chụp.

Dù không giải quyết được mọi vấn đề gai góc về tác quyền và ngày tháng, ta vẫn phải nhìn nhận rằng trong vài thập niên giữa thừa tác vụ của Chúa Giêsu và việc soạn thảo các sách Tin Mừng, ký ức về những gì Người nói và làm đã được lưu truyền giữa nhiều cộng đoàn Kitô hữu đa dạng, và có lẽ cả bên ngoài các cộng đồng này nữa, dưới hình thức truyền khẩu. Bởi thế, Thánh Tông Đồ Phaolô, viết cho một trong các cộng đồng này ở Côrintô vào khoảng năm 55 CN (nghĩa là sau cuộc đời Chúa Giêsu khoảng 20 năm hay gần như thế), đã có thể nhắc nhở họ rằng khi ngài tới thăm Côrintô trước đó ít năm, có lẽ khoảng năm 50, ngài đã, bằng lời nói “chuyển đến anh em như một điều quan trọng hàng đầu những gì tôi cũng đã tiếp nhận được” trước đó, có lẽ trong thập niên 40, liên quan đến cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu (1Cr 15: 1-7) và việc Người thiết lập Phép Thánh Thể (1Cr 11:23-26). Nhưng điều đáng lưu ý là ngoài những lời lẽ về việc thiết lập Phép Thánh Thể ra, Thánh Phaolô, trong các thư của ngài, không trích dẫn chính xác lời lẽ Chúa Giêsu nói như ta thấy hiện nay trong các sách Tin Mừng. Ngài cũng không nhắc gì tới các biến cố trong đời sống Chúa Giêsu, ngoại trừ, như vừa nói, việc thiết lập Phép Thánh Thể, giữa biến cố Ngưới sinh ra và chết trên thập giá. Từ các trước tác của Thánh Phaolô, ta không biết Chúa Giêsu từng giảng dạy bằng dụ ngôn và châm ngôn hay Người làm các phép lạ hoặc sinh ra từ một trinh nữ. Về những tín liệu này, ta phải tùy thuộc truyền thống truyền khẩu của các cộng đồng Kitô Giáo tiên khởi như cuối cùng đã được ghi chép lại trong các sách Tin Mừng, mọi sách này, ít nhất dưới các hình thức hiện nay, có lẽ xuất hiện sau phần lớn các thư của Thánh Phaolô.

Do đó, mọi người phải thừa nhận rằng truyền thống Kitô Giáo có trước Sách Thánh Kitô Giáo, cả về thời gian lẫn luận lý; vì có truyền thống của Giáo Hội trước khi có bất cứ Tân Ước, hay bất cứ cuốn sách nào của Tân Ước. Đến lúc, các tư liệu của truyền thống truyền khẩu tìm được đường đi vào chữ viết, chúng đã đi qua đời sống và trải nghiệm của Giáo Hội những trải nghiệm vẫn cho rằng có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, cũng một Thánh Thần mà các môn đệ đã thấy hiện xuống trên Chúa Giêsu lúc Người chịu phép rửa và trên các tín hữu tiên khởi vào ngày thứ 50 sau Lễ Phục Sinh, trong biến cố Ngũ Tuần. Các Kitô hữu vốn gán việc soạn thảo các sách “tân ước”, như tên họ bắt đầu gọi, cho hành động của Chúa Thánh Thần này, và cả các sách “Cựu Ước”, tên họ gọi Thánh Kinh Do Thái. Vì trình thuật các lời Chúa Giêsu nói và các biến cố đời Người và thừa tác vụ của Người đã truyền tới các phúc âm gia và những người sưu tầm trong bối cảnh này, nên bất cứ ai muốn tìm cách giải thích một hay hai lời nói, một hay hai câu truyện từ trình thuật này luôn phải đặt câu hỏi không những về vị trí của nó trong đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu, mà còn cả chức năng của nó trong cộng đồng ghi nhớ nữa. Mặc dù không có bảo đảm nào cho lối hoài nghi cực đoan của những người chủ trương rằng khuôn mạo lịch sử của Chúa Giêsu, nếu quả có thứ khuôn mạo này, đã hoàn toàn bị mất một cách không thể cứu vãn phía sau màn khói rao giảng của Giáo Hội Kitô Giáo tiên khởi, tuy nhiên điều cần là phải bắt đầu với một dè dặt này là mọi chân dung sau này về Chúa Giêsu thực sự không phải là một chân dung dựa vào Tin Mừng nguyên thủy chưa bị chỉnh sửa, mà là một chân dung của điều đã là một chân dung trong Tân Ước rồi.

Điều hiển nhiên, và nếu phán đoán theo phần lớn lịch sử của các thế kỷ sau, gồm cả và nhất là thế kỷ 20, thì điều chắc chắn hiển nhiên, là theo các bức chân dung tiên khởi, Chúa Giêsu là một người Do Thái. Do đó, các cố gắng đầu tiên để hiểu và giải thích sứ điệp của Người đã diễn ra trong bối cảnh Do Thái Giáo, và cũng ở đấy, phải bắt đầu bất cứ cố gắng nào để hiểu vị trí của Người trong lịch sử văn hóa nhân loại. Mặc dù Tân Ước được viết bằng tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ mà Chúa Giêsu và các môn đệ của Người nói là tiếng Aram, một ngôn ngữ thuộc hệ Semitic có họ hàng với tiếng Hípri nhưng không hoàn toàn đồng nhất với nó (1). Vì việc sử dụng tiếng Hípri, cho đến lúc này, chỉ giới hạn trong việc thờ phượng và học thuật, trong khi ngôn ngữ nói của người Do Thái ở Palestine là tiếng Aram, và ở một vài trường hợp thêm tiếng Hy Lạp. Trong khi đó, nhiều người Do Thái ở những nơi họ tản cư tới (diaspora), như Alexandria, thậm chí không biết nói tiếng Aram, và dĩ nhiên cả tiếng Hípri nữa, mà chỉ nói tiếng Hy Lạp, và vì thế, đôi khi họ được gọi là những người Do Thái theo văn hóa Hy Lạp (Hellenists) (2). Có những chữ và câu tiếng Aram, được chuyển tự (transliterated) sang tiếng Hy Lạp, rải rác khắp các sách Tin Mừng và các trước tác khác của cộng đồng Kitô hữu tiên khởi, phản ảnh ngôn ngữ trong đó một số lời nói và công thức phụng vụ được lặp đi lặp lại trước khi việc chuyển sang tiếng Hy Lạp được hoàn tất trong giáo huấn và việc thờ phượng của Kitô Giáo. Đó là những chữ quen thuộc như Hosanna, cũng như lời than thở của Chúa Giêsu trên thập giá “Eloi, Eloi, lama sabachthani?” (Lạy Chúa, Lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ tôi?) là câu mà trong bản Hípri nguyên thủy của Thánh Vịnh 22 có thể là “Eli, Eli, lama azavtani?” (3).

Trong số các chữ Aram xuất hiện trong Tân Ước này, ít nhất có bốn tước hiệu dành cho Chúa Giêsu, có thể cung cấp cho ta một số tước hiệu thuận tiện để xem xét các thành ngữ và các khung tham chiếu của Do Thái trong đó, các tín hữu đầu tiên của Chúa Giêsu dùng để nói về Người: Người là rabbi, hay thầy; Chúa Giêsu là amen hay tiên tri; Chúa Giêsu như Đấng Mêxia hay Đấng Kitô; và Chúa Giêsu như mar hay Chúa.

Tước hiệu trung lập nhất và ít gây tranh cãi nhất có lẽ là rabbi, cùng với tước hiệu giống như thế rabbouni (4). Trừ hai đoạn ra, các sách Tin Mừng chỉ áp dụng chữ Aram này cho Chúa Giêsu mà thôi (5), và nếu chúng ta kết luận, và xem ra có lý, rằng tước hiệu “thầy” hay “bậc thầy” (didaskalos trong Tân Ước Hy lạp) có ý định phiên dịch danh từ tiếng Aram đó, thì ta có thể an tâm nói rằng Chúa Giêsu vốn được biết và xưng hô như một rabbi bởi các môn đệ cận kề và nhiều người khác. Ấy thế nhưng các sách Tin Mừng, ít nhất nếu chỉ đọc hời hợt, xem ra thường hay nhấn mạnh các dị biệt, hơn là các tương đồng, giữa Chúa Giêsu và các rabbis khác như là các bậc thầy. Tuy nhiên, khi cuộc nghiên cứu bác học về Do Thái Giáo đương thời hay gần như đồng thời với Chúa Giêsu đang diễn tiến, cả các tương đồng lẫn dị biệt đều trở nên rõ ràng hơn. Vì một đàng, các học giả về mối tương quan giữa các sách Tin Mừng và các nguồn rabbi đã đạt đến một kết luận, coi như “quan sát căn bản đầu tiên” của họ, rằng “tư liệu Do Thái Giáo đã được truyền thống Kitô Giáo tiếp thu và gán cho Chúa Giêsu”; đàng khác, sự so sánh đã cho thấy: nhiều đoạn xem ra vay mượn của các rabbi, trên thục tế, lại là “một điều mới mẻ khác với Do Thái Giáo” (6). Một minh họa tốt cho thấy cả hai đặc điểm này tìm thấy trong giai thoại qua đó, Tin Mừng Luca tường thuật rằng thừa tác vụ giảng dậy của Chúa Giêsu như một rabbi đã chính thức được phát động (Lc 4:16-30).

Thánh Luca kể với chúng ta rằng sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa và chịu ma quỉ cám dỗ, hai biến cố này, theo 2 Tin Mừng Mátthêu và Máccô, hợp lại với nhau chính là cuộc khai mở thừa tác vụ của Người, Người “đến Nadarét, nơi Người đã lớn lên, và tới một hội đường vào ngày Sabát, như thói quen Người vốn làm. Và Người đứng lên mà đọc”. Theo khuôn thước của phong tục rabbi, Người cầm lấy cuốn sách cuộn của Thánh Kinh Do Thái, đọc nó, giả thiết đưa ra một dẫn giải đoạn văn bằng tiếng Aram, rồi bình luận đoạn văn này. Lời Người đọc là chương 61 của Sách Isaia:

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”

Nhưng thay vì làm điều một rabbi thông thường được mong chờ làm, tức là cung cấp một bài giải thích đoạn văn nhằm so sánh và tương phản với các cách giải thích trước đó và rồi áp dụng đoạn văn vào người nghe, Người lại tiến đến chỗ tuyên bố rằng "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". Mặc dù phản ứng thoạt đầu đối với lời tuyên bố quá cả gan này được cho là thán phục “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, nhưng các giải thích tiếp theo cỉa Người đã đem lại một phản ứng ngược hẳn lại, và mọi người “đầy phẫn nộ”.

Đàng sau nhiều màn kình chống như thế giữa Chúa Giêsu như một rabbi và đại diện của truyền thống rabbinic, những điểm giống nhau, tuy thế, vẫn có thể nhận ra cách rõ ràng trong chính các hình thức qua đó, giáo huấn của Người đã xuất hiện trong các sách Tin Mừng. Một trong các hình thức quen thuộc nhất là hình thức hỏi thưa, với các câu hỏi thường được phát biểu như một câu trêu tức. Một người đàn bà có 7 chồng (tiếp nối nhau chứ không song hành); ở đời sau, nàng là vợ của ai? Liệu có hợp pháp không để một người Do Thái đạo hạnh trả thuế cho các nhà cầm quyền Rôma? Tôi phải lam gì để được hưởng sự sống đời đời? Ai là người lớn nhất trong nước trời? (7). Trong các trình thuật Tin Mừng, người đặt mỗi một câu hỏi này đều hành động như một người ngay thẳng. Đôi khi, trong những cuộc đối thoại mệnh danh là gây tranh cãi, người chống đối Chúa Giêsu là một người ngay thẳng; khi khác, người đó là một người trong số các môn đệ của Người. Điều này tạo cơ hội để Chúa Giêsu Rabbi nhấn mạnh trọng điểm bằng cách đảo lộn ngược câu hỏi. Có một câu truyện xưa về một rabbi được một học trò đặt một câu hỏi: “Tại sao rabbis các thầy hay trình bầy giáo huấn của các thầy dưới hình thức một câu hỏi?” Vị rabbi này trả lời như sau: “vậy điều gì sai với một câu hỏi?”. Đúng là một minh hoạ tuyệt vời của sư phạm rabbinic trong các sách Tin Mừng, và một minh hoạ liên hệ với một số vấn đề giống và khác nhau mà chúng ta đang bàn ở đây là câu truyện sau đây:

“Đức Giêsu vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi: ‘Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?’ Đức Giê-su đáp: ‘Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?’ Họ mới nghĩ thầm: ‘Nếu mình nói: Do Trời, thì ông ấy sẽ vặn lại: Thế sao các ông lại không tin ông ấy? Còn nếu mình nói: Do người ta, thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gioan là một ngôn sứ.’ Họ mới trả lời Đức Giê-su: ‘Chúng tôi không biết’. Người cũng nói với họ: ‘Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy’ (Mt 21:23-27).

Tuy nhiên, đối với tác giả Tân Ước, hình thức đặc trưng hơn hết trong giáo huấn của Chúa Giêsu là dụ ngôn. Thánh Mátthêu dạy ta “Mọi điều Chúa Giêsu nói với các đám đông này đều bằng dụ ngôn; quả vậy, Người không nói điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (Mt 13:34). Nhưng chữ “dụ ngôn” này (parabolē trong tiếng Hy Lạp) lấy trong Bản Bẩy Mươi, trong đó, nó được các học giả Do Thái sử dụng để dịch chữ Thánh Kinh Hípri mashal sang tiếng Hy Lạp. Như thế, cả ở đây nữa, trình thuật của các phúc âm gia về Chúa Giêsu như người kể dụ ngôn chỉ có nghĩa trong khuôn khổ bối cảnh Do Thái Giáo mà thôi. Các lối giải thích gần đây các dụ ngôn của Người dựa vào khuôn khổ này đã thay đổi từ nền tảng các giải thích quy ước của điểm đang được bàn tới trong khá nhiều các so sánh loại này giữa nước Thiên Chúa và một vài biến cố của đời sống con người, thường khá chất phác ở dáng bề ngoài (8). Một điển hình là dụ ngôn quen thuộc người con trai hoang đàng (Lc 15:11-32), một dụ ngôn, xét theo một số bình diện, nên gọi là dụ ngôn người con cả. Vì trọng điểm của dụ ngôn xét như một toàn bộ, một điểm thường bị các nhà chú giải Kitô Giáo bỏ qua, vì chỉ muốn nhấn mạnh đến tính độc đáo và đặc thù của Giáo Hội như người con thứ hoang đàng được người cha phụ chồi lòng sủng ái, nằm ở lời lẽ cuối cùng người cha ngỏ với người con cả, vốn đại biểu cho Dân Do Thái “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Giao ước lịch sử giữa Thiên Chúa và Israel là trường cửu, và mọi dân tộc khác nay cũng đã được dẫn vào giao ước này. Dụ ngôn này của Chúa Giêsu khẳng định cả truyền thống liên tục của Thiên Chúa với Israel lẫn sự canh tân mối liên hệ mới của Thiên Chúa với Giáo Hội, một giao ước kép.

Sự đu đưa giữa truyền thống và canh tân, giữa việc mô tả vai trò của Chúa Giêsu như một rabbi và gán cho Người một thẩm quyền mới và độc đáo khiến cho việc tìm ra các tước hiệu và phạm trù phụ trội để mô tả thừa tác vụ của Người trở nên cần thiết. Trong số này, một tước hiệu xuất hiện đó là tước hiệu tiên tri, như trong lời tung hô trong câu truyện Chúa Nhật Lễ Lá “Đây là tiên tri Giêsu thành Nadarét miền Galilê” (Mt 21:11). Có lẽ dịch bản kích thích sự tò mò hơn cả của danh xưng này, một lần nữa, là trong tiếng Aram: “Đấng Amen, là Chứng Nhân trung thành và chân thật, là Khởi Nguyên của mọi loài Thiên Chúa tạo dựng” (Kh 3:14). Ngay từ thời Kinh Thánh Do Thái, chữ Amen đã là công thức khẳng định để kết thúc một lời cầu nguyện; chẳng hạn, trong hợp xướng hùng mạnh khi đọc lề luật trong chỉ thị cuối cùng của Môsê với dân Do Thái, mỗi câu đều kết thúc bằng “Toàn dân sẽ thưa: Amen!” (Đnl 27:14-26). Amen tiếp tục thực hiện chức năng này trong Kitô Giáo thuở đầu. Bởi thế, Thánh Giustinô Tử Đạo, khi mô tả phụng vụ của cộng đồng Kitô Giáo thế kỷ thứ hai cho các độc giả ngoại giáo của ngài, đã nói rằng cuối mỗi lời cầu nguyện, “mọi người hiện diện phát biểu sự nhất trí của mình bằng cách nói ‘Amen’”. Thánh nhân giải thích “chữ Amen này tương ứng với chữ Hípri ‘chớ gì được như vậy!’” (9).

Nhưng một khai triển nữa về ý nghĩa của chữ Amen trở nên rõ ràng lần đầu tiên trong Tân Ước là ở sứ điệp nổi tiếng, tức điều gọi là Bài Giảng Trên Núi. Ở đấy, nó xuất hiện như điều các nhà văn phạm gọi là một tiểu từ quả quyết: “Amēn legō hymin: thật, ta bảo thật các ông”. Nó được dùng như thế khoảng 75 lần suốt 4 sách Tin Mừng, nhưng hoàn toàn trong các lời Chúa Giêsu nói để dẫn khởi một tuyên bố có thẩm quyền. Như một người có thẩm quyền để đưa ra những tuyên bố như thế, Chúa Giêsu quả là một tiên tri. Bất chấp cách dùng trong tiếng Anh cũng như trong tiếng Việt, chữ tiên tri ở đây không những chỉ hay thậm chí không những không chủ yếu chỉ người tiên đoán, mặc dù các lời lẽ của Chúa Giêsu có chứa đựng các tiên đoán, nhưng còn chỉ một người nói thay, một người có thẩm quyền nói nhân danh Một Người Khác. Đó là căn bản của tước hiệu trong Sách Khải Huyền, “Đấng Amen, nhân chứng trung thành và chân thật”; và đó cũng là lý do tại sao công thức Amen bắt đầu xuất hiện trong Bài Giảng Trên Núi, vốn là một văn kiện có tính đu đưa giữa truyền thống rabbinic và việc canh tân có tính tiên tri, ngay trong những bức tranh sớm sủa nhất về Chúa Giêsu.

Các so sánh mà các học giả Do Thái cũng như Kitô Giáo từng đưa ra giữa phương pháp giải thích từng hiện diện trong Bài Giảng Trên Núi và văn chương Do Thái Giáo thời rabbi đã là những tài liệu chứng minh cho sự đu đưa này.Vì chính trong Bài Giảng Trên Núi, sau các tuyên bố có tính dẫn nhập gọi là Các Mối Phúc, Chúa Giêsu được trưng dẫn đã phán rằng “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hoặc các tiên tri. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì quả thực (Amēn), Thầy nói cho anh em hay, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:17-18). Câu quả quyết dứt khoát về giá trị vĩnh viễn của luật Môsê như đã được ban cho Dân Israel trên Núi Sinai được tiếp nối bằng một loạt trích dẫn chuyên biệt từ Lề Luật. Mỗi trích dẫn này được dẫn nhập bằng công thức “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng”; và mỗi câu trích dẫn như thế sau đó được tiếp nối bằng một lời nhận định mở đầu với công thức huấn quyền “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết” (10). Chiều hướng của lời nhận định là tăng cường giới răn, bao gồm không những việc tuân giữ bề ngoài mà còn tinh thần bên trong và động cơ tâm hồn nữa. Tất cả các lời nhận định này đều quảng diễn lời cảnh cáo này: sự chính trực của các môn dệ Chúa Giêsu phải vượt lên trên sự chính trực của những người tuân theo các luật sĩ (Mt 5:20).

Như để củng cố vị thế đặc biệt không những là rabbi mà còn là tiên tri của Chúa Giêsu, câu kết trong Bài Giảng Trên Núi nói thế này “Khi Chúa Giêsu giảng dạy những điều ấy xong, dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ. Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người” (Mt 7:28-8:1). Rồi xuất hiện một số trình thuật về phép lạ. Như một nghiên cứu gần đây đã ghi nhận, trong những trình thuật này, “Thánh Mátthêu đã đưa ra một điểm quan trọng khiến một lần nữa ta phải lưu ý tới chức năng của phép lạ trong truyền thống rabbi: dành thẩm quyền cho hoạt động của Chúa Giêsu và nhất là cách Người giải thích lề luật” (11). Tân Ước không gán quyền làm phép lạ chỉ cho Chúa Giêsu và các môn đệ của Người mà thôi, vì Chúa Giêsu bênh vực Người chống lại lời tố cáo Người âm mưu cùng với Bengiêbun, thủ lãnh ma qủi, bằng cách hoạnh lại “Và nếu tôi lấy quyền Bengiêbun mà trừ qủy, thì con cái các ông lấy quyền ai mà trừ qủy đây?” (Mt 12:27). Nhưng nó quả trưng dẫn phép lạ ra để chứng minh vị thế rabbi-tiên tri của Người. (Nhân khi khảo sát các tước hiệu trong tiếng Aram, ta nên lưu ý điều này: cũng có những công thức trong tiếng Aram Chúa Giêsu dùng để thực hiện một số phép lạ: “Ephatha, nghĩa là ‘hãy mở ra’ để chữa một người điếc; và “Talitha cumi, nghĩa là “hỡi bé gái, ta truyền cho con, hãy đứng dậy”) (12).

Việc lên căn tính của Chúa Giêsu như tiên tri là một phương thế vừa để khẳng định tính liên tục của Người với các tiên tri của Israel vừa để quả quyết tính trổi vượt họ của Người như là Đấng Tiên Tri mà việc xuất hiện đã được họ tiên báo và họ sẵn sàng nhường thẩm quyền cho. Trong Ngũ Kinh (Đnl 18:15-22), Thiên Chúa của Israel nói với Môsê, và qua Ông, với toàn dân, rằng Người “sẽ làm cho một tiên tri xuất hiện giữa các ngươi” mà dân phải lắng nghe. Trong bối cảnh này, đây là việc nhìn nhận thẩm quyền của Giosuê như người kế vị hợp pháp của Môsê; nhưng trong chính Tân Ước, và sau này rộng dài hơn trong các nhà văn Kitô Giáo như Thánh Clêmentê thành Alexandria khoảng năm 200, lời hứa về một đấng tiên tri sẽ đến đã được coi là chỉ về Chúa Giêsu, Đấng vốn cũng cùng tên là Giosuê (13). Người được hình dung như là đấng tiên tri nơi giáo huấn của Môsê cùng một lúc vừa được nên trọn vừa bị thay thế, như là một rabbi vừa thoả mãn luật Môsê vừa vượt lên trên nó. Vì, theo lời lẽ Tin Mừng Gioan (Ga 1:17), “Lề luật được ban cho qua Môsê; ơn thánh và sự thật xuất hiện qua Chúa Giêsu Kitô”. Để mô tả sự mặc khải như thế về ơn thánh và sự thật, các phạm trù rabbitiên tri mà thôi không đủ. Các nghiên cứu liên quan đến các mô tả về Chúa Giêsu trong truyền thống Do Thái sau thời Tân Ước cho thấy truyền thống này có cố gắng thích ứng Người trong các phạm trù này, nhưng trong các tranh cãi với Do Thái Giáo, Kitô Giáo luôn nằng nặc cho rằng Người đã thoát ra ngoài toàn bộ hệ thống này. Và do đó, tới thời Hồi Giáo xuất hiện cùng với việc họ nhận diện Người như một tiên tri lớn, lớn hơn Môsê nhiều nhưng vẫn chỉ là một tiên tri làm tiền hô cho Mohammad, một điều, đối với các nhà hộ giáo Kitô Giáo bài Hồi Giáo như Thánh Gioan thành Đamát thuộc thế kỷ thứ 8, là điều không thỏa đáng và do đó, không chính xác (14). Thành thử, ý nghĩa tiềm tàng của khuôn mạo Chúa Giêsu như cơ sở gặp gỡ giữa người Do Thái Giáo và Kitô Giáo, và giữa người Kitô Giáo và Hồi Giáo, chưa bao giờ được thể hiện.

Vì cả rabbi lẫn tiên tri đều đã nhường chỗ cho hai phạm trù khác, mỗi phạm trù cũng được phát biểu bằng chữ Aram và sau đó được dịch sang chữ Hy Lạp : Messias, hình thức Aram của “Messiah”, được dịch sang tiếng Hy Lạp là ho Christos, “Đấng Kitô” tức Đấng Được Xức Dầu (15); và Marana, “Chúa chúng tôi”, trong công thức phụng vụ Maranatha, “Lạy Chúa, xin hãy đến!”, dịch sang tiếng Hy Lạp ho Kyrios và được Thánh Phaolô cũng như mọi kinh nguyện phụng vụ thời sơ khai trích dẫn (16). Tương lai thuộc về các tước hiệu “Kitô” và “Chúa” như tên riêng dành cho Chúa Giêsu và thuộc về việc nhận diện Người là Con Thiên Chúa và là Ngôi Thứ Hai của Thiên Chúa Ba Ngôi. Không phải chỉ nhân danh một bậc thầy vĩ đại, ngay cả bậc thầy vĩ đại nhất mọi thời, mà Justinian đã cho xây đền thờ Hagia Sophia ở Constantinople và Johann Sebastian Mozart sáng tác Thánh Lễ Misa B-Thứ. Không hề có nhà thờ chánh tòa nào được xây để tôn kính Socrates. Nhưng trong diễn trình tự thiết lập mình, các tước hiệu Kitô và Chúa, ngay cả rabbi tiên tri thường mất đi phần lớn nội dung Semitic của chúng. Đối với các môn đệ của Chúa Kitô ở thế kỷ thứ nhất, ý niệm Chúa Giêsu như một rabbi là điều tự nó hiển nhiên, đối với Kitô hữu thế kỷ thứ hai, nó có thể gây bối rối, đối với Kitô hữu thế kỷ thứ ba và sau đó, nó trở thành tối tăm.

Những khởi đầu của các biến đổi trên, điều Dix gọi là việc “phi Do Thái Giáo của Kitô Giáo” (17), đã hiển thị ngay ở trong Tân Ước rồi. Vì, với quyết định của Thánh Phaolô “hướng về dân ngoại” (Cv 13:46) sau khi đã khởi sự rao giảng tại các hội đường của thế giới Địa Trung Hải, và sau đó, với việc cướp phá Giêrusalem của binh lính Rôma dưới quyền Titus và việc phá hủy đền thờ năm 70 CN, phong trào Kitô ngày càng trở nên ngoại đạo hơn là Do Thái Giáo nơi các thành viên và trong cái nhìn của nó. Trong khung cảnh này, như ta sẽ có nhiều dịp để lưu ý trong chương này và các chương sau, các yếu tố Do Thái trong đời sống Chúa Giêsu ngày càng trở nên có vấn đề và cần được giải thích cho các độc giả dân ngoại của các sách Tin Mừng. Người soạn Tin Mừng Gioan, chẳng hạn, thấy mình buộc phải giải thích cho việc chum nước được Chúa Giêsu biến thành rượu trong tiệc cưới Cana bằng cách nói rằng chúng có ý được dùng “theo nghi thức thanh tẩy của người Do Thái Giáo” (Ga 2:6), điều mà bất cứ độc giả Do Thái Giáo nào cũng giả thiết phải biết khỏi cần giải thích. Và sách Tông Đồ Công Vụ có thể được đọc như một loại “câu truyện của hai thành phố”: chương đầu tiên, với Chúa Giêsu và các môn đệ sau khi Người phục sinh, có hậu cảnh là Giêrusalem, vì “Người ra lệnh cho các ông không được rời Giêrusalem”, nhưng chương cuối cùng, và do đó, cả cuốn sách như một toàn bộ, lên đến cao điểm của nó với cuộc du hành sau cùng của tông đồ Phaolô, bằng một câu đơn giản nhưng làm tăng áp huyết: “Và như thế, chúng tôi tới Rôma”.

Thánh tông đồ Phaolô thường xuất hiện trong tư duy Kitô Giáo như một người chịu trách nhiệm chính cho việc phi Do Thái Giáo của tin mừng, thậm chí của cả việc chuyển hóa con người của Chúa Giêsu từ một rabbi theo nghĩa Do Thái Giáo qua một hữu thể thần linh theo nghĩa Hy Lạp. Một giải thích như thế của Thánh Phaolô trở nên gần như qui điển trong một số trường phái phê bình Kinh Thánh ở thế kỷ 19, nhất là trường phái của Ferdinad Christian Baur, người coi cuộc tranh cãi giữa Thánh Phaolô và Thánh Phêrô như là một tranh chấp giữa phe Phêrô, với việc họ dùng Do Thái Giáo làm méo mó tin mừng biến nó thành một thứ lề luật mới, và phe Phaolô, với viễn kiến phổ quát về tin mừng như một sứ điệp về Chúa Giêsu gửi toàn thể nhân loại (18). Dĩ nhiên, việc mô tả như thế về cuộc chống đối giữa Thánh Phêrô và Thánh Phaolô và giữa lề luật và tin mừng thường rất hay được phát biểu bằng ngôn ngữ chống đối giữa Đạo Công Giáo Rôma (vốn phát xuất từ việc kế nhiệm Thánh Phêrô như vị giáo hoàng đầu tiên) và phe Thệ Phản (phát sinh từ việc Luther giải thích các thư của Thánh Phaolô). Trong số các thư này, thư được Luther thích hơn cả là Thư Gửi Tín Hữu Rôma; thư này đã trở thành hiến chương cho việc cho là tuyên bố độc lập khỏi Do Thái Giáo.

Tuy nhiên, kể từ đó, các học giả không những đặt bức chân dung của Chúa Giêsu trở lại khung cảnh Do Thái Giáo thế kỷ thứ nhất; mà họ còn tái khám phá ra tính Do Thái Giáo của Tân Ước nữa, và nhất là của Thánh Tông Đồ Phaolô, và đặc biệt là Thư của ngài gửi tín hữu Rôma. Theo lời Krister Stendahl, họ kết luận rằng “trong lá thư này, tập chú của Thánh Phaolô thực sự là mối liên hệ giữa người Do Thái và Dân Ngoại, chứ không phải ý niệm công chính hóa hay tiền định và chắc chắn không phải các chủ đề khác tuy thích đáng nhưng trừu tượng”. Đàng khác, đối với cách đọc lá thư kiểu này, “cao điểm của thư Rôma thực sự là các chương 9-11, nghĩa là, các suy nghĩ của ngài về mối liên hệ giữa giáo hội và hội đường, giữa giáo hội và dân Do Thái, chứ không phải giữa ‘Kitô Giáo’ và ‘Do Thái Giáo’, giữa các thái độ tin mừng ngược với các thái độ lề luật” (19). Các chương 9-11 trong thư Rôma là mô tả của Thánh Phaolô về cuộc chiến đấu của ngài đối với mối liên hệ giữa giáo hội và hội đường, kết luận với lời tiên đoán và lời hứa hẹn: “Toàn thể Ít-ra-en sẽ được cứu độ”, ta nên lưu ý cẩn thận, không phải trở lại Kitô Giáo, mà là được cứu độ, vì, như lời của chính Thánh Phaolô, “theo ơn tuyển chọn, họ là những người được yêu thương, và đó là nhờ các tổ phụ. Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý” (Rom 11:26-29).

Stendahl vốn nhận định rằng “Điều gây ấn tượng khiến ta lưu ý là: Thánh Phaolô viết trọn phần này của thư Rôma (10:18-11:36) mà không dùng tới tên Chúa Giêsu Kitô”. Thế nhưng nếu ta chấp nhận lối đọc tư tưởng của Thánh Phaolô này trong thư Rôma, thì việc ngài nhiều lần nhắc tới tên Chúa Giêsu Kitô ở những phần còn lại của Thư có một tầm quan trọng đặc biệt: từ “Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, về phương diện xác thịt, phát sinh từ dòng dõi Đavít” ở chương đầu tới “lời rao giảng của Chúa Giêsu Kitô, nay được mạc khải và nhờ các trước tác tiên tri nay được tỏ lộ cho muôn nước cùng biết” ở câu cuối cùng của chương cuối cùng. Chúa Giêsu Kitô của Thư Rôma, như chính Thánh Phaolô nói ở một chỗ khác, “thuộc dân tộc Israel..., một người Do Thái sinh bởi người Do Thái” (Pl 3:5). Chính vấn đề phổ quát tính, vốn được coi như đặc điểm phân biệt giữa sứ điệp của Thánh Phaolô và tính đặc thù Do Thái, đối với Thánh Phaolô là điều làm cho việc Chúa Giêsu là người Do Thái trở nên cần thiết. Vì chỉ nhờ tính Do Thái của Chúa Giêsu mà giao ước của Thiên Chúa với Israel, vốn là hồng phúc nhưng không của Thiên Chúa và là lời kêu gọi bất phản hồi của Người, đã trở thành giao ước có thể với tới được bởi mọi con người trên thế giới kể cả dân ngoại, những người “đã được tháp vào đó, và cùng được hưởng sự sống dồi dào từ rễ cây ô-liu chính”, là dân Israel (Rm 11:17).

Trong các thế kỷ sau đó, điều càng ngày càng trở nên cần thiết là phải trở lại với chủ đề trên, cho dù nhiều hình thức mô tả khác về Chúa Giêsu đã được khai triển, có nghĩa đối với các thế kỷ này hơn là bức tranh coi Người như một rabbi. Nhưng không một ai từng xem xét chủ đề Chúa Giêsu như một rabbi mà làm ngơ được lịch sử sau đó của mối liên hệ giữa hội đường và giáo hội, giữa dân Chúa Giêsu vốn thuộc về và dân thuộc về Chúa Giêsu. Điều quan trọng khi xem xét lịch sử này là ghi nhớ lời nhắc nhở gần đây rằng “chúng ta không được phép phê phán quá khứ xa xôi bằng tri thức các biến cố của những thời mới gần đây của chúng ta” (20). Tuy thế, các liên hệ tôn giáo, tinh thần và chính trị giữa Kitô hữu và người Do Thái không diễn tiến như một đường kẻ đỏ dọc suốt lịch sử văn hóa. Ngay cả khi ta lưu ý, không vội vàng phê phán mọi người vì cuối cùng một Quan Án khác sẽ làm việc này và sẽ phê phán tất cả chúng ta nữa, chúng ta, những người sống trong thế kỷ 20, quả có trách nhiệm độc đáo phải ý thức được đường kẻ đỏ này, nhất là khi chúng ta nghiên cứu lịch sử các hình ảnh của Chúa Giêsu qua các thế kỷ.

Một trong các hình ảnh như thế phát xuất từ thế kỷ 20, bức Đóng Đinh Trắng của Marc Chagall, đã nói lên điểm trên một cách mạnh mẽ. Nhân vật bị đóng đinh trong bức tranh của Chagall không mang chiếc khố không có nét gì đặc biệt, mà là chiếc tallith (khăn có tua) của một rabbi đạo hạnh. Lời tiên tri của Người “Người ta sẽ loại các con ra khỏi các hội đường; quả thế, giờ đang điểm khi bất cứ ai sát hại các con đều nghĩ họ đang phục vụ Thiên Chúa” (Ga 16:2) được coi như đang được nên trọn, một cách cực kỳ nghịch lý, khi một ai đó tự cho là môn đệ của Người nhưng lại coi việc bách hại người Do Thái như một việc phục vụ Thiên Chúa. Và nhân vật chính quả thuộc dân tộc Israel, nhưng Người cũng thuộc Giáo Hội và toàn thể thế giới, chính vì Người thuộc dân tộc Israel.

Vì vấn đề này hỏi thì dễ hơn trả lời, và trước nhất, tránh né nó dễ hơn là hỏi nó. Nhưng chúng ta phải hỏi nó: liệu có chăng một thứ bài Do Thái đến thế, liệu có chăng nhiều cuộc sát hại Do Thái đến thế, liệu có chăng một Auschwitz, nếu mọi Giáo Hội Kitô Giáo và mọi gia đình Kitô hữu tập chú lòng sùng kính của mình vào các ảnh tượng của Đức Maria không như Mẹ Thiên Chúa và Nữ Vương Thiên Đàng nhưng như một thiếu phụ Do Thai, một tân Miriam, và vào các ảnh tượng Chúa Kitô không chỉ như một Pantocrator mà còn như Rabbi Jeshua bar-Joseph, Rabbi Giêsu Nadarét, Con Vua Đavít, trong ngữ cảnh lịch sử của một Israel đau khổ và của một nhân loại đau khổ?
________________________________________________________________________________________

Ghi chú

(1) Muốn xem một bài điểm sách ngắn nhưng hữu ích về vấn đề này, xin xem Matthew Black, “The recovery of the Language of Jesus”, trong New Testament Studies 3 (1956-1957) 305-313; cả cuốn chuyên đề của ông, An Aramaic Approach to the Gospels and Acts, 3d ed. (Oxford: Clarendon Press, 1967)
(2) Cv 6:1; 9:29
(3) Mc 15:34; phiên bản trong Mt 27:46 hơi khác một chút, và các dị bản của các lần chuyển tự (transliterations) ở cả hai đọan còn khác hơn nữa.
(4) Một cách chung, xem Eric M. Meyers and James F. Strange, Archeology, the Rabbis, and Eraly Christianity (Nashville: Abingdon Press, 1981)
(5) Các ngoại lệ xẩy ra ở Mt 23:7-8 và ở Ga 3:26
(6) Rudolf Bultmann, The History of the Synoptic Tradition, bản dịch của John Marsh (New York: Harper and Row, 1963) tr.125-126
(7) Mt 22: 23-33; Mt 22:15-22; Mc 10:17-22; Mt 18:1-6
(8) Chẳng hạn xem William Oscar Emil Oesterley, The Gospel Parables in the Light of Their Jewish Background (New York: Macmillan, 1936)
(9) Thánh Justin Tử đạo, First Apology 65.4
(10) Mt 5:21-48
(11) Howard Clark Kee, Miracle in the Early Christian World: A Study in Sociohistorical Method (New Haven: Yale University Press, 1983) tr. 188
(12) Mc 7:34; 5:41
(13) Cv 3:22-23; 7:37; Thánh Clement of Alexandria, The Tutor 1.7
(14) Pelikan, Christian Tradition 2:209-210, 238-240
(15) Ga 1:41; 4:25
(16) 1Cr 16:22; Didache 10.6
(17) Greogory Dix, Jew and Greek. A Study in the Primitive Church (New York: Harper and Brothers, 1953) tr. 109
(18) Xem Peter C. Hodgson, The Formation of Historical Theology (New York: Harper and Row, 1966)
(19) Krister Stendahl, Paul among Jews and Gentiles (Philadelphia: Fortress Press, 1976), tr.4
(20) Robert L. Wilken, John Chrysostom and the Jews (Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1983) tr.162
 
VietCatholic TV
Những dự đoán táo bạo của Tổng thống Trump đã được xác nhận là chính xác, The Just News
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:51 27/11/2020

1. Một dự đoán của Tổng thống Trump đã thành sự thật

Trong bản tin gửi cho các ký giả vào đúng ngày Lễ Tạ Ơn, Tòa Bạch Ốc đã trích thuật một bài báo của Joseph Curl cho thấy thái độ bất công của các phương tiện truyền thông tại Hoa Kỳ đối với Tổng thống Trump.

Bài báo có tựa đề “Media said Trump's COVID-19 vaccine prediction would take 'miracle.' They were wrong”, nghĩa là “Các phương tiện truyền thông cho rằng tiên đoán của Tổng thống Trump về vắc-xin là ‘hoang đường’. Họ sai rồi.” được đăng trên tờ Just The News và được Tòa Bạch Ốc gởi cho các ký giả.

Hồi tháng 5, ngay sau khi COVID-19 tăng vọt trên khắp nước Mỹ, Tổng thống Trump đã đưa ra một dự đoán táo bạo về một loại vắc-xin dành cho coronavirus.

“Chúng tôi đang tìm cách đạt được nó vào cuối năm nếu có thể, có thể là trước đó,” Tổng thống Trump nói ngày 14 tháng 5 trong một sự kiện ở Vườn Hồng của Tòa Bạch Ốc.

Ngày hôm sau, tổng thống viết trên Twitter rằng “Công việc nghiên cứu vắc xin đang có vẻ RẤT hứa hẹn, trước khi kết thúc năm nay.”

Các phương tiện truyền thông chính thống không thích dự đoán đó, họ không thích một chút xíu nào.

NBC News viết ngày 15 tháng 5 trong một bài gọi là “kiểm chứng thực tế”:

“Nhưng các chuyên gia nói rằng việc phát triển, thử nghiệm và sản xuất vắc-xin cho công chúng vẫn còn phải mất ít nhất từ 12 đến 18 tháng và bất cứ điều gì ít hơn như thế sẽ được coi là một phép lạ trong y khoa.”

Mạng NBC News trích dẫn lời Tiến sĩ Paul Offit, giáo sư tại Phân Khoa Y Perelman thuộc Đại học Pennsylvania và là giám đốc Trung tâm Giáo dục về vắc xin tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia. Offit nói: “Tôi nghĩ rằng có thể bạn sẽ thấy một loại vắc-xin trong vòng tay mọi người vào năm tới - vào giữa hoặc cuối năm sau. Nhưng đây là điều chưa từng xảy ra nên rất khó đoán”.

NBC cũng đã tìm kiếm lời bình luận từ Tiến sĩ Stanley Plotkin, người được cho là đã phát minh ra vắc xin phòng bệnh rubella vào năm 1964. “Trong trường hợp sớm nhất, chúng ta có thể có một loại vắc xin - hay được cho là vắc xin - trong khoảng thời gian từ 12 đến 18 tháng,” Plotkin nói.

Trong khi đó, FactCheck.org đã điều tra các phúc trình cho rằng hồi tháng Chín, Tổng thống Trump cho biết một loại vắc-xin sẽ ra đời “vào cuối năm nay”.

“Tôi không nói những gì bạn vừa nói,” Tổng thống Trump nói trong một cuộc họp báo vào Ngày Lễ Lao động. “Những gì tôi đã nói là 'vào cuối năm nay.' Nhưng tôi nghĩ nó thậm chí có thể sớm hơn thế. Thực ra có thể là vào tháng 10. Có thể là trước tháng mười một”.

“Chúng tôi đã xem xét các bình luận trước đây của Tổng thống Trump về một loại vắc-xin và không tìm thấy bất kỳ trường hợp nào mà ông ấy tuyên bố vắc-xin chắc chắn sẽ có sẵn vào tháng 10 hoặc tháng 11”, FactCheck.org viết vào ngày 11 tháng 9 trong một đoạn tiêu đề: “Tổng thống Trump đang phóng đại các tiến bộ”.

“Nhưng ông ấy đã gợi ý rằng khung thời gian sớm hơn thậm chí còn có nhiều khả năng hơn là phải chờ đến cuối năm. Các chuyên gia và quan chức chính phủ không đồng ý với đánh giá đó”.

Sau đó, CNN đã viết một bài vào tháng 8 với tiêu đề: “Kiểm tra sự thật: Liệu có vắc-xin coronavirus vào tháng 11 không?”

“Không có gì là chắc chắn, và sự lạc quan của Tổng thống Trump có thể bị nghiền nát trong những tháng tới,” CNN viết. “Một số chuyên gia cảnh báo không nên đưa ra các ngày và mốc thời gian cụ thể. Tôi nghĩ rằng rất nguy hiểm vào thời điểm này nếu đưa ra ngày cụ thể”, cựu bác sĩ phẫu thuật, Tiến sĩ Vivek Murthy nói với Wolf Blitzer của CNN.”

Nói cho đúng, Tổng thống Trump đã chính xác. Không chỉ có một loại vắc xin – nhưng có đến ba loại.

Hôm 9 tháng 11, Pfizer cho biết kết quả từ các thử nghiệm gần đây nhất trên người đối với vắc xin coronavirus cho thấy nó có hiệu quả hơn 95%. Giám đốc điều hành của Pfizer là Albert Bourla cho biết hôm thứ Ba rằng một khi vắc xin của họ được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm, gọi tắt là FDA phê duyệt, nó sẽ được vận chuyển nhanh chóng đến các địa điểm ở Mỹ.

Sau đó vào tuần trước, một loại vắc-xin mới từ nhà bào chế Moderna - được phát triển cùng với Chiến dịch Warp Speed của chính quyền Tổng thống Trump - đã xuất hiện và cũng có hiệu quả gần 95%, nhưng công ty cho biết vắc-xin mới không phải giữ ở nhiệt độ dưới 0 như vắc-xin của Pfizer.

Và hôm thứ Hai, AstraZeneca và Đại học Oxford cho biết vắc-xin COVID-19 do họ cùng tạo ra đã được chứng minh là có hiệu quả lên đến 90% và dễ phân phối hơn một loại vắc-xin tiềm năng khác.

“Những phát hiện này cho thấy chúng ta có một loại vắc-xin hiệu quả có thể cứu sống nhiều người”, giáo sư Andrew Pollard của Đại học Oxford, người từng là điều tra viên chính của quá trình thử nghiệm loại thuốc này cho biết. “Bởi vì vắc xin có thể được bảo quản ở nhiệt độ tủ lạnh, nó có thể được phân phối trên khắp thế giới bằng hệ thống phân phối tiêm chủng thông thường. Và vì vậy đối với mục tiêu được đề ra của chúng ta là bảo đảm rằng chúng ta có vắc-xin có thể sử dụng được ở mọi nơi, tôi nghĩ chúng ta đã thực sự làm được điều đó”.

Pfizer dự kiến sản xuất tới 50 triệu liều vào năm 2020 và lên đến 1.3 tỷ liều vào năm 2021. Moderna dự kiến sản xuất 20 triệu liều vào năm 2020 và lên đến 1 tỷ liều vào năm 2021. Và AstraZeneca dự kiến sản xuất tới 3 tỷ liều vắc xin vào năm 2021.

Vắc xin không chỉ sẵn sàng trước cuối năm 2020 mà còn có thể được sử dụng trong vòng vài tuần tới.

Hôm Chúa Nhật, nhà vắc-xin hàng đầu của Mỹ cho biết việc chủng ngừa COVID-19 có thể bắt đầu trong khoảng ba tuần và Mỹ có thể đạt được tình trạng miễn dịch cộng đồng vào mùa xuân tới.

Moncef Slaoui, người giám sát việc phát triển vắc-xin cho Tòa Bạch Ốc, cho biết trên CNN rằng một khi vắc-xin được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm chấp thuận cho sử dụng khẩn cấp, tất cả 50 tiểu bang sẽ có thể bắt đầu chủng ngừa.

“Kế hoạch của chúng tôi là có thể vận chuyển vắc xin đến các điểm tiêm chủng trong vòng 24 giờ kể từ khi được phê duyệt, vì vậy tôi có thể mong đợi vào Ngày thứ Hai sau khi được phê duyệt,” Slaoui nói trong chương trình “State of the Union” của CNN. “Vào ngày 11 hoặc 12 tháng 12, hy vọng rằng những người đầu tiên sẽ được chủng ngừa trên khắp Hoa Kỳ, trên tất cả các tiểu bang”.

Jake Tapper, người dẫn chương trình của CNN, hỏi:

“Ông đã nói ông có kế hoạch tiêm phòng cho 20 triệu người trong tháng mười hai tại Hoa Kỳ và lên đến 30 triệu người khác mỗi tháng sau đó. Như thế, có bao nhiêu người Mỹ cần được chủng ngừa để cuộc sống có thể trở lại bình thường, và khi nào điều đó có thể xảy ra?”

“Thông thường, với mức độ hiệu quả mà chúng tôi có là 95%, chỉ cần khoảng 70% dân số được chủng ngừa sẽ cho phép khả năng miễn dịch thực sự của cộng đồng diễn ra,” Slaoui nói. “Điều đó có khả năng xảy ra vào khoảng tháng 5, hoặc gần đó dựa trên kế hoạch của chúng tôi.”


Source:The Just News

2. Giám Mục đầu tiên của Trung Quốc được tấn phong theo hiệp định Vatican-Bắc Kinh

Linh mục Tôma Trần Thiên Hào (Chen Tianhao, 陈天豪) 58 tuổi, vừa được tấn phong giám mục cho giáo phận Thanh Đảo (Qingdao,青岛), Sơn Đông (Shandong, 山东). Lễ tấn phong Giám Mục đã diễn ra vào sáng thứ Hai 23 tháng 11 tại nhà thờ chính tòa thành phố, dành để kính Tổng Lãnh Thiên Thần Micae. Giám mục Gioan Phòng Hưng Diệu (Fan Xingyao, 方星耀) của giáo phận Nghi Châu (Linyi, 临沂), cũng là Giám Quản Tông Tòa Yên Đài (Yantai - 烟台), và đồng thời là chủ tịch Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc, đã chủ trì buổi lễ sắc phong. Các giám mục đồng tế khác là: Giám Mục Giuse Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang, 楊永強)của giáo phận Chu Thôn (Zhoucun, 周村) phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Trung Quốc, và Giám Mục Giuse Trương Hiến Vượng (Zhang Xianwang, 張憲旺)của Tế Nam (Jian, 济南), phó chủ tịch của “liang hui”, phiên âm ra tiếng Việt là Lương Huy, (tiếng Tầu là 梁辉). Đó là “tổ chức kép”, bao gồm Hội đồng Giám mục và Hiệp hội Yêu nước.

Một số tín hữu cho Asia-News, cơ quan thông tin của Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo Hải Ngoại, biết rằng sự hiện diện đông đảo của các thành viên cao cấp của Hiệp hội Yêu nước là do linh mục Tôma Trần Thiên Hào, người được tấn phong giám mục trong buổi lễ là chủ tịch Hiệp hội Yêu nước Thanh Đảo, và kể từ năm 2010, ông là thành viên của Ủy ban Thường vụ của Hiệp hội Yêu nước toàn quốc.

Asia News ghi nhận đây là lễ tấn phong giám mục đầu tiên diễn ra theo các thể thức được dự trù trong Hiệp định lâm thời giữa Trung Quốc và Tòa thánh. Tuy nhiên công thức thánh hiến lẽ ra vẫn phải là công thức cũ, trong đó đề cập đến nhiệm vụ đối với Giám Mục đoàn, Đức Thánh Cha và Tòa Thánh, nhưng những điều này không được đề cập đến trong buổi lễ tấn phong cho linh mục Trần Thiên Hào.

Vị giám mục mới được biết đến như một quan chức trung thành với nhà nước về phương diện các chính sách tôn giáo. Tân Giám Mục Trần Thiên Hào sẽ thay thế cho Đức Cha Giuse Lý Minh Thư (Li Mingshu, 李明书) qua đời vào tháng 6 năm 2018.

Do những hạn chế do đại dịch coronavirus gây ra, số người tham dự buổi lễ bị giới hạn với 21 linh mục và hơn 200 nữ tu và tín hữu.

Tân Giám Mục Trần Thiên Hào sinh ra tại Bình Độ (Pingdu, 平度), Sơn Đông năm 1962. Ông học tại chủng viện Thánh Linh ở Sơn Đông và tháng 12 năm 1989 được thụ phong linh mục. Theo dữ liệu chính thức của Bắc Kinh, ông được Hội Công Giáo Yêu Nước bầu và được bổ nhiệm làm giám mục Thanh Đảo vào ngày 19 tháng 11.

Tân Giám Mục Trần Thiên Hào là Giám Mục đầu tiên được tấn phong theo Hiệp định lâm thời giữa Trung Quốc và Tòa thánh. Trước đó, Trung Quốc chỉ hợp thức hóa các vị đã là Giám Mục trong nhiều năm nhưng không được chúng công nhận. Nay chúng công nhận vì các vị này đồng ý gia nhập Hội Công Giáo Yêu Nước. Ba vị này là Đức Cha Lâm Gia Thiện (Lin Jiashan - 林家善) của giáo phận Phúc Châu (Fuzhou -福州), Đức Cha Phêrô Lý Huệ Nguyên (Li Huiyuan - 李慧源) của giáo phận Phượng Tường (Fengxiang - 凤翔) và Đức Cha Mã Tồn Quốc Ma Cunguo - 馬存國).


Source:Asia News

3. Thế giới bác bỏ đề xuất dùng hệ thống QR của Tập Cận Bình trong du lịch quốc tế

Từ tháng Hai năm nay, Trung Quốc đã sử dụng các mã vạch QR, có thể được đọc qua điện thoại thông minh, để xác minh tình trạng sức khỏe của công dân tại các trạm kiểm soát. QR màu xanh lá cây có nghĩa là chủ sở hữu khỏe mạnh và có thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác; màu cam hoặc màu đỏ ngụ ý là có vấn đề cần kiểm dịch hay cách ly.

Ngày 23 tháng Giêng, Trung Quốc mới chính thức nhìn nhận đang xảy ra đại dịch coronavirus. Nhưng đầu tháng Hai, nước này đã bắt đầu sử dụng hệ thống QR. Điều này chứng minh cho nhận định rằng Bắc Kinh đã theo đuổi việc áp dụng hệ thống QR nhằm kiểm soát dân chúng từ rất lâu.

Trong hội nghị thượng đỉnh ảo của 20 cường quốc kinh tế thế giới, gọi tắt là G20, do Arab Saudi tổ chức vào cuối tuần qua, Tập Cận Bình đã đề xuất một cơ chế toàn cầu sử dụng hệ thống QR để khuyến khích nối lại các chuyến du lịch quốc tế, đã giảm đáng kể do sự bùng phát của đại dịch coronavirus.

Theo dự báo của các chuyên gia, lượng du lịch hàng không toàn cầu năm nay sẽ dừng ở mức một phần ba so với năm 2019 do tình trạng khẩn cấp về sức khỏe. Với đề xuất của mình, ông Tập nói rằng ông muốn tạo điều kiện để nối lại có trật tự các luồng du lịch cũng như để kích hoạt lại chuỗi cung ứng toàn cầu.

Lo ngại về những nguy hiểm đối với quyền tư ẩn, các tổ chức nhân quyền đã bác bỏ ý tưởng của Tập Cận Bình. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch lập luận rằng chiêu bài chú ý đến việc phòng bệnh của Tập Cận Bình thực ra chỉ là “con ngựa thành Troy” nhằm thực hiện đồng thời hai sách lược. Thứ nhất là “kiểm soát” và thứ hai là “loại trừ” trên cơ sở chính trị.

Đối với các nhà phân tích, các nước phương Tây không thể nào chấp nhận đề xuất của Tập Cận Bình. Điều đáng lo ngại là Bắc Kinh đang cố áp đặt lên toàn thế giới các tiêu chuẩn kiểm soát xã hội của riêng mình, bao gồm cả các tiêu chuẩn về truy cập internet. Hôm thứ Hai 23 tháng 11, trong một thông điệp được đọc tại lễ khai mạc Hội nghị Internet Thế giới, một sáng kiến do bọn cầm quyền Trung Quốc tổ chức ở Chiết Giang (Wuzhen, 乌镇), Tập Cận Bình đã lên tiếng mời tất cả các quốc gia cùng hợp tác để tạo ra một “cộng đồng mạng được chia sẻ”.

Trung Quốc thường bị chỉ trích vì sự kiểm soát tràn lan đối với Internet, một mô hình dường như khó xuất khẩu sang phương Tây. Ví dụ, Mỹ đang tiến hành một chiến dịch quốc tế tẩy chay Huawei 5G internet. Công ty này bị buộc tội làm gián điệp cho tình báo Bắc Kinh. Các sáng kiến “Clean Network”, nghĩa là “các mạng sạch” không có các mã của Tầu đang được tiến hành tại hàng chục quốc gia ở Âu châu, Á châu, Bắc và Nam Mỹ.


Source:Asia News

4. Một Tổng Giám Mục Công Giáo Đức yêu cầu Tòa Thánh mở cuộc điều tra về việc ngài xử lý các cáo buộc lạm dụng

Trong một diễn biến khá hi hữu, một Tổng Giám Mục Công Giáo người Đức đã yêu cầu Tòa Thánh mở một cuộc điều tra về cách thức ngài giải quyết các cáo buộc lạm dụng của hàng giáo sĩ thuộc quyền.

Đức Tổng Giám Mục Stefan Heße /stê-phan hê-bơ/ của Hamburg đã viết thư cho Bộ Giám mục ngày 20 tháng 11 liên quan đến các trường hợp lạm dụng mà ngài đã giải quyết khi phục vụ tại Tổng giáo phận Cologne.

Đức Cha Heße là tổng đại diện của tổng giáo phận Cologne từ năm 2012 cho đến khi được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Hamburg vào năm 2015.

Trong lá thư gửi Bộ Giám Mục, Đức Cha Heße bày tỏ nỗi buồn về cuộc tranh cãi hiện nay liên quan đến cách giải quyết các khiếu nại lạm dụng ở tổng giáo phận Köln, nơi ngài đã phục vụ sau khi được thụ phong năm 1993.

Đức Cha Heße sinh tại Köln, vào ngày 7 tháng 8 năm 1966. Năm 1986, ngài theo học thần học và triết học tại Đại học Bonn và Đại học Regensburg.

Ngài được Đức Hồng Y Joachim Meisner tấn phong vào ngày 18 tháng 6 năm 1993 tại nhà thờ chính tòa Köln. Từ năm 1993 đến năm 1997, ngài là cha sở tại Nhà thờ Thánh Remigius ở thành phố Bergheim. Từ năm 1997 đến năm 2003, ngài là cha giáo tại Collegium Albertinum, một chủng viện ở Bonn, trong khi vẫn còn theo học tiến sĩ. Năm 2001, ngài nhận bằng Tiến sĩ Thần học từ Trường Triết học-Thần học ở Vallendar với luận văn về Hans Urs van Balthasar, nhà thần học Công Giáo Thụy Sĩ. Từ năm 2003 đến năm 2005, ngài đứng đầu Ban Mục vụ của Tổng Giáo phận Köln. Cũng trong năm 2003, ngài đảm nhận thêm chức vụ đại diện tổng giáo phận về phát thanh và truyền hình, một chức vụ mà ngài đã giữ cho đến năm 2012.

Ngày 1 tháng 5 năm 2006, cha Heße được bổ nhiệm làm Phó Tổng Đại diện Tổng Giáo phận Köln, và vào ngày 16 tháng 3 năm 2012, ngài chính thức trở thành cha Tổng Đại diện của tổng giáo phận.

Vào ngày 28 tháng 2 năm 2014, Đức Hồng Y Joachim Miesner, Tổng Giám Mục Köln, từ chức vì tuổi cao. Cùng ngày, cha Heße được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa, về cơ bản đảm nhận các nhiệm vụ của Tổng Giám Mục cho đến khi một người mới được bổ nhiệm.

Vào ngày 20 tháng 9 năm 2014, Đức Hồng Y Rainer Maria Woelki được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục của Köln. Trong buổi lễ nhận tòa, Đức Hồng Y đã xác nhận cha Heße làm Tổng Đại diện.

Vào ngày 26 tháng 1 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám Mục Hamburg.

Đức Tổng Giám Mục Heße nói rằng ngài sẽ gửi cho Vatican kết quả của một cuộc điều tra hiện đang được tiến hành ở Köln, dự kiến sẽ được công bố vào tháng 3 năm 2021.

Đức Cha Heße cho biết trong tuyên bố ngày 20 tháng 11 của mình rằng: “Hôm nay tôi đã viết thư cho Tổng trưởng Bộ Giám mục, là Đức Hồng Y Marc Ouellet, và mô tả tình hình với ngài. Tôi giải thích với ngài rằng tôi luôn tham gia với hiểu biết và lương tâm tốt nhất của mình trong việc xử lý các trường hợp lạm dụng tình dục ở tổng giáo phận Köln và không bao giờ che đậy những trường hợp như vậy”.

“Cuộc tranh luận công khai về thời gian của tôi ở Köln, đã diễn ra trong nhiều tháng, không chỉ là gánh nặng đối với cá nhân tôi mà còn đối với những người Công Giáo trong tổng giáo phận”.

“Vì lo lắng cho Tổng giáo phận Hamburg, tôi coi nhiệm vụ của mình là phải thông báo cho các nhà chức trách Rôma về tình hình hiện tại và kết quả điều tra từ Köln, sẽ có vào tháng Ba”.

“Đối với tôi, rõ ràng là tôi không thể là thẩm phán trong trường hợp của riêng mình, nhưng tôi yêu cầu cơ quan đã bổ nhiệm tôi vào chức vụ của tôi với tư cách là Tổng Giám Mục mở cuộc điều tra”.

Một ngày trước tuyên bố của mình, Đức Cha Heße thông báo rằng ngài sẽ tạm thời từ bỏ vai trò cố vấn tinh thần cho Ủy ban Trung ương những người Công Giáo Đức, viết tắt theo tiếng Đức là ZdK.

Các quy định của Tông thư dưới dạng tự sắc Vos estis có hiệu lực vào ngày 1 tháng 6 năm 2019, trong thời gian thử nghiệm ba năm. Một số giám mục ở Hoa Kỳ và Ba Lan đã bị điều tra theo các điều khoản của tông thư này.


Source:Catholic News Agency

5. Ông Paolo Gabriele, nhân vật chính trong vụ Vatileaks đã qua đời.

Paolo Gabriele, cựu quản gia của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16, đã qua đời hôm thứ Ba 24 tháng 11, sau một thời gian dài ốm đau, hưởng thọ 54 tuổi.

Phục vụ Tòa Thánh với tư cách là quản gia Phủ Giáo hoàng từ năm 2007, ông Gabriele, vào năm 2012, đã trở thành nhân vật chính trong vụ “Vatileaks” đầu tiên. Đó là vụ đánh cắp các tài liệu mật sau đó được xuất bản trong một cuốn sách. Ông gây ra vụ tai tiếng này có lẽ không phải vì tiền nhưng có những vấn đề ông nghĩ không thông.

Ông bị bắt vào ngày 23 tháng 5, 2012. Một tuần sau đó, hôm 30 tháng 5 năm 2012, lần đầu tiên Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã trực tiếp lên tiếng về vụ tai tiếng này trong bài phát biểu vào cuối buổi tiếp kiến chung hàng tuần. Ngài cho biết những tin đồn “phóng đại” và “vô cớ” đã đưa ra một hình ảnh sai lệch về Tòa Thánh. “Các biến cố trong những ngày gần đây về Giáo triều và các cộng sự viên của tôi làm tôi rất đau lòng. Tôi muốn lặp lại sự tin tưởng và sự khích lệ đối với những cộng tác viên thân cận nhất của tôi và tất cả những người hàng ngày, với lòng trung thành và tinh thần hy sinh và trong âm thầm, giúp tôi hoàn thành sứ vụ của mình.”

Nhiều phương tiện truyền thông tại Ý thích tung tin giật gân cho rằng việc đột ngột thoái vị của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 có liên quan đến hành vi phản bội của ông. Tuy nhiên, Đức Tổng Giám Mục Georg Gänswein, bí thư của Đức Bênêđíctô 16 và chính ngài khẳng định không phải như thế. Ngài từ chức sau một thời gian dài suy tư và thấy tình trạng sức khoẻ của mình không đáp ứng được các yêu cầu ngày càng khó khăn của sứ vụ Mục Tử Toàn Thể Hội Thánh.

Ông bị Tòa án Nhà nước Thành phố Vatican xét xử và kết tội vào tháng 10 năm 2012.

Ngày 22 tháng 12 cùng năm, ông nhận được sự tha thứ và Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 chính thức ân xá cho ông. Sau đó, ông phục vụ tại Bệnh viện Trẻ em Bambino Gesu ở Rôma.

Ông qua đời để lại vợ và ba đứa con. Xin cầu nguyện cho linh hồn ông Paolo Gabriele và cho gia đình ông.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi video về phiên tòa của ông Paolo Gabriele mà chúng tôi đã phát cách đây hơn 8 năm.




Source:Vatican News