3. Bốn mươi ngày sau Phục Sinh của Chúa Giêsu

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu cho phép các môn đệ đước thấy và rờ tới Người; Người ăn uống với họ (Cv 10:41) cho tới ngày Người lên trời. Cái khó mà chúng ta đã thảo luận trên đây, là phải hiểu như thế nào về sự viên mãn vốn đã có ở lúc Phục Sinh dưới ánh sáng sự tôn vinh Chúa Giêsu từ từ diễn ra sau đó. Trong khoảng thời gian tiếp sau cuộc Phục Sinh, có thể nào Thầy Chí Thánh trải nghiệm một sự gia tăng trong vinh quang của Người, cho tới độ điều ta thấy trên Núi Cây Dầu tương ứng thực sự với điều Con Thiên Chúa trải nghiệm?

Bất cứ câu trả lời nào cho câu hỏi trên phải bắt đầu với thân xác phục sinh của Chúa Giêsu, là thân xác, khi được hiển vinh, không trở thành thứ thân xác có tính siêu trần (ethereal corporeality), một thân xác ta khó có thể gọi được là thân xác đúng nghĩa. Đúng hơn, nó là sự viên mãn của điều ta vốn hiểu như là hiện hữu thân xác. Nếu đúng như thế, thì, vì mối liên kết giữa thân xác và thời gian, thời gian tính của thân xác phục sinh không thể đơn thuần biến mất được. Trái lại, lúc này, thân xác vẫn phải có tính “thời gian” một cách càng sâu xa hơn nữa. Chúa Giêsu phục sinh tiếp tục “có” thời gian vì nhân loại và với nhân loại.

Chiều kích này, một chiều kích ta đã nghiên cứu trên đây nhờ các tìm tòi của Kasper, cũng đã được nhấn mạnh trong nền thần học lịch sử của Hans Urs von Balthasar. Đối với thần học gia này, bốn mươi ngày giữa Phục Sinh và Thăng Thiên là giai đoạn quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của khoảng thời gian này? Balthasar làm nổi bật sự kiện này: Đấng Sống Lại không sống “bên ngoài” thời gian, trong một vĩnh cửu phi thời gian. Trái lại, nay là lúc Người chiếm hữu một thứ thời gian mới, một thứ thời gian đã được làm hoàn hảo, và do đó thoát khỏi mọi thiếu sót vốn là đặc điểm của thời gian tính bằng lịch của ta. Chính lúc hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu muốn xác nhận với họ sự hiện diện liên tục của Người trong lịch sử, một hiện diện đã được làm cho trọn vẹn nhờ sự phục sinh của Người.



Nhà thần học Basel nhấn mạnh tới khả năng của Chúa Giêu trong việc đồng hành với ta trong chính thời gian của ta; ông thấy chứng cớ rõ ràng nhất của khả năng ấy trong 40 ngày này. Như Balthasar từng giải thích, vì sự viên mãn của thời gian trong đó Chúa Giêsu sống sau Phục Sinh không thể thay đổi được, nên việc hiện ra sau Phục Sinh giúp ta hiểu được cách thế Người hiện diện thực sự với ta sau Thăng Thiên. Do đó, Giáo Hội có thể chắc mẩm rằng, bất chấp tính vô hình của Thầy Chí Thánh mình, Chúa Giêsu vẫn đồng hành với Giáo Hội trong cuộc lữ thứ trần gian. Tuy nhiên, đối với Balthasar, có một dị biệt quan trọng ở đây: trong khi Chúa Giêsu cho phép các môn đệ thấy và rờ tới Người trong 40 ngày này, thì nay Người hiện diện với ta trong các bí tích. Nhưng, trong căn bản, vẫn có sự đồng nhất giữa hai giai đoạn này.

Và vì hình thức thời gian thuộc về Chúa Kitô phục sinh không thể nào thay đổi với việc Thăng Thiên của Người, nên điều cần thiết phải nắm vững là: hình thức thời gian được tỏ hiện trong thời gian 40 ngày này mãi là nền tảng cho mọi hình thức hiện diện khác của Người trong thời gian, trong Giáo Hội, và trong thế giới. Cách thế hiện diện của Người, được tỏ bày trong 40 ngày này, là hình thức tối hậu của thực tại nơi Người. Việc Thăng Thiên của Người không làm Người ra xa lạ với thế giới. Người lồng 40 ngày này giữa Phục Sinh và Thăng Thiên để chỉ cho các môn đệ thấy một cách trực tiếp và rờ mó được thực tại mà với nó Người sẽ mãi mãi ở với họ “mọi ngày cho tới lúc tận cùng thế giới” (Mt 28:20).

Ta phải nhấn mạnh với Balthasar sự viên mãn của Chúa Giêsu phục sinh, cũng như tính liên tục của việc Người hiện diện cả trước và sau khi lên trời. Tuy nhiên, ta vẫn cần phải tìm hiểu một cách thật chi tiết đâu là sự khác biệt giữa các lần Chúa Kitô hiện ra sau Phục Sinh, và sự hiện diện có tính bí tích của Chúa Giêsu đã lên trời. Há sự thay đổi trong cung cách các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu không có nghĩa một thay đổi ngay trong sự hiện hữu của Thầy Chí Thánh đó sao? Để trả lời câu hỏi này, ta phải đào sâu hơn nữa sự phân tích của ta về bản chất thời gian của Chúa Giêsu sau Phục Sinh.

Ta nên mô tả ra sao cách thế mới Chúa Kitô cảm nghiệm thời gian? Trước nhất, không hề có đặc điểm “tiêu cực” nào trong cảm nghiệm này cả. Thời gian của Chúa Kitô phục sinh là thời gian đã được thể hiện một cách hết sức viên mãn. Do đó, Chúa Giêsu không “chịu” sự tiếp diễn của thời gian; đúng hơn, thời gian hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của Người. Vì thời gian sau Phục Sinh của Người dư tràn sự sống, nên ta có thể nói rằng Người xác định cách thế để tuôn đổ sự hiện diện của Người ra trong lịch sử, một cách tự quyền như vua chúa. Thời gian này không áp đặt lên Chúa Giêsu như một gánh nặng, mà nó cũng không phải là một vết thương mở toang để qua đó, sự hiện hữu lọt vào. Nó là một thời gian không biết tới buồn chán hay vội vã. Như thế, ta phải nghĩ lại cảm nghiệm của ta về thời gian và nhìn nó dưới một ánh sáng mới, một thời gian đã được gạn sạch mọi tha hóa (alienation) từng xẩy ra cho ta sau Cơn Sa Ngã của nguyên tổ. Nếu lý tưởng cứu rỗi của ta là tuyệt đối kiểm soát được đời mình, thì chắc chắn ta muốn được giải thoát khỏi thời gian, vì giòng chẩy của thời gian không hề nằm dưới quyền thống trị của ta. Việc này đưa tới một quan điểm lý tưởng hóa về cứu rỗi, tức thoát khỏi mọi may rủi tùy thể của lịch sử. Dĩ nhiên, cảm nghiệm của ta về thời gian cũng có thể được nhìn cách khác. Thời gian xem ra có vẻ mâu thuẫn với ảo giác của ta muốn kiểm soát hoàn toàn các khả năng cũng như các liên hệ của ta với thế giới. Bất cứ ai biết nhìn nhận rằng căn tính của họ bị cột vào thời gian đều luôn phải đấu tranh với các yếu tố ở bên ngoài các kế sách riêng của họ: quá khứ đã vượt quá tầm kiểm soát, còn tương lai thì mãi mãi là chuyện họ không biết chắc. Như thế, thời gian bắt ta phải hiểu sự sống như một điều gì đó cởi mở, như một điều gì đó có tương quan. Trong một tầm nhìn như thế, ta có thể thấy thời gian như một mở cửa chào đón người khác, như một hình thức hiện hữu có tính bản vị sẵn sàng chào đón hiệp thông và nhờ thế tự nâng cao hơn chính mình. Thí dụ, thời gian giúp tôi tương quan với những ai đi trước tôi trong đời, mà từ họ, tôi đã nhận được các điều kiện để triển khai lịch sử riêng của tôi. Đàng khác, hiện hữu trong thời gian là điều đem lại sự mới mẻ và sự ngạc nhiên đầy ơn phúc cho từng cuộc gặp gỡ, điều mà tôi vốn không thể nào diễn dịch từ bất cứ tiền đề quá khứ nào. Điều này nữa: sống trong thời gian khiến ta tin chắc rằng chỉ có tình yêu, chỉ có cảm nghiệm hứa hẹn, mới đáp ứng được nhu cầu thống nhất của ta và mới vượt qua được sự phân chia cuộc sống ta thành quá khứ, hiện tại và tương lai.

Điều trên mang lại cho ta một giải thích tích cực về thời gian. Trước nhất, thời gian, khi dõi nhìn về quá khứ, tự ý thức được việc mình có nguồn gốc từ người khác. Trên căn bản này, thời gian giúp ta khám phá ra: Thiên Chúa là nguồn sự sống và giúp ta biết lắng nghe tiếng gọi của Người và kế hoạch của Người dành cho ta. Điều này có giúp ta hiểu việc Chúa Giêsu sống chiều kích thời gian này như thế nào không? Đấng Sống Lại sống thời gian của Người trong một tâm tình con thảo trong sáng, như cơ hội để Người tiếp nhận các hồng phúc của Chúa Cha; quá khứ của Người khiến Người nhìn nhận rằng Chúa Cha là Nguồn Gốc không ngừng sinh ra Người, luôn luôn hiện diện và luôn luôn hoạt động. Thứ hai, trong chiều kích tương lai của nó, thời gian được coi như một cơ hội đem sự sống đến cho một điều gì đó, mà khi từ ta phát sinh ra, nó sẽ lớn hơn chính ta: đây chính là cảm nghiệm mầu mỡ (fecundity), hay khả năng đem lại sự sống, trao ban cho người khác điều ta đã tiếp nhận được từ Thiên Chúa. Sống hướng về tương lai có nghĩa: sự hiện hữu của ta sẵn sàng mở cửa đón chào việc sinh hoa kết trái. Một lần nữa, Chúa Giêsu cũng đã sống chiều kích này một cách viên mãn. Qua sự Phục Sinh của Người, Người là chính sự hiến tặng sự sống trọn vẹn, một nguồn suối tự thông truyền cho Giáo Hội và sinh hạ Giáo Hội cho Thiên Chúa. Thứ ba, trong giòng chẩy hiện tại của nó, thời gian của ta là một đơn nhất trong đa dạng, một diễn tiến liên tục của quá khứ, hiện tại và tương lai. Ta chỉ có thể vượt qua được sự ngắt quãng hiện nay giữa quá khứ và tương lai, giữa tương lai và hiện tại, nhờ một lời hứa được đưa ra và được duy trì, vì lời hứa bảo đảm tính liên tục cho căn tính của ta trong thời gian. Và bởi thế, lúc Phục Sinh, Chúa Giêsu sống thời gian của Người theo lời hứa hẹn của Thiên Chúa, như một thời gian đã được thống nhất hóa nhờ lòng trung thành của Chúa Cha và nhờ đáp trả trung tín của Chúa Con.

Như thế, với Phục Sinh, thời gian của Chúa Giêsu đã vượt qua được cửa ngõ sự chết và trở thành một thời gian mới, sống trọn vẹn trong tình yêu dành cho Chúa Cha, Đấng được thừa nhận là Nguồn Gốc và Đích Đến. Phục Sinh đem tới một thời gian thiêng liêng, nghĩa là một thời gian được sống như một cởi mở trọn vẹn cho tương quan (với Chúa Cha và với con người). Theo nghĩa này, ta có thể nói rằng thời gian đã đi vào vĩnh cửu, một vĩnh cửu hiểu như là một trao đổi yêu thương liên tục và năng động giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần.

Thời gian phục sinh hay thời gian thiêng liêng là thời gian trong đó, quá khứ được giải thích theo cách thế sinh làm con (filiality), như việc được hạ sinh từ Chúa Cha; tương lai được giải thích như khả năng trao ban sự sống; còn hiện tại được giải thích như một nối kết lòng trung thành với một lời hứa, trong đó, trọn vẹn sự đáp trả của Chúa Con tương ứng với hồng phúc của Chúa Cha. Các phân biệt riêng của thòi gian vẫn không biến mất; thực vậy, các phân biệt này rất chủ yếu nếu ta biết tôn trọng thứ bậc và tính năng động của việc các ngôi vị hiệp thông với nhau. Nhờ sự viên mãn của thời gian, Chúa Giêsu trở thành Chúa của thời gian: Chúa của quá khứ, một quá khứ đến trước Người, trở lui tới tận Ađam, và Chúa của tương lai, một tương lai diễn ra giữa việc Phục Sinh của Người và việc Người sẽ trở lại trong vinh quang.

Đến đây, ta có thể trở lại với câu hỏi của ta liên quan tới sự phân biệt giữa thời gian trước và thời gian sau Thăng Thiên. Ta đã cho rằng thời gian thiêng liêng của Chúa Kitô đã trở thành sự viên mãn của sức mạnh tương quan. Nó không phải là một trạng thái không có thời gian nhân bản, mà thực ra có nghĩa này: Chúa Kitô đồng hành theo nhịp thời gian của ta một cách còn gần gũi hơn nữa. Bởi thế, Phục Sinh không đem Chúa Kitô ra khỏi thời gian, mà đúng hơn là điều giúp Người dìm mình trọn vẹn hơn trong thời gian. Thực vậy, ta mới là những kẻ không sống trong cái viên mãn của thời gian; chính ta mới là những kẻ đôi lúc cảm thấy thời gian đã qua khỏi ta. Như nhân vật trong tiểu thuyết của Vassily Grossman, chính ta mới là những kẻ xem ra thời gian đã bỏ xa, và nay ta chỉ là “những đứa con ghẻ của thời gian”.

Thiển nghĩ đặc điểm tương quan này của thời gian nhân bản, một đặc điểm đã nên trọn trong Chúa Giêsu, đã mở ra khả thể có nhiều giai đoạn trong việc Chúa Kitô được tôn vinh. Ở đây, chúng ta không có ý quả quyết rằng thời gian của Chúa Kitô, tự nó, vẫn còn cần được thống nhất và viên mãn. Đúng hơn, chúng ta muốn xem sét thời gian của Chúa Kitô trong tương quan với mọi người đồng loại khác của Người, một tương quan vốn nội tại trong chính thời gian tính. Xét như thế, chỉ khi nào lịch sử đã hoàn toàn chung cục thì thời gian của Chúa Giêsu mới chung cục. Quan niệm thời gian này khiến ta có thể quả quyết rằng Thăng Thiên làm gia tăng sự tôn vinh của Chúa Con. Một gia tăng như thế không nhất thiết hàm nghĩa Chúa Kitô không làm chủ thời gian; đúng hơn, nó cho thấy tình yêu khiêm tốn của Người, Đấng, dù trong vinh quang, vẫn sống phù hợp, trong mọi sự, với sự khiêm tốn nơi các môn đệ của Người là những kẻ vẫn còn sống trong thân xác. Tóm lại, nếu cách thế trong đó Giáo Hội sống thời gian của mình thay đổi, thì sự thay đổi này cũng được phản ảnh nơi Chúa Giêsu. Và do đó, chính chiều kích tương quan trong thời gian của Chúa Kitô đã tạo ra sự tuần tự gồm các giai đoạn khác nhau trong cuộc hiện hữu sau Phục Sinh của Người, mà nổi bật nhất là việc Thăng Thiên và việc Người sẽ đến lại trong vinh quang, vì các thay đổi quan trọng do hai biến cố này đem lại cho đời sống các môn đệ.

Để hiểu các giai đoạn khác nhau này một cách chi tiết hơn, ta phải lưu ý tới các thay đổi trong phương cách Chúa Giêsu hiện diện với các môn đệ sau khi Người sống lại. Các bản văn Tin Mừng phân biệt thời gian các lần Chúa Kitô hiện ra với thời gian sau khi Người lên trời ngự bên hữu Chúa Cha: chúng là hai cách Người hiện hữu và hành động. Một đàng, thời gian thứ hai hoàn thiện hóa thời gian thứ nhất; nó là sự hiện diện sâu sắc hơn, nhờ đó Kitô hữu có thể đụng chạm tới Chúa Giêsu (xem Ga 20:17), cảm nhận được cảm tình của Người (Ph 2:5) và cùng một tâm trí với Người (xem 1Cor 2:16), vì tiếp nhận được Thánh Thần của Người. Đàng khác, sự giao tiếp này diễn ra nhờ đức tin, chứ không nhờ thị giác (xem Ga 20:29: “Phúc cho những ai không thấy nhưng tin”): có một khoảng cách giữa tín hữu và Chúa Giêsu, đến nỗi bốn mươi ngày cũng có thể được coi như một dự ứng, một ứng trước của sự hoàn hảo hóa trong tương lai, của việc nên trọn sẽ diễn ra vào ngày quang lâm (parousia), vốn là cuộc hiện ra lần chót của Chúa Giêsu (Cv 1:11: “[Người] sẽ trở lại y như cách các ông thấy Người ra đi”).

Quan điểm coi bốn mươi ngày như một dự ứng của cánh chung này từng được Karl Barth nhấn mạnh trong khảo luận của ông về Thăng Thiên. Barth cho rằng có hai dấu chỉ không thể tách biệt nhau đi theo Đấng Sống Lại: ngôi mộ trống một bên và bên kia là việc Người lên trời. Dấu chỉ thứ nhất là dấu chỉ có thể nói là nhìn xuống; bởi thế nó là một dấu chỉ tiêu cực, muốn tuyên xưng rằng Người không còn ở trong số người chết nữa. Không có dấu chỉ này, việc phục sinh của thân xác khó có thể phân biệt được với tính bất tử của linh hồn thiêng liêng; việc phục sinh, trong trường hợp này, chắc chắn sẽ phải giải thích theo lối của phái Ngộ Đạo. Nhưng bên cạnh dấu chỉ này còn một dấu chỉ khác, đó là Thăng Thiên, một dấu chỉ hướng mắt ta lên cao, lên cao mãi, tới tận trời nơi Chúa Giêsu bay lên, và tới tận tương lai, lúc Người trở lại. Dấu chỉ này cho ta thấy rõ: không thể hiểu việc phục sinh của thân xác chỉ như việc trở lại với sự sống nơi dương thế, cho dù sự sống này được quan niệm là tốt hơn sự sống trước đó, không còn lo lắng mà có đầy khả năng. Đúng hơn, trong sự sống Phục Sinh, Thiên Chúa đã chiếm hữu thân xác, đã hoàn toàn dìm thân xác vào trong thể thần linh. Dấu chỉ Thăng Thiên cũng thế, cũng có nghĩa rằng Phục Sinh không phải là việc thoát khỏi lịch sử: vì Phục Sinh tạo ra tương lai tối hậu cho thời gian, nó công bố rằng sự sống của Chúa Giêsu bao hàm trong nó sự chung cục của mọi thế kỷ và vì thế Kitô hữu là người biết tương lai, và biết được tương lai là nhờ ký ức về Thầy Chí Thánh của mình. Như thế, đâu là mối tương quan giữa việc Thăng Thiên của Chúa Giêsu và sự sống mà các môn đệ của Người vẫn đang trải nghiệm trong thời gian?

4. Thăng Thiên và thời của Giáo Hội

Câu hỏi của chúng ta về ý nghĩa của Thăng Thiên phải được hiểu dưới ánh sáng thời gian nó khai sáng. Vì phần chủ yếu của mầu nhiệm này là việc Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha, một việc được Tân Ước liên kết với sứ mệnh Giáo Hội. Cái hiểu của các sách tin mừng và của nền thần học giáo phụ đã theo sát nút trình tự của thánh vịnh: “Hãy tiếp nhận ngai tòa của Con bên tay phải Ta, trong khi Ta biến các địch thù của Con thành ghế Con tựa chân. Vương trượng quyền uy thống trị của Con Chúa sẽ mở rộng từ Xion” (Tv 110:1-2). Các giáo phụ hiểu “vương trượng” này là sức mạnh vô địch của Giáo Hội truyền giáo, tức việc rao giảng lời bắt đầu từ Giêrusalem nhằm truyền bá Tin Mừng ra khắp mặt đất.

Như thế, Thăng Thiên không chủ yếu nói tới việc Chúa Giêsu vắng mặt, mà đúng hơn nói tới việc Người hiện diện cách mạnh mẽ giữa dân của Người. Ngữ cảnh phụng vụ trong trình thuật Luca làm nổi bật mối liên kết giữa Thăng Thiên và Giáo Hội. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu ra đi trong lúc ban phép lành, với cánh tay giương cao, một cử chỉ khiến ta nhớ tới việc tư tế chúc lành trong sách Huấn Ca (Hc 50:20-21). Vì lý do này, Heinrich Schlier đã có thể nói rằng đối với Thánh Luca, Thăng Thiên và chúc lành trùng khớp với nhau: cử chỉ trong lúc Chúa Giêsu ra đi là hình ảnh cuối cùng sẽ còn mãi với các môn đệ; Người ra đi trong khi, chứ không sau khi, chúc lành cho các ông. Ta đã nhận xét trên đây rằng trong Cựu Ước, việc Thiên Chúa chúc lành đem lại sự hiện diện liên tục của Người, một sự hiện diện trở thành nội tại nơi các tạo vật, ban cho chúng sự mầu mỡ và phát triển. Thành thử dễ hiểu lý do tại sao hành vi này tạo cơ sở cho sự hiện hữu của Giáo Hội. Trình thuật Luca vì thế phù hợp với câu kết luận của Tin Mừng Mátthêu: “Thầy ở với các con mãi mãi, cho tới ngày tận thế” (Mt 28:20).

Sự chúc lành này được tiếp liền với việc các môn đệ có mặt tại Đền Thờ. Sau đó, họ họp nhau cầu nguyện với Đức Maria, Đấng, mà theo Thánh Luca, vốn là hình ảnh của Tân Xion. Ở đây, một lần nữa, Thánh Luca lại nhắc lại tên của nhóm Mười Hai, như thể họ được đặt làm cột trụ của Giáo Hội. Nếu ơn gọi nguyên thủy của họ phát khởi từ lời cầu nguyện của Chúa Kitô (Lc 6:12-16), thì nay ơn gọi này được liên kết với việc Người lên trời. Phụng vụ Kitô Giáo phát sinh từ lời cầu nguyện sau khi Chúa Giêsu ra đi này...

Liệu ta có thể nói rõ thêm về mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội được trình thuật Luca nhắc tới không? Sự quan trọng được Thánh Luca gán cho Đền Thờ cho ta một chỉ dẫn. Tin Mừng Luca kết thúc bằng cách cho ta thấy các môn đệ ca tụng Chúa trong Đền Thờ. Khởi đầu của Công Vụ cũng diễn ra tại đây. Sau đó, trong các chương bẩy và tám của sách Công Vụ, chúng ta được nghe về cái chết của Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên. Trước khi bị giết, ngài đọc một diễn văn dài nhằm nói với những người Do Thái đang mưu toan bắt giam ngài. Các lời tố cáo nói rằng ngài có ý định phá hủy Đền Thờ và phá hoại Lề Luật. Để trả lời, Stêphanô đưa ra một trình thuật về lịch sử cứu rỗi, tập trung vào Đền Thờ.

Lãnh thổ mà Thiên Chúa hứa ban cho Ápraham, mảnh đất thánh thiêng mà trên đó Môsê dấn bước khi chứng kiến gụi gai bừng cháy, đều đáng được ngụ cư vì đó là nơi Thiên Chúa cắm lều. Bài diễn văn của Stêphanô kể lại lịch sử của Môsê và Salômông; nó cũng nhắc tới Chúa Giêsu, Đấng mà vị tử đạo trông thấy đang ngự bên hữu Chúa Cha giữa đám mây trời (Cv 7:56). Lời cáo buộc phạm thượng mang một ý nghĩa đặc biệt nếu đem so sánh với lời cáo buộc Chúa Giêsu trong lúc Người bị vị thượng phẩm xét xử. Cũng bị tố cáo mưu toan phá hủy Đền Thờ, Chúa Giêsu nói tới việc Con Người sẽ tới, ngự bên hữu Chúa Cha giữa đám mây trời (xem Mt 26:64; Lc 22:69). Stêphanô và Chúa của ngài đều bị kết án vì người Do Thái coi việc đồng hóa giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa là điều không thể dung thứ được. Họ hiểu rằng ngồi bên hữu Chúa Cha là ngang hàng với Người. Ở hậu cảnh, là chủ trương cho rằng Thiên Chúa đang xây một Đền Thờ mới, một đền thờ không do bàn tay con người làm nên, mà là chính thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu. Đó chính là điều Stêphanô được chiêm ngưỡng khi ngước mắt nhìn lên cao: Đấng được hiển dương, đang ngự bên hữu Thiên Chúa chính là “Đất Thánh” dứt khoát. Người là chung cục việc Thiên Chúa cư ngụ giữa loài người, và là nơi thờ phượng của Kitô hữu.

Các suy tư của Thánh Phaolô giúp ta thâm hậu hóa hơn nữa các tầm nhìn thông sáng trên của Thánh Luca. Ở đây, chúng tôi xin đơn cử một đoạn quan trọng trong thư gửi tín hữu Êphêsô, là đoạn xoay quanh mầu nhiệm Thăng Thiên. Thánh Phaolô trích dẫn Tv 68, câu 19 mà ngài cho là áp dụng vào việc Chúa Giêsu lên trời và sau đó việc Chúa Thánh Thần hiện xuống: “Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người ban ơn huệ cho con người” (Eph 4:8). Đoạn trích Thánh Vịnh ở ngôi thứ hai, để chỉ Giavê: “Ngài đã lên cao… tiếp nhận lễ dâng của con người”. Ấy thế nhưng phái giáo sĩ Do Thái (rabbi) cho rằng đoạn này nói về Môsê và họ viết là “ban ơn huệ” chứ không “tiếp nhận lễ dâng”, theo nghĩa ban Lề Luật cho dân. Để biến Chúa Kitô thành chủ từ và để chứng minh sự khác nhau giữa Người và Môsê, Thánh Phaolô chú giải rằng Người cần phải đi xuống trước khi có thể đi lên: “ ‘Người đã lên’ nghĩa là gì, nếu không phải là Người đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất?” (Eph 4:9). Xem ra có lý khi cho rằng ở đây, thánh Phaolô có ý nhắc đến việc Nhập Thể (“các vùng sâu thẳm” là trái đất) là việc tương đương với việc Lên Trời để ban ơn huệ cho tín hữu. Các ơn huệ này là để xây dựng Giáo Hội, một điều được Thánh Tông Đồ nói tới ngay sau đó (Eph 4:11-13). Như thế, Thánh Phaolô vừa chứng thực trình thuật của Thánh Luca vừa thêm vào đó một sự kiện quan trọng: mục đích của Thăng Thiên là để Chúa Giêsu “làm cho vũ trụ được viên mãn” (Eph 4:10). Ở đây, Thánh Phaolô sử dụng một động từ hết sức cô đọng về ý nghĩa, cũng cùng từ một gốc với danh từ pleroma từng xuất hiện trước đó trong thư (xem Eph 1:22-23) và sẽ xuất hiện lần nữa ở bên dưới (Eph 4:13: “tới tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô”). Ở đầu thư của ngài, Thánh Phaolô quả quyết rằng Giáo Hội là Thân Thể Chúa Kitô, “là sự viên mãn của Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Eph 1:23). Ở đây, ta thấy một nền thần học già dặn về Giáo Hội, Thân Thể Chúa Kitô, một thân thể tiếp nhận sự sống từ chính Đầu của mình là Chúa Giêsu.

Tuy nhiên, điều quan trọng là phải hoàn tất hình ảnh hữu cơ của thân thể bằng hình ảnh phu thê vốn bổ túc cho nó (xem Eph 5:21-23). Giáo Hội là một với Chúa Kitô, không những theo nghĩa hợp nhất mọi chi thể với nhau, mà còn theo nghĩa hiệp thông một thân xác theo kiểu Ađam và Evà. Evà là sự viên mãn của Ađam vừa vì lý do nàng đã trở nên một thân xác với chàng, vừa vì nàng là người sẽ cưu mang dòng dõi chàng, dòng dõi sẽ tràn đầy mặt đất. Ở đây, thân thể xuất hiện như là chiều kích tương quan vì sự sống con người, và do đó như là điều giúp cá nhân vượt quá các biên giới của chính họ: sự kết hợp giữa người đàn bà và người đàn ông để sản sinh ra con cái là nền tảng tối hậu để hiểu tư cách bản vị tập thể của Dân Chúa mà Chúa Giêsu đã nâng lên một bình diện mới qua việc Người Nhập Thể và Thăng Thiên.

Như thế, sự viên mãn của Chúa Kitô là điều sẽ tạo ra và mở rộng sự hiện diện của Giáo Hội ra khắp thế giới, trong tư cách hiền thê của Người. Dưới ánh sáng này, Eph 4:10 (Thăng Thiên như giây phút Chúa Kitô làm mọi sự nên viên mãn) là nền tảng của Eph 1:22-23 (Giáo Hội là sự viên mãn của Chúa Kitô, Đấng được Chúa Cha lập làm Đầu). Vì Thân Thể Chúa Kitô ở trong Thiên Chúa, vì Chúa Kitô đã lên trời, thậm chí vào tận trung tâm sự sống Thiên Chúa, nên nay Người có thể làm mọi sự, kể cả chính vũ trụ, nên viên mãn, qua Thân Thể Người là Giáo Hội.

Như thế, một cách rõ ràng, việc Chúa Giêsu lên trời không làm Người tách khỏi thế giới. Vì nay, Đấng Cứu Thế đã bước vào chiều sâu thẳm của Hữu Thể Thiên Chúa, mà từ đó, trọn thế giới đều được Người tới lui. Điều này không có nghĩa Người tan biến vào sự hiện diện khắp nơi của một thuần thần: Người vẫn duy trì mãi mãi đặc điểm xác thân của Người và vì lý do này, cách thế hiện diện mới của Người cũng phải có tính xác thân, không bị giản lược vào sự hiện diện khắp nơi của Thiên Chúa mà cũng không tách rời khỏi không gian và thời gian. Đúng hơn, một tính xác thân như thế hàm nghĩa một sự biến đổi không gian và thời gian, là những điều nay được nối kết với thân xác và thời gian do Phục Sinh khai sáng.

Như thế, ta hiểu được sự đóng góp chuyên biệt của mầu nhiệm Thăng Thiên. Như đã nói, nhìn dưới ánh sáng của việc Chúa Giêsu trở thành người con tối cao trong thân xác (Rm 1:4; Cv 13:33), Phục Sinh đã là một “việc bước vào trong” Thiên Chúa rồi. Chiếm hữu một thân xác thiêng liêng hóa chỉ có thể có được vì một thời điểm nhất định, tức cánh chung, đã được khai sáng. Thực tại này làm ta khó tưởng tượng được một điều gì mới có thể xẩy ra cho Chúa Giêsu, bất kể trong các lần hiện ra hay trong biến cố Thăng Thiên. Tất cả dường như chủ yếu chỉ là một thao tác sư phạm, một thích nghi đối với nhu cầu của môn đệ. Tuy nhiên, giải thích sư phạm này không phải là giải thích khả hữu duy nhất.

Ta từng nói rằng thân xác, vốn chìm ngập trong thời gian, là cơ sở cho tính tương quan của sự sống con người. Do đó, thân xác Chúa Giêsu không bao giờ cô đơn cả mà đúng hơn mang trong mình cả một dây nối kết với toàn bộ nhân loại và toàn bộ tạo vật. Sự tròn đầy tuyệt đối của thân xác Người, một vinh quang không nhận bất cứ một gia tăng nào hơn nữa, chỉ có thể đạt được khi thân xác Người, trong sự vinh quang của nó, mặc lấy thân xác của Giáo Hội, và trong thân xác này, mặc lấy toàn bộ vũ trụ.

Với Phục Sinh, Chúa Kitô đã trọn vẹn ở trong liên hệ với Cha Người rồi, đã thủ đắc được một thân xác vinh hiển, một thân xác có thể thông truyền cách hữu hiệu sự siêu việt của Thiên Chúa. Ấy thế nhưng thân xác này vẫn chưa làm cho mọi sự nên viên mãn nhờ sự hiện diện của Người; quyền lực ban sự sống của Người chưa mở rộng ra khắp vũ trụ. Điều này không nên gán cho bất cứ thiếu sót nào nơi Chúa Giêsu, mà đúng hơn cho sự nhẫn nại đối với sự sống trong thân xác mà các môn đệ của Người cũng như toàn thể Giáo Hội vẫn còn đang phải sống. Vì các môn đệ của Chúa Kitô trước hết phải nắm vững sự thật liên quan đến việc Phục Sinh của Chúa Kitô, họ phải thấy rõ thân xác Người không xa lạ với thân xác ta. Họ vẫn còn cần hiểu ra rằng thân xác này đã mặc lấy toàn thể tạo vật. Do đó, sự tôn vinh thân xác Chúa Kitô không tự động bao hàm việc biến đổi thế giới.

Ngay cả sau khi các môn đệ đã được chuẩn bị, hai điều vẫn cần phải xẩy ra trước khi vũ trụ được biến đổi: điều thứ nhất, vũ trụ phải đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Chúa Kitô và thứ hai, phải giúp vũ trụ tham dự vào Thần Trí Chúa Kitô. Điều đầu tiên đã diễn ra với việc Lên Trời; điều thứ hai diễn ra lúc Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Hai mầu nhiệm này nối kết với nhau rất mật thiết.

Do đó, như Balthasar từng chỉ ra, bốn mươi ngày này nói lên nền sư phạm của thân xác Chúa Giêsu. Nền sư phạm này làm các môn đệ tràn ngập đức tin, giúp các ông rờ mó được Người, thấy Người, lắng nghe giọng nói của Người một cách mới mẻ. Chính điều này lập các ông thành các trụ cột cho đức tin của Giáo Hội. Thăng Thiên là một bước tiến nữa trong việc thâm hậu hóa mối dây nối kết của Chúa Kitô với Giáo Hội, và qua Giáo Hội, với toàn thể vũ trụ: “Người lên trời… để làm cho mọi sự nên viên mãn” (Eph 4:10). Với chuyển động này, Chúa Kitô vào sâu trong thực tại, chính vì Người đã đạt tới chiều cao của Thiên Chúa. Như thế, không phải Người không ở nơi Thiên Chúa khi lên trời (việc Sống Lại của Người đã là việc Người hoàn toàn ở trong Chúa Cha rồi) nhưng lúc Lên Trời, tương quan mà thân xác Người có với Chúa Cha thủ đắc được chiều kích vũ trụ. Điều này có nghĩa: lúc Lên Trời, Chúa Kitô nhận được từ Chúa Cha một hồng ân mới: qua thân xác Chúa Kitô, Thiên Chúa trở thành hiện diện trong mọi tạo vật; Người sở hữu mọi tạo vật, chiếu sáng mọi nơi còn tối tăm, tăng cường sự hiện diện của Thiên Chúa.

Việc trên chưa xẩy ra vào Chúa Nhật Phục Sinh và do đó, sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa các môn đệ mang nhiều đặc điểm khác nhau. Một đàng, nó kém sâu sắc, kém có tính bao trùm toàn thể hiện sinh. Đàng khác, nó lại tỏ hiện hơn, rờ mó được hơn, như một hiện diện dự ứng cho chung cục, cho thấy: tuy Chúa Giêsu đã có sự sống viên mãn rồi, nhưng sở dĩ Người còn dấu kín là do tình yêu khiêm tốn của Người đối với con người.

Thiết nghĩ đến đây ta phải giải quyết một luận bác có thể có. Quả thật, với mầu nhiệm Nhập Thể, thân xác Chúa Giêsu kết hợp với thân xác của mọi con người nhân bản; ở trong thân xác có nghĩa là trở nên một với các anh chị em mình, vì đều là con của cùng một gia đình nhân loại. Tuy nhiên, các cách thức trong đó một kết hợp có thể diễn ra trong thân xác thay đổi khá nhiều, tùy theo các đặc điểm trong mối liên hệ bản thân. Sự kết hợp giữa mẹ và con khác với sự kết hợp giữa anh chị em, và cả hai kết hợp này lại khác với sự kết hợp thành một thân xác giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Sự kết hợp của những người sinh ra từ cùng một thân xác khác với sự kết hợp của những người phải cùng nhau đối diện với cái chết thể xác. Theo cách này, ta có thể hiểu được thứ hợp nhất mới mẻ của thân xác Chúa Kitô với thân xác của mọi người trên căn bản Thăng Thiên, với Chúa Cha như là cùng đích tối hậu của nhân sinh. Điều này giúp ta có được sự phân biệt sau đây. Từ lúc Nhập Thể trở đi, thân xác Chúa Giêsu kết hợp với mọi người vì cùng có Chúa Cha làm nguồn gốc; sự kiện này trở nên hiển nhiên với việc sinh hạ đồng trinh bởi Đức Mẹ. Từ lúc Thăng Thiên, Người nhận được một cách kết hợp mới, một sự kết hợp liên quan tới Chúa Cha như là đích đến tối hậu. Chúa Kitô liên kết thân xác tạo dựng với chính Người, với sự hoàn thành cuối cùng hướng về Thiên Chúa của thân xác này. Đây chính là căn bản của dây nối kết mà các giáo phụ vốn nhấn mạnh giữa Thăng Thiên và Nhập Thể; một số vị đưa ra điều này làm lý do giải thích tại sao Lễ Thăng Thiên đã được cử hành đầu tiên tại Bêlem.

Chỉ khi nào thực hiện được sự kết hợp kép này với chúng ta, trong nguồn gốc và trong đích đến của ta, Chúa Giêsu mới có thể sai Chúa Thánh Thần đến với ta; vì Chúa Thánh Thần là Đấng có thể thực hiện được việc lịch sử trở nên đồng hình đồng dạng với tính vĩnh cửu của Thiên Chúa. Sự kết hợp mật thiết giữa Thăng Thiên và Hiện Xuống phát sinh từ điều này. Vì Chúa Kitô, từ trong trái tim Thiên Chúa, đã đụng tới trái tim của vũ trụ, vì thân xác Người đã thông truyền cho vũ trụ đích đến mới nơi Chúa Cha, thì nay, Người có thể sai Thánh Thần của Người xuống thế gian để ban ân huệ của Người cho mọi người. Chúa Kitô và Giáo Hội, do đó, đã tạo nên một thân xác và một Thần Trí (xem Eph 4:4, liên quan tới sự kết hợp giữa các Kitô hữu). Khi nhắc tới các hoa trái đầu tiên của Chúa Thánh Thần, mà chính Thánh Phaolô đã nói tới, và là những hoa trái đã được ban cho tín hữu lúc Hiện Xuống, Tertulianô nói đến các hoa trái đầu tiên của thân xác, được Chúa Kitô hiển dương lúc Thăng Thiên như sau: “Như thế, Người để lại cho chúng ta các hoa trái đầu tiên của Thần Khí thế nào, thì Người cũng đã tiếp nhận từ chúng ta các hoa trái đầu tiên của thân xác như vậy”.

Còn tiếp....