Chúa Nhật 4 THƯỜNG NIÊN. A
LỄ DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THỜ.
(Lc 2, 22-32)
HIẾN DÂNG

Ngày lễ Dâng Chúa Vào Đền Thờ còn được gọi là Lễ Nến. Nghi thức phụng vụ trong Giáo Hội làm phép những cây nến và rước nến. Ánh sáng lan tỏa trong Đền Thờ. Từ cuối thế kỷ thứ 4, Giáo Hội ở Gieerrusalem đã mừng kính Lễ này. Hướng về việc Dâng Chúa Gieessu vào Đền Thờ và thánh tẩy Đức Trinh Nữ Maria theo Luật. Trong Thông Điệp về lòng tôn sung Đức Maria, Đức Giáo Hoàng Phaoloo VI đã trình bày: Ngày 2 tháng 2, được đổi tên thành Lễ Dâng Chúa trong Đền Thánh.

Theo Phúc Âm, Đức Maria, sau 40 ngày sinh hạ Chúa Giêsu, cùng thánh Giuse đã dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ ở Giêrusalem và Đức Maria được thánh tẩy sau khi sinh. Thánh Luca đã ghi lại gia đình Thánh Gia đã thực hiện những Lề Luật được ghi chép trong Cựu Ước. Theo Luật Môisen, phụ nữ sau khi sinh con được 40 ngày, họ đến Đền Thờ để dâng con đầu lòng và để được thanh tẩy. Họ mang theo một con chiên nếu nhà khá giả, hay hai con chim gáy hoặc một cặp bồ câu non là của lễ dâng. Thực hiện Luật đã ghi chép để tưởng nhớ dịp Vượt Qua của dâng Do-thái khi rời đất Ai-cập. Các con đầu lòng của con người hay loài vật, được dâng lên cho Thiên Chúa. Trung thành với luật định, thánh Giuse và Đức Maria khi đủ 40 ngày, đã đem Hài Nhi Giêsu lên Giêrusalem tiến dâng cho Thiên Chúa.
Nơi Đền Thánh, ông già Simeon, một người công chính và đạo đức đã đón nhận Hài Nhi trong vòng tay. Ở đó cũng có bà ngôn sứ Anna cư ngụ trong đền thờ ra đón Chúa. Với sự soi sáng của của Thần Khí, đã ngợi khen Chúa: "Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: Vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Lạy Chúa, xin cho ánh sáng của Chúa chiếu tỏa trên khắp thế gian và trong lòng mọi người. Ơn Cứu Độ giải thoát chúng con khỏi những mê lầm và đưa dẫn chúng con vào con đường chính trực. Xin Chúa chúc lành cho chúng con.

TUẦN 4 MÙA THƯỜNG NIÊN
THỨ HAI
Mc. 5: 1-20


Người bị thần ô uế ám ra gặp Chúa Giêsu và van xin: Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có truyện gì đâu? Tôi van xin ông đừng hành hạ tôi. Người bị thần ô uế ám ngày đêm ở trong mồ mả và núi đồi, kêu la đau đớn. Họ là con người bị qủy ám. Họ không còn điều khiển được chính mình. Thần ô uế đã nhập vào họ và qủy hành xử theo ý muốn của nó.

Người bị ám sớm nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Họ biết Chúa Giêsu có uy quyền xua đuổi chúng ra khỏi con người. Thần ô uế cũng van xin Chúa đừng đuổi chúng ra khỏi miền. Chúa cho phép chúng nhập vào đàn heo và đàn heo đã lao mình xuống biển. Càng ngày chúng ta càng nhận biết quyền năng của Chúa không giới hạn. Không có quyền lực nào trên thế gian có thể áp đặt hay điều khiển Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn tự do trong suy nghĩ và hành động.

Chúa tỏ lộ thiên tính của Chúa qua từng biến cố. Con người hoàn toàn giơ tay đầu hàng quyền lực của sự dữ và Satan. Con người phải nhờ vào quyền phép và ơn trợ lực của Chúa để đối đầu với ma qủy. Có lần các tông đồ thưa với Chúa rằng làm sao chúng con không xua trừ được một số ma qủy. Chúa dạy rằng: Muốn khử trừ loại qủy đó, chúng con phải ăn chay và cầu nguyện. Chỉ có thể xua trừ ma qủy khi biết kết hợp với Chúa.

THỨ BA
Mc. 5: 21-43


Bài phúc âm tường thuật hai phép lạ xảy ra. Ông trưởng hội đường đến xin Chúa đặt tay trên đứa bé gái đang hấp hối để cứu nó. Trên đường đi đến nhà ông, xảy ra có một bà bị bệnh loạn huyết chen lẫn vào đám đông và cố ý chạm vào áo của Chúa. Bà nghĩ rằng nếu mình chạm được vào tà áo của Ngài, bà tin chắc bà sẽ được khỏi.

Chúa chữa bệnh hoàn toàn miễn phí nhưng Chúa cần biết tình trạng tâm hồn của mỗi người. Không ai có thể lừa dối Chúa. Người đàn bà bị bệnh thật tội nghiệp. Bà ta ngại thưa với Chúa về bệnh tình của mình. Bà muốn âm thầm xin ơn Chúa chữa lành. Bà có đức tin thật mãnh liệt. Cho dù bà chỉ sờ vào gấu áo, Chúa cũng biết được điều gì đang xảy ra nơi Chúa và nơi bà. Chúa hỏi: Ai đã động đến Ta. Không thể dấu được, bà đã lộ diện và tuyên xưng đức tin.

Chúa tiếp tục đến nhà ông Giairô. Đến nơi, Chúa thấy mọi người đang thương khóc đứa bé vừa qua đời. Chúa mời họ ra khỏi và Chúa đã cầm tay đứa bé gái nói rằng : Talitha, qum. Nghĩa là: Này em bé, Ta truyền cho con, hãy chỗi dậy. Chứng kiến sự lạ, mọi người đều sửng sốt kinh ngạc.

Hầu hết những người có bệnh tật đã tìm đến với Chúa. Họ xin Chúa chữa và Chúa không từ chối một ai. Chúa tỏ lòng xót thương với mọi người đau khổ. Chúng ta cũng hãy chạy đến với Chúa trong mọi cơn gian truân phiền não của cuộc sống.

THỨ TƯ
Mc. 6: 1-6


Chúa Giêsu trở về quê nhà, đến ngày Sabát, Ngài vào hội đường giảng dạy. Có nhiều người đồng hương lên tiếng có vẻ thách thức Chúa. Họ nói : Bởi đâu ông này được như vậy? Ông nhận được sự khôn ngoan nào thế? Những phép lạ ông thực hiện là gì? Rồi họ kể lể về nguồn gốc gia đình và họ hàng của Chúa. Họ ra mặt khinh dể Chúa.

Theo sự quan sát thường tình, những người đồng hương của Chúa họ nghĩ rằng họ biết tất cả về gia thế và con người của Chúa. Họ chỉ căn cứ vào những điều đã thấy và đã quan sát để đi đến kết luận lầm lạc. Họ không mở tâm trí để đón nhận một sự thật cao siêu nơi con người của Chúa. Chúa đã cho họ những dấu chỉ nhưng họ đã không đọc được ý nghĩa của những dấu lạ Chúa đã làm.

Chúa Giêsu biết lòng họ cứng cỏi. Chúa hiểu biết họ đang muốn điều gì. Họ chỉ muốn Chúa biểu diễn một vài sự lạ để thỏa mãn tính tò mò của họ. Họ không muốn nghe giáo lý mới và không muốn thay đổi cuộc sống. Thực ra, họ cũng không hề biết về nguồn gốc của Chúa. Họ chỉ biết gia đình thánh gia đến vùng đó sinh sống và con trẻ Giêsu đã lớn lên theo ngày tháng. Chúa nói: Tiên tri mà có bị khinh bỉ chỉ ở quê hương, nơi họ hàng và nhà mình.

Lạy Chúa, Chúa biết rõ tâm tư của chúng con. Xin Chúa mở cửa tâm hồn để chúng con biết lãnh nhận hồng ân của Chúa.

THỨ NĂM
Mc. 6: 7-13


Chúa sai mười hai tông đồ đi ra rao giảng từng hai người một. Chúa căn dặn: Khi đi đường, đừng mang gì ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi và đừng mặc hai áo. Hành trang của các tông đồ là lòng cậy tin và phó thác. Các ngài ra đi với quyền được trao ban trên các thần ô uế.

Chúa sai các tông đồ ra đi rao giảng với hai bàn tay trắng. Các ngài không nhuốm mùi vật chất, tiền bạc, không lo đến của ăn thức uống. Các ngài cậy dựa vào lòng tốt của mọi người. Nhìn lại chúng ta, có lẽ chúng ta không dám ra đi như thế. Lúc nào chúng ta cũng cần có chút tiền rủng rỉnh vì lỡ xe lỡ đò. Chúng ta lệ thuộc của cải như là chỗ dựa cần có trong hành trình. Các nhà truyền giáo cũng đã học được những bài học qúy giá này. Có rất nhiều nhà truyền giáo đã ra đi với bàn tay trắng đến với dân ngoại và hành trang của họ là trái tim yêu thương. Họ đã gặt hái được nhiều kết qủa.

Chúa biết trước rằng không phải tất cả mọi người đều vui mừng đón nhận tin mừng. Sẽ có những người từ chối đón tiếp và không nghe lời các tông đồ. Chúa nói với các tông đồ: Các con cứ ra khỏi và phủi bụi chân làm chứng tố cáo họ. Các tông đồ ra đi như để tập sự làm nhân chứng. Các ông đã góp phần loan truyền tin mừng cho nhiều người. Lạy Chúa, xin giúp chúng con trở thành những tông đồ nhiệt thành để đem ơn cứu độ cho mọi người.

THỨ SÁU
Mc. 6: 14-29


Người đi trong đêm tối thì sợ ánh sáng. Người làm điều sai trái và dối trá thì sợ sự thật. Họ sẽ tìm cách xua đuổi ánh sáng và tiêu diệt sự thật. Nhân dịp sinh nhật Hêrôđê, ông đãi tiệc các đại thần và các bậc vị vọng trong dân. Xảy ra, con gái của Hêrođia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng vua. Vua nói với cô: Con muốn gì, cứ xin, dù là nửa nước, trẫm cũng ban cho. Con người thật cao ngạo. Những lúc nhất hứng phát biểu những điều không lường được hậu qủa. Lời phát biểu của ông thật là vô trách nhiệm.

Cô gái không biết nên xin gì, vội chạy ra hỏi mẹ. Mẹ cô nói : Xin đầu Gioan Tẩy Giả. Thật là độc ác. Bà ta đã chờ cơ hội để trả thù. Chính Gioan đã lên tiếng căn ngăn việc vua cưới vợ của anh mình là không hợp lẽ đạo. Người đàn bà cảm thấy áy náy trong lòng, sống không vui khi lời của Gioan cứ văng vẳng bên tai. Bà nói với con gái xin đầu của Gioan. Hêrôđê đã lỡ hứa với cô gái và không muốn mất uy tín với các đại thần. Ông ra lệnh chém đầu Gioan. Dùng quyền lực để áp chế và giết hại người vô căn cớ. Hêrôđê là một ông vua tồi.

Sự nguy hiểm của những lời hứa hay phát biểu khi cao hứng trong bàn tiệc là một bài học muôn đời không thể quên. Có biết bao người đã thất cơ vì những lời hứa hão khi men say đã ngà ngà. Nhiều khi lời hứa làm hại gia đình, hại dân và hại nước. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tôn trọng sự thật và cẩn trọng trong mọi lời nói.

THỨ BẢY
Mc. 6: 30-34


Các tông đồ tụ họp lại bên Chúa và thuật lại mọi việc các ông đã làm. Chúa Giêsu nói với các ông: Các con hãy vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút. Thái độ của Chúa rất thân thương. Chúa biết các tông đồ đã mệt mỏi cần lấy lại sức. Có thể các ông đi đường xa mệt mỏi và cũng có thể các ông đã nhiệt tình rao giảng và chữa bệnh không ngừng nghỉ. Xưa rầy các ông quen lao động chân tay. Nay đi theo Chúa, các ông phải rao giảng, chữa bệnh lo việc linh hồn. Có lẽ các tông đồ trong khi đi tập thử cũng còn nhiều lấn cấn.

Chúa Giêsu đã đối xử rất đại lượng với các ông. Chúa không đãi tiệc ăn mừng xum họp nhưng Chúa lại khuyên các ông vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi. Nơi vắng vẻ sẽ làm cho tâm hồn thanh thản và bình an. Chúa Giêsu, sau một ngày làm việc, khi đêm về hay sáng sớm, Ngài cũng thường lên núi một mình để cầu nguyện và giữ tâm hồn thanh tịnh.

Cuộc sống cứ ồn ào và các nhu cầu của con người chẳng bao giờ giải quyết cho xong. Dân chúng cứ tiếp tục đến xin ơn và nghe giảng. Chúa và các tông đồ tìm nơi vắng vẻ và hẻo lánh để nghỉ ngơi nhưng cũng không xong. Họ cứ tiếp tục chạy đến với Chúa bằng mọi cách. Chúa thấy đám đông dân chúng thì động lòng thương xót họ vì họ như chiên không người chăn dắt. Chúa tiếp tục dạy dỗ họ nhiều điều. Lạy Chúa, Chúa phán rằng: Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến Chúa sẽ nâng đỡ bổ sức cho. Chúng con chạy đến với Chúa.