1. Bệnh viêm phổi bùng phát trên khắp Trung Quốc

Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “Bản đồ cho thấy sự lây lan của đợt bùng phát bệnh viêm phổi trên khắp Trung Quốc.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Phượng.

Các khu vực phía bắc Trung Quốc đang chứng kiến sự gia tăng đáng kể các bệnh về đường hô hấp, đặc biệt là ở trẻ em.

Chính quyền trung ương và địa phương của Trung Quốc không công bố số ca nhiễm hoặc dữ liệu khác về các đợt bùng phát.

Tin tức CCTV của nhà nước đưa tin rằng tại thủ đô Bắc Kinh, các bệnh viện đã hoạt động hết công suất trong hơn một tháng để đối phó với tình trạng nhiễm trùng tăng đột biến. Bệnh viện Nhi Bắc Kinh tiết lộ khoa nội của họ đang tiếp nhận hơn 7.000 ca mỗi ngày. Bệnh viện Nhi Kinh Đô của Bắc Kinh nhấn mạnh sự gia tăng đáng kể số ca nhiễm trùng viêm phổi do mycoplasma, gây áp lực to lớn lên nguồn lực y tế, với 90% trong số 300 giường của bệnh viện đã được lấp đầy và hàng dài người xếp hàng bên ngoài.

Các khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong bối cảnh bùng phát Mycoplasma bao gồm Bắc Kinh, vùng lân cận Thiên Tân và tỉnh phía đông bắc Liêu Ninh. Ba nơi này hiện là những khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của làn sóng bệnh hô hấp đang hoành hành ở Trung Quốc. Nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn kín tiếng về số ca nhiễm bệnh.

Tình hình đặc biệt nghiêm trọng ở Thiên Tân, một thành phố ven biển phía đông Bắc Kinh. Theo một tờ báo địa phương, Bệnh viện Nhi Thiên Tân đã lập kỷ lục vào ngày 18/11, với 13.171 bệnh nhân trẻ tuổi đến khám ngoại trú và cấp cứu chỉ trong một ngày.

Cuộc khủng hoảng vượt ra ngoài những thành phố này. Tỉnh Liêu Ninh, nằm cách thủ đô khoảng 400 dặm về phía đông bắc, cũng đang phải vật lộn với số ca nhiễm cao. Đài FTV News của Đài Loan dẫn lời một nhân viên tại Bệnh viện Nhi đồng Đại Liên cho biết chỉ có khoa cấp cứu còn hoạt động, còn các phòng khám ngoại trú không còn hoạt động.

Theo tập đoàn truyền thông Tài Tân của Trung Quốc, Thượng Hải, thành phố lớn nhất Trung Quốc, cùng với thành phố trung tâm Vũ Hán, nơi ban đầu xác định được SARS-CoV-2 và thành phố Quảng Châu phía nam, đều chứng kiến số ca nhiễm mycoplasma gia tăng trong những tháng gần đây.

NOWnews có trụ sở tại Đài Loan trích dẫn các báo cáo địa phương cho biết khu tự trị phía nam Quảng Tây cũng đang chứng kiến các bệnh viện quá tải.

Những điểm yếu của Trung Quốc khi phải đối mặt với tổng công suất bệnh viện đã được ghi nhận trong cuộc chiến của nước này với tình trạng lây nhiễm Covid-19 lan rộng trong năm nay. Sau khi Bắc Kinh đột ngột bãi bỏ mọi biện pháp kiểm soát chống vi-rút vào tháng 12, những vấn đề đã quay trở lại.

Ủy ban Y tế Quốc gia Trung Quốc, vào ngày 13 tháng 11, cho rằng sự gia tăng các trường hợp viêm phổi là do việc nới lỏng các hạn chế liên quan đến COVID-19 vào đầu năm, điều này có thể tạo điều kiện cho sự lây lan của các bệnh về đường hô hấp khác nhau sau một thời gian dài giảm tiếp xúc với hệ miễn dịch của người dân.

Tổ chức Y tế Thế giới hôm qua cho biết, cơ quan y tế Trung Quốc đã cho biết số lượt đến bệnh viện tăng đột biến ở các khu vực phía bắc không phải do một loại vi rút mới mà do các bệnh theo mùa thông thường, bao gồm bệnh viêm phổi do mycoplasma nhẹ thường gặp hoặc viêm phổi đi bộ, vi rút hợp bào hô hấp, adenovirus và cúm.

Sự miễn cưỡng rõ ràng của Bắc Kinh trong việc công khai thông tin đã dẫn đến sự so sánh giữa sự gia tăng bệnh hô hấp hiện nay và giai đoạn đầu của đợt bùng phát COVID.

WHO đã yêu cầu dữ liệu chi tiết từ Trung Quốc về các cụm lây nhiễm này, bao gồm thông tin dịch tễ học, lâm sàng và kết quả xét nghiệm. Cơ quan toàn cầu cho biết họ không khuyến nghị bất kỳ biện pháp cụ thể nào đối với bất kỳ ai đi du lịch đến Trung Quốc vào thời điểm này. WHO cũng lưu ý rằng nó khuyên không nên hạn chế đi lại hoặc thương mại dựa trên thông tin hiện tại.

2. Đức Tổng Giám Mục Fisher mong cải tiến phương pháp Thượng Hội đồng Giám mục

Đức Cha Anthony Fisher, Tổng giám mục Giáo phận Sydney, là giáo phận lớn nhất ở Úc châu, cầu mong trong khóa họp tháng Mười năm tới, Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới sẽ cải tiến phương pháp thảo luận.

Trong thư mục vụ gửi các tín hữu trong Tổng giáo phận để thuật lại khóa họp hồi tháng Mười năm nay, Đức Tổng Giám Mục Fisher cho biết trong số các Thượng Hội đồng Giám mục mà ngài đã tham dự, khóa vừa qua của Thượng Hội đồng Giám mục XVI, ở Roma là khóa tốt đẹp nhất xét về mặt nhân bản, nhưng đó là khóa họp yếu nhất về thần học. Theo ý Đức Tổng Giám Mục, những thành quả yếu kém về thần học của Thượng Hội đồng Giám mục này đến từ phương pháp thảo luận được áp dụng, phương pháp gọi là “chuyện trò trong Thánh Linh”, trong đó không có chỗ cho một cuộc thảo luận nghiêm chỉnh. Chỉ có hai phần ba tham dự viên có cơ hội nói. Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Fisher đề nghị một phương pháp để thảo luận trong khóa họp năm tới.

Đức Tổng Giám Mục Fisher cũng nhắc lại rằng phương pháp gọi là “chuyện trò trong Thánh Linh” đã được các cha Dòng Tên Canada đề ra cách đây mấy chục năm. Phương pháp này nhấn mạnh sự lắng nghe và hiểu nhau trước khi giải quyết một vấn đề nào. Nó giúp hạ nhiệt độ cuộc thảo luận về các vấn đề gây tranh luận, nhưng nó không mang lại sự sáng sủa và rõ ràng về thần học. Trong khi đó, một nền thần học vững chắc luôn luôn phải đặt câu hỏi: điều này có vẻ là tốt, nhưng nó có đúng sự thật không?

Đức Tổng Giám Mục Fisher trích dẫn ý kiến của cha Anthony Lusvardi, Dòng Tên, thuộc Đại học Grêgôriô ở Roma. Cha cũng nhắc lại những hướng dẫn rõ ràng của thánh Y Nhã, người đã nói rằng không phải mọi sự đều có thể là đề tài của sự phân định. Nếu một điều là tội, thì bạn không phân định xem có phải là tội hay không. Nếu bạn cam kết về điều gì, bạn không phân định xem có phải trung thành với nó hay không. Bất kỳ điều gì xảy đến cho bạn trái ngược với điều đã được Chúa Giêsu Kitô mạc khải, thì đó không phải là việc làm của Chúa Thánh Linh.”

Một trong những đề tài cơ bản của Thượng Hội đồng Giám mục là tương quan giữa tình yêu và sự thật. Giáo hội phải cởi mở đối với mọi người, nhưng Giáo hội cũng kêu gọi hoán cải: “hãy đi và đừng phạm tội nữa!” Chúng ta phải nhìn nhận thực tại tội lỗi và hậu quả tàn hại của nó, ý thức về sự cần phải tìm kiếm lòng thương xót vô biên và ơn tha thứ của Thiên Chúa. Tiêu chuẩn căn bản cho mọi đề nghị của Thượng Hội đồng Giám mục là sự thánh thiện. Nhờ ơn Chúa sẽ tạo nên nhiều tông đồ và mục tử, những người loan báo Tin mừng, các thừa sai, đan sĩ và thầy dạy, các vị tử đạo và thần bí gia, những người nam nữ thánh thiện mà Giáo Hội ta và thế giới rất cần.

3. Holodomor là gì?

Hôm thứ Bẩy 25 tháng 11, Ukraine đã tưởng niệm các nạn nhân Holodomor. Ngày tưởng niệm Holodomor được đánh dấu hàng năm vào ngày thứ Bảy thứ tư của tháng 11 theo các sắc lệnh của tổng thống đưa ra năm 1998 và 2007.

Năm ngoái, bất chấp các chỉ trích dữ đội của các phương tiện truyền thông Nga, Đức Thánh Cha và hai vị Hồng Y đã cử hành lễ kỷ niệm nạn đói diệt chủng do Stalin gây ra ở Ukraine từ năm 1932 đến năm 1933, khiến 7 triệu người Ukraine thiệt mạng. Năm nay, ngài cũng có ý định làm như thế nhưng giờ chót ngài bị cảm lạnh đến mức phải vào nhà thương nên, Đức Hồng Y Michael Czerny đã cử hành thay cho ngài vào hôm Thứ Bẩy, 25 Tháng Mười Một.

Trong diễn từ vào dịp này năm ngoái, Đức Thánh Cha nói:

“Chúng ta hãy tưởng nhớ Ukraine đã chịu đựng lâu dài. Thứ bảy này đánh dấu kỷ niệm cuộc diệt chủng khủng khiếp Holodomor trong hai năm 1932-1933 do Stalin gây ra một cách giả tạo. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các nạn nhân của nạn diệt chủng này và cầu nguyện cho tất cả người Ukraine, trẻ em, phụ nữ và người già, trẻ sơ sinh, những người ngày nay đang phải chịu sự tử vì đạo của quân xâm lược”

Để làm rõ lý do tại sao Đức Thánh Cha dùng đến từ “diệt chủng” là từ ngữ rất nặng khi đề cập đến Holodomor, Túy Vân xin tóm tắt một vài ý chính từ cuốn sách “Abridged History Of Ukraine”, nghĩa là “Lịch Sử Ukraine Ngắn Gọn” của Andrew Gregovich, giáo sư sử học Ukraine.

Trong con mắt người Nga, người Ukraine là những người ngây thơ dễ bị lừa. Lênin thường phong tặng cho các cá nhân trong đảng cộng sản Ukraine, gọi tắt là CPU, những danh hiệu “anh hùng” và đặt vào tay họ nhiều chính sách mà cộng sản Nga muốn thăm dò thực nghiệm trên đất Ukraine trước khi áp dụng đại trà ở Nga.

Thí nghiệm thứ nhất xảy ra cuối năm 1920: Trong một sớm, một chiều tất cả xí nghiệp tại Ukraine bị quốc hữu hóa và tất cả sản phẩm nông nghiệp đều bị thu mua với giá ăn cướp của dân. Chỉ với hai chính sách này thôi đã gây ra nạn đói kéo dài trong hai năm 1921 và 1922 cướp đi hơn một triệu sinh mạng dân Ukraine. Nga lại lật đật sửa sai bằng cách trả lại cho tư nhân các xí nghiệp và cho nông dân buôn bán sản phẩm do họ làm ra.

Ngày 30/12/1922, Liên Bang Sô Viết ra đời bao gồm Nga, Ukraine, Belarus, Georgia, Armenia, Azerbaidzhan. Các nước khác dần dần được sáp nhập vào sau đó. Trong thời kỳ đầu của Liên Bang Sô Viết, để người dân không bị “sốc” và để đánh lừa những người theo chủ nghĩa quốc gia, Nga đã để cho các nước tương đối dễ thở về vấn đề văn hóa. Trong giai đoạn này, đâu đâu cũng nghe nói “Ukraine hóa” như Ukraine hóa giáo dục, Ukraine hóa kiến trúc, văn hóa... và cả Ukraine hóa Chính Thống Giáo.

Tuy nhiên, “ngày vui ngắn chẳng đầy gang”, năm 1925, Nga cử Lazar Kaganovich làm bí thư CPU để uốn dân Ukraine quay trở lại con đường đồng hóa với Nga. Bộ trưởng giáo dục Oleksander Shumskyi, bị kết án là “tên theo chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi – mất lập trường quốc tế vô sản” bị cho đi học tập cải tạo mút mùa ở Siberia. Khwylovyi, nhân vật số 2 trong guồng máy lãnh đạo đảng, văn hào, tác giả cuốn “Away from Mạc Tư Khoa – Thoát khỏi Mạc Tư Khoa” bị “nghiêm khắc cảnh cáo”.

Năm 1928, Stalin lên nắm quyền. Kaganovich bị gọi về Mạc Tư Khoa và Stanislav Kosior được cử làm tổng bí thư CPU. Stalin lại thí nghiệm chính sách kinh tế ngũ niên tại Ukraine bắt đầu bằng việc đấu tố “kuklaks” nghĩa là địa chủ, trí thức và các nhà tu hành, đặc biệt những giáo sĩ tham gia Ukraine hóa Chính Thống Giáo. Hàng triệu gia đình bị giết hoặc đày đi Siberia. Văn hào cộng sản Khwylovyi từng một thời ca tụng chế độ, sáng mắt ra, uống thuốc độc tự tử chết. Nông thôn trở thành nơi tang tóc với hàng loạt những vụ xử tử những kuklaks. Trong bối cảnh đó, lòng dân không yên tâm sản xuất cộng với hàng loạt những chỉ thị ngu xuẩn và vô lý đã dẫn đến mất mùa ở một số nơi. Tuy nhiên, Ukraine là vựa bánh mì của Âu Châu, nên việc mất mùa ở một số nơi chắc chắn không phải là nguyên nhân dẫn đến nạn đói. Thực vậy, nạn đói 1932-1933 cướp đi sinh mạng 7 triệu người Ukraine không phải do thiếu lương thực nhưng chính vì cộng sản đã thu gom tất cả nông sản và chứa vào những kho lớn do quân đội canh gác. Dân chúng bị bỏ cho chết đói như một phần của cuộc thanh trừng và diệt chủng kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại. Sau nạn đói, Stalin lập tức lùa dân Nga sang để tái phối trí lại dân số trên các ruộng vườn hoang tàn của Ukraine. Ðây cũng là một phần trong kế sách thống trị Ukraine về lâu về dài. Năm 1933, Mykola Skrypnyk, lãnh tụ tiền phong của cộng sản Ukraine, sáng mắt ra, tự tử chết.

Sau cái chết của Mykola Skrypnyk, nhiều đảng viên cộng sản Ukraine bắt đầu bừng tỉnh và tỏ ý chống lại việc thí nghiệm các chính sách cộng sản trên đất Ukraine. Tuy nhiên, Stalin không để họ có thời cơ. Theo Vasyl Hryshko, trong cuộc thanh trừng từ 1936 đến 1938, 99 trong số 102 thành viên ủy ban trung ương đảng cộng sản Ukraine lần lượt bị hành quyết. Năm 1938, Nikita Krushchev với đa số đảng viên người Nga chính cống lên nắm quyền lãnh đạo CPU, tiếp tục các thí nghiệm điên rồ nhất của Nga trên đất Ukraine.

Trông người mà ngẫm đến ta. Chính đất nước Việt Nam của chúng ta cũng đã là nơi cho người Nga tiến hành các thí nghiệm về chính sách và vũ khí dẫn đến cuộc chiến huynh đệ tương tàn suốt 21 năm với các hậu quả kéo dài cho đến tận ngày hôm nay.