Các Giám Mục có thể đóng các cơ sờ này thay vì cúi đầu tuân theo lệnh ngừa thai

EDWARD Morrissey, The Fiscal Times, ngày 1 tháng ba 2012

Có lẽ Barack Obama giả định rằng các nhà lãnh đạo tôn giáo chỉ đơn thuần phản đối cho có lệ đối với sắc lệnh mới về việc các tổ chức tôn giáo phải cung cấp thuốc ngừa thai miễn phí, ngay cả khi việc ngừa thai, các thuốc có khả năng phá thai, và triệt sản vi phạm các giáo lý nòng cốt của đức tin của họ. Tổng thống có thể có lý do để mong rằng các Giám Mục Công Giáo sẽ không đấu tranh một cách mạnh mẽ như thế, khi kể đến việc cá ngài ủng hộ Đạo Luật Bảo Vệ Bệnh Nhân và Chăm Sóc Sức Khỏe với Giá Phải Chăng (PPACA), thường được gọi là ObamaCare, mà từ đó Bộ Y tế và Dịch Vụ Nhân Sinh lấy quyền ra lệnh cho các chủ nhân rằng bảo hiểm của họ phải bao gồm những gì.

Obama đã được sự hỗ trợ đáng kể từ người Công Giáo, là nhóm tôn giáo lớn nhất trong nước, trong việc thắng phiếu của Công Giáo đến chín điểm trong năm 2008 và dựa vào sự hỗ trợ của họ để thông qua PPACA. Tuy nhiên, các Giám Mục Công Giáo đã đoàn kết chống lại chính quyền Obama sau việc áp đặt sắc lệnh này, cùng với các nhà lãnh đạo của giáo phái và tôn giáo khác. Mục Sư Richard Land, người lãnh đạo tổ chức Southern Baptist lớn nhất ở Mỹ, tuyên bố đoàn kết với người Công giáo và cam kết đi tù chứ không tuân theo sắc lệnh của Bộ Y Tế.

Các nhà lãnh đạo Tin Lành, Chuck Colson và Timothy George, đã tuyên bố đây là thời điểm mà các tổ chức Kitô giáo phải lựa chọn giữa Caesar và Thiên Chúa. Nhà thần học và học giả Do Thái Meir Soloveichik đã ký một tuyên bố chung trong The Wall Street Journal để phản đối cùng với Mục Sư Colson và ĐHY Donald Wuerl - một tuyên bố ghi nhận rằng những câu chuyện “liên quan đến một người Công giáo, một người Tin Lành và một người Do Thái thường được kết thúc một cách khôi hài", nhưng mà họ coi việc này là không phải là vấn đề hài hước.

Lời tuyên bố mạnh mẽ nhất để phản đối được đưa ra trong tuần này là từ quê của tổng thống Obama, Chicago. Đức Hồng Y Francis George đã gửi một sứ điệp cho giáo dân trong tổng giáo phận rằng Hội Thánh Công Giáo thà đóng cửa các tổ chức khác nhau của mình trong cộng đồng chứ không vi phạm giáo lý nòng cốt của Thông Điệp Humanae Vitae là cung cấp các biện pháp ngừa thai, triệt sản, và các thuốc có khả năng phá thai cho nhân viên của mình, dù miễn phí hay dưới hình thức khác. Trong một bức thư dài, ĐHY George đã nhận xét rằng các Giám Mục Công giáo đang đấu tranh cho một sự tách biệt giữa giáo hội và nhà nước, và rằng sắc lệnh này đại diện cho một sự kiêu căng vô tiền khoáng hậu trong nỗ lực của Obama là cho chính phủ có quyền xác định ranh giới giữa đức tin và việc làm.

ĐHY George đã viết "Tự do tôn giáo còn hơn tự do thờ phượng" và lưu ý rằng ngay cả Liên Bang Xô Viết cũng cho phép mọi người đi nhà thờ, "nếu bạn có thể tìm thấy một." ĐHY George lập luận rằng sắc lệnh của Bộ Y tế bắt chước kinh nghiệm của Liên Xô khi tuyên bố rằng chỉ có những nơi thờ phượng mới được tự do thực thi tôn giáo như được Hiến pháp bảo vệ, chứ "các trường học, các nhà ấn loát tôn giáo, các tổ chức y tế, các tổ chức từ thiện, các thừa tác phục vụ công lý và các việc thương xót, là những điều phát sinh tự nhiên từ một đức tin sống động," thì không được. ĐHY George đã kết luận rằng nếu chính quyền Obama khăng khăng áp đặt sắc lệnh của họ trên các tổ chức Công Giáo, thì "chỉ hai Mùa Chay nữa" danh sách các bệnh viện Công Giáo và các tổ chức chăm sóc y tế của họ sẽ trống trơn.

Điều này có nghĩa gì đối với nước Hoa Kỳ, và sắc lệnh cải tổ y tế của Obama? Nói một cách đơn giản, nó sẽ tạo ra một thảm họa cho việc cung cấp chăm sóc y tế trong nước, và leo thang nhanh chóng phí tổn công cộng về việc chăm sóc sức khỏe.

Hội Thánh Công Giáo có lẽ có một hệ thống cung cấp việc chăm sóc sức khỏe tư nhân lớn nhất trong nước. Nó điều hành 12,6% các bệnh viện ở Mỹ, theo Hiệp Hội Y Tế Công Giáo Mỹ, chiếm 15,6% tất cả các bệnh nhân nhập viện và 14,5% tất cả các chi phí bệnh viện, chi phí tổng cộng cho các bệnh viện Công Giáo trong năm 2010 là $ 98,6 tỷ đôla. Các bệnh viện này phục vụ ai? Bệnh viện Công Giáo chăm sóc nhiều hơn so với số lượng mà Medicare (16,6%) và Medicaid (13,65) thải ra, có nghĩa là hơn một trong sáu người cao niên và bệnh nhân khuyết tật được chăm sóc từ các bệnh viện này, và cũng như hơn một trong tám bệnh nhân có thu nhập thấp. Gần một phần ba (32%) các bệnh viện này được đặt ở các khu vực nông thôn, nơi mà bệnh nhân thường có rất ít lựa chọn khác cho việc chăm sóc sức khỏe.

So với những bệnh viện cạnh tranh, các bệnh viện Công giáo đóng vai trò hàng đầu trong việc cung cấp những dịch vụ không có lời mấy cho các bệnh nhân. Họ đứng hàng đầu trong lãnh vực dò tìm ung thư vú, các chương trình dinh dưỡng, chấn thương, lão khoa dịch vụ, và công tác xã hội. Trong hầu hết các lãnh vực này, những cơ quan vô lợi nhuận khác không thể so sánh được, nhưng những bệnh viện điều hành bởi chính quyền tiểu bang và địa phương không thể nào theo kịp. Trong trường hợp bệnh nhân gặp khó khăn trong việc trả tiền cho việc chăm sóc, các bệnh viện Công giáo sẽ bao thầu nhiều chi phí hơn. Thí dụ, Cơ Quan Phục Vụ Y Tế Công Giáo ở Florida cung cấp dịch vụ chăm sóc miễn phí cho các gia đình dưới 200% mức nghèo của liên bang, nhận việc bồi hoàn của Medicaid như thanh toán đầy đủ, và đặt giá tối đa là 20% số lợi tức gia đình cho các gia đình nằm trong khoảng 200% và 400% mức độ nghèo theo liên bang.

Hãy tưởng tượng nếu các bệnh viện này đóng cửa thì ảnh hưởng sẽ ra sao, không kể đến việc trên 400 trung tâm y tế khác và 1.500 các nhà chuyên môn mà Hội Thánh Công Giáo điều hành như là một phần của sứ vụ của họ cũng sẽ biến mất. Vì các cấu trúc kinh tế của các bệnh viện này, không có ai sẽ vội vàng để mua chúng. Một trong sáu bệnh nhân trong hệ thống hiện tại sẽ phải tranh nhau dịch vụ trong hệ thống còn lại, trong đó sẽ phải tiêu gần $100 tỷ đôla chi phí mỗi năm để điều trị. Hơn 120.000 giường sẽ biến mất từ một hệ thống đã bị căng thẳng.

Các gia đình nghèo và tầng lớp lao động đang nhận được sự hỗ trợ từ các nhà hảo tâm Công Giáo sẽ phải trả nhiều tiền hơn cho việc chăm sóc sức khỏe của họ so với hệ thống hiện hành. Các bệnh nhân ở nông thôn sẽ phải đi xa hơn để được chăm sóc y tế, và các dịch vụ như công tác xã hội và tìm dò ung thư vú sẽ rơi vào tay của các tổ chức ít hiệu quả hơn của Chính phủ. Điều đó sẽ không chỉ ảnh hưởng đến các bệnh nhân nghèo và thuộc tầng lớp lao động, nhưng sẽ tạo ra nhiều thời gian chờ đợi dài hơn cho tất cả mọi người khác trong hệ thống. Cuối cùng, trênnửa triệu người làm việc cho các bệnh viện Công Giáo giờ đây sẽ bị mất việc gần như ngay lập tức, điềuđó sẽ có một ảnh hưởng lớn trên nền kinh tế cũng như nghành chăm sóc sức khỏe.

Một số người có thể nghi ngờ rằng các Giám Mục sẽ để cho loại tàn phá và gián đoạn này xảy ra, và có lẽ Tổng thống Obama tin rằng ĐHY George và Hội đồng Giám Mục Công Giáo đang chơi trò lừa dối. Tuy nhiên, Obama có thể đọc Thánh Ignatiô Loyola, người sáng lập dòng Tên, cùng Nguyên lý và Nền tảng của đức tin, là những điều cho người Công Giáo biết ưu tiên của việc cứu độ. Nhiệm vụ đầu tiên của con người, theo Thánh Ignatius, là phụng sự Thiên Chúa và “cứu linh hồn mình," còn "những thứ khác trên trần gian" chỉ được sử dụng khi chúng phục vụ mục đích ấy. Khi chúng trở thành một trở ngại cho ơn cứu độ, Thánh Ignatius cảnh báo rằng "từ bỏ chúng."

Nếu Obama nhất định buộc Hội thánh Công Giáo phải tài trợ và tạo điều kiện thuận lợi để người ta có thể có các sản phẩm và dịch vụ mà họ tin là nguy hiểm rằng linh hồn của chính họ và của những người khác, các Giám Mục đơn thuần chỉ cần ngưng thuê nhân viên trong các tổ chức tôn giáo này - và một khi những cánh cửa ấy đã đóng, thì chúng sẽ không bao giờ có thể mở trở lại.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ từ http://www.thefiscaltimes.com/Columns/2012/03/01/Obama-Risks-$100-Billion-if-Catholic-Hospitals-Close.aspx#page1