Thập hình - Thập Giá
1. Thập hình - biểu tượng sự phán xét: Tại Châu Phi, thập hình mang những nét đơn sơ và thêm những hoa văn hình lá sắn, cũng biểu trưng cho tổng thể vũ trụ, mang ý nghĩa về vũ trụ quan như các dòng văn hóa khác. Theo E. Mveng, hình thập ở người Bamoun còn có ý nghĩa: “biểu thị đường sống và đường chết, một hình ảnh về thân phận của con người”. Theo cách nói của Bantou, thì trục thẳng đứng của cây thập tự ấy nối kết với đất, nghĩa là nối với nơi cư trú của những người chết. tâm điểm của thập hình là nơi cư ngụ của Đấng Tối Thượng, ở bốn cánh là bốn vị thần siêu đẳng là trợ tá của Đấng Tối Thượng. Trục ngang có sự phân chia từ giao điểm, về phía Đông là thế giới của thần thiện, Phía Tây là thuộc thế giới thần ác. Nơi tâm điểm là ngã tư giải ngân hà, nơi mà các vong linh sau khi chết sẽ được phán xử, để rồi được chuyển qua trái hoặc qua phải (Tây hay Đông) tùy theo công đức của họ.
Là cây phán xét giữa thiện và ác nên trong lịch sử cũng đã dùng cây thập hình ấy là nơi treo tử tội. Lạm dụng quyền bính, con người loại trừ Đấng Tối Thượng, để thay quyền Đấng Tối Thượng, con người phán xét con người, mà gọi là thập giá hay có khi còn gọi là thập ác. Đó là dấu chứng của một bi kịch lịch sử đã rời xa tâm điểm của giao điểm trời và đất.
2. Chữ Thập Ngoặc: là một biểu tượng phổ biến và cổ xưa tại nhiều vùng từ Viễn Á tới Trung Mỹ, vượt qua Mông Cổ, Ấn Độ và Bắc Âu. Chữ thập ngoặc là sự biến thiên của hình chữ thập quay chung quanh một tâm cố định, nó biểu hiện tính chất tái sinh bất tận, phục hồi và tiến triển của sự sống đến vô biên.
Con người đã không hòan tòan dùng ý nghĩa của biểu tượng này. Con người loại trừ Thiên Chúa để rồi tự hành quyết lẫn nhau. Chữ thập ngoặc biến thành ý nghĩa biểu tượng của quyền lực thế tục, điều này cho biết tính chất biểu lộ quyền năng lịch sử từ thời Charlemagne cho đến Hitler. Chiều quay của chữ thập ngoặc là biểu lộ cách nhìn của từng cá nhân ứng dụng nó. Đối với Charlemagne, chiều quay theo chiều thuận của thiên văn hay vũ trụ nghĩa là ngược chiều quay đồng hồ, thì ý nghĩa của nó là gắn với một quyền lực siêu thực tại. Nếu chọn chiều thuận theo chiều kim đồng hồ như của Hitler là quy về độc tài cá nhân, là muốn bắt cả cái vô tận và cái thiêng vào trong cái nhất thời và phàm tục. Ước muốn bị phá vỡ và cái tự sát cuối cùng của Hitler là câu trả lời cho tham vọng điên cuồng của ông.
Lịch sử về quyền lực chọn theo chiều của Hitler, lịch sử đã không biết bao lần chứng kiến. Trong vụ án của Chúa Giêsu, một con người nhân danh công lý đã phủi tay trước trách nhiệm khi kết án chân lý, để rồi chính Philatô cũng ngu ngơ về điều mình kết án: “Chân Lý là gì?” (Ga 18, 38). Quyền lực là một đòn chí mạng cho người thao túng nó.
3. Thập hình và thập giá đời: Biểu hình của đau khổ. Đau khổ là một điều đáng tiếc không đáng có trong lịch sử con người, thế nhưng tội đã đi vào trong thế nhân, đau khổ là thực tại không thể né tránh.
Những tiếng ca thán trong đau khổ vẫn vang lên tới trời cao. Biết bao đau khổ của từng ngày: Tang chế - thất bại - thiên tai - bệnh tật, đau khổ nội tâm - đau khổ đến từ bạo lực - chuyên chế…Những tiếng kêu la, những lời ai óan, những đêm thức trắng, những ngày lam lũ, những thân phận tủi nhục, ngục tù. Hàng ngàn, hàng triệu cách đau khổ đang từng ngày dày xéo trên thân phận.
Đau khổ như một hiển nhiên khó chịu, con người có khi cam phận, có khi vùng chỗi dậy đi tìm nguyên nhân để mong thoát khỏi. phải chăng sự xích mích giữa các thần, hay những nhị nguyên để giải thích đau khổ. Thời lưu đày Babylon, người Do Thái có khi bị cám dỗ nghĩ rằng, Thiên Chúa của họ đã thua vị thần nào đó mạnh mẽ hơn. Thiên Chúa vẫn im lặng không lý giải. Người không tin vào Thiên Chúa nghĩ rằng: “Không có Thiên Chúa hiện diện” (Tv 10, 4), hoặc là “Không thể hiểu biết” (Tv 73, 11), và có người đã khuyên nhủ người khác “Hãy nguyền rủa Thượng Đế đi” (Gb 2, 9). Thiên Chúa vẫn im lặng! và sự im lặng của màu nhiệm Thập Giá.
Đau khổ từ đâu đến: Từ nguyên nhân thiên tai - từ nguyên nhân đổ vỡ các mối tương quan - từ các đối lực - Từ tội lỗi nguyên tổ. Không lý giải hết những nguyên nhân đau khổ, con người lại chứng kiến những cái chết của người công chính - những trẻ thơ - những người vô tội, để hoài nghi, trong thế gian này, công lý đã thất bại (Hab 1, 2 - 4; Mal 2, 17…)
Không lý giải được đau khổ, tiền nhân đã liệt nó vào trong mầu nhiệm. Chính vì là mầu nhiệm, không lý giải được nguyên nhân, tiền nhân lại đặt vào đó những ý nghĩa: Sự thanh luyện (Gr 9, 6), sự giáo dục (Đnl 8, 5), sự sửa phạt bởi lòng nhân lành (2Mac 6, 12 - 17; 7, 31 - 38). Từ những ý nghĩa tích cực của đau khổ người công chính nhận ra rằng: Đau khổ là một mạc khải về ý định của Thiên Chúa (Gb 42, 1-6), từ đó nhận ra sự thử thách của Thiên Chúa (Gr 15, 10 - 19).
Đỉnh điểm của ý nghĩa đau khổ là có giá trị cứu độ. Hình thành từ kinh nghiệm của những người công chính và tìm gặp trong một người mang lấy thân phận của “người tôi trung đau khổ” (Is 52), người tôi trung đau khổ ấy lại là một người vô tội, đó là điều shock nhất của lịch sử con người. Và từ đây, con người tìm thấy giá trị của những đau khổ, cũng từ đó con người hiến dâng mạng sống mình, chấp nhận đau khổ như của lễ, hòa mình với tội nhân để mang lấy tội lỗi của con người.
4. Thập Giá mang hình cứu đời: Hình tượng cây thập giá thấy nhiều trong hình ảnh thiên nhiên, như con người đứng giang tay giữa trời, cánh chim đang bay, ngôi sao nhìn từ dưới đất lên bầu trời, những tia sáng…Cây thập hình trong Kinh Thánh còn biểu hiện là cây đời (St 2, 9), là cây Minh Triết (Cn 3, 18), là gỗ đóng con tàu Noe, là cây gậy của Moise đấp đầu con rắn, là cây treo con rắn đồng giữa hoang mạc, sau này biểu tượng y khoa lấy hình cây thâp giá treo con rắn đồng diễn nghĩa.
Là cây đời với ý nghĩa mang lại sự sống là hình ảnh tiên báo cây Thánh Giá Cứu Chuộc sau này. Cây sự sống là biểu tượng thông dụng trong huyền thoại Mesopotamis, ở Sáng Thế Ký tường thuật trong vườn địa đàng có cây sự sống nguyên thủy mà trái của nó mang lại sự sống bất tử. (Stk 2, 9). Cũng trong đó, với cây sự sống, sự khôn ngoan giả dối của con người cũng dựng cho mình một cây hiểu biết điều lành và điều dữ, Sách Sáng Thế gọi là “Cây trái Cấm” St 2, 16), con người đã ăn nó và hậu quả là biết mình trần truồng. Sau khi con người ăn cây trái cấm, Thiên Chúa hứa ban cho họ một cây đời khác gọi là cây Kỳ diệu cung cấp cho con người thực phẩm và thuốc men (Ez 47, 12).
Cây sự sống là cây mang theo ý nghĩa tự nhiên là cây tái sinh, cây tái sinh theo mùa trút lá và mọc lá mới. Cây tái sinh theo tự nhiên là cây đâm rễ vào đất, mọc trên đất giữa trời và đất, ngọn luôn hướng về trời cao. Với ba phần của cây tái sinh, được diển tả cách thiết thực nhất điều liên quan đến bộ ba: Trời - Người - Đất, bộ ba trong gia đình biểu hiện Cha - Mẹ - Con, trong lịch sử biểu hiện bộ ba Không gian - Thời gian - Con người. Trên Trống Đồng Đông Sơn, bộ ba biểu hiện Chim - hươu - người. Các quan hệ với những chiều kích khác nhau, tái sinh có nghĩa là làm mới lại luôn mãi các mối tương quan. Trong bài giảng vào ngày Lễ Phục Sinh, Henry de Lubac đã gọi cây tái sinh tương đồng với cây Thánh Giá bằng những lời tán tụng: “Vật đỡ vững chắc của Tạo Hóa, mối liên kết của vạn vật, chỗ dựa cho cả trái đất và con người cư trú, sự đan thoa vũ trụ mang tất cả tính hỗn hợp của bản chất con người. Được an định bằng những chiếc đinh vô hình của Thánh Thần để tô điểm cho ý chí tối thượng; đỉnh đầu chạm trời, chân đạp đất và trong không gian ở giữa, ôm cả khí quyển bằng những cánh tay vô biên để đón nhận tất cả và làm mới lại tất cả”.
Là cây đời, cây này còn biểu trưng là Cây Nước Thiên Chúa, hình ảnh này không dùng lại biểu trưng của cây vũ trụ của Đông Phương mà thích ứng cây vũ trụ ấy biểu trưng cho cây tuyệt diệu: Đâm rễ xuống tận âm phủ, mà mọc vươn tới trời cao, tàn lá che khắp vũ trụ, mọi chim chóc và thú vật. Cây của lòng kiêu căng sẽ bị phá đổ (Ez 31, 1 - 9) để thay vào đó cây bám rễ từ lòng khiêm nhường, cành lá sẽ là cành lá cứu độ sum xuê (Mt 13, 31). Linh mục Varillon thì cho rằng bản chất cốt yếu của Thiên Chúa là sự Khiêm Nhường, vì Tình Yêu đích thực bao giờ cũng Khiêm Nhường. Khiêm nhừơng cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập Tự và đó cũng là màu nhiệm tự hạ mà Thánh Phaolô nói đến.
5. Cây sự chết và sự sống: Cây Thập giá mà ở trong đó biểu hiện cả hai chiều kích là cây khổ nạn và là cây cứu rỗi, hai chiều kich đối lập trong một cây, để rồi “per crucem ad lucem”, trở thành cây đặc biệt nhất của các loại cây. Cây thập giá có thể trở nên dấu chỉ của sự chúc dữ khi người ta dùng nó như một thập giá cho kẻ bị án tử, cây mang tới cái chết tủi nhục (Gios 8, 29). Trong thời gian xuất hành của dân Do Thái dấu hình chữ thập bằng máu chiên non bôi trên cửa là dấu chỉ mà sự chết không ập đến trong đêm tru diệt (Xh 12, 23). Tính biểu trưng cây sự chết được treo lên đó con rắn đồng lại trở thành cây mang sự sống, kết hợp hai yếu tố được phục hồi. Một yếu tố là dụng cụ xử tử, nghĩa là cây thập giá, một khác nữa là con rắn tượng trưng cho thần chết. Điều này muốn loan báo một ý nghĩa quan trọng: Sự Sống cuối cùng sẽ chiến thắng mọi sự dữ mà đỉnh cao của sự dữ là sự chết. Thần Tử bị đánh bại ngay trên phần đất của chúng: “Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?” (1Cor 15, 55). Tử thần bị đánh bại trên cây thập giá đời, người Kitô hữu cũng được mời gọi Hãy vác Thập Giá mình: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16, 24 - 25). Thập giá đời được đồng hóa với cuộc sống của Đức Giêsu, vác thập giá mình có nghĩa là rập khuôn đời sống của mình vào đời sống của Đức Giêsu.
(Còn tiếp)
1. Thập hình - biểu tượng sự phán xét: Tại Châu Phi, thập hình mang những nét đơn sơ và thêm những hoa văn hình lá sắn, cũng biểu trưng cho tổng thể vũ trụ, mang ý nghĩa về vũ trụ quan như các dòng văn hóa khác. Theo E. Mveng, hình thập ở người Bamoun còn có ý nghĩa: “biểu thị đường sống và đường chết, một hình ảnh về thân phận của con người”. Theo cách nói của Bantou, thì trục thẳng đứng của cây thập tự ấy nối kết với đất, nghĩa là nối với nơi cư trú của những người chết. tâm điểm của thập hình là nơi cư ngụ của Đấng Tối Thượng, ở bốn cánh là bốn vị thần siêu đẳng là trợ tá của Đấng Tối Thượng. Trục ngang có sự phân chia từ giao điểm, về phía Đông là thế giới của thần thiện, Phía Tây là thuộc thế giới thần ác. Nơi tâm điểm là ngã tư giải ngân hà, nơi mà các vong linh sau khi chết sẽ được phán xử, để rồi được chuyển qua trái hoặc qua phải (Tây hay Đông) tùy theo công đức của họ.
Là cây phán xét giữa thiện và ác nên trong lịch sử cũng đã dùng cây thập hình ấy là nơi treo tử tội. Lạm dụng quyền bính, con người loại trừ Đấng Tối Thượng, để thay quyền Đấng Tối Thượng, con người phán xét con người, mà gọi là thập giá hay có khi còn gọi là thập ác. Đó là dấu chứng của một bi kịch lịch sử đã rời xa tâm điểm của giao điểm trời và đất.
2. Chữ Thập Ngoặc: là một biểu tượng phổ biến và cổ xưa tại nhiều vùng từ Viễn Á tới Trung Mỹ, vượt qua Mông Cổ, Ấn Độ và Bắc Âu. Chữ thập ngoặc là sự biến thiên của hình chữ thập quay chung quanh một tâm cố định, nó biểu hiện tính chất tái sinh bất tận, phục hồi và tiến triển của sự sống đến vô biên.
Con người đã không hòan tòan dùng ý nghĩa của biểu tượng này. Con người loại trừ Thiên Chúa để rồi tự hành quyết lẫn nhau. Chữ thập ngoặc biến thành ý nghĩa biểu tượng của quyền lực thế tục, điều này cho biết tính chất biểu lộ quyền năng lịch sử từ thời Charlemagne cho đến Hitler. Chiều quay của chữ thập ngoặc là biểu lộ cách nhìn của từng cá nhân ứng dụng nó. Đối với Charlemagne, chiều quay theo chiều thuận của thiên văn hay vũ trụ nghĩa là ngược chiều quay đồng hồ, thì ý nghĩa của nó là gắn với một quyền lực siêu thực tại. Nếu chọn chiều thuận theo chiều kim đồng hồ như của Hitler là quy về độc tài cá nhân, là muốn bắt cả cái vô tận và cái thiêng vào trong cái nhất thời và phàm tục. Ước muốn bị phá vỡ và cái tự sát cuối cùng của Hitler là câu trả lời cho tham vọng điên cuồng của ông.
Lịch sử về quyền lực chọn theo chiều của Hitler, lịch sử đã không biết bao lần chứng kiến. Trong vụ án của Chúa Giêsu, một con người nhân danh công lý đã phủi tay trước trách nhiệm khi kết án chân lý, để rồi chính Philatô cũng ngu ngơ về điều mình kết án: “Chân Lý là gì?” (Ga 18, 38). Quyền lực là một đòn chí mạng cho người thao túng nó.
3. Thập hình và thập giá đời: Biểu hình của đau khổ. Đau khổ là một điều đáng tiếc không đáng có trong lịch sử con người, thế nhưng tội đã đi vào trong thế nhân, đau khổ là thực tại không thể né tránh.
Những tiếng ca thán trong đau khổ vẫn vang lên tới trời cao. Biết bao đau khổ của từng ngày: Tang chế - thất bại - thiên tai - bệnh tật, đau khổ nội tâm - đau khổ đến từ bạo lực - chuyên chế…Những tiếng kêu la, những lời ai óan, những đêm thức trắng, những ngày lam lũ, những thân phận tủi nhục, ngục tù. Hàng ngàn, hàng triệu cách đau khổ đang từng ngày dày xéo trên thân phận.
Đau khổ như một hiển nhiên khó chịu, con người có khi cam phận, có khi vùng chỗi dậy đi tìm nguyên nhân để mong thoát khỏi. phải chăng sự xích mích giữa các thần, hay những nhị nguyên để giải thích đau khổ. Thời lưu đày Babylon, người Do Thái có khi bị cám dỗ nghĩ rằng, Thiên Chúa của họ đã thua vị thần nào đó mạnh mẽ hơn. Thiên Chúa vẫn im lặng không lý giải. Người không tin vào Thiên Chúa nghĩ rằng: “Không có Thiên Chúa hiện diện” (Tv 10, 4), hoặc là “Không thể hiểu biết” (Tv 73, 11), và có người đã khuyên nhủ người khác “Hãy nguyền rủa Thượng Đế đi” (Gb 2, 9). Thiên Chúa vẫn im lặng! và sự im lặng của màu nhiệm Thập Giá.
Đau khổ từ đâu đến: Từ nguyên nhân thiên tai - từ nguyên nhân đổ vỡ các mối tương quan - từ các đối lực - Từ tội lỗi nguyên tổ. Không lý giải hết những nguyên nhân đau khổ, con người lại chứng kiến những cái chết của người công chính - những trẻ thơ - những người vô tội, để hoài nghi, trong thế gian này, công lý đã thất bại (Hab 1, 2 - 4; Mal 2, 17…)
Không lý giải được đau khổ, tiền nhân đã liệt nó vào trong mầu nhiệm. Chính vì là mầu nhiệm, không lý giải được nguyên nhân, tiền nhân lại đặt vào đó những ý nghĩa: Sự thanh luyện (Gr 9, 6), sự giáo dục (Đnl 8, 5), sự sửa phạt bởi lòng nhân lành (2Mac 6, 12 - 17; 7, 31 - 38). Từ những ý nghĩa tích cực của đau khổ người công chính nhận ra rằng: Đau khổ là một mạc khải về ý định của Thiên Chúa (Gb 42, 1-6), từ đó nhận ra sự thử thách của Thiên Chúa (Gr 15, 10 - 19).
Đỉnh điểm của ý nghĩa đau khổ là có giá trị cứu độ. Hình thành từ kinh nghiệm của những người công chính và tìm gặp trong một người mang lấy thân phận của “người tôi trung đau khổ” (Is 52), người tôi trung đau khổ ấy lại là một người vô tội, đó là điều shock nhất của lịch sử con người. Và từ đây, con người tìm thấy giá trị của những đau khổ, cũng từ đó con người hiến dâng mạng sống mình, chấp nhận đau khổ như của lễ, hòa mình với tội nhân để mang lấy tội lỗi của con người.
4. Thập Giá mang hình cứu đời: Hình tượng cây thập giá thấy nhiều trong hình ảnh thiên nhiên, như con người đứng giang tay giữa trời, cánh chim đang bay, ngôi sao nhìn từ dưới đất lên bầu trời, những tia sáng…Cây thập hình trong Kinh Thánh còn biểu hiện là cây đời (St 2, 9), là cây Minh Triết (Cn 3, 18), là gỗ đóng con tàu Noe, là cây gậy của Moise đấp đầu con rắn, là cây treo con rắn đồng giữa hoang mạc, sau này biểu tượng y khoa lấy hình cây thâp giá treo con rắn đồng diễn nghĩa.
Là cây đời với ý nghĩa mang lại sự sống là hình ảnh tiên báo cây Thánh Giá Cứu Chuộc sau này. Cây sự sống là biểu tượng thông dụng trong huyền thoại Mesopotamis, ở Sáng Thế Ký tường thuật trong vườn địa đàng có cây sự sống nguyên thủy mà trái của nó mang lại sự sống bất tử. (Stk 2, 9). Cũng trong đó, với cây sự sống, sự khôn ngoan giả dối của con người cũng dựng cho mình một cây hiểu biết điều lành và điều dữ, Sách Sáng Thế gọi là “Cây trái Cấm” St 2, 16), con người đã ăn nó và hậu quả là biết mình trần truồng. Sau khi con người ăn cây trái cấm, Thiên Chúa hứa ban cho họ một cây đời khác gọi là cây Kỳ diệu cung cấp cho con người thực phẩm và thuốc men (Ez 47, 12).
Cây sự sống là cây mang theo ý nghĩa tự nhiên là cây tái sinh, cây tái sinh theo mùa trút lá và mọc lá mới. Cây tái sinh theo tự nhiên là cây đâm rễ vào đất, mọc trên đất giữa trời và đất, ngọn luôn hướng về trời cao. Với ba phần của cây tái sinh, được diển tả cách thiết thực nhất điều liên quan đến bộ ba: Trời - Người - Đất, bộ ba trong gia đình biểu hiện Cha - Mẹ - Con, trong lịch sử biểu hiện bộ ba Không gian - Thời gian - Con người. Trên Trống Đồng Đông Sơn, bộ ba biểu hiện Chim - hươu - người. Các quan hệ với những chiều kích khác nhau, tái sinh có nghĩa là làm mới lại luôn mãi các mối tương quan. Trong bài giảng vào ngày Lễ Phục Sinh, Henry de Lubac đã gọi cây tái sinh tương đồng với cây Thánh Giá bằng những lời tán tụng: “Vật đỡ vững chắc của Tạo Hóa, mối liên kết của vạn vật, chỗ dựa cho cả trái đất và con người cư trú, sự đan thoa vũ trụ mang tất cả tính hỗn hợp của bản chất con người. Được an định bằng những chiếc đinh vô hình của Thánh Thần để tô điểm cho ý chí tối thượng; đỉnh đầu chạm trời, chân đạp đất và trong không gian ở giữa, ôm cả khí quyển bằng những cánh tay vô biên để đón nhận tất cả và làm mới lại tất cả”.
Là cây đời, cây này còn biểu trưng là Cây Nước Thiên Chúa, hình ảnh này không dùng lại biểu trưng của cây vũ trụ của Đông Phương mà thích ứng cây vũ trụ ấy biểu trưng cho cây tuyệt diệu: Đâm rễ xuống tận âm phủ, mà mọc vươn tới trời cao, tàn lá che khắp vũ trụ, mọi chim chóc và thú vật. Cây của lòng kiêu căng sẽ bị phá đổ (Ez 31, 1 - 9) để thay vào đó cây bám rễ từ lòng khiêm nhường, cành lá sẽ là cành lá cứu độ sum xuê (Mt 13, 31). Linh mục Varillon thì cho rằng bản chất cốt yếu của Thiên Chúa là sự Khiêm Nhường, vì Tình Yêu đích thực bao giờ cũng Khiêm Nhường. Khiêm nhừơng cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập Tự và đó cũng là màu nhiệm tự hạ mà Thánh Phaolô nói đến.
5. Cây sự chết và sự sống: Cây Thập giá mà ở trong đó biểu hiện cả hai chiều kích là cây khổ nạn và là cây cứu rỗi, hai chiều kich đối lập trong một cây, để rồi “per crucem ad lucem”, trở thành cây đặc biệt nhất của các loại cây. Cây thập giá có thể trở nên dấu chỉ của sự chúc dữ khi người ta dùng nó như một thập giá cho kẻ bị án tử, cây mang tới cái chết tủi nhục (Gios 8, 29). Trong thời gian xuất hành của dân Do Thái dấu hình chữ thập bằng máu chiên non bôi trên cửa là dấu chỉ mà sự chết không ập đến trong đêm tru diệt (Xh 12, 23). Tính biểu trưng cây sự chết được treo lên đó con rắn đồng lại trở thành cây mang sự sống, kết hợp hai yếu tố được phục hồi. Một yếu tố là dụng cụ xử tử, nghĩa là cây thập giá, một khác nữa là con rắn tượng trưng cho thần chết. Điều này muốn loan báo một ý nghĩa quan trọng: Sự Sống cuối cùng sẽ chiến thắng mọi sự dữ mà đỉnh cao của sự dữ là sự chết. Thần Tử bị đánh bại ngay trên phần đất của chúng: “Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?” (1Cor 15, 55). Tử thần bị đánh bại trên cây thập giá đời, người Kitô hữu cũng được mời gọi Hãy vác Thập Giá mình: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16, 24 - 25). Thập giá đời được đồng hóa với cuộc sống của Đức Giêsu, vác thập giá mình có nghĩa là rập khuôn đời sống của mình vào đời sống của Đức Giêsu.
(Còn tiếp)