1. Nữ tu Nam Phi tại hội nghị thượng đỉnh G20 gọi cuộc khủng hoảng nợ của Phi Châu là 'thảm kịch về đạo đức và tinh thần'

Tổng thư ký phụ trách Hội đồng Giám mục Công Giáo Nam Phi đã mô tả cuộc khủng hoảng nợ của Phi Châu là “một thảm kịch về đạo đức và tinh thần” cần phải được giải quyết.

Phát biểu tại sự kiện bên lề Hội nghị thượng đỉnh xã hội G20 được tổ chức tại Johannesburg với chủ đề “Đại lễ đoàn kết: Hướng tới kiến trúc tài chính vì con người và hành tinh cho Phi Châu”, Sơ Dominica Mkhize cho biết cuộc khủng hoảng nợ của Phi Châu đang làm tổn hại đến phẩm giá con người, ACI Africa đưa tin ngày 20 tháng 11.

“Khắp Phi Châu, cuộc khủng hoảng nợ đã trở thành một trong những vết thương này,” bà nói. “Là một gia tấn Công Giáo, được dẫn dắt bởi Phúc Âm và giáo huấn xã hội, chúng tôi không thể im lặng trước thảm kịch đạo đức và tâm linh này.”


Source:Catholic News Agency

2. Phụng Vụ Các Thời Đại và Lựa Chọn Mục Vụ

Trong những tháng gần đây, chúng ta đã nghe rất nhiều về việc các nghi lễ phụng vụ truyền thống bị hủy bỏ tại một số giáo phận. Tất nhiên, điều này không có gì mới. Tuy nhiên, sự ngoan cố của một số giám mục trong việc xóa bỏ không chỉ các nghi lễ phụng vụ này mà còn cả các nhóm tận tụy bảo tồn và truyền tải kho tàng phụng vụ Công Giáo chắc chắn khiến chúng ta lo lắng.

Trước hết, cần phải nói rằng cốt lõi của cuộc tranh luận gay gắt xung quanh quyền tồn tại của Thánh lễ La-tinh Truyền thống không mang tính chất phụng vụ. Một quan điểm nhất định về sự tiến hóa và tình hình thế giới trong những thế kỷ qua – được đánh dấu rõ nét bởi sự sụp đổ của các chế độ quân chủ Công Giáo và các cuộc cách mạng, chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa Quốc xã, và hai cuộc Chiến tranh Thế giới – đã nảy sinh ý tưởng về một sự “điều chỉnh” hoàn toàn (tức là aggiornamento) các phạm trù truyền thống của thần học và luân lý Kitô giáo, cũng như việc thờ phượng Thiên Chúa.

Tiền đề của quan điểm này là sự nhạy cảm và thấu hiểu con người hiện đại, những người được tường trình không còn khả năng tiếp nhận Tin Mừnf được truyền tải thông qua các phương tiện truyền thống mà Giáo hội đã sử dụng trong gần hai thiên niên kỷ. Do đó, việc “cập nhật” toàn bộ Kitô giáo sẽ là một điều cần thiết do những điều kiện lịch sử mới đặt ra. Bất kể được diễn đạt như thế nào, đây chính là lập luận chính của những “nhà cải cách” – thường đi kèm với tuyên bố rằng “Chúng ta không còn sống ở thời Trung cổ nữa!”

Lý do thứ hai cho những thay đổi này, bị lên án một cách có hệ thống bởi những người yêu mến Truyền thống và những người bảo vệ tính liên tục và bất biến trong việc thờ phượng Thiên Chúa, liên quan đến cốt lõi thần học được phát biểu trong các hình thức phụng vụ và bí tích, vốn được Công đồng Trent (1545–1563) nhắm vào làn sóng Thệ phản.

Các nhà phê bình kiên quyết cho rằng những hình thức này không còn đáp ứng được những nhu cầu mới. Những khái niệm cơ bản như “hy tế”, “biểu tượng”, “sám hối”, “đền bù”, v.v. đã bị gạt sang một bên dưới ảnh hưởng của một giáo hội học mơ hồ. Do đó, không còn rõ liệu Giáo Hội Công Giáo có còn là Giáo hội đích thực duy nhất do Chúa Giêsu Kitô sáng lập – cộng đồng duy nhất mà ơn cứu độ có thể đạt được hay không.

Tất nhiên, điều này dẫn chúng ta đến lý do thứ ba cho các cuộc cải cách phụng vụ: đại kết, đại diện cho một sự thay đổi đáng kể so với các giáo huấn và phong cách giáo hội học đã tồn tại trước Công đồng Vatican II. Trong trường hợp này, mục tiêu không phải là thích nghi với sự nhạy cảm và hiểu biết của con người hiện đại mà là thích nghi với những yêu cầu của cuộc đối thoại với các giáo phái Kitô giáo khác – một cuộc đối thoại mà trong đó sự cởi mở và mong muốn giảm thiểu sự khác biệt (thật không may, phải trả giá bằng việc làm loãng đi những giáo lý truyền thống) là chủ đạo.

Vì vậy, mặc dù trước Công đồng, bất cứ hình thức communicatio in Sacris [hiệp thông trong các sự kiện thánh thiêng] với các thành viên của các giáo phái khác đều bị nghiêm cấm đối với người Công Giáo, nhưng ngày nay, những buổi cầu nguyện chung và các cuộc họp như ở Assisi và Abu Dhabi đã trở thành chuẩn mực, trong khi tiếng nói của một số ít Hồng Y và giám mục nêu lên mối quan ngại nhanh chóng bị dập tắt.

Trong bối cảnh như vậy, Phụng vụ các Thời đại – được đặc trưng bởi nguyên tắc quân chủ và phẩm trật, cùng với sự thánh thiêng và tôn kính được hàng giáo sĩ và tín hữu trung thành gìn giữ – vẫn là mục tiêu của những người tin rằng nó đại diện cho một hình thức lỗi thời, cứng ngắc, không có khả năng vượt qua cuộc khủng hoảng hiện tại.

Trong tập sách xuất sắc do Joseph Shaw biên tập, The Latin Mass and the Intellectuals, ngay cả các giáo phẩm được giao nhiệm vụ giám sát hoạt động của Ủy ban Ecclesia Dei (đã bị Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải tán vào năm 2019, với trách nhiệm được chuyển giao cho Bộ Giáo lý Đức tin) cũng tin rằng mục đích của nó là “loại bỏ dần Thánh lễ cũ”. Ví dụ, Đức Hồng Y Antonio Innocenti đã tuyên bố tại một cuộc họp của các giám mục rằng “đây là một Ủy ban tạm thời, sẽ tự giải thể”. Và Đức Hồng Y Dario Castrillón Hoyos đã cố gắng xuất bản, dưới sự cho phép của ủy ban, một văn kiện áp đặt những đổi mới như việc rước lễ bằng tay, việc dùng nữ giúp lễ, việc sử dụng sách phụng vụ cải cách và lịch các thánh được sửa đổi.

Thái độ của tất cả những người chỉ trích này đều dựa trên cùng một tiền đề: rằng với sự tiến hóa không ngừng của lịch sử, những cải cách phụng vụ được áp đặt từ trên xuống là giải pháp duy nhất cho cuộc khủng hoảng lớn mà con người hiện đại đang phải đối diện. Chỉ có phụng vụ Novus Ordo mới giải quyết được cuộc khủng hoảng này; do đó, những người phản đối việc cải cách cùng lắm chỉ có thể là “những người chăm nom viện bảo tàng đầy luyến nhớ” hay tệ hơn, là những “kẻ lạc hậu” cản trở sự tiến bộ.

Dù thế nào đi nữa, họ cũng phải biến mất. Suy cho cùng, ai có thể chống lại những giá trị mới được Chúa Thánh Thần soi sáng: đại kết, đối thoại liên tôn, nữ quyền, sinh thái, quản trị hoàn cầu, khuyến khích nhập cư, v.v.?

Vì vậy, chúng ta có thể tự hỏi: giải pháp mục vụ thực sự cho tình hình hiện tại sẽ là gì? Trước hết, liệu các giáo phẩm Công Giáo có nên thể hiện sự khoan dung đối với những “kẻ lạc hậu” này hay không? Tại sao không trao quyền tồn tại cho tất cả các huynh đoàn linh mục và các hiệp hội giáo dân, những tổ chức chỉ mong muốn duy trì sự phong phú của việc thờ phượng mà tất cả các thánh của Giáo cộng đoàn ta đã sống trong hàng ngàn năm?

Còn bằng chứng nào tốt hơn về tình yêu thương đích thực của những người chăn chiên dành cho những con chiên “lạc hậu” hơn trong đàn chiên? Nếu việc đối thoại với các tôn giáo khác và các giáo phái Kitô giáo khác là điều đáng mong muốn, thì tại sao việc đối thoại với các nhà thần học và tư tưởng truyền thống lại không được như vậy?

Tôi tin rằng những người Công Giáo chân thành nhận ra tính chính đáng của những câu hỏi như vậy và những câu trả lời từ chúng. Tuy nhiên, nếu tầm nhìn mục vụ này còn thiếu sót, thì những người chỉ trích có thể đúng: vấn đề không chỉ đơn thuần là thay đổi Phụng vụ. Mà còn là thay đổi nền tảng thần học của nó.

Và cuộc khủng hoảng, trước hết và trên hết, không phải là cuộc khủng hoảng của con người hiện đại, mà là của đức tin của những người tin rằng Chân lý vĩnh cửu mà Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã mặc khải cho chúng ta, có thể được điều chỉnh theo xu hướng của thời đại.


Source:Catholic Things

3. Báo cáo: Khoảng 1/3 giáo sĩ Công Giáo được thụ phong tại Anh giai đoạn 1992-2024 phát xuất từ Anh giáo

Một báo cáo mới được công bố hôm thứ Năm tại Luân Đôn cho thấy khoảng một phần ba tổng số giáo sĩ Công Giáo được thụ phong tại Anh và xứ Wales trong ba thập niên qua phát xuất từ Hiệp thông Anh giáo, lần đầu tiên cho thấy một số dấu hiệu về phạm vi và quy mô đóng góp của các cựu tín hữu Anh giáo vào đời sống mục vụ và bí tích của Giáo Hội Công Giáo.

Khoảng 700 cựu giáo sĩ và tu sĩ của Giáo hội Anh, Giáo hội xứ Wales, hay Giáo hội Episcopal Scotland đã được tiếp nhận vào Giáo Hội Công Giáo kể từ năm 1992, bao gồm 16 cựu giám mục Anh giáo và hai giám mục từ phong trào Anh giáo ly khai (tính đến tháng 12 năm 2024), trong khi gần 500 cựu giáo sĩ Anh giáo đã được thụ phong Thánh chức trong Giáo Hội Công Giáo từ năm 1992 đến năm 2024 (5 Phó tế vĩnh viễn, 486 linh mục).

Con số này chiếm gần một phần ba số linh mục được thụ phong trong giáo phận từ năm 1992 đến năm 2024 tại Anh và xứ Wales – 29 phần trăm – trong khi con số này tăng vọt lên tới 35 phần trăm số linh mục được thụ phong trong cùng kỳ tại Anh và xứ Wales khi kết hợp với số linh mục được thụ phong cho Giáo hạt tòng nhân Đức Mẹ Walsingham (một cơ quan tự quản rộng rãi được thành lập sau Tông hiến Anglicanorum coetibus năm 2009 của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16, dành cho những người Anh giáo tìm kiếm sự hiệp thông trọn vẹn với Rôma, những người muốn giữ gìn truyền thống thờ phượng Anh giáo phù hợp với đức tin Công Giáo).

Kể từ năm 2015, gần 1/10 linh mục Công Giáo được thụ phong tại Anh và xứ Wales là cựu giáo sĩ Anh giáo (9 phần trăm), trong khi 19 phần trăm số linh mục được thụ phong cho chức linh mục giáo phận và Giáo hạt trong giai đoạn 2015-2024 tại Anh và xứ Wales là các cựu giáo sĩ Anh giáo.

Với tựa đề “Giáo sĩ tân tòng trong Giáo Hội Công Giáo tại Anh: Vai trò của Hội Thánh Barnabas”, báo cáo được Hội Thánh Barnabas ủy nhiệm và được thực hiện bởi Trung tâm Tôn giáo, Đạo đức và Xã hội Bênêđíctô XVI (mà nhà báo này là một thành viên sáng lập).

Hội Thánh Barnabas là một tổ chức Công Giáo mở rộng, bắt nguồn từ sự quan tâm mục vụ của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đối với các giáo sĩ Anh giáo muốn quay sang Công Giáo sau khi sắc lệnh Apostolicae Curae của ngài tuyên bố các chức thánh Anh giáo là vô hiệu.

Các giáo sĩ Anh giáo trở lại Công Giáo hầu như luôn phải đối diện với những thách thức bao gồm mất thu nhập, lương hưu, và thậm chí cả nhà cửa (thường thuộc sở hữu của Giáo hội Anh và được dùng làm nơi ở cho các giáo sĩ đang hoạt động). Họ đến hiệp thông với Rôma muộn hơn, thường phải nuôi gia đình và ít có kỹ năng hoặc kinh nghiệm hữu ích ngoài mục vụ, và hoàn toàn không có bất cứ sự bảo đảm nào về việc được chấp nhận làm ứng viên thụ phong.

Ngay cả khi họ được chấp nhận là ứng viên thụ phong, cũng có thể mất hàng tháng hoặc hàng năm để họ được thụ phong và bước vào chức thánh.

Giáo sư Stephen Bullivant thuộc Đại học St. Mary, Twickenham và Đại học St. Mary, Úc, đồng thời là giám đốc Hội Bênêđíctô XVI, nhà lãnh đạo nghiên cứu và là tác giả chính của báo cáo, chia sẻ với Crux: “Điều tôi nghĩ sẽ làm bất cứ ai ngạc nhiên là Giáo hội Anh và xứ Wales nên biết ơn những hy sinh mà các linh mục này và gia đình họ đã thực hiện.”

Bullivant cũng ngạc nhiên trước quy mô và phạm vi đóng góp của các cựu tín hữu Anh giáo cho chức thánh Công Giáo.

“Tôi cảm thấy đó là một con số khá lớn, lớn hơn mọi người nghĩ,” Bullivant nói, nhưng “rất ngạc nhiên khi biết rằng con số này về cơ bản chiếm một phần ba tổng số các vụ thụ phong trong 30 năm qua.”

Bullivant nói thêm: “Tôi nghĩ mọi người đều ngạc nhiên vì điều đó bởi vì bản thân các giám mục chỉ biết đến khu vực của mình”. Giờ đây, điều đó đang thay đổi.

Báo cáo cũng trích dẫn lời mở đầu của Đức Tổng Giám Mục Westminster, Hồng Y Vincent Nichols, người ca ngợi công việc của Hội Thánh Barnabas và báo cáo đã “tập hợp rất nhiều câu chuyện và sự kiện khác nhau, từ giai đoạn 1992 đến 2024, về những người đã thực hiện hành trình này.”

“Đây là một bài đọc hấp dẫn,” Đức Hồng Y Nichols viết, “không chỉ ở việc tổng hợp các sự kiện và con số, mà còn ở rất nhiều chứng từ và hiểu biết bản thân.”

Đức HY Nichols viết: “[Câu chuyện của nhiều người đã bước vào sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo không phải là sự quay lưng hay chối bỏ di sản Anh giáo phong phú và quý báu của họ, mà là trải nghiệm về một mệnh lệnh phải bước vào sự hiệp thông trọn vẹn hữu hình của Giáo Hội Công Giáo, hiệp nhất với Tòa Phêrô.”


Source:Crux

4. Trung tâm lắng nghe House of Nazareth mở cửa tại Homs để hỗ trợ các gia đình

Tại trung tâm thành phố Homs, “Trung tâm lắng nghe House of Nazareth” mới đã mở cửa với sứ mệnh cung cấp sự hỗ trợ an toàn và nhân ái cho các gia đình, thanh thiếu niên và cá nhân đang phải đối mặt với những thách thức về mặt tình cảm, tâm linh hoặc tâm lý.

Sáng kiến này được khởi xướng bằng một nghi lễ đặc biệt, nhằm mục đích củng cố đời sống gia đình và thúc đẩy quá trình chữa lành tại một thành phố vẫn đang trong quá trình phục hồi sau nhiều năm xung đột, theo báo cáo ngày 17 tháng 11 từ đối tác tin tức tiếng Ả Rập của CNA, ACI Mena.

Với đội ngũ nữ tu và các cố vấn được đào tạo bài bản, trung tâm cung cấp các dịch vụ chuẩn bị hôn nhân, hướng dẫn thanh thiếu niên, hỗ trợ cá nhân và các chương trình được thiết kế đặc biệt dành cho phụ nữ gặp khó khăn, bao gồm cả góa phụ và phụ nữ đơn thân nuôi gia đình. Các cố vấn cho biết nhu cầu về những dịch vụ này đã tăng đáng kể, đặc biệt là trong giới trẻ.


Source:Catholic News Agency