CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN

Hai chủ đề đan xen vào nhau trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay:

- Lời mời gọi nuôi dưỡng mình bằng thần lương Thiên Chúa thiết đãi (bài đọc I và Tin Mừng).

- Đề tài khôn ngoan ngự trị trong bài đọc I và bài đọc II nhưng xuất hiện trong Tin Mừng như lời thách đố của Thiên Chúa.

Cn 9: 1-16: Bài đọc I trích từ sách Châm Ngôn trình bày Đức Khôn Ngoan mời gọi nhân loại và đặc biệt những người túng thiếu, hãy đến mà dùng thần lương mà mình thiết đãi. Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan tiên trưng bàn tiệc Thiên Sai.

Ep 5: 15-20: Trong thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô, thánh Phao-lô khuyên bảo các tín hữu của mình sống theo sự khôn ngoan độc đáo của Ki tô giáo.

Ga 6: 51-58: in Mừng dâng hiến cho chúng ta phần cuối của diễn từ “bánh ban sự sống”, trong đó, bằng những từ ngữ rất hiện thực, Đức Giê-su loan báo ân ban Thánh Thể: thịt và máu của Ngài, bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi theo sự khôn ngoan khôn dò của Ngài, nhưng xem ra điên rồ đối với con người.

BÀI ĐỌC I (Cn 9: 1-6)

Sách Châm Ngôn thuộc trường phái minh triết Cựu Ước. Trường phái văn chương nầy có hai nguồn gốc: nguồn gốc bình dân và nguồn gốc bác học.

Về nguồn gốc bình dân, sự khôn ngoan là thành quả kinh nghiệm được tích lủy qua nhiều thế kỷ; nó được diễn tả bằng những châm ngôn, thường rất phổ biến. Chúng ta gặp thấy trào lưu nầy khắp bốn phương trời, hình thành nên “túi khôn của loài người”.

Về nguồn gốc bác học, thậm chí hoàng gia nữa, như ở Ít-ra-en vua Sa-lô-mon là một bằng chứng điển hình: nhiều châm ngôn được gán cho vua (sách Châm Ngôn được đặt dưới quyền bảo trợ của vua). Trong miền Cận Đông cũng vậy, có nhiều tác phẩm giáo huấn ở đó vua (hay một quan đại thần) cho con mình hay người kế nghiệp của mình những lời khuyên bảo khôn ngoan. Su-me, A-khát, Ai-cập đã để lại cho chúng ta nhiều sử liệu thuộc thể loại văn chương nầy.

Sách Châm Ngôn kết hợp hai nguồn gốc nầy; đặc tính của sách đó là, ở giữa những châm ngôn rất dị biệt, sách dâng hiến một phân đoạn, có thể được soạn thảo muộn thời, đề tặng cho chính Đức Khôn Ngoan.

Ở đây Đức Khôn Ngoan được nhân cách hóa thành một một nữ chủ nhân hiếu khách mở tiệc khoản đãi. Việc nhân cách hóa nầy vẫn mang tính chất thi ca; Đức Khôn Ngoan được ca ngợi ở đây cốt yếu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, tự nó không thể cấu thành một thực thể biệt phân. Độc thần giáo tuyệt đối của dân Ít-ra-en: “Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất, ngoài Ngài ra, không có vị Chúa nào khác”, không thể quan niệm khác đi được. Trong Cựu Ước, sự khôn ngoan của Đức Chúa cũng như thần khí của Ngài là những quyền năng của Thiên Chúa chứ không là những ngôi vị biệt phân.

1. Bữa tiệc Đức Khôn Ngoan thiết đãi.

Trong đoạn văn được đề nghị cho chúng ta, giáo huấn Đức Khôn Ngoan ban cho được sánh ví với một bàn tiệc mở ra cho tất cả những ai muốn làm môn đệ của mình.

“Đức Khôn Ngoan đã dựng xong nhà, đẻo bảy cột”, điều nầy giả sử một nội thất nguy nga lộng lẫy, ở đó các khách mời có thể trò chuyện thân mật. “Bảy” là con số chỉ sự hoàn hảo. Đức Khôn Ngoan đích thân“ hạ thú vật”, tự tay mình “chế rượu” và “dọn bàn”; nghĩa là chủ nhân muốn thiết đãi khách những món ăn thức uống tuyệt hảo.

Đức Khôn Ngoan “sai nữ tỳ lên các nơi cao trong thành phố rao mời”. Câu nầy xem ra không quan trọng lại là câu then chốt của bản văn. Trong Kinh Thánh việc sai phái các tôi tớ của mình ra đi thi hành sứ mạng quan trọng là cử chỉ của Thiên Chúa; truyền thống sẽ xem cử chỉ nầy thậm chí như cử chỉ thiên sai. Đó là lý do tại sao các tác giả Tin Mừng thường nhấn mạnh cử chỉ nầy được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su khi “Ngài sai hai môn đệ ra đi” để chuẩn bị bữa ăn Vượt Qua (Mc 14: 13; Lc 22: 8); trong dụ ngôn Tiệc Cưới, vua sai các gia nhân của mình ra đi mời khách dự tiệc, như Đức Khôn Ngoan đã làm.

2. Lời mời được gởi đến hết mọi người.

Đức Khôn Ngoan đòi hỏi lời mời của mình phải được vang lên từ những nơi cao ngõ hầu mọi người đều có thể nghe được; lời mời nầy mang tính phổ quát. Đức Khôn Ngoan mời mọi người tham dự bàn tiệc mà mình thiết đãi: Ở bữa tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su mời gọi: “Tất cả anh em hãy cầm lấy mà ăn và uống”.

Tuy nhiên lời kêu mời trở nên trực tiếp hơn và khẩn thiết hơn được gởi đến cho những ai “ngây ngô”. Đó là những người khao khát sự hiểu biết và muốn vươn lên cuộc sống trí tuệ, nhưng không những bậc thông thái tự mãn với sự hiểu biết của mình. Ngôn sứ I-sai-a tiên báo rằng rồi sẽ đến một ngày Đức Chúa sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho dân Ngài: “Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan sẽ chuốc lấy sự thất bại, và trí thông minh của những kẻ thông minh sẽ tan thành mây khói” (Is 29: 14).

Chúng ta đang ở ngưỡng cửa Tin Mừng hôm nay. Dự định của Thiên Chúa, được chuẩn bị trong sự khôn ngoan khôn dò của Ngài, xem ra điên rồ dưới con mắt của con người dù họ đã được báo trước đi nữa.

BÀI ĐỌC II (Ep 5: 15-20)

Thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô được trích hôm nay thuộc chương 5, ở đó thánh Phao-lô phô bày cách sống mới mẽ mà người Ki tô hữu đem lại; những lời khuyên nhũ ở đây hòa điệu tuyệt vời với những lời khuyên của sách Châm Ngôn.

1. Cẩn thận xem xét cách ăn nếp ở của mình.

Đây không cốt là một lời khuyên mới nhưng lời kêu mời tổng quát và có tính nhắc nhở. Cách ăn nếp ở của người Ki tô hữu phải là cách sống của một người khôn ngoan, đây là sự khôn ngoan đặc thù Ki tô giáo mà thánh Phao-lô chủ ý kêu mời. Ở môi trường chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp, sự khôn ngoan Hy lạp mà người ta tìm kiếm là một cuộc sống quân bình, điều độ và mực thước, thánh nhân đề cao sự khôn ngoan Ki tô giáo, sự khôn ngoan cao vời khôn ví, vì nó mở đường đến sự hiểu biết Thiên Chúa và ơn cứu độ đời đời.

2. Hãy biết tận dụng thời buổi hiện tại.

Chúng ta đừng quên rằng thánh nhân viết thư nầy đang khi ngài đang bị giam cầm ở Rô-ma để gởi đến các cộng đoàn Ki tô hữu hiện đang gặp phải những khó khăn và quấy nhiễu. Lời khuyên của thánh Phao-lô ở đây có thể được quảng diễn như sau: “Anh em có dịp sống vào thời buổi khó khăn, đó là dịp thuận tiện tuyệt vời để anh em hoàn thiện chính mình và sống theo Đức Ki tô. Hãy tận dụng tận mức cơ hội nầy”.

3. Chớ say sưa rượu chè.

Một mẫu gương khác cho thấy cách sống của người khôn ngoan: sống điều độ. Thánh nhân dường như nhắm đến sự lạm dụng xảy ra vào những bữa ăn cộng động Ki tô hữu; vì thánh nhân gợi lên những buổi nhóm họp nầy liền ngay sau khi mong ước rằng những buổi họp phải tập trung vào lời cầu nguyện.

Thánh nhân đối lập việc thấm nhuần Thần khí với việc say sưa rượu chè: “Hãy thấm nhuần Thần Khí”.

4. Hãy cùng nhau xướng đáp những bài thánh vịnh.

Chúng ta biết rằng những người Ki tô hữu tiên khởi đã được gợi hứng từ những tập tục hội đường để cấu trúc những buổi hội họp của họ: xướng đáp những bài thánh vịnh, thánh thi, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện, vân vân. Sơ đồ của Thánh Lễ làm chứng như vậy.

Nhưng các cộng đoàn Ki tô hữu đã rất sớm sáng tác các bài thánh thi của riêng mình, đọc kinh Lạy Cha và “những lời ca ngợi chúc tụng Chúa” tự phát. Thánh Phao-lô luôn luôn nhấn mạnh tâm tình tạ ơn như yếu tố cốt yếu của lời cầu nguyện.

TIN MỪNG (Ga 6: 51-58).

Với đoạn trích nầy, chúng ta hoàn tất bài diễn từ “bánh ban sự sống”.

1. Bí tích Thánh Thể:

Đức Giê-su vừa công bố một lời gây sửng sốt: “Bánh tôi ban tặng, chính thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Lời công bố không thể nào hiểu được nầy gây phản ứng ngay tức khắc từ phía những người Do thái, vốn nghi ngờ trước đây, tranh luận sôi nổi với nhau: “Làm sao ông nầy có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.

Lời công bố của Đức Giê-su ở đây rất gần với lời công bố của Ngài vào lúc thiết lập bí tích Thánh Thể trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Tuy nhiên, ở đây, thánh Gioan không dùng từ “mình Thầy” (“sôma”) như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, mà lại từ “thịt tôi” (“sarsh”), từ nầy theo tiếng A-ram cũng như tiếng Hy-bá, chỉ toàn bộ con người; chúng ta có thể khẳng định rằng đây chính là từ gốc mà Đức Giê-su đã sử dụng khi thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly, từ “thịt tôi” đã được thay thế bởi từ “mình Thầy” cho phù hợp với công chúng nói ngôn ngữ Hy lạp. Dù thế nào, với từ “thịt tôi”, thánh ký thiết lập mối liên hệ chặc chẽ giữa “Nhập Thể” và “Thánh Thể”. “Ngôi Lời làm người (“sarsh”) trở thành bánh Thánh Thể”.

Đức Giê-su nhận ra thái độ ngập ngừng của những người đối thoại, Ngài lại càng nhấn mạnh hơn nữa; lời nầy còn gây sửng sốt hơn nữa: chẳng những gợi lên “thịt của Ngài”, lại còn thêm “máu của Ngài”: “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình”.

Đây không còn là lời khẳng định không thể tin được nhưng còn gây kỳ chướng nữa. Người Do thái không bao giờ dùng máu; máu là trung tâm sự sống, được dành riêng cho Thiên Chúa: trong mỗi hy lễ, máu hoàn toàn được dâng tiến cho Thiên Chúa.

Chắc chắn trong ngôn ngữ sê-mít, cách nói thông thường “thịt và máu” chỉ “toàn thể con người” như Đức Giê-su nói với Phê-rô sau khi ông tuyên xưng đức tin: “Nầy anh Si-mon con Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải thịt và máu (phàm nhân) mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Nhưng khi khảo sát hai từ thịt và máu nối tiếp nhau nầy, Đức Giê-su gợi lên rằng máu sẽ được đổ ra để mà uống, cũng như thịt sẽ được trao ban để mà ăn. Ngài loan báo rằng bí tích Thánh Thể không thể tách khỏi cuộc Tử Nạn của Ngài trên đồi Can-vê. Ngoài ra để tránh việc hiểu bí tích Thánh Thể quá vật chất, quá phàm trần, Đức Giê-su sử dụng cách nói “ăn thịt và uống máu Con Người”, một nhân vật thần linh đến trên mây trời ở trong sách Đa-ni-en; như vậy, thịt và máu Ngài ban cho để ăn và uống ngõ hầu có sự sống muôn đời, không là thịt và máu của Đức Giê-su thành Na-da-rét, con của ông Giu-se và bà Ma-ri-a, mà là thịt và máu của Đấng Phục Sinh.

2. Lời hứa ban sự sống:

Toàn thể phần cuối của diễn từ nhấn mạnh lời hứa ban sự sống; lời hứa nầy được lập đi lập lại hầu như ở mỗi hàng. Chúa Con xuất thân từ Chúa Cha hằng sống; vì thế, Ngài nắm trong tay mọi nguồn phong phú của sự sống thần linh mà Ngài thông truyền cho nhân loại khi hiến thân mình thành của ăn thức uống, nghĩa là trong một sự hiệp thông mật thiết đến nỗi không thể nào sánh ví được: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì sống mãi trong tôi, và tôi sống mãi trong người ấy”.

Như thường hằng trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giê-su nhắc lại mối liên hệ của Ngài với Chúa Cha. Cũng vậy, động từ “ở trong” là một động từ tâm đắc đối với thánh Gioan, qua đó, thánh ký diễn tả tính nội tại của vương quốc Thiên Chúa.

Cuối cùng, Đức Giê-su nhấn mạnh thêm một lần nữa sự sống bất khả hư nát mà Ngài ban cho, làm mới lại lời hứa ban sự phục sinh của Ngài. Như vậy Ngài mạnh mẽ khẳng định ý nghĩa cánh chung của “Bánh Ban Sự sống”.

Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã không tường thuật việc Đức Giê-su thiết lập bí tích Thánh Thể, nhưng trong chương 6 nầy, thánh nhân muốn chúng ta thấm nhập mầu nhiệm vĩ đại nầy, còn hơn cả các sách Tin Mừng Nhất Lãm có thể làm trong những bài trình thuật thanh đạm của mình.