□ Nguyễn Trung Tây, SVD
Người Phụ Nữ Samaria (John 4:1-42): Nghĩa Đen? Nghĩa Bóng?


Thật sự ra câu chuyện
về người phụ nữ bên bờ giếng
không đơn giản
như chúng ta có thể đã từng nghĩ...


Câu chuyện bắt đầu xẩy ra vào một buổi trưa khi người phụ nữ xứ Samaria một mình đi tới giếng nước đầu làng. Thật bất ngờ, người phụ nữ nhận ra một người đàn ông Do Thái lạ mặt, dáng vẻ mệt nhọc, đang ngồi nghỉ mệt tại bờ giếng. Bất ngờ này nối tiếp kinh ngạc kia, bởi người đàn ông cất giọng gợi chuyện với người phụ nữ, một điều hiếm khi xảy ra giữa hai giới tính và hai sắc dân của hai nền văn hóa thù nghịch chống đối. Câu chuyện bên bờ giếng bàn về thần học nước hằng sống tiếp nối cho tới khi người đàn ông Do Thái bất chợt đổi hướng câu chuyện. Ông nói với người phu nữ Samaria, “Cô hãy về nhà và gọi chồng cô ra đây”. Người phụ nữ trả lời, “Tôi không có chồng”. Người đàn ông xác nhận, “Đúng, cô nói ‘Tôi không có chồng’ là rất đúng, bởi vì cô đã có năm đời chồng, và người đàn ông cô đang chung sống không phải là chồng cô. Cô nói rất đúng” (John 4:16-17).
Dựa vào hiểu biết căn bản của những lớp Giáo Lý, người Kitô hữu nói chung, và người Kitô hữu Việt Nam nói riêng có những ấn tượng tiêu cực về quá khứ của người phụ nữ xứ Samaria. Họ nghĩ người phụ nữ trong bài Tin Mừng đã hơn một lần thất bại với đời sống hôn nhân; và đặc biệt, vào giây phút gặp gỡ Đức Jesus bên giếng nước, cô ta đang chung sống với một người đàn ông ngoài vòng lễ giáo.
Thật sự ra câu chuyện về người phụ nữ bên bờ giếng không đơn giản như chúng ta có thể đã từng nghĩ. Câu trả lời, “Tôi không có chồng” của người phụ nữ cũng như câu nói, “Đúng, cô nói, ‘Tôi không có chồng’ là rất đúng…” của Đức Jesus đã gây ra những tranh luận giữa các thần học gia. Trường phái Nghĩa Đen tin rằng câu trả lời “Tôi không có chồng” và lời xác nhận của Đức Jesus về tình trạng hôn nhân của người phụ nữ nên được hiểu trong nghĩa đen. Trường phái Nghĩa Bóng thì ngược lại. Họ tin rằng cả hai câu nói này đều phải phân tích và hiểu trong nghĩa bóng.
Nhằm trình bày tới độc giả Kinh Thánh những tranh luận giữa hai Trường phái Nghĩa Đen và Nghĩa Bóng về bài Tin Mừng John, bàn về cuộc hội ngộ của Đức Jesus và người phụ nữ Samaria, trong bài tham khảo này, chúng ta sẽ cùng nhau phân tích:
(1). Những dữ kiện và những lập luận đã khiến Trường phái Nghĩa Đen tin rằng người phụ nữ Samaria là một người sống ngoài vòng lễ giáo. Và ngược lại, dựa vào những bằng chứng nào, Trường phái Nghĩa Bóng lại tin rằng câu chuyện về người phụ nữ Samaria bên bờ giếng phải được phân tích theo nghĩa bóng?
(2). Bài tiểu luận cũng sẽ phân tích Tin Mừng John 4:1-42 dưới lăng kiếng hòa giải và tâm lý xã hội, qua đó độc giả sẽ nhận ra người phụ nữ bên bờ giếng chính là mẫu gương, một người biết chấp nhận những nghịch cảnh và bất hạnh đã xảy đến trong cuộc đời.

I. Xứ Samaria
Bản Tin Mừng về cuộc hội ngộ bên bờ giếng Jacob nằm trong chương 4 của Tin Mừng John. Chương 1 căn bản bàn về căn tính Ngôi Lời và cuộc hội ngộ giữa Đức Jesus và chứng nhân John Tiền Hô. Chương 2 nối tiếp với Tiệc Cưới Cana. Chương 3 theo sau với cuộc hội ngộ giữa Đức Jesus và Nicodemus vào ban đêm, và căn tính Chú Rể của Đức Jesus (3:29). Tác giả thánh sử bắt đầu chương 4 với bối cảnh chính trị pha lẫn tôn giáo (John 4:1-3). Theo như John, sau khi biết rằng những người Biệt Phái hiểu lầm là Ngài rửa tội cho nhiều người, nhiều hơn cả John Tẩy Giả, Đức Jesus quyết định lên đường, rời bỏ Xứ Judea (Nam Do Thái) quay về lại Xứ Galilee (Bắc Do Thái).
Trên con đường thiên lý, Đức Jesus và các môn đệ đi tới thành phố Saikar. Lúc đó buổi trưa, trời nắng gắt. Mệt mỏi vì con đường thiên lý, Đức Jesus dừng chân tại giếng nước Jacob; trong khi đó, các môn đệ đi vô thành phố mua lương thực. Trong khi đang ngồi nghỉ tại giếng nước, Ngài nhìn thấy một người phụ nữ xứ Samaria đang đi tới bờ giếng nước một mình vào lúc mười hai giờ trưa.
Tương tự như Việt Nam, Do Thái kéo dài từ Bắc xuống Nam, và cũng phân chia ra làm ba miền: Bắc, Trung, và Nam. Xứ Galilee thuộc miền Bắc, Xứ Samaria thuộc miền Trung, Xứ Judea thuộc miền Nam. Người Do Thái vào thời Đức Jesus định cư trên cả hai vùng, Bắc Galilee và Nam Judea. Riêng miền Trung thuộc về người Samaria.

A. Lịch Sử Nước Samaria
Người Samaria nguyên thủy là người Do Thái trộn lẫn với năm sắc dân lân bang: Babylon, Cuthah, Avva, Havath, Sepharvaim (2Các Vua 17:24).
Để hiểu về hoàn cảnh dẫn đến sự xuất hiện của người Samaria, độc giả Kinh Thánh cũng cần phải hiểu về bối cảnh lịch sử của người Do Thái. Sau khi vua Salômon băng hà năm 930 B.C., đế quốc Do Thái tách ra làm hai vương quốc, Bắc Quốc Israel và Nam Quốc Judea. Vào năm 721 B.C. Bắc Quốc Israel bị đế quốc Assyria tấn công, sau cùng tiêu diệt. Vua Sargon II khi đó lưu đầy phần lớn người Israel sang những thành phố lớn của đế quốc Assyria (2Các Vua 17:6). Ông cũng mang những người dân của năm thành phố lớn trong đế quốc Assyria tới tái định cư tại Bắc Quốc Israel. Bởi thế người Samaria chính là con cháu của một số người Do Thái thuộc Bắc Quốc Israel còn lưu lại trên mảnh đất cũ pha trộn với người của năm sắc dân mới.
Năm 586 B.C., Nam Quốc Judea bị đế quốc Babylon tấn công và tiêu diệt. Tương tự như người Assyria, nhổ cỏ là nhổ tận gốc, vua Babylon cũng lưu đày phần lớn cư dân của Nam Quốc Judea sang Babylon. Thời gian trôi qua, tới phiên đế quốc Babylon sụp đổ dưới vó ngựa Ba Tư. Năm 539 B.C., Hoàng đế Cyrus của đế quốc Ba Tư ký sắc luật cho phép tất cả dân chúng sống trong đế quốc được phép quay trở về lại nguyên quán của mình. Người Do Thái của Nam Quốc Judea quyết định quay về quê hương, tái thiết quốc gia, xây dựng Đền Thờ Jesusralem đã từng bị tiêu diệt vào năm 587 B.C. Người Samaria lúc đó cũng muốn đóng góp vào công cuộc tái xây dựng Đền Thờ, bởi họ nghĩ mình cũng là con cháu của tổ phụ Abraham. Nhưng người Do Thái từ chối lời đề nghị của người Samaria, bởi dân hồi hương Do Thái coi người Samaria là dân tạp chủng, không phải chính gốc Do Thái. Từ đó mầm mống hận thù giữa hai dân tộc bắt đầu nhen nhúm, âm ỉ, cuối cùng bùng cháy vào thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên, khi người Samaria liên kết với người Syria tấn công người Do Thái. Cuối cùng người Samaria quyết định xây dựng riêng cho mình ngôi đền thờ trên núi Gerizim (Đức Jesus trong bản Tin Mừng, v.21, có nhắc đến ngọn núi Gerizim dù không nhắc đến tên). Căng thẳng giữa hai sắc dân dẫn đến đỉnh điểm vào năm 128 B.C., khi đó thầy Tư Tế John Hyrcanus tấn công và tiêu hủy đền thờ của người Samaria. Sau biến cố đó, người Samaria và người Do Thái tuyệt giao.
Vào thời Đức Jesus, có hai mạch lộ chính nối liền Bắc Galilee và Nam Judea. Con đường ngắn băng ngang qua xứ Samaria. Con đường dài chạy ngang qua xứ Decapolis (Thập Phố), phía đông Do Thái. Vào thế kỷ thứ nhất Công Nguyên, người Do Thái từ Bắc Galilee muốn đi xuống Nam Judea, hoặc ngược lại, thường tránh né không muốn sử dụng con đường ngắn, bởi con đường này dẫn ngang qua xứ Samaria.
Tình trạng căng thẳng giữa người Do Thái và người Samaria cũng được ghi lại trong Luca 9:51-56. Theo như thánh sử Luca, một ngày kia, từ Bắc Galilee, trong khi Đức Jesus đang trên con đường ngắn dẫn về Jerusalem, Ngài và những người môn đệ đặt chân tới một ngôi làng của người Samaria. Nhận ra gốc gác Do Thái của Đức Jesus và các môn đệ, người Samaria từ chối, không tiếp đón Đức Jesus và các môn đệ. Trước thái độ bất thân thiện của người dân Samaria, John và James nổi giận. Hai anh em con ông Zebedee muốn gọi lửa từ trời xuống thiêu đốt cả thôn. Nhưng Đức Jesus trách mắng hai ông, rồi Ngài chọn con đường dài hơn dẫn về phố Jerusalem.
Bởi mối liên hệ thù địch giữa hai sắc dân, người phụ nữ Samaria rất ngạc nhiên bởi người đàn ông ngồi bên bờ giếng mở miệng xin nước uống lại là người Do Thái. Bởi thế, bà ta hỏi ngược lại Đức Jesus,
— Tại sao ông, một người Do Thái, lại hỏi tôi, một người phụ nữ Samaria “Cho tôi xin miếng nước”?

B. Tôn Giáo của Người Samaria
Khi cư dân của năm sắc dân tái định cư trên vùng đất mới, họ mang theo những vị thần của riêng họ tới lãnh thổ Israel. Người Babylon có thần Succoth-Benoth. Người Cuthah có thần Nergal. Người Avva có hai thần, thần Nibhaz và thần Tartak. Người Havath có thần Ashima. Và người Sepharvaim có thần Adrammelech và Anamelech (2Các Vua 17:30). Tổng cộng tất cả là bẩy vị thần. Cho nên ngoài Yahweh Thiên Chúa, người Samaria cũng thờ phượng bẩy vị thần ngoại bang do cha ông của họ đã từng mang tới vùng đất mới (2Các Vua 17:29-33).
Bởi hoàn cảnh lịch sử khá đặc biệt, tôn giáo của người Samaria có những nét tương đồng và dị biệt so với Do Thái giáo, trong khi người Do Thái công nhận 39 cuốn sách Cựu Ước, người Samaria chỉ công nhận Ngũ Thư, 5 quyển sách đầu tiên của Cựu Ước, tương truyền do chính tay đại ngôn sứ Moses sáng tác. Trong khi người Do Thái mong chờ Đấng Xức Dầu (Anointed One), hay Messiah, người Samaria mong chờ Ta’heb, Đấng Quay Lại (Returned One). Trong con mắt của người Samaria Đấng Ta’heb là Ngôn sứ có những vai trò tương tự như đại Ngôn sứ Moses; bởi Ngài sẽ giải quyết những dị biệt, bất đồng, và tranh chấp về tôn giáo giữa người Samaria và người Do Thái. Trong khi người Do Thái tin vào Mười Điều Răn, người Samaria tin rằng Yahweh Thiên Chúa đã trao cho ngôn sứ Moses Mười Một Điều Răn. Điều Răn bị người Do Thái “cố tình bỏ quên” là “Ngươi sẽ xây dựng Đền Thờ trên núi Gerizim”. Bởi thế, trong khi người Do Thái tin rằng đền thờ Jerusalem là nơi duy nhất xứng đáng để thờ phượng Yahweh Thiên Chúa, người Samaria tin rằng đền thờ trên núi Gerizim là nơi xứng đáng nhất để thờ phượng Yahweh (1).

II. Giếng Nước Trung Đông
A. Vị Thế của Giếng Nước Trung Đông
Giếng nước trong văn hóa Do Thái có vị thế tương tự như quán nước đầu làng của người Việt Nam. Bên Việt Nam, nhất là những thôn làng ngoài Bắc, nếu muốn tìm kiếm hỏi thăm những người cư ngụ trong làng, người ta ghé vào quán nước đầu làng. Một cách tương tự, khách lữ hành người Do Thái, nếu muốn hỏi thăm tin tức về người thân sinh sống trong làng, người ta dừng bước tại giếng nước. Họ ngồi đợi chờ dân chúng trong thôn xóm ra giếng lấy nước về nhà. Minh họa về điều này, chúng ta có câu truyện trong Sáng Thế Ký về ông quản gia của tổ phụ Abraham đã gặp cô Rebecca vợ tương lai của Isaaic tại giếng nước trong vùng Aram Naharagim (Sáng Thế Ký 24:10-27). Một cách tương tự, tổ phụ Jacob cũng đã từng gặp cô Rachel và đại ngôn sứ Moses cũng đã từng gặp cô Zipporah, vợ tương lai tại giếng nước vùng Haran (Sáng Thế Ký 29:1-14), và Midian (Xuất Hành 2:15-22).
Nhưng thông thường, trừ trường hợp bất ngờ, không bao giờ người trong thôn làng đi ra giếng lấy nước vào buổi trưa và đi một mình. Nước giếng buổi trưa, đặc biệt trong vùng sa mạc, không mát và ngọt như nước giếng vào buổi chiều. Bởi thế, thông thường khi mặt trời dần dần khuất bóng, người ta mới đi ra giếng để lấy nước. Và bao giờ cũng vậy, những người phụ nữ trong thôn thường dẫn nhau đi thành từng đoàn để đề phòng những bất trắc nguy hiểm có thể xảy ra bên bờ giếng. Minh họa về điều này có câu truyện về Moses, sau khi trốn khỏi Ai Cập, ông dừng chân tại một giếng nước đầu làng vùng Midian, Trung Đông. Tại bờ giếng Midian, Moses đã đánh đuổi những người chăn chiên giải cứu bẩy chị em của cô Zippora, vợ tương lai của ông sau này.
Một cách tương tự, giếng nước Trung Đông cũng chính là những trạm dừng chân của khách bộ hành. Khách lữ hành mệt mỏi với con đường thiên lý, có thể ghé vào giếng nước đầu làng nghỉ ngơi. Chi tiết này cũng được tác giả John nhắc đến trong câu chuyện về người phụ nữ Samaria bên bờ giếng. Theo như John, bởi đường xa, Đức Jesus mệt mỏi. Ngài quyết định dừng chân nghỉ ngơi tại giếng nước (4:6).

B. Đức Jesus và Người Phụ Nữ Bên Giếng
Và bất chợt, theo như John 4:4-42, trong khi đang ngồi nghỉ tại giếng nước của thành phố Saikar, Đức Jesus thấy người phụ nữ xứ Samaria đi ra giếng. Ngài nói,
— Cho tôi xin miếng nước.
Người phụ nữ trả lời,
— Tại sao ông, một người Do Thái, lại hỏi tôi, một người phụ nữ Samaria, “Cho tôi xin miếng nước”?
Câu chuyện giữa hai người tiếp tục cho tới khi Đức Jesus nói,
— Cô hãy về, gọi chồng cô ra đây.
Người phụ nữ trả lời,
— Οὐκ ἔχω ἄνδρα (2), Tôi không có chồng.
Đức Jesus tiếp lời,
— Cô nói “Οὐκ ἔχω ἄνδρα” là rất phải, bởi cô đã có năm đời chồng, và người hiện giờ cô đang chung sống không phải chồng của cô. Cô nói đúng (John 4:17).
Trong toàn bản văn, thánh sử John không giải thích tại sao Đức Giêsu đổi hướng câu chuyện, từ thần học nước hằng sống sang đời sống riêng của người phụ nữ (Cô hãy về, gọi chồng cô ra đây). Thánh sử cũng không giải thích câu trả lời, “Tôi không có chồng”, và đặc biệt câu trả lời của Đức Jesus xác nhận câu trả lời của người phụ nữ.

III. “Tôi Không Có Chồng”
A. Nghĩa Đen
Tuy nhiên dựa vào phong tục địa phương, vị thế của giếng nước trong nền văn hóa Trung Đông, và câu trả lời của Đức Jesus, thần học gia của Trường phái Nghĩa Đen tin rằng một trong những nguyên nhân chính khiến người phụ nữ đi ra giếng nước một mình và đi vào buổi trưa là tại vì cô ta tránh né không muốn tiếp xúc với những người hàng xóm bên bờ giếng. Nói một cách ngắn gọn, người đàn bà Samaria chính là một người tội lỗi.
Theo như Trường phái Nghĩa Đen, người phụ nữ Samaria đã có năm đời chồng, và người cô hiện đang chung sống không phải là chồng của cô. Năm người chồng trước của cô hoặc đã qua đời hoặc đã ly dị. Quan hệ giữa cô và người đàn ông thứ sáu, người mà cô đang chung sống là một quan hệ vượt ra ngoài vòng lễ giáo. Bởi vậy khi bị Đức Jesus chất vấn, người đàn bà đã trả lời, “Οὐκ ἔχω ἄνδρα, Tôi không có chồng”. Đặc biệt dựa vào ý nghĩa của hai danh từ, “ἀνήρ, tình nhân” và “ἄνδρα, phu quân” được sử dụng trong bản văn, Charles Giblins khẳng định người đàn bà Samaria chưa bao giờ lập gia đình. Tất cả những mối liên hệ mà cô đã từng có với tất cả sáu người đàn ông vượt ra ngoài cương thường đạo lý. Nói một cách ngắn gọn, người phụ nữ xứ Samaria là một người đã từng sống ngoài vòng lễ giáo.

B. Nghĩa Bóng
Trường phái thứ hai thì ngược lại, họ tin rằng câu nói, “Οὐκ ἔχω ἄνδρα” và câu trả lời của Đức Jesus phải được phân tích theo nghĩa bóng. Dựa vào chữ phu quân trong tiếng cổ Do Thái là Ba’al, cũng là tên của một vị thần mưa nổi tiếng trong Cựu Ước, và dựa vào hình ảnh Yahweh Thiên Chúa là một người chồng trung tín trong sách Ngôn Sứ Hosea, thần học gia của Trường phái Nghĩa Bóng tin rằng năm người chồng của người phụ nữ tượng trưng cho năm vị thần của năm sắc dân đã được những cư dân của năm thành phố mang vào vùng đất mới; riêng người đàn ông thứ sáu, hiện đang chung sống với người phụ nữ Samarita chính là Yahweh Thiên Chúa. Một số thần học gia của Trường phái Nghĩa Bóng tin rằng năm người chồng của người phụ nữ tượng trưng cho Ngũ Thư, năm cuốn sách Kinh Thánh Cựu Ước duy nhất mà người Samaria tin.
Đặc biệt Sandra Schneiders, ngoài hai dữ kiện vừa được trình bày ở trên, đề nghị rằng câu chuyện về cuộc hội kiến giữa Đức Jesus và người phụ nữ Samaria phải được hiểu theo nghĩa bóng liên quan tới hai yếu tố:
(1). Tính lịch sử của Tin Mừng John 4:1-42,
(2). Thần học Giếng Nước trong dòng lịch sử ơn cứu độ.

1. Tính Chất Lịch Sử
Schneiders tin rằng câu chuyện bên bờ giếng John 4:1-42 không phải là một câu chuyện có tính lịch sử, bởi vì Đức Jesus chưa bao giờ đi rao giảng Tin Mừng tới dân ngoại. Và chính Ngài cũng đã từng truyền dậy các môn đệ điều này; thí dụ, trong bản Tin Mừng Matthew 10:5, trước khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Ngài đã căn dặn, “Các con đừng đi tới các dân ngoại, cũng đừng đi vào thành của người Samaria”. Schneiders tin rằng người đầu tiên mang ánh sáng Tin Mừng tới vùng đất Samaria có lẽ không phải ai khác mà là thầy Sáu Philip (Tông Đồ Công Vụ 9). Bởi vậy, cuộc tao ngộ giữa Đức Jesus và người phụ nữ xứ Samaria bên bờ giếng nước, theo như Schneiders, phải được hiểu và phân tích theo nghĩa bóng.
Schneiders tin rằng cuộc hội ngộ giữa Đức Jesus và người phụ nữ Samaria đã xuất hiện bởi hai nguyên nhân chính:
(1). Đây là một trong những cố gắng của Kitô hữu thời tiên khởi để hợp thức hóa công tác truyền giáo tới người xứ Samaria,
(2). Khẳng định vị thế bình đẳng giữa người Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc Samaria trong những cộng đoàn Kitô thời tiên khởi (3).

2. Thần Học Giếng Nước
Cũng theo Schneiders, trong khi đọc câu chuyện của người phụ nữ bên bờ giếng nước trong câu chuyện của John, độc giả không thể nào gạt bỏ qua một bên những câu chuyện có liên quan tới những giếng nước của tổ phụ Isaac, Jacob, và đại ngôn sứ Moses. Những nhân vật tiên phong và lừng danh của dòng lịch sử ơn cứu độ này cũng đã từng xuất hiện bên giếng nước, và cũng chính tại bối cảnh giếng nước họ đã gặp gỡ hiền thê của họ. Giếng nước Saikar Samaria do đó nhắc nhở độc giả Kinh Thánh giếng nước Aram Naharagim, nơi người hầu cận thân tín của tổ phụ Abraham đã gặp gỡ Rebecca, vợ tương lai của tổ phụ Isaac. Tại giếng nước đầu làng Haran, tổ phụ Jacob hội ngộ Rachael, vợ tương lai và mẹ của Joseph và Benjamin. Giếng nước Saikar cũng nhắc nhở độc giả Kinh Thánh về giếng nước Midian, nơi đó Moses đã giải cứu bẩy người con gái của Reuel thoát khỏi bàn tay của những người chăn chiên (Xuất Hành 2:15-22).
Cho nên, theo như Schneiders, cuộc hội ngộ giữa Đức Jesus và người phụ nữ xứ Samaria đã được tác giả John xây dựng lớp lang và chuẩn bị ít ra trong ba chương.
(1). Trong chương 2, qua câu chuyện tiệc cưới Cana (2:1-11), John đã giới thiệu và minh họa Đức Jesus qua hình ảnh Chú Rể, người đã ban phát rượu thượng hảo hạng cho những tân khách tham dự tiệc cưới;
(2). Trong chương 3, ngôn sứ John Tẩy Giả cũng giới thiệu tới các người môn đệ của ông về căn tính Chú Rể trời cao của Đức Jesus (John 3:25-30).
(3). Trong chương 4, qua câu chuyện bên bờ giếng Jacob, tác giả John đã xếp đặt để Đức Jesus gặp gỡ người phụ nữ Samaria bên bờ giếng, qua đó Chú Rể Jesus có cơ hội chào đón “cô dâu” Samaria vào bàn tiệc cưới Nước Trời.

3. Khó Khăn
Tới ngày hôm nay, cuộc tranh luận giữa hai Trường phái Nghĩa Đen và Nghĩa Bóng vẫn chưa ngã ngũ. Tuy nhiên, Trường phái Nghĩa Bóng gặp một cản trở nhỏ trong khi cố gắng thuyết phục độc giả Kinh Thánh. Đúng là người Samaria là do năm sắc dân khác nhau hòa trộn với dân Do Thái của Bắc Quốc Israel. Năm sắc dân, nhưng họ lại thờ phượng bẩy vị thần. Do đó, rất khó để mà nói là năm người chồng của người phụ nữ chính là năm vị thần mà người Samaria thờ phượng.

IV. Thần Học Hòa Giải
Một chi tiết xuất hiện trong John 4:1-42 mà thông thường độc giả ít chú ý tới trong khi lắng nghe lời đối thoại giữa Đức Jesus và người phụ nữ xứ Samaria. Câu nói “Cô hãy về nhà gọi chồng cô ra đây” phân tích dưới lăng kiếng xã hội là một câu nói hơi đường đột (4).
Titanic là một bộ phim nổi tiếng dài ba tiếng lấy biết bao nhiêu giọt nước mắt của khán giả. Sau khi cứu nhân vật nữ Rose thoát khỏi cảnh hiểm nghèo, sáng hôm sau, Jack Dawson và Rose gặp gỡ nhau. Chuyện qua chuyện lại, bất ngờ Jack nhắc đến vị hôn phu của Rose. Anh chàng Jack hỏi người đẹp Rose,
— Cô có yêu vị hôn phu của cô hay không?
Ngỡ ngàng trước câu hỏi quá đường đột thẳng như ruột ngựa, Rose khó chịu, phản ứng ngay,
— Anh là một người bất lịch sự. Tôi không biết anh. Anh không biết tôi… Anh hỏi tôi một câu anh không nên hỏi. Anh đúng là một người bất lịch sự…
Hai người, Jack và Rose, chỉ mới một lần gặp nhau. Dù rằng chàng thanh niên Jack đã có cử chỉ hào hùng cứu lấy mỹ nhân Rose, nhưng thật sự ra, hai người vẫn không chưa trở thành thân cho lắm để tâm sự hoặc chia xẻ riêng tư.
Chuyện vợ chồng trong nền văn hóa nào cũng là một câu chuyện riêng tư mà một người lịch sự không nên mở miệng hỏi, trừ khi người đối diện tự động nhắc đến. Gặp một người phụ nữ sơ giao trong một bữa tiệc, một người con trai lịch sự không bao giờ hỏi, “Cô đã có chồng chưa? Cô được mấy cháu rồi?". Câu này là một câu hỏi thiếu tế nhị, bởi nó có thể bị người đối diện hiểu lầm.
Khi gặp một người đàn ông và một người phụ nữ đang đứng nói chuyện với nhau nơi đồng không mông quạnh, rất khó cho chúng ta không có những tư tưởng xấu về họ. Chắc chắn chúng ta sẽ không nghĩ là hai người này đang tranh luận hoặc bàn thảo về chuyện tôn giáo, chính trị, hay là họ đang lần hạt Mân Côi chung với nhau.
Thế mà giữa đồng không mông quạnh gần thành phố Saikar, Đức Jesus gợi chuyện với người phụ nữ Samaria. Sau cùng Ngài hỏi người đàn bà sơ giao một câu hỏi về đời sống riêng tư của bà, “Cô về và gọi chồng cô ra đây”.
Trước tình cảnh này, người phụ nữ xứ Samaria có ba chọn lựa.
Thứ nhất, có thể cô ta sẽ nói,
— Ông là một người bất lịch sự. Ông không biết tôi. Tôi không biết ông. Ông hỏi tôi một câu hơi thiếu tế nhị. Tôi từ chối trả lời câu hỏi này bởi ông là một người bất lịch sự.
Thứ hai, người phụ nữ có thể chọn lựa im lặng không nói gì bởi câu hỏi của Đức Jesus hơi đường đột và quá bất ngờ.
Thứ ba, người phụ nữ xứ Samaria chọn lựa trả lời câu hỏi của Ðức Jesus.
Theo như thánh sử John, người phụ nữ xứ Samaria chọn, cái chọn lựa thứ ba, bởi cô nói,
— Tôi không có chồng.
Phân tích dưới lăng kiếng hòa giải, “Tôi không có chồng” là câu nói mà người phụ nữ đang nói với chính cô ta chứ không phải ai khác. Bị chất vấn, bị đặt vấn đề, người thiếu nữ cuối cùng chọn lựa thành thật với chính mình.
(1). Cô chấp nhận có một thời cô đã sống với bóng tối.
(2). Người phụ nữ Samaria hòa giải với chính mình bằng cách thú nhận với cô rằng người đàn ông cô đang sống chung không phải là chồng của mình. Bởi thế cô mới bật miệng nói, “Tôi không có chồng”. Câu nói này, cô ta nói với chính mình.
(3). “Tôi không có chồng” cũng là câu trả lời cho câu hỏi của người khách lạ mặt, câu nói hòa giải với Thiên Chúa qua hình ảnh của Con Một Của Người là Ðức Kitô.
Chỉ trong một câu nói đơn giản, ngắn gọn bốn chữ, “Tôi không có chồng”, người phụ nữ xứ Samaria vô danh đã bước qua liền một lúc ba giai đoạn của Mô Hình Chấp Nhận: Chấp nhận lỗi lầm, Chấp nhận hòa giải với chính mình, và Chấp nhận hòa giải với Thiên Chúa.
Và cuộc đời cô ta đổi thay sau hành động hòa giải này. Người phụ nữ bỏ lại bên bờ giếng bình đựng nước. Chạy về làng, cô gọi những người trong thôn làng ra gặp Đức Jesus. Người trong thôn làng, theo lời mời gọi của cô ta, chạy ra bờ giếng. Họ gặp gỡ người khách lạ bên giếng nước, và họ trở thành những người Kitô hữu. Bỏ lại bên bờ giếng bình đựng nước và chạy về làng gặp người trong thôn xóm là hai hình ảnh tượng trưng cho hành động chấp nhận đóng lại một trang sách cũ, mở ra một trang sách mới. Khi người đàn bà đi ra bờ giếng, cô ta mang theo trên người bình đựng nước tượng trưng cho một quá khứ nặng nề đè nặng trên vai. Ði ra giếng, người phụ nữ đi một mình. Khi bỏ lại bình nước bên bờ giếng, người phụ nữ Samaria chấp nhận bỏ lại sau lưng một trang sách cũ. Cô đóng lại trang sách của quá khứ để mở ra trang sách mới. Trong trang sách mới này, cô gặp gỡ những người dân trong làng mà có lẽ có một thời cô tránh né không muốn gặp mặt.
Người phụ nữ Samaria trong câu chuyện của John 4:1-42 đã đi qua cả bốn giai đoạn của Mô Hình Chấp Nhận. Cô là một mẫu người điển hình của con người mới, con người biết chấp nhận những lỗi lầm và hòa giải với một khoảng thời gian của lạc loài với chính mình.

V. Người Phụ Nữ Bên Giếng Nước
Ông Biệt phái Nicodemus trong chương 3 đã đi tìm gặp Đức Jesus vào ban đêm. Và trong suốt câu chuyện, Đức Jesus càng nói, ông Biệt Phái càng trở nên ngớ ngẩn không hiểu điều Ngài đang trình bày. Ngược lại, phụ nữ xứ Samaria đã đến tìm gặp Đức Jesus vào ngay giữa ban ngày. Thoạt tiên người đàn bà không hiểu tư tưởng Đức Jesus muốn trình bày. Nhưng cuối cùng cô đã nhận ra người bên bờ giếng chính là Đấng Mêsia/Ta’heb mà cô đang mong đợi. Cô bỏ lại bên bờ giếng bình nước, và chạy về làng làm chứng nhân cho Tin Mừng mà cô mới vừa gặp gỡ bên bờ giếng. Bởi chứng nhân của cô, tất cả người trong thôn đã chạy tới bờ giếng gặp Đức Jesus, và họ trở thành Kitô hữu.
Trong suốt câu chuyện, người phụ nữ không than van hay oán trách bất cứ một người nào khác cho một khoảng thời gian quá khứ của mình. Thật sự ra người phụ nữ bên bờ giếng biết thứ tha và hòa giải với chính mình. Bởi biết chấp nhận và hòa giải, cô ta đã đóng lại được một trang sách cũ của cuộc đời và mở ra một trang sách mới với niềm tin vào Đức Jesus.
Người phụ nữ bên bờ giếng, theo như Hạnh Các Thánh (thời Trung Cổ), tên Photina. Bà đã rửa tội cho công chúa con gái của hoàng đế Nêrô, sau cùng đã chết tử vì đạo trong ngục thất tại thành phố Carthage của Ai Cập.
□ Nguyễn Trung Tây, SVD

Chú Thích
[1] Câu nói của người thiếu phụ Samarita, “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng [Yahweh Thiên Chúa] trên núi này [Gêzirim], nhưng các ông lại nói ở thành phố Jerusalem” (4:20), đã phản ảnh Điều Răn Thứ Mười Một mà người Samaria tin.
[2] Tiếng Cổ Hy Lạp, phiên âm tiếng Việt “Úk é-kô án-dra”.
[3] Trong The Revelatory Text, Schneiders viết, “The basic purpose of the Samaritan Woman story in the gospel itself is to legitimate the Samaritan mission and to establish the full equality in the community between Samaritan Christians and Jewish Christians”. Coi Schneiders, The Revelatory Text (New York, NY: HarperCollins Publishers, 1991) 186.
[4] Thần học Hòa Giải bàn dưới lăng kiếng của Trường phái Nghĩa Đen

Thư Mục Tham Khảo
Aston, John. Understanding The Fourth Gospel. New York, NY: Oxford University Press Inc., 1991.
Ball, David. ‘I Am’ in John’s Gospel: Literary Function, Background and Theological Implications. Sheffield, England: Sheffield Academic Press, 1996.
Barrett, C. K. The Gospel Accoding to St. John. 2ed; Westminster, 1978.
Brown, Raymond. E. The Gospel According to John. AB 29, 29A; Garden City, NY: Doubleday, 1970.
Bruce, F. F. The Gospel Of John. Grand Rapids, MI: William B. Eerdmans Publishing Company, 1983.
Farmer, Craig. “Changing Images of the Samaritan Woman in Early Reformed Commentaries on John,” Church History 65 (1996) 365-375.
Giblin, Charles. “What Was Everything He Told Her She Did? (John 4.17-18, 29, 39),” New Testament Studies (1999) 148-152.
Marrow, Stanley. The Gospel Of John: A Reading. Mahwah, NJ: Paulist Press, 1995.
Moloney, Francis. Belief In The Word: Reading the Fourth Gospel: John 1-4. Minneapolis, MN: Augsburg Fortress, 1993.
Neyrey, Jerome. “Jacob Traditions and the Interpretation of John, 4:10-26,” CBQ 41 (1979).
Perkins, Pheme, “The Gospel According to John,” in The New Jerome Biblical Commentary. Ed. Raymond Brown, Joseph Fitzmyer, and Roland Murphy. Englewood Cliffs, NJ: Prentice Hall, 1990. Pp. 942-985.
Pilch, John, “Jesus and the Samaritans,” The Bible Today 40 (2002) 172-177.
Koester, Craig R. Symbolism in the Fourth Gospel: Meaning, Mystery, Community. Minneapolis, MN: Augsburg Fortress, 1995.
Schneiders, Sandra. The Revelatory Text. New York, NY: HarperCollins Publishers. 1991. Pp. 180-199.
Smith, D. Moody. John Among The Gospels: The Relationship in Twentieth-Century Research. Minneapolis, MN: Augsburg Fortress, 1992.
The Women’s Bible Commentary: Expanded Edition. Ed. Carol A. Newsom & Sharon H. Ringe. Louisville, Kentucky: Westminster John Knox Press, 1998.

□ Nguyễn Trung Tây, SVD
www.nguyentrungtay.com