Sức mạnh của lời cầu nguyện vô hiệu hóa cả bom nguyên tử

Viên phi công phụ cùng ngồi trên chiếc máy bay đã thả quả bom nguyên từ đầu tiên xuống thành phố Hiroshima/Nhật Bản vào cuối trận thế chiến II vừa qua đã kể lại như sau:

Quả bom nguyên tử nổ tại Hiroshima năm 1945
«Vào tháng 8 năm 1945, một chiếc máy bay loại B29 cất cánh tại đảo Tinian lúc 2giờ 45 đêm và trực chỉ quần đảo Nhật Bản. Để tiêu diệt bộ máy chiến tranh Nhật Bản, thành phố Hiroshima cần phải bị xóa sổ. Khóa gài quả bom nguyên tử được mở ra để cho quả bom rớt xuống trên thành phố bất hạnh này với trên dưới một nửa triệu dân cư. Mọi sự diễn ra theo đúng kế hoạch đã dự định. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại người ta dám làm điều đó, dám sử dụng bom nguyên tử. Lúc đó kim đồng hổ chỉ 8 giờ 15 sáng. Một tia chớp loé ra khủng khiếp, và toàn thể thành phố bị bao trùm bởi một làn khói cực kỳ nóng hực, làm nổ tung mọi nhà cửa dinh thự. Một đám khói trắng khổng lồ chỉ trong vòng khoảng 3 phút đã bốc lên cao từ 10.000 đến 20.000 mét. Toàn thể thành phố bị tiêu diệt hoàn toàn. Không gì còn sót lại ngoài tối tăm, máu chảy, các đám cháy, sự kêu la đau đớn và sự khủng khiếp bành trướng mau lẹ. Tôi sẽ không bao giờ tẩy xoá được sự ám ảnh của những giây phút kinh hoàng rùng rợn này khỏi trí óc, dù cho tôi có sống lâu cả 100 tuổi đi nữa.»

Không chỉ viên phi công phụ này mà toàn thể thế giới vào lúc bấy giờ đều bị «sốc» mạnh. Thành phố Hiroshima muôn đời là một lời cảnh cáo nghiêm trọng. Tuy nhiên, còn rất nhiều điều xảy ra tại nơi đây mà mãi cho tới nay vẫn chưa được nhiều người biết đến. Một trong những điều đó là việc Đức Maria, Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi đã bảo vệ chở che một cách vô cùng lạ lùng cộng đoàn cầu nguyện bé nhỏ của 4 Linh mục Dòng Tên tại một nhà xứ, cách trung tâm thành phố Hiroshima, nơi quả bom nguyên từ nổ, chỉ 8 căn nhà mà thôi. Cha Hubert Schiffer, mới 30 tuổi, phụ trách công tác mục vụ tại giáo xứ Đức Mẹ Lên Trời, một trong những nhân chứng của sự kiện khủng khiếp đó, đã tường thuật lại dịp Đại Hội Thánh Thể tại Philadelphia (USA) như sau: «Bầu trời trong xanh Hiroshima bỗng nhiên, chỉ trong vòng một hơi thở, được chiếu sáng rực lên bởi một luồng ánh sáng chói loà, cực kỳ mạnh không thể diễn tả được. Còn chung quanh tôi chỉ còn ánh sáng loé lên, khiến tôi không còn có thể nghe hay suy nghĩ được gì nữa cả. Mọi sự vào lúc đó đều hoàn toàn chìm vào yên lặng. Tôi bơi lội trong đại dương ánh sáng, bất lực và đầy sợ hãi. Cả không gian như ngừng thở trong bầu tử khí. Rồi bỗng chốc tất cả bao trùm trong một tia chớp sáng loè phát ra từ một tiếng nổ dữ dội. Một sức mạnh vô hình cuốn lôi tôi khỏi chiếc ghế tôi đang ngồi. Tôi bị va vào khắp nơi, bị quay cuồng, đảo lộn trong không khí như một chiếc lá trong cơn gió mùa thu. Sau đó, mọi sự lại chìm vào bóng tối, vào sự vắng lặng, vào cõi hư không. Vào lúc đó, tôi vẫn luôn tỉnh táo, chứ không ngất xỉu, vì tôi cứ suy nghĩ và tìm hiểu sự gì đã xảy ra. Với các ngón tay, tôi cảm nhận được chính mình trong sự tối mù hoàn toàn đó. Tôi nằm úp mặt xuống trên những thanh gỗ nằm rải rác dưới đất. Một vật gì nặng đè lên lưng tôi, máu chảy xuống trên mặt tôi. Tôi không còn có thể nhìn thấy và cũng không nghe được gì cả. Tôi nghĩ mình đã chết. Bấy giờ tôi nhận ra được tiếng mình. Đó cả là một cảm nghiệm khủng khiếp. Nhưng cũng chính điều đó giúp tôi biết được mình hãy còn sống, và vô cùng khiếp sợ khi biết rằng một tai hoạ nào đó đã xảy ra. Suốt cả một ngày tôi và ba người anh em cùng Dòng phải sống trong lò lửa hoả ngục, trong khói mịt mù và trong phóng xạ đó, mãi cho tới khi chúng tôi được những người cứu thương tìm thấy và đưa về nơi an toàn. Tất cả chúng tôi đều bị thương, nhưng nhờ ơn Chúa, chúng tôi đều được thoát chết.»
Hiroshima chỉ còn là đống tro tàn khổng lồ sau khi quả bom nổ


Đứng về phía nhân loại thì không ai có thể cắt nghĩa được tại sao 4 vị Linh mục Dòng Tên này, là cha Lasalle, cha Kleinsore, cha Cieslik và cha Schiffer – mà vào năm khai mạc Đại Hội Thanh thể 1976 vẫn còn sống – là những người duy nhất trong hàng trăm ngàn người sống trong chu vi 1,5 km mà vẫn sống sót một cách hầu như bình thường. Đối với các người chuyên môn về bom nguyên tử thì đó cả là một bí mật không thể tìm ra được câu giải thích, là tại sao không một ai trong bốn vị Linh mục Dòng Tên này không hề bị nhiễm phóng xạ, khi quả bom nguyên tử nổ chỉ cách nhà các ngài vài trăm thước và tại sao căn nhà xứ nơi các ngài ở vẫn nguyên vẹn trong khi tất cả các nhà cửa khác đều bị thiêu ra tro cả. Trên 200 các bác sĩ và các nhà khoa học Mỹ cũng như Nhật Bản sau khi kiểm tra và tìm hiểu những tường thuật của cha Schiffer, cũng không tìm ra được sự giải thích nào. Và mãi 33 năm sau khi quả bom nổ, cha Schiffer vẫn sống khoẽ mạnh bình thường, chứ không hề bị bất cứ hậu quả nào do phóng xạ gây ra.
Các nạn nhân của bom nguyên tử tại Hiroshima
cả

Trong khi các nhà khoa học bất lực không tìm ra được cẩu trả lời cho sự kiện lạ lùng đó, thì chính cha Schiffer đã trả lời một cách xác tín rằng: «Với tư cách là những nhà truyền giáo, chúng tôi chỉ muốn thực thi sứ điệp Đức Mẹ Fatima trong cuộc sống của mình, và vì thế hằng ngày chúng tôi đã lần hạt Mân Côi.» Cha Schiffer qua đời ngày 27.3.1982 tại thành phố Frankfurt, Đức quốc.

(Trích trong: «Gruss aus dem Barmherzigkeitskloster», 2008)