HÀNH HƯƠNG BƯỚC THEO THẦY 17.10.2011-8.11.2011.

PILGRIMAGE FOLLOWING JESUS – BƯỚC THEO THẦY


PHẦN NHẤT - BƯỚC THEO THẦY.

Chiều thứ 2 ngày 17 tháng 10 năm 2011, đoàn Hành Hương Bước Theo Thầy lên đường Hành Hương theo bước Chân của Chúa Giêsu Kitô và bước chân của các Thánh Tông Đồ, đặc biệt 2 Thánh Tông Đồ Cả là Phêrô và Phaolô.

Đoàn hành hương chúng tôi trên chuyến bay Boeing 777 của hãng hàng không Emirate lên đường tới Bangkok, sau đó, chuyến bay Boeing 777 lại đưa chúng tôi tới Dubai và tiếp tục hành trình bay tới Amman nước Jordan. Xe bus đón Đoàn Hành Hương Bước Theo Thầy theo dấu chân của Moi Sen và Gioxuê qua khu vực dân Moab, nơi Moisen cầu nguyện khi giang tay thì thắng trận, khi mỏi tay buông xuống thì dân Do Thái thua trận...Đi qua dẫy núi Nebo nơi Moisen qua đời nhìn về Thánh Địa và Môi Sen qua đời tại đây và không được vào Hứa Địa Israel. Qua dẫy núi Moab và hướng về Jericho theo con đường Gioxuê dẫn dân Do Thái về Hứa Địa. Xe bus dẫn đoàn qua thung lũng sông Jordan nhìn về Biển Chết và vùng Jericho. Qua biên giới Jordan và Israel, binh lính Israel kiểm soát rất khắt khe....Đoàn khá mệt mỏi vì phải đi bộ từng người qua trạm, vả lại ai cũng sợ mất passport...Phái đoàn Hành Hương tiến vào hoang địa Judea và hướng về Jerusalem. Phái Đoàn vào Jerusalem đúng và dịp Lễ Lều Sukot, những lều tạm người Do Thái dựng lên để nhớ về những ngày gian khổ xa xưa trong hoang địa 40 năm trên đường về Hứa Địa Israel.

Hành trình Núi Moab Jordan về Hứa Địa Israel


Hành Hưong Bước Theo Thầy nhập cuộc theo Hành Trình của Chúa Giêsu Kitô cách đây hơn 2000 năm theo chủ đề: "Bước Theo Thầy.".

KHÁI NIỆM VỀ NƯỚC DO THÁI

a) Địa dư: Diện tích nước Do thái là 20.850 km2. Dài 416 km, rộng từ 15km đến 66km. 50% đất đai là những cánh đồng hoang vu. Ranh giới Do thái nằm sát với Libăng, Syria, Jordan và Ai Cập, phía tây giáp với Địa trung Hải.

b) Khí hậu: có 2 mùa rõ rệt, mùa hè khô ráo và mùa đông ôn hòa nhưng hay mưa.

c) Dân số: Dân số ngày nay tại Do Thái là 7,700,000 người, gồm 5,802,000 người Do Thái, và 1,573,000 người Ả Rập, và khoảng 160,000 người du mục Bedouins. Về Tôn Giáo, Do Thái có 5,802.000 theo Đạo Do Thái, 633.000 Hồi giáo Ả Rập, 105.000 Công Giáo, và cón lại là những người theo các Tôn Giáo khác.

d) Ngôn ngữ: Tiếng Do Thái được đổi mới, toàn dân đều học và nói tiếng Do Thái. Báo chí bằng tiếng Do Thái mỗi ngày một gia tăng.

e) Tôn giáo: Do thái có những tôn giáo chính: Do Thái giáo, Hồi giáo, Kitô giáo theo nghi lễ Đông phương và La Tinh, Tin Lành...

Sáng ngày 18 tháng 10, đúng ngày Lễ Sukot, Lễ Lều của người Do Thái với 8 ngày nghỉ. Đoàn hành hương hưóng về Belem. Nghỉ đêm tại Belem nơi Hotel Golden Park. Ngày 19.10, đoàn đã cùng nhau lên đường kính viếng Ein Kerem Thánh Đường Gioan Tẩy Giả, Thánh Đường Mẹ Thăm Viếng, Giếng Đức Mẹ.

Hành Hương đến thăm Ein Karem, nơi Thánh Gioan Tẩy Giả Sinh Hạ tại đây, đồng thời hành hương Thánh Đường Đức Mẹ thăm viếng Bà Thánh Elisabeth xảy ra xưa kia. Ngôi làng xinh xắn Ein Karem không xa Jerusalem bao nhiêu. Ein Karem theo nguyên ngữ Do Thái là “Spring of the Vineyard-Suối của vườn nho”, Làng được bao bọc bằng những ngọn đồi với nhiều vườn cây olive và nho. Làng này được tin tưởng là nơi Thánh Gioan Tẩy Giả sinh hạ. Nơi đây, Mẹ Maria từ Nazareth đến thăm viếng người chị họ tên là Isave (Elizabeth), mẹ của Thánh Gioan Tẩy Giả, theo Phúc Âm Luca (Luke 1: 39-46). Phúc Âm không chỉ định rõ nơi Mẹ Maria gặp Thánh Isave hay chỉ rõ nơi Thánh Gioan Tẩy Giả sinh hạ. Phúc Âm chỉ trình thuật: “Mẹ Maria vội vã tiến về vùng núi của Judah.”

Nơi này phải là nơi gần Jerusalem để Zacharias là cha của Thánh Gioan Tẩy Giả phục vụ trong Đền Thờ. Theo truyền thống và qua các nhà khảo cổ cùng với những tài liệu quý giá, Ein Karem được nhận là nơi Mẹ Maria thăm viếng và là nơi hạ sinh Thánh Gioan Tẩy Giả. Ngôi làng xinh xắn này với nhiều suối nước phù hợp với tường thuật của Thánh Sử Luca, là nơi quy tụ nhiều người từ thuở xa xưa. Ngôi Nhà Thờ mang tên Thánh Gioan Tẩy Giả được xây dựng vào thế kỷ thứ 5 ngay trên ngôi nhà của ông Zacharias và là nơi sinh hạ của Thánh Gioan Tẩy Giả. Nhà Thờ bị phá huỷ rồi được xây dựng lại thời Đạo Binh Thánh Giá. Ngôi Nhà Thờ hiện nay được quý Cha Phanxicô xây dựng vào năm 1885. Nhà Thờ Thăm Viếng với 2 tầng được xây dựng trên khu vực Thánh Isave mang thai Gioan Tẩy Giả và Mẹ Maria đến thăm viếng Bà. Từ những ngày đầu tiên, Nhà Thờ này được xây dựng vào thế kỷ thứ 5. Sau đó, nhiều lần được sửa chữa lại và đến năm 1938, quý cha Phanxicô mới xây dựng Nhà Thờ phía trên. Trên bức tường hướng về Nhà Thờ, bản kinh Magnificat (Linh Hồn tôi ngợi khen Chúa) của Mẹ Maria được viết bằng 41 ngôn ngữ khác nhau. Đoàn chúng tôi xuống lầu dưới Nhà Thờ Thăm Viếng để cùng cầu nguyện trước Giếng Đức Mẹ. Giếng này còn khá nguyên thủy được rào vây rất cẩn thận. Nơi đây, Mẹ Maria đã từng múc nước giúp đỡ Bà Elisabeth trong lúc mang thai Gioan Tẩy Giả. Trên hành trình xuống núi, rừng xanh, vườn nho, cây cối tươi tốt chung quanh, tạo cho con người một tâm hồn thanh thoát. Đoàn Hành Hương dừng chân nơi một giếng Đức Mẹ khác nữa dưới chân núi, người ta để tấm bảng "Mary's Well - Giếng Đức Mẹ."

Sau đó, trên đường thăm viếng mô hình Kinh Thành và Đền Thánh Jerusalem. Mô hình Kinh Thành và Đền Thánh Jerusalem được xây dựng rất vĩ đại và công phu phản ảnh trọn vẹn Kinh Thành Jerusalem đời Chúa Giêsu. Hình ảnh Đền Thánh Jerusalem hùng vĩ oai nghiêm do Vua Herode xây dựng vào năm 20 BC. Đây là Kinh Thành David. Xa xa phía góc kia là Đồn Lũy Antonia Fortress. Cả mô hình Kinh Thành Jerusalem. Mô hình Đền Thờ thứ 2 của Kinh Thành Jerusalem thời vua Herode được phỏng dựng lại cho khách du lịch và hành hương tham quan. Công trình này kéo dài 7 năm sau khi nghiên cứu, thực hiện, và xây dựng một cách công phu. Công trình này chiếm khoảng ¼ acre. Những nhà thiết kế đã thực hiện lại theo mẫu hình Kinh Thành Jerusalem dưới thời Đức Giêsu một cách chính xác nhất.

Chúng tôi may mắn được vào xem thư viện truyền thống của Israel. Thư viện nhỏ với hình củ hành giống như những chiếc bình đựng những Cuốn Thánh Kinh từ Qumran vùng Biển Chết. Cộng Đồng người Essenes tự nhận mình là con Thần Ánh Sáng và những dân tộc khác là con của tối tăm. Quan niệm này được diễn tả bằng sự tương phản giữa mầu trắng của Đền và mầu đen của bức tường gần cửa chính. Bức tường cẩm thạch mầu đen tượng trưng cho sự đau khổ của người Do Thái xuyên suốt 2000 năm. Đền này với biểu tượng như một cái hang nằm sâu dưới lòng đất. Đền này chứa đựng Những Cuốn Thánh Kinh quý giá vùng Biển Chết, với những thư từ tài liệu của Bar Kokhba và những di tích giá trị khác...Pho Sách Thánh Kinh cổ kính và hiếm quý viết trên giấy papyrus và da, được gọi là Dead Sea Scroll.

Sau đó, Đoàn Hành Hương viếng thăm Đại Giáo Đường Giáng Sinh. May mắn quá, Đại Giáo Đường Giáng Sinh hôm nay khá vắng người...Đoàn chúng tôi được Wasim Saba, người hướng dẫn đưa chúng tôi vào Đại Giáo Đường Giáng Sinh.

Nhà Thờ Giáng Sinh Belem.
Đại Giáo Đường Giáng Sinh với hình Thánh Giá dài 170 feet và rộng 80 feet. Đại Giáo Đường Giáng Sinh được chia làm 5 cánh với 4 hàng cột lớn bằng đá đỏ của Đất Thánh. Những miếng trang trí bằng đá mosaics từ thế kỷ thứ 4 được khám phá ra năm 1936. Phần trên của Đại Giáo Đường và các tường, những miếng trang trí mosaics hiện rõ và do Đạo Binh Thánh Giá trang trí lại. Ca Đoàn Chính Thống Hy Lạp thường đứng hát Thánh Ca trên Hang Đá Giáng Sinh được trạm trổ bằng tay trên gỗ bá hương từ Lebanon. 2 cửa chính vào Đại Giáo Đường dẫn tới Hang Đá Giáng Sinh hình vuông với 35 feet dài và 10 feet rộng. Hang Đá Giáng Sinh được trang trí bằng 48 ngọn đèn. Một Ngôi Sao bằng bạc đặt ngay nơi Đức Giêsu Giáng Sinh có ghi bằng tiếng La Tinh: “Hic de Maria Virgine Jesus Christus Natus Est.” (Nơi đây Đức Giêsu Kitô đã Giáng Sinh bởi Mẹ Maria Đồng Trinh). Máng Cỏ được đặt bên phải. Những tảng đá nguyên thuỷ đen sạm vì nến và khói nằm phía trên Máng Cỏ. Mái nguyên thuỷ của Hang Đá được làm từ thế kỷ thứ 4. Những bức tường của hang được bảo quản bằng vật liệu chống lửa cháy do Tổng Thống Pháp Mac Mahon tặng năm 1874.

Sau khi hôn kính Ngôi Sao Giáng Sinh và chụp hình bên Máng Cỏ Chúa Giêsu, đoàn chúng tôi dâng Thánh Lễ tại hang Mục Đồng trên Cánh Đồng Mục Tử.. Đoàn thăm viếng Cánh Đồng Mục Tử. Những mục đồng canh giữ đoàn chiên ngoài đồng ban đêm, họ thấy các thiên thần của Thiên Chúa đứng hát chung quanh họ và loan tin: “Đừng sợ, ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại, hôm nay, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa.” (Luke 2). Mặc dù các Phúc Âm không nói rõ vị trí chính xác của các mục đồng, nhưng theo truyền thống xa xưa, nơi này là cánh đồng nằm vào khoảng 2 dặm về phía đông của Belem. Đoàn chúng tôi dâng Thánh Lễ tại đây, vang hát những bài ca Giáng Sinh của các Thiên Thần loan báo cùng với các Mục Đồng năm xưa: “Gloria in Excelsus Deo – Vinh Danh Thiên Chúa trên các Tầng Trời.”

Ngày 20 tháng 10, đoàn hành hương tiến về Nazareth nơi Chúa Giêsu sống ẩn dật 30 năm. Nazareth là một trong những thành phố chính của Đất Thánh với độ cao 1,230 feet trên mặt nước biển. Thành phố này nằm giữa những ngọn đồi và được chọn là nơi Truyền Tin cho sự kiện sinh hạ Đấng Cứu Thế. Nơi đây, “Ngôi Lời đã biến thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta.” (John 1:14). Đức Kitô đã sống thời kỳ ẩn dật tại đây giống như các trẻ em Nazareth khác. Ngài đã làm thợ mộc với Thánh Cả Giuse và Thánh Sử Luca đã gọi Ngài là người thợ mộc. Nazareth là một thành phố nhỏ không có tiếng tăm, bên cạnh làng Cana. Tại đây, Nathanael đã nghe nói về Đức Kitô. Ngài cũng không được đón tiếp tại quê hương Nazareth khi Ngài khẳng định: “Quả thật ta nói cho chúng con hay, không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình.” (Luke 4:24). Chúng tôi vào thăm Hội Đường Do Thái, nơi dân Nazareth đã không tiếp nhận Ngài. Chúa Giêsu đã rời bỏ Nazareth để xuống Capharnaum để rao giảng. Tại Nazareth có một giòng suối nhỏ vẫn tiếp nước cho giếng nước của Mẹ Maria (Mary’s well). Năm 66 A.D. Thành phố này bị tàn phá do Vespasian. Vào năm 629, người Do Thái bị trục xuất khỏi Nazareth do lệnh của Heraclius. Trong thời kỳ Đạo Binh Thánh Giá, thành phố sống lại và phồn thịnh hơn. Ông Tancred, Hoàng Tử của Galilê xây dựng lại nhiều Nhà Thờ và tu viện. Năm 1187, thành phố bị Saladin xâm chiếm. Năm 1263 thành phố bị tàn phá do Beybars, sau đó rơi vào tay người Hồi Giáo kéo dài 400 năm. Năm 1620, nhiều gia đình Công Giáo về lập nghiệp nơi đây. Ngày nay, Nazareth phát triển lên và khoảng 35,000 dân gồm người Ả Rập và phần đông là người Công Giáo.

Nazareth là nơi cư trú của người Do Thái xưa kia. Người Công Giáo khởi công xây dựng vào thế kỷ thứ 4. Khoảng thế kỷ thứ 5, Nhà Thờ Truyền Tin được xây dựng tại hang đá Truyền Tin. Năm 614, Nhà Thờ bị phá huỷ do người Ba Tư. Tancred xây dựng lại tu viện và Nhà Thờ theo kiểu Roman. Năm 1263, Nhà Thờ Đạo Binh Thánh Giá bị phá huỷ do Beybars. Năm 1730, Tu Sĩ Phanxicô được phép xây một Nhà Thờ nhỏ và được làm lớn hơn vào năm 1877. Tu Sĩ Phanxicô luôn luôn muốn xây dựng một ngôi Nhà Thờ lớn xứng đáng với Mầu Nhiệm Truyền Tin. Ước mơ của họ được thực hiện vào năm 1960-1968. Một Nhà Thờ nguy nga được xây dựng tại đây. Nhà Thờ này trở thành lớn nhất trong vùng Trung Đông. Trước khi xây dựng, họ khai quật toàn bộ khu vực. Nhiều di tích đời xưa được khám phá.

Sau khi kính viếng Thánh Đường Truyền Tin và hôn kính nơi Sứ Thần Truyền Tin cho Mẹ Maria. Đoàn kính viếng xưởng thợ Thánh Giuse và Gia Đình Thánh Gia, hành hương nơi Giếng Đức Mẹ đã thường xuyên múc nước hằng ngày cho sinh hoạt Gia Đình Thánh Gia. Hành Hương Bước Theo Thầy cũng còn đến thăm viếng làng Naim, nơi Chúa Giêsu cho chàng thanh niên con một bà goá sống lại. Đêm nay,đoàn chúng tôi nghỉ đêm tại làng Nazareth.

Tiếp theo, Hành Trình Bước Theo Thầy viếng thăm Cana, nơi Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên tại đây. Đoàn dâng lễ Hôn Nhân đặc biệt cho 5 cặp Hôn Nhân tham dự nghi thức Lễ Nghi Hôn Nhân Truyền Thống tại Cana, và được cấp chứng chỉ Hôn Nhân tại Cana, để nhớ lại Bí Tích Hôn Nhân. Cana nằm vào khoảng 4 miles trên đường từ Nazareth tới Tiberias. Cana là nơi Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên hoá nước thành rượu trong một tiệc cưới. (John 2:1-11). Đoàn được tận mắt nhìn thấy 1 trong 6 chum nước rửa tay mà Chúa Giêsu đã truyền cho gia nhân đổ nước để Ngài làm phép lạ hoá nước thành rượu tại Cana. Chúng tôi đi chung quanh khu vực của gia đình đã mới Chúa Giêsu và Mẹ Maria tham dự tiệc cưới. 2 Nhà Thờ được xây dựng tại đây để kính nhớ phép lạ đầu tiên này. Sau đó, Đoàn Hành Hương tiến về Cesarêa thăm viếng những di tích xa xưa với những dinh thự, đền đài từ thế kỷ thứ nhất thời Roma. Đoàn lên núi Carmel, nơi tiên tri Elia thách đố niềm tin với 450 phù thuỷ của Thần Baal. Elia đã xin lửa bởi trời nhận lễ vật để minh chứng Thiên Chúa là Thiên Chúa thật, trước sự thất bại của nhóm phù thuỷ Thần Baal. Tiên Tri Elia đã ra lệnh truy diệt tất cả nhóm phù thuỷ Thần Baal này. Sau đó, Đoàn Hành Huơng tiến về hải cảng nổi tiếng Haifa và ăn trưa mừng 5 cặp hôn nhân tại đây. Khung cảnh đại dương xanh điệp trùng rất nên thơ. Haifa là một thành phố nhỏ với 10,000 dân cư vào đầu thế kỷ 20. Hiện nay, dân số tăng lên tới 225,000 người và là thành phố lớn thứ 3 của Do Thái. Haifa là hải cảng chính và là nơi có nhiều kỹ nghệ quan trọng. Thành phố nằm trong bờ biển Địa Trung Hải và dọc theo núi Carmel. Haifa có tên gọi vào thế kỷ thứ 3 A.D. Thành phố nhỏ này bị chiếm đóng nhiều lần do Đạo Binh Thánh Giá, người Ả Rập, người Thổ Nhĩ Kỳ, và người Anh. Năm 1898, Theodor Herzl, sáng lập viên của Zionism, thăm viếng Haifa và thấy được tương lai của thành phố. Ngày nay, nhiều cư dân đã định cư tại đây và biến thành phố trở thành một nơi quan trọng. Haifa còn có trung tâm của Tôn Giáo Bahai trên toàn thế giới với khoảng 2,000,000 tín đồ. Đạo Bahai có nguồn gốc từ Ba Tư năm 1844. Những người lãnh đạo của Tôn Giáo này bị đầy sang Acre. Họ tin tưởng sẽ quy tụ được mọi Tôn Giáo, mọi sắc dân, và xử dụng chung một ngôn ngữ trên toàn thế giới. Theo họ, tất cả các tiên tri được Thiên Chúa sai đến mang cùng một sứ điệp. Tiên Tri sau cùng là Baha Ullan, vị sáng lập Tôn Giáo Bahai. Họ thiết lập thành phố Thánh Địa tại Haifa.

Sau đó, Đoàn Hành Hương đến viếng Đức Ba Núi Carmêlô, tước hiệu Mẹ của Đại Dương. Một Thánh Đường nguy nga dâng kính Đức Bà Núi Carmêlô. Nơi đây, ảnh Đức Bà Núi Carmelô hay làm phép lạ được phổ biến trên toàn thế giới. Hành Hương chúng tôi cầu nguyện tha thiết với Đức Bà Carmêlô.

Buổi chiều, đoàn hành hương tiến lên Núi Tabor, nơi Chúa Biến Hình với 3 môn đệ: Phêrô, Giacôbê, và Gioan. Núi Tabor sừng sững vươn cao giữa các đồng bằng trên 1,900 feet cao hơn mực nước biển. Đây là một khung cảnh tuyệt đẹp trong vùng núi miền Galilê. Trong Thánh Vịnh 89, David hát lên: “Núi Tabor và Hermon sẽ mừng vui trong danh Thiên Chúa.” Trong thời xa xưa, nơi đây là biên giới giữa bộ lạc miền bắc và miền nam. Núi Tabor được nhận là Núi Thánh của Do Thái, vì nơi đây, vinh quang Thiên Chúa được thể hiện qua chiến thắng của Barak, với lời tiên tri Deborah, đánh bại quân đội Canaan dưới quyền Sisera (Judges 4:6). Làng Ả Rập dưới chân núi có tên gọi là “Daburieh” để vinh danh Nữ Tiên Tri Deborah. Đối với người Thiên Chúa Giáo, núi Tabor là Núi Thánh vì nơi đây Chúa Giêsu đã biến hình trước 3 môn đệ của Ngài (Luke 9:28 – 36). Đỉnh Núi Tabor dài 1,300 yards và rộng 450 yards, vây quanh với những di tích của thành luỹ cũ xây dựng vào thế kỷ 13 do người Hồi Giáo. Năm 1924, quý cha Phanxicô đã xây Nhà Thờ Chúa Biến Hình tại đây với những di tích của các Nhà Thờ trước kia. Bên cạnh những di tích của Nhà Thờ Byzantine thế kỷ thứ 6 và 12, người ta còn thấy được những di tích của những thành luỹ và tu viện xa xưa. Từ đỉnh cao của Núi Tabor, du khách có thể xem thấy khung cảnh huy hoàng và tuyệt mỹ của cả vùng chung quanh.

Ngày 22 tháng 10, Hành Trình Bước Theo Thầy theo bước chân của Chúa Giêsu viếng thăm Biển Hồ Galilea. Thăm viếng Nof Ginosaur Kibbutz, nơi con thuyền nguyên thuỷ từ thế kỷ thứ nhất trong thời Chúa Giêsu hoat động Truyền Giáo tại đây. Đoàn hành hương cùng Chúa Giêsu lênh đênh trên Biển Hồ Galilea sóng nước chập chùng. Tới giữa Biển Hồ, tầu dừng lại, và chúng tôi cùng suy niệm đoạn Phúc Âm Chúa Giêsu làm phép lạ khiến cho sóng và gió biển im lặng. Buổi trưa đoàn thưởng thức món Cá Thánh Phêrô truyền thống.

Biển Hồ Galilê dài 13 miles rộng 7 miles và sâu từ 130 đến 157 feet. Biển Hồ thấp hơn mặt nước biển là 686 feet. Biển Hồ có nhiều tên gọi khác nhau như Biển Hồ Galilê, Biển Hồ Tiberias, hay Biển Hồ Kinneret. Biển Hồ có hình giống như cây đàn harp và có nhiều cá như cá chép, cá mullet, cá trê, cá mòi...Giống như thời gian xa xưa, hiện nay, người ta vẫn còn bắt cá bằng lưới. Nước Biển Hồ trong và yên tĩnh. Thời Chúa Giêsu, Biển Hồ là trung tâm dẫn đến các phương hướng khác nhau. Nơi đây, với sự thông thương thuận lợi, thung lũng phì nhiêu, sự tươi đẹp của vùng, và suối nước nóng của Tiberias, đã lôi cuốn số đông dân cư về sinh sống. Biển Hồ Galilê bao quanh bởi 9 thành phố. Với nước ngọt, nhiều cá và mặt hồ xanh thắm, Biển Hồ Galilê đã trở thành lý tưởng cho cuộc sống. Trong thung lũng đầy tràn sinh động, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng về Nước Thiên Chúa. Nơi đây, Ngài đã trải qua cuộc đời công khai khá lâu cũng như giảng dạy và làm nhiều phép lạ. Trên bờ Biển Hồ, Chúa Giêsu đã chọn Thánh Phêrô, Andrê, Giacôbê, và các Tông Đồ khác (Mathew 4:18- 20, Luke 5:1- 11). Ngài chữa lành người cùi (Mathew 8: 1-4). Ngài truyền cho sóng biển im lặng (Matthew 14: 22- 23) và chữa lành nhiều bệnh nhân khác (Matthew 15: 19- 21). 12 Tông Đồ được Ngài truyền lệnh lên nơi thanh vắng và cầu nguyện tại nơi gần Biển Hồ (Mark 3:13- 19). Đêm nay, đoàn chúng tôi được nghỉ đêm tại ngay Biển Hồ Galilê.

Ngày chiều, Hành Trình Bước Theo Thầy viếng thăm Capharnaum – Capernaum, Trung Tâm hoạt động Truyền Giáo của Chúa Giêsu. Kính viếng ngôi nhà của Nhạc Phụ Thánh Phêrô và Hội Đường Do Thái nguyên thuỷ tại đây. Buổi tối sẽ có dịp tắm nước Biển Hồ Galilea. Capharnaum nằm khoảng 2 dặm rưỡi từ nơi sông Jordanô chảy vào Biển Hồ Galilê. Nơi đây có trạm canh thuế vụ trên đường tới Damascus và là nơi đông đảo những quan quyền Roma. Đây là thành phố bận bịu khá nhiều do các thương gia vận chuyển lụa là và gia vị từ Damascus, rồi mang về cá khô, cây trái, từ vùng Gennessaret. Sau khi rời bỏ Nazareth, Ngài đến Capharnaum và biến nơi này thành nơi cư trú và giảng đạo. Thành phố này biến thành trung tâm hoạt động của Ngài. Tại đây, Ngài giảng dạy rất nhiều, đồng thời, Ngài thực thi nhiều phép lạ. Capharnaum là quê hương của Thánh Phêrô. Đức Giêsu rao giảng trong Hội Đường (Mark 1:21, Like 4:31 – 33). Ngài chữa lành một người quỷ ám và chữa lành mẹ vợ của Thánh Phêrô (Matthew 8:17 – 17, Mark 1:21 – 34, Luke 4:31 – 41). Ngài chữa lành người đầy tớ của viên bách quan đội trưởng (Matthew 9:1 – 8, Mark 2:1 – 12, Luke 5:17 – 20). Ngài cho con gái ông Jarô sống lại (Matthew 9:18 – 26, Mark 5:22 – 43, Luke 8:41 – 56). Ngài chữa lành người đàn bà hoại huyết (Matthew 9:20 – 22, Mark 5:25 – 35, Luke 8:43 – 48). Ngài chữa lành 2 người mù (Matthew 9:27 – 35). Làm phép lạ cho con trai người giầu có (John 4:46 – 54). Chữa lành kẻ bại tay (Matthew 12:10 – 14, Mark 3:1 – 6, Luke 6:6 – 11) và chữa lành nhiều người được mang đến cầu khấn Ngài (Matthew 8:16 – 17; 9:36 – 38). Ngài lên án Capharnaum (Matthew 11:23 – 24). Lời tiên tri của Đức Giêsu về Capharnaum đã xảy ra. Ngày nay, Capharnaum đổ nát bên bờ hồ. Năm 1905, 2 nhà khảo cổ người Đức bắt đầu khai quật tại đây và được quý Cha Phanxicô hoàn thành vào năm 1926. Họ đã khám phá ra Hội đường nổi tiếng tại đây. Hội đường này được xây lại vào thế kỷ thứ 3 trên những di tích của Hội Đường mà Đức Giêsu đã chữa lành người đầy tớ của viên bách quan đội trưởng (Luke 7). Những biểu tượng của người Do Thái và Roma được trạm trổ trên các tảng đá. Những di tích của người Do Thái bao gồm Ngôi sao Vua David, Menorah-Chân Đèn 7 ngọn, Hòm Bia Giao Ước, và lá dừa...Người Công Giáo tôn kính Hội Đường Capharnaum vì là nơi Chúa Giêsu tôn thờ Chúa Cha, giảng dạy, và làm phép lạ. Quý Cha Phanxicô còn khai quật thấy nhà của Thánh Phêrô với những di tích của Nhà Thờ cổ từ thế kỷ thứ 5.

Đoàn Hành Hương Bước Theo Thầy theo dấu chân của Chúa Giêsu đến làng Korazin và hành hương viếng thăm Thánh Đường Thánh Phêrô tuyên tín và được Chúa Giêsu đặt làm Giáo Hoàng đầu tiên. Đoàn chúng tôi đặt tay trên tảng đá Thánh Phêrô tuyên tín để cầu nguyện cho Giáo Hội và Quê Hương Việt Nam. Nhà Thờ Primacy of St Peter-Quyền Giáo Hoàng của Phêrô được xây năm 1934 trên một tảng đá lớn gọi là “Mensa Christi -Bàn của Đức Kitô.” Theo truyền thống, đây là nơi Chúa Giêsu hiện ra với các Tông Đồ sau khi sống lại. Ngài chuẩn bị bữa ăn cho các ông và trao quyền Giáo Hoàng cho Thánh Phêrô khi Ngài tuyên bố: “Hãy chăn các chiên ta.” (John 21: 9).

Đoàn thăm viếng Tabgha, nơi Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều nuôi sống 4000 người. (Mt. 14:20). Tên Tabgha này do từ tiếng Hy Lạp Heptapegon với nghĩa 7 giòng suối. Nơi đây có nhiều nguồn nước. Theo truyền thống, nơi đây Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều với 5 chiếc bánh và 2 con cá nuôi sống 5000 người (Mark 6:36- 44, Matthew 14:13- 21, John 16:1- 6). 2. Nhà Thờ kiểu Byzantine được xây dựng tại đây vào thế kỷ thứ 4 và thứ 5. Năm 1942, những di tích của Nhà Thờ này được khám phá ra với nghệ thuật mosaic còn rất đẹp. Trên tảng đá làm bàn thờ, còn bức tranh mosaic vẽ lại hình của giỏ bánh và 2 con cá. Dưới Bàn Thờ là tảng đá mầu đen, theo tương truyền Chúa Giêsu đã ngồi trên tảng đá này để rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Sàn Nhà Thờ trang trí bằng mỹ thuật mosaic với hình chim, cá, thú vật, và hoa cỏ trong vùng. Năm 1934, một Nhà Thờ mới được xây dựng trên nền Nhà Thờ kiểu Byzantine cũ.Chúa Nhật ngày 23 tháng 10, đoàn Hành Hương kính viếng Thánh Đường 8 Mối Phúc Thật – Hiến Chương Nước Trời. Núi Tám Mối Phúc Thật theo tương truyền là nơi Chúa Giêsu giảng về hiến chương Nước Trời gồm Tám Mối Phúc Thật và những nguyên tắc của đời sống vĩnh cửu. “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” (Matthew 5). Năm 1937, quý cha Phanxicô đã xây dựng trên núi này và hướng về mặt hồ. Nhà Thờ này được gọi là Nhà Thờ Tám Mối Phúc Thật. Hành trình Bước Theo Thầy Dâng Thánh lễ Tạ Ơn tại đây. chúng tôi ngồi xuống đất với nhau, giống như xưa Thầy Chí Thánh Giảng Tám Mối Phúc Thật cho dân chúng ngồi nghe. Lao xao tiếng gió sáng mùa thu qua các kẽ lá. Chúng tôi xúc động vì được Bước Theo Thầy, lắng nghe tiếng Thầy giảng về Tám Mối Phúc Thật.

Nhà Thờ Tám Mối Phúc Thật.


Sau đó, Hành Trình Bước Theo Thầy lên đường về Jericho, nơi Chúa Giêsu gặp gỡ Gia-Kêu và chữa lành người mù tại đây. Jericho nằm trong thung lũng Jordan nối dài theo núi Hermon về phía bắc và về phía nam vịnh Aqaba với khoảng cách là 280 dặm. Phần thấp nhất là vùng Biển Chết với 1,300 feet dưới mực nước biển. Đây là phần đất thấp nhất thế giới. Jericho có nhiều vườn tược xanh tốt như một thảm xanh trong thung lũng Jordan. Từ lâu, Jericho được biết đến như một miền đất phì nhiêu với những vườn cam, táo, và chà là. Thời xa xưa, Jericho được gọi là “The City of Palms.” Về mùa hè, Jericho rất nóng nực và ngột ngạt. Mùa đông và mùa xuân, khí hậu Jericho rất tốt với mùi thơm của các loại hoa khác nhau. Jericho có nền văn minh lâu đời khoảng từ 7,000 – 10,000 B.C. Nó được coi là thành phố cổ nhất thế giới hiện nay. Khi cô Kathleen Kenyon khai quật thành phố vào năm 1952 – 1956, những di tích đổ nát của nhiều thành phố nối tiếp nhau dầy khoảng 80 feet và bao phủ 10 acres. Tiến sĩ Sellin, người Australia, khi khai quật Jericho đã khám phá ra Tell-el-Sultan vào năm 1908. Năm 1936, Garstang của trường khảo cổ nước Anh tiếp tục công trình khai quật trước, và cô Kathleen Kenyon tiếp tục khám phá trong những năm 1952 – 1956. Kết quả cho thấy những khám phá về thành phố cổ nhất thế giới tại đây. Những vật dụng khám phá qua xét nghiệm carbon 14 đã xác định tuổi của những di tích vào những năm 7,000 B.C. Jericho có lịch sử từ thế kỷ 13 B.C. với sự kiện tiến về Hứa Địa của người Do Thái. Đây là thành phố đầu tiên người Do Thái chiếm được khi qua sông Jordan (Joshua 6). Sau khi phá huỷ và đốt cháy Jericho, Thánh Kinh kể lại sự kiện như sau: “Gioxuê thề rằng, trước nhan Thiên Chúa, khốn cho kẻ đứng lên tái thiết thành này. Kẻ nào đào móng dựng nên thì con đầu lòng của nó phải chết. Kẻ nào dựng cổng xây tường thì con út nó phải mạng vong.” (Joshua 6:26).

Tiên tri Êlisê đã dùng một nắm muối đổ xuống suối nước làm cho nước hóa ra tốt lành (II Kings 2:19). Suối này là nguồn sống của người dân Jericho. Đức Giêsu đã nhiều lần dừng lại tại Jericho khi Ngài đến Jerusalem dự lễ Vượt Qua. Tại Jericho, Đức Giêsu đã nói với các Tông Đồ: “Nào chúng ta lên Jerusalem và Con Người sẽ bị nộp vào tay các thượng tế và luật sĩ. Họ sẽ kết án tử cho Ngài và trao Ngài cho lương dân để xỉ nhục Ngài, đóng đinh Ngài, và ngày thứ 3, Ngài sẽ sống lại.” (Matthew 20:17 – 19). Tại Jericho, Đức Kitô chữa lành người mù (Luke 18:35 – 42). Tại đây, Ngài gặp gỡ người nhỏ bé là Giakêu trèo lên cây vả để thấy Ngài. Ngài nói với Giakêu: “Giakêu, hãy xuống mau, hôm nay ta đến trong nhà người.” (Luke 19).

Rời bỏ Jericho, Hành trình Bước Theo Thầy tiến về hoang địa, cùng Thầy lên Núi Bốn Mươi Mt of Temptation để ăn chay 40 đêm ngày và chịu cám dỗ trước khi lên đường hoạt động truyền giáo. Đức Giêsu chịu cám dỗ ngay sau những ngày Ngài chịu phép rửa tại sông Jordanô. “Và Đức Giêsu đầy ơn Chúa Thánh Thần rời khỏi sông Jordanô và được hướng dẫn bởi thần khí, Ngài vào sa mạc.” (Luke 4:1-13, Mark 1:12-13). Không có Phúc Âm hay tài liệu nào cho thấy chính xác nơi Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày và chịu cám dỗ. Sau này, theo truyền thuyết, nơi Đức Giêsu chịu cám dỗ là núi Bốn Mươi - “Mount of Qarantel.” Núi này nằm phía sau thành Jericho cổ. Đỉnh núi là nơi Ngài chịu cám dỗ lần sau cùng khi ma quỷ chỉ cho Ngài tất cả vương quốc trần gian. Sườn núi phía đông, một Nhà Thờ được xây dựng vào thế kỷ 16 ngay trên hang đá Chúa chịu cám dỗ. Nhà Thờ này bị bỏ hoang vào thế kỷ 13 và năm 1874, Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp đã thiết lập một tu viện tại đây.

Đoàn dừng chân ăn trưa tại Qumran, nơi khám phá ra những mảnh Thánh Kinh rất cổ kính và hiếm quý. Năm 1947, Mohammed Edib, một người Ả Rập du mục đi tìm chiên lạc tại vùng phía tây Biển Chết, anh đã tìm thấy những Cuốn Thánh Kinh Cổ nổi tiếng vùng Biển Chết (Dead Sea Scrolls). Mohammed Edib, khi đi tìm chiên, anh ném một viên đá vào một cái hang, anh nghe có tiếng đổ vỡ. Anh sợ hãi quá và chạy đi vì nghĩ rằng có ma quỷ trong hang. Tuy nhiên, hôm sau, anh gọi người bà con và khi 2 người vào hang, họ thấy 8 cái hũ với nắp vẫn còn đậy kín. Họ mang những hũ ra ngoài và hy vọng tìm thấy vàng trong đó. Nhưng họ thất vọng khi chỉ thấy những cuộn da viết bằng những chữ lạ họ không đọc được. Tất cả 7 cuốn được tìm thấy trong các hũ. Một ngày nọ, người du mục mang những cuốn này cho một người Syria Thiên Chúa Giáo là Khali Kando và bán cho ông. Khali Kando mua 4 cuốn và đem cho một cư dân đang cư trú tại Jerusalem. Họ nhận ra đây là 4 cuốn Thánh Kinh cổ viết bằng tiếng Do Thái. Họ mua 4 cuốn này ngay. Năm 1949, sau khi biết giá trị lớn lao của những cuôn Thánh Kinh này, họ mang sang Hoa Kỳ và bán cho giáo sư Yigael Yadin với giá $250,000 dollars. Sau đó, những cuốn này được đưa trở về Do Thái. Giáo sư Eleazar Sukenik, là người cha của giáo sư Yigael Yadin mua luôn 3 cuốn còn lại tại Belem. Hiện nay, những cuốn Kinh Thánh này được trưng bày tại Điện Chứa Đựng Sách Thánh Kinh (Shrine of the Book) trong bảo tàng viện Do Thái tại Jerusalem. Cuốn Thánh Kinh nổi tiếng nhất trong số sách này là cuốn sách của Tiên Tri Isaia với chiều rộng 1foot và chiều dài 24 feet. Năm 1949, giáo sư Harding, giám đốc của những đồ cổ tại Jordan, và Peer de Vaux, giám đốc Học Viện Thánh Kinh (Ecole Biblique), và những người du mục thấy được giá trị của nhưng cuốn Kinh Thánh này, họ bắt đầu tìm kiếm thêm những tài liệu khác trong vùng phía tây Biển Chết. Hơn 900 mảnh tài liệu khác của những cuộn sách giá trị được tìm thấy trong hơn 30 hang tại vùng. Một số lớn các bản thảo giá trị được tìm thấy từ hang số IV do người du mục Ả Rập tìm thấy vào năm 1952. Hang này cách khu vực di tích đổ nát của Qumran khoảng 400 yards. Những cuốn sách Thánh Kinh này được viết trên da và giấy papyrus. Một số khác được viết trên miếng đồng.

Sau khi ăn trưa tại Qumran, Hành Hương Bước Theo Thầy tiến về Biển Chết Dead Sea. Chúng tôi cùng nhau tắm trên Biển Chết nổi lềnh bềnh, dù không biết bơi. Nhưng đôi chân nổi trước và rất khó giữ thăng bằng. Rất đông du khách tới viếng thăm và tắm tại đây. Chúng tôi lấy bùn trét lên nhau. Đặc biệt, nước Biển Chết rất mặn. Nếu vào mắt phải lấy nước ngọt rửa ngay, nếu không sẽ bị cay xè và rất khó chịu. Biển Chết dài 47 dặm và rộng 10 dặm. Diện tích mặt biển là 360 dặm vuông với chiều sâu của nước là 1,278 feet. Biển Chết nằm dưới mực nước biển. Nơi đây là điểm thấp nhất của trái đất. Gọi là Biển Chết bởi vì không có một sinh vật nào sống trong đó. Nước Biển Chết có nồng độ mặn nhất thế giới với 26% muối. Nước Biển Chết mặn gấp 5 tới 7 lần so với nước biển khác, đồng thời, lượng đậm đặc của hoá chất tại đây rất cao vì Biển Chết không có lối thoát. Sông Jordanô và các nguồn suối khác đổ vào Biển Chết cả ngàn tấn nước hoà lẫn với lưu huỳnh và nitrat. Nước này không thoát ra được và chịu sức nóng kinh hoàng của thung lũng Jordanô. Nước lại bốc hơi và sức đậm đặc của hoá chất gia tăng lên. Biển Chết có nhiều khoáng chất. Những nhà nghiên cứu nhận thấy cả ngàn mét khối calcium, chloride, magnesium, sodium, và potassium trong đó. Đặc biệt, nước Biển Chết có trọng lực nặng tới mức độ 1.166. Do đó, thân thể không bị chìm và người ta có thể nổi trên mặt nước mà không cần biết bơi lội.

Lênh đênh trên Biển Chết.


Từ Biển Chết trở về, Hành Trình Bước Theo Thầy về Jerusalem để cùng chịu khổ nạn và chết với Thầy. Kinh Thành Jerusalem trên cao và giữa những ngọn đồi trong vùng đồi núi Judea. Nơi đây được Thiên Chúa chúc phúc và chọn làm nơi thờ phượng Ngài. Từ nơi đây, các triết gia, tiên tri, và Đức Kitô đã tuyên ngôn về luật luân lý vĩnh cửu và tình yêu thương đồng loại. Cũng tại nơi đây, ngọn lửa đức tin thiết lập những luật lệ về tôn giáo, nền công chính, và niềm tin cho nhân loại. Đây là thủ đô tôn giáo của một nửa nhân loại. Đối với người Do Thái, Jerusalem là biểu tượng của vinh quang quá khứ và kỳ vọng trong tương lai. Đối với người Kitô hữu, đây là kinh thành nơi Đức Giêsu hoạt động, đồng thời là nơi Ngài chịu chết và sống lại. Đối với người Hồi Giáo, đây là nơi họ tin tưởng tiên tri Mahomed về trời. Jerusalem, nguồn gốc của niềm tin và hoà bình, thành thánh của thế giới, cũng là thành phố của sự sợ hãi, chiến tranh, và máu đổ. Đã có nhiều cuộc chiến tranh trong kinh thành. Bước đi trong kinh thành Jerusalem là bước đi trên máu đào của nhân loại qua những cuộc chiến tranh trải dài trong lịch sử. Jerusalem bị bao vây tới 50 lần, bị chiếm đóng 36 lần, và bị phá huỷ 10 lần. Những nguyên thuỷ của Jerusalem bị mất mát. Kinh thành được nhắc tới trong Thánh Kinh thời Abraham với tên gọi là Salem có nghĩa là hoà bình: “Và Melkisêđê, Vua Salem dâng bánh rượu lên Thiên Chúa, Ngài là linh mục của Thiên Chúa Tối Cao.” (Gen. 13:18). Vào thế kỷ 10 trước Chúa Giáng Sinh, Vua David chiếm lại kinh thành từ tay người Jebusites. Sau đó, kinh thành biến thành thủ đô, và là nơi đặt để Hòm Bia Giao Ước.

Về Jerusalem, chúng tôi đến viếng thăm Nhà Nguyện Lên Trời trên Núi Cây Dầu- Núi Olivêtê. Núi Cây Dầu nằm về phía đông Jerusalem qua thung lũng Kidron. Đỉnh núi cao hơn Jerusalem 300 feet và từ đó, nhìn về phía cổ thành Jerusalem rất đẹp và huy hoàng. Cũng từ đỉnh núi này, du khách có thể nhìn thấy toàn bộ khung cảnh của những ngọn đồi Judea cho tới Biển Chết với ngọn núi Moab phía đông tuyệt đẹp. Núi Cây Dầu được người Thiên Chúa Giáo và Do Thái tôn kính. Đối với họ, Núi Cây Dầu là nơi các Tiên Tri Haggai, Zechariah, và hầu hết các biến cố của cuộc đời Chúa Cứu Thế xảy ra tại đây. Trên Núi Cây Dầu, Đức Kitô lên trời, Ngài cũng báo trước sự tàn phá Jerusalem tại đây, và nơi đây, Ngài dạy các Tông Đồ Kinh Lạy Cha. Đức Kitô thường đến đây cầu nguyện và suy niệm. Đôi khi, Ngài cũng đến đây qua đêm để thoát khỏi Jerusalem trong những dịp đặc biệt dưới những lùm cây hay trong những hang kín.

Hành Trình Bước Theo Thầy viếng thăm toàn bộ khu vực Đền Thánh Jerusalem, được gọi là Núi Moriah. Núi Thánh Đền Thờ được tôn kính do 3 Tôn Giáo lớn: Kitô Giáo, Do Thái Giáo, và Hồi Giáo. Đối với người Do Thái, núi này là nơi Đền Thánh được xây dựng khi xưa. Đối với người Kitô Giáo, nơi đây, Đức Kitô đã sống và hoạt động qua nhiều biến cố trong Đền Thánh. Đối với người Hồi Giáo, núi này là nơi Thánh thứ 3 sau Mecca và Medina. Lịch sử núi Moriah hay Núi Thánh Đền Thờ có nguồn gốc từ thời Abraham. Theo truyền thống và Thánh Kinh, trên núi này, Abraham đã chuẩn bị sát tế Isaac dâng lên Thiên Chúa. (Genesis 22:1 – 22). Những thời gian sau cùng của triều đại, David đã mua núi này để Araunah người Jebusite làm sân đập lúa (Samuel 24:18 – 25). Vua cho xây Bàn Thờ kính Thiên Chúa. Vua David hứa xây Đền Thánh dâng kính Thiên Chúa, nhưng vinh dự này dành cho người con là Solomon. Solomon đã xây Đền Thánh lộng lẫy nguy nga với những gỗ quý, đồng, và vàng từ phương xa chuyên chở về. Đền Thánh huy hoàng tráng lệ này đã bị Nebuchadnezzar phá huỷ vào năm 587 B.C. Người Do Thái đã bị lưu đầy bên Babylon. 50 năm sau, với những ngày hồi hương hân hoan, Đền Thánh với diện tích nhỏ hơn được Zerubabel xây dựng lại tại đây. Vua Herod Cả ước mơ xây dựng lại Đền Thánh lớn hơn. Trên 10,000 công nhân được xử dụng vào công việc vĩ đại này. Đền Thánh được thực hiện lớn hơn và vẫn giữ nét đẹp và vẻ huy hoàng của Đền Thánh cũ. Công trình khởi sự vào năm 20 B.C và hoàn thành vào năm 64 A.D. Nhưng 6 năm sau, Đền Thánh lại bị phá huỷ. Đền Thánh do Herod xây là nơi Đức Giêsu hoạt động. Năm 70 A.D. Đền Thánh này bị quân đội của Titus đốt cháy. Titus đã cố gắng giữ lại Đền Thánh, nhưng binh sĩ của ông đã ném đuốc cháy vào cửa sổ và Đền Thánh bị thiêu huỷ. Chân Đèn 7 Ngọn (The Menorah) còn sót lại và Titus đã mang về Roma. Năm 135 A.D. sau khi dẹp tan cuộc nổi dậy thứ 2 của Do Thái, Hadrian đã biến khu vực Đền Thánh thành đền thờ thần Jupiter. Những người Kitô hữu đầu tiên nhìn núi Moriah như là nơi bị Thiên Chúa nguyền rủa và biến thành nơi hoang tàn đổ nát. Năm 636 A.D. người Hồi Giáo chiếm được Jerusalem, và Khalif Omar đã xây một đền thờ Hồi Giáo tại đây và họ xác định đây là nơi tiên tri Mahomed về trời. Năm 691, Adbed El Malik Ben Marwan, dòng dõi Omayad Khalif, đã thực hiện một đền thờ Hồi Giáo lớn hơn như hiện nay.

Đền Thờ Mái Vòm Đá (The Dome of the Rock) được xếp vào loại nơi Thánh thứ 3 của Hồi Giáo sau Kaaba tại Mecca và phần mộ của Tiên Tri Mahomed tại Medina. Đây là một trong những Đền Thờ Hồi Giáo đẹp nhất của thế giới Hồi Giáo. Trải qua 13 thế kỷ, Đền Thờ Mái Vòm Đá (The Dome of the Rock) được tu sửa lại nhiều lần. Nhưng Đền Thờ Mái Vòm Đá (The Dome of the Rock) hiện nay còn giữ được nguyên hình dáng của năm 691. Khi Đạo Binh Thánh Giá chiếm lại được Jerusalem vào năm 1099, Đền Thờ này được biền đổi sang Nhà Thờ Công Giáo với tên gọi là Đền Thờ Thiên Chúa (Templum Domini). Sau khi Đạo Binh Thánh Giá bị đánh bại tại Horns of Hittin năm 1187, Cây Thập Tự chiếu sáng 88 năm trên đỉnh Vòm Đền Thờ bị mang xuống và thay thế bằng huy hiệu Hồi Giáo. Từ thời gian đó, Đền Thờ Mái Vòm Đá (The Dome of the Rock) của Hồi Giáo trở thành một di tích kỷ niệm đặc biệt tại Jerusalem. Mô hình được xây theo kiểu Byzantine và được thực hiện bởi các nghệ nhân Byzantine, nhưng trang trí theo kiểu đông phương. Bên ngoài có những cửa 8 cạnh khoảng 63 feet với đường kính là 180 feet. Mái Vòm cao khoảng 108 feet với đường kính là 78 feet. Cấu trúc với hình 8 cạnh lồng trong những miếng cẩm thạch cao tới 18 feet, và trên cùng, với những bức tường trang trí bằng ngói Thổ Nhĩ Kỳ sáng chói. Mái vòm làm bằng những đĩa nhôm mạ vàng lóng lánh dưới ánh sáng mặt trời.

Một Đền Thờ Hồi Giáo El Aksa phía nam được xây dựng vào khoảng năm 709 – 715 do Khalif Waleed, con của Abed El Malik, người đã xây dựng Đền Thờ Mái Vòm Đá (The Dome of the Rock). Cấu trúc hiện nay còn rất ít những di tích nguyên thuỷ, vì Đền Thờ Hồi Giáo này bị phá huỷ nhiều lần. Đền Thờ này nằm trên nơi dinh thự của vua Solomon và trên nền của Nhà Thờ Byzantine cổ. Trong thời kỳ Đạo Binh Thánh Giá chiếm đóng Jerusalem, Đền Thờ Hồi Giáo này được dùng làm dinh thự cho các vua Roma và sau này biến thành tổng hành dinh của hội hiệp sĩ các Đền Thờ. Đền Thờ Hồi Giáo El Aksa được dùng cho việc cầu nguyện chung trong khi Đền Thờ Mái Vòm Đá (The Dome of the Rock) được dùng cho cá nhân thờ phượng.

Đoàn thăm viêng Nhà Nguyện Lên Trời tại đây. Sách Tông Đồ Công Vụ (1:9 – 12) diễn tả sự kiện Đức Giêsu đưa các Tông Đồ lên Núi Olivetê – Núi Cây Dầu. Sau khi chúc lành cho họ, Ngài lên trời. Trên đỉnh Núi Cây Dầu được nhìn nhận là nơi Chúa lên trời. Tông Đồ Công Vụ thuật lại sự kiện các Tông Đồ rời bỏ Núi Cây Dầu, khoảng cách với Jerusalem ước chừng một ngày đi đường trong ngày Sabbath, khoảng 1000 yards. Một Nhà Thờ kiểu Byzantine được xây tại đây vào thế kỷ thứ 4, sau đó, bị phá huỷ năm 614 do người Ba Tư. Đạo Binh Thánh Giá đã xây dựng Nhà Thờ khác vào thế kỷ 12. Nhà Nguyện nhỏ hiện nay được Đạo Binh Thánh Giá xây ngay nơi tảng đá có dấu chân Đức Kitô lên trời. Những người Hồi Giáo vẫn còn cai quản khu vực này và họ thực hiện xây tường cũng như xây thêm một mái vòm như hiện nay.

Sau đó, Hành Trình Bước Theo Thầy thăm viếng Bức Tường Than Khóc hay Bức Tường Phía Tây (Western Wall or Wailing Wall). Nhin đoàn người lũ lượt gục đầu vào Bức Tường Than Khóc để cầu nguyện. Nơi đây, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Đức Giáo Hoàng Benedictô cũng đã đến cầu nguyện khi thăm viếng Israel. Chúng tôi cũng nhập cuộc để vào chạm Bức Tường và cầu nguyện. Nữ một phía, nam một phía. Khi vào nơi đây, họ khám từng người rất kỹ lưỡng như khi lên phi cơ. 7 anh em nam giới chúng tôi phải đội nón kipa, nón thánh của người Do Thái khi đi cầu nguyện. Kipa là một mũ chỏm mầu trắng. Chúng tôi đội kipa xong, vào Bức Tường và gục đầu cầu nguyện. Sau đó, tò mò hơn, chúng tôi lần vào nơi Cực Thánh của người Do Thái. Từng đoàn người cũng đang cầu nguyện và đọc sách Tora. Chúng tôi vào tới chỗ người Do Thái làm phép cắt bì cho trẻ nam khoảng 12 tuổi. Nhìn thấy những nhà Tạm theo khuôn mẫu xa xưa để chứa Hòm Bia Thánh. Những Cuộn Thánh Kinh, Sách Luật Tora...để đầy theo Bức Tường Cổ Xưa trên 2000 năm tuổi. Lòng chúng tôi chùng xuống theo với thời gian trong Cựu Ước.

Bức Tường Phía Tây hay Bức Tường Than Khóc (Western Wall or Wailing Wall) là Thánh Địa quan trọng nhất của người Do Thái. Đó là di tích duy nhất còn lại của Đền Thờ Jerusalem. Bức Tường Phiá Tây là một phần của bức tường Đền Thờ thứ 2 do Vua Herod xây dựng vào năm 20 B.C. Titus vào năm 70 A.D. đã dùng khu vực này biểu dương sự vĩ đại của quân lính Roma. Họ đã phá huỷ tất cả Đền Thờ. Trong thời đế Quốc Roma, người Do Thái không được đến Jerusalem. Tuy nhiên, vào thời Byzantine, người Do Thái được phép đến mỗi năm 1 lần vào ngày kỷ niệm Đền Thờ bị phá huỷ, để họ tưởng nhớ, khóc than, và đau thương trên những di tích của Đền Thờ. Do đó, phần này còn được gọi là Bức Tường Than Khóc (Wailing Wall). Phong tục người Do Thái cầu nguyện và than khóc tại Bức Tường Phía tây kéo dài nhiều thế kỷ. Từ năm 1948 – 1967, người Do Thái không được phép thăm viếng Bức Tường vì nó thuộc về lãnh thổ của người Jordan. Sau cuộc chiến 6 ngày, Bức Tường Than Khóc trở thành nơi thăm viếng và thờ phượng. Khung cảnh này có thể chứa tới cả ngàn người đến đây hành hương.

Sau đó, chúng tôi đi thăm Tường Thành Jerusalem, Bức Tường thành nhiều lần chúng tôi đi qua. Được xây bằng những phiến đá rất lớn. Tường thành Jerusalem hiện nay được kiến trúc và xây dựng qua nhiều niên đại khác nhau. Tường Thành hiện nay được xây dựng từ thời người Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đóng dưới thời Suleiman the Magnificent vào năm 1542 A.D. Tường thành cao 40 feet và dầy 2 feet 5, có tất cả 34 tháp canh và 8 cửa: New Gate, Damascus Gate, Herod Gate, St. Stephen Gate, Golden Gate, Dung Gate, Zion Gate, và Jaffa Gate.

Trở về Hotel ăn tối xong, chúng tôi tiếp tục Hành Trình Bước Theo Thầy vào Vườn Cây Dầu, Vườn Giệtxêmani để cầu nguyện và canh thức với Thầy. Đi theo chúng tôi, Sơ Quy và Sơ Thanh Dòng Tiểu Muội Chúa Giêsu cùng cầu nguyện. Khu Vườn Giệtxêmani tối thui giống như thời xa xưa Chúa Giêsu cùng các Tông Đồ nhiều lần vào đây cầu nguyện. Những cây Dầu ngàn năm lặng lẽ. Tiếng gió xào xạc Mùa Thu qua kẽ lá. Chúng tôi xếp vòng tròn, ngồi bệt xuống đất như Thầy Trò xưa kia cùng cầu nguyện. tâm tình cảm xúc trào dâng. Những tâm hồn thao thức với những âu lo, trăn trở nặng trĩu của đời người. Nhiều người tấm tức khóc với Thầy và tha thiết cầu nguyện. Không gian như chùng xuống. Những tâm hồn trải qua những thách đố, giờ đây được sưởi ấm của tình yêu Thầy. chúng tôi khóc như chưa bao giờ được khóc với Thầy. Bầu khí cầu nguyện rất cảm động. Tôi lắng nghe những tiếng thổn thức của từng người. Tôi dâng lên Thầy Phong Trào Cursillo, những người thân yêu nhờ tôi cầu nguyện. Tôi khám phá ra mình quá nhỏ nhoi trong Vườn Giệtxêmani. Mãi tới 9.30 tối, khi Cổng Vườn phải đóng cửa, chúng tôi mới bịn rịn từ giã Thầy lên đường về Hotel. Những giọt nước mắt của yêu thương, của chia sẻ, của xúc động còn ngấn dài trên đôi mắt mọi người trong giấc ngủ bình an với Thầy. Hẹn với Thầy sáng hôm sau sẽ Dâng Thánh Lễ với Thầy trong Vườn Giệtxemani bên tảng đá hấp hối của Thầy.

Vườn Giệtsêmani với Cây Dầu ngàn năm.
Sáng ngày 24 tháng 10, mặt trời thức dậy sớm, nhưng chúng tôi còn thức sớm hơn. Dùng breakfast xong, chúng tôi lên xe bus trực chỉ vườn Giexemani. Vào trong Nhà Thờ Hấp Hối còn ít người, chúng tôi quỳ ngay xuống chung quanh Tảng Đá Chúa Hấp Hối năm xưa trong Vương Cung Thánh Đường Hấp Hối. Ánh sáng mờ ảo do kiến trúc bằng kiếng mầu. Chúng tôi sốt sắng đồng hành với Thầy trong cơn Hấp Hối xưa kia của Thầy. Thành Lễ tại Vườn Cây Dầu bắt đầu với Bài Hát Giờ Tử Nạn đau thương. Thánh Lễ trang nghiêm, sốt sắng và cảm động. Ai cũng đặt những vật kỷ niệm lên tảng đá Hấp Hối mà Thầy xưa kia đã quỳ gối cầu nguyện. Chúng tôi dâng gia đình Hành Hương, dâng gia đình cá nhân, con cái, bạn bè, những người thân yêu, những người nhờ chúng tôi cầu nguyện, dâng tất cả cho Thầy với tâm tình yêu mến. Sau Thánh Lễ cảm động và sốt sắng, chúng tôi được đặc ân do Cha Phụ Trách Vườn Cây Dầu mở cổng riêng cho chúng tôi vào khu vực 8 cây dầu ngàn năm, đã từng chứng kiến sự kiện Thầy Chí Thánh Hấp hối. Cả đoàn đều vui mừng đến từng Cây Dầu 3000 tuổi để hôn, để chụp hình lưu niệm, trước những sự thèm khát của các đoàn hành hương khác không được vào trong. Chúng tôi cầu nguyện rất nhiều cho Quê hương và Giáo Hội Việt Nam tại nơi đây.

Qua lịch sử, khu vườn Giệtxemani là một trong những điạ điểm lôi cuốn nhất của Đất Thánh, nằm dưới chân Núi Cây Dầu. Vườn này vẫn còn nguyên vẹn từ 2000 năm nay. Đối diện với kinh thành ngăn cách do thung lũng Kidron, Vườn Giệtxemani vẫn còn nguyên vẹn như thời Đức Giêsu, kể cả một số cây dầu cổ xưa còn lại. Thánh Gioan kể lại: “Đây là nơi Đức Giêsu thường đến để hồi tâm và cầu nguyện.” (Luke 22:39). Tại đây, Đức Giêsu đã trải qua đêm buồn thương sau cùng của cơn hấp hối. Ngài chấp nhận đau khổ và cái chết trên Thập Giá để cứu độ nhân loại: “Lạy Cha, nếu được, xin cất chén này khỏi con, nhưng xin đừng theo ý con, một theo ý Cha trọn vẹn.” (Luke 24:42). Juda đã đến cùng với những quan quân của Thầy Cả Thượng Tế và Juda trao nộp Ngài cho họ. (Matthew 26:47, Mark 14:44, Luke 22:47, John 18:23). Tất cả Tông Đồ đều chạy trốn để lại mình Ngài ứng nghiệm với lời tiên tri: “Ta sẽ đánh chủ chiên và đoàn chiên tan tác.” Đức Giêsu bị bắt tại đây và bị điệu tới dinh Caipha. Sau đó, bị kết án tử hình chết trên Thập Giá. Trong khu vườn Giệtxemani còn 8 cây dầu với khoảng 3000 năm tuổi. Josephus nói tới sự kiện Titus đã chặt bỏ hết cây cối quanh vùng Jerusalem vào năm 70 A.D. Những cây dầu này có lẽ đã chứng kiến sự kiện Đức Giêsu đã cầu nguyện và hấp hối tại đây như Pliny đã viết: “Những cây dầu này đã không chết.” Và nó vẫn còn mang hoa trái. Được biết, Vương Cung Thánh Đường Giệtxemani từ năm 379, người Byzantines xây Đại Giáo Đường thứ 1 trên nơi Đức Giêsu cầu nguyện và hấp hối. Đại Giáo Đường này bị phá huỷ năm 614 do người Ba Tư. Vào thế kỷ 12, Đạo Binh Thánh Giá xây lại Nhà Thờ mới, nhưng lại bị phá huỷ. Nhà Thờ hiện tại rất đẹp tại Jerusalem và được xây lại vào năm 1919 – 1924. Khi 16 quốc gia gửi tiền xây dựng Nhà Thờ này, Nhà Thờ mang tên “Church of all Nations – Nhà Thờ của các Dân Tộc.” Mỗi dân tộc gửi tặng đều có một mái vòm kỷ niệm và tất cả các mái vòm đều trang trí bằng mỹ thuật mosaics với những cửa sổ đẹp tuyệt vời. Ánh sáng mờ mờ xuyên qua cửa kính mầu thẫm tạo thành nét huyền nhiệm và thích hợp cho bầu khí cầu nguyện và suy niệm. Một tảng đá cổ truyền lớn ghi nhớ cuộc hấp hối của Đức Kitô được đặt trước bàn thờ chính. Một phần nền Nhà Thờ kiểu Byzantine được khám phá và được hình thành lại bởi nghệ thuật mosaics tuyệt hảo theo như nguyên bản xưa kia. Mặt tiền Nhà Thờ với tượng của 4 Thánh Sử đang cầm cuốn sách tuyệt đẹp. Một hình mosaic diễn tả Đức Kitô dâng hiến đau khổ cho Thiên Chúa Cha và cả nhân loại được thực hiện rất xuất sắc.

Sau đó, Hành Trình Bước Theo Thầy lại lên Núi Cây Dầu Hành hương Thánh Đường Kinh Lạy Cha - Pater Noster. Chúng tôi xuống hang sâu dưới đất, nơi Thầy Chí Thánh dạy các Tông Đồ Kinh Lạy Cha. Chúng tôi sốt sắng nắm tay nhau cùng đọc Kinh Lạy Cha chính nơi Thầy đã dạy cho các Môn Đệ xưa kia. Từng đoàn người hành hương lũ lượt xếp hàng vào thăm viếng Thánh Đường Kinh Lạy Cha. Theo sử liệu, Nhà Thờ Kinh Lạy Cha được xây dựng trên nơi truyền thống Đức Giêsu dạy Tông Đồ của Ngài Kinh Lạy Cha. Ngài cũng tiên báo sự kiện Jerusalem bị phá huỷ và mạc khải ngày Ngài lại đến trong Ngày Tận Thế (Matthew 24:1 – 3, Luke 21:5 – 7). Vua Constantine đã đặc biệt vinh danh nơi Giáng Sinh của Đức Kitô tại Belem cũng như Nấm Mồ Đức Kitô tại Jerusalem trong việc xây dựng những Nhà Thờ nguy nga. Chính vua lại xây dựng một Nhà Thờ trên đỉnh Núi Cây Dầu để nhớ những lời tiên báo của Ngài về sự tàn phá Jerusalem và sự kiện Ngài lại đến trong vinh quang. Nhà Thờ này bị phá huỷ vào năm 614 do người Ba Tư và được Đạo Binh Thánh Giá xây lại vào thế kỷ 12. Sau thất bại của Đạo Binh Thánh Giá, Nhà Thờ này bị phá huỷ và rơi vào tay người Hồi Giáo. Năm 1868, công chúa Aurelia de Bossi của Auvergne mua khu vực này và trao tặng cho nước Pháp. Năm 1875, cô xây một tu viện của Dòng Nữ Carmelite. Bên trong Nhà Thờ và trên các tường luỹ cấm của tu viện, Kinh Lạy Cha được viết bằng 62 ngôn ngữ khác nhau. Sau này, công chúa Aurelia de Bossi qua đời và được an táng trong khu vực luỹ cấm. Cuộc khai quật năm 1910 – 1911 cho thấy những di tích đổ nát của các Nhà Thờ cũ. Năm 1918 nước Pháp cố gắng tổ chức để xây một Đại Giáo Đường kính Thánh Tâm tại đây, nhưng họ không thực hiện được.

Hành Trình Bước Theo Thầy đi bọc sang phía Núi Cây Dầu gần Betphagê, nơi Chúa Giêsu vào Thành Jerusalem trọng thể Ngày Lễ Lá, trước cuộc Tử Nạn của Ngài. Đoàn chúng tôi vừa đi vừa hát Con Đường Chúa Đã Đi Qua: "Lạy Chúa, con đường nào Chúa đã đi qua..." rất sốt sắng. Một số người cầm lá giống như thuở xa xưa Dân Do Thái cầm nhành Ô liu đi đón Chúa vào Thành Jerusalem. Chúng tôi dừng chân nơi Nhà Nguyện Dominus Flevit - Chúa Khóc, nơi Chúa khóc thương thành Jerusalem. Nơi đây nhìn về Thành Thánh Jerusalem rất rõ. Có những cây gai mọc lên và quân lính đã lấy những loại gai này làm Mão Gai hành hạ Chúa.

Nhà Nguyện “Chúa Khóc-Dominus Flevit.” Trong sự kiện Ngài vào thành Jerusalem vinh quang ngày Lễ Lá, Đức Giêsu khi nhìn thấy Thánh Đô, Ngài dừng lại và khóc thương (Luke 19:37-42). Nơi Ngài khóc thương Jerusalem được ghi khắc vào thế kỷ thứ 12 do Đạo Binh Thánh Giá. Nơi đây, họ xây một Nhà Thờ. Sau đó, Đạo Binh Thánh Giá rút quân và nơi đó biến thành hoang tàn. Ngôi Nhà Thờ hiện nay đuợc xây vào năm 1891 với hình thù giống như giọt nước mắt. Bàn thờ được lồng khung bằng cửa sổ kiếng có thể nhìn toàn diện về phía Jerusalem.

Chúng tôi đi dọc trên sườn Núi Cây Dầu, một Nghĩa Trang rất rộng và rất cổ của người Do Thái toạ lạc nơi đây. Nhiều người Do Thái trên toàn thế giới đều muốn chết và được an táng gần thung lũng Jehoshaphat, vì họ tin rằng nơi đây là nơi con người sẽ được sống lại và phán xét chung (Joel 4:1 – 2). Người Thiên Chúa Giáo cũng như Hồi Giáo cũng đều tin như thế, và họ cũng mua nhiều phần mộ tại phía tây của thung lũng Jehoshaphat.

Lạy Chúa Con đường nào Chúa Đã Đi Qua.

Chặng Đàng Thánh Giá Jerusalem.
Đoàn Hành Hương về tới Chặng Đàng Thánh Giá Thứ Nhất, người hướng dẫn chuẩn bị Cây Thánh Giá cho đoàn chúng tôi hành hương Thập Tự Theo Bước Chân Khổ Nạn của Thầy. Hành trình Bước Theo Thầy hân hoan cùng vác Cây Thập Tự từ Chặng Thứ Nhất, Quan Philtô luận Giết Đức Chúa Giêsu. Chúng tôi kính viếng Lithostrotos, nơi Philatô kết án Chúa. Rồi đi vòng qua Cổng Ecce Homo-Này Là Người, khi Philatô cho đánh đòn xong, trình diện Chúa Giêsu cho dân chúng thấy mà thương xót. Nhưng dân chúng càng la to: "Đóng đinh nó vào Thập Giá." Con đường Thập Tự loang lổ máu đào của Chúa Giêsu. Chúng tôi thay nhau vác Cây Thập Tự rất cảm động. Những người đi đường, người Arab, người Do Thái, khách hành hương, đều chăm chú nhìn chúng tôi vừa đi vừa hát: "Lạy Chúa con đường nào Chúa Đã đi qua..." Đi qua những nơi đông người mua bán tại khu chợ, dân chúng nhường chỗ cho chúng tôi cầu nguyện hết sức lịch sự. Đường Thánh Giá - Via Dolorosa - Ways of Sorrows -Stations of the Cross, là con đường truyền thống Đức Giêsu đã đi và vác cây Thập Tự lên núi Can-Vê để chịu đóng đinh và chịu chết cứu độ con người trên đó dưới thời Phongxiô Philatô. Những biến cố này được ghi lại bởi 14 chặng đàng Thánh Giá. 9 chặng được dựa trên Thánh Kinh và 5 chặng khác được thực hiện theo truyền thống. 2 chặng đầu tiên nằm trong khu vực thành luỹ Antonia, 7 chặng sau nằm trên đường phố, và 5 chặng sau cùng toạ lạc trong khu vực Nhà Thờ Mồ Thánh. Mỗi ngày thứ 6 hàng tuần, vào lúc 3 giờ chiều, quý Cha Phanxicô luôn luôn tổ chức nghi thức chặng đàng Thánh Giá dọc theo những di tích này.

Những nơi Thánh Tích Thầy Chí Thánh bị hành hạ trong Tu viện quý Sơ Sion, được thành lập do một người Pháp, cha Alphonse Ratisbone từ Strasbourg. Ngài đến Jerusalem năm 1855 và mua miếng đất này bên cạnh vòm “Ecce Homo – Này Là Người.” Những đổ nát được di chuyển đi vào năm 1859 – 1864 và ngài xây tu viện quý Sơ Sion tại đây. Năm 1931 – 1937 Bà Mẹ Bề Trên Godeleine và cha Vincent của Đại Học Kinh Thánh Jerusalem đã khai quật khu vực này. Khu vực Nền Đá Thánh Sử Gioan ghi lại trong Phúc Âm được khám phá: “Philatô đặt Ngài ngồi trên toà xét xử gọi là Nền Đá (John 19:13). Khu vực Nền Đá này được gọi là “Lithostrotos” là nơi Đức Giêsu bị kết án. Tại đây, Philatô di chuyển toà án đến gần đám đông hung hãn đang chờ đợi ngoài cửa Đồn Luỹ Antonia. Philatô đã dẫn Đức Giêsu máu me đầy người cho dân chúng và tuyên bố: “Ecce Homo – Này Là Người.” Sau đó, ông rửa tay và kết án tử hình Đức Giêsu chết trên Thập Giá. Nền Đá này đời xưa thời Đức Giêsu là mặt đất bằng của thành đô. Nơi Đồn Luỹ Antonia Đức Giêsu bị kết án tử hình và bắt đầu Chặng Đàng Thánh Giá từ đây. Những viên đá tại đây đã ghi dấu những dấu chân của Đức Kitô. Những viên đá này khá lớn và được đục đẽo những đường nhỏ trên đá để tránh cho ngựa chiến không bị trượt chân. Nhiều ống dẫn nước bằng đá dẫn nước mưa vào một hồ nước dự trữ phía dưới có thể chứa cả triệu gallons nước mưa.

Đoàn Hành Hương lên Núi Can Vê Đồi Golgotha, đến Chặng Thứ 10, dừng chân và cầu nguyện ở Chặng Thứ 11. Núi Can-Vê là một phiến đá lớn trồi lên phía ngoài khoảng 45 feet. Tên gọi Can-Vê là Núi Sọ hay Golgotha, vì có hình giống như cái sọ. Trên đỉnh núi Sọ có 2 Nhà Nguyện. Nhà Nguyện thứ nhất thuộc Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp nằm trên nơi Đức Giêsu bị treo lên Thập Giá. Nhà Nguyện thứ 2 thuộc Giáo Hội Công Giáo là nơi Ngài bị lột áo và đóng đinh. Trên phiến đá này còn có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Sầu Bi và có một Nhà Nguyện kính Adam phía dưới hầm. Mỗi người chúng tôi hạnh phúc sung sướng được hôn lỗ chôn Thánh Giá của Chúa ở Chặng Thứ 12. Sau đó, chúng tôi xuống thang và hôn Tấm Đá Tẩm Liệm Chúa. Chúng tôi đặt tay và tất cả đồ vật mang theo lên Tấm Đá này để cầu nguyện. Nước mắt lưng tròng, chúng tôi tha thiết dâng lên Thầy những lời cầu xin đầy xác tín và yêu thương cho gia đình, cho bạn bè, cho Phong Trào Cursillo. Xếp hàng rất dài để được vào viếng Mồ Thánh của Chúa trong hang đá Mồ Thánh. Chúng tôi xúc động khi áp mặt xuống phiến đá táng xác Thầy Chí Thánh và cầu nguyện với Thầy.

Tìm hiểu lịch sử trong Thánh Kinh: “Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong khu vườn đó có một ngôi mộ còn mới chưa chôn cất ai. Vì hôm đó là ngày chuẩn bị mừng Lễ Vượt Qua, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó.” (John 19:42). Nơi này ngay dưới chân đồi Can-Vê. Ngôi mộ này đặt trong một phiến đá và do gia đình Joseph Arimathea làm ra. Joseph Arimathea “thành viên của Sanhedrin” và là môn đệ Đức Giêsu, nhưng trong kín đáo, vì sợ người Do Thái.” (John 19:38). Ngôi mộ này làm giống theo phần mộ của những người Do Thái giầu có. Ngôi mộ gồm 2 phần, phía ngoài để tụ họp những người thân than khóc, phía trong để xác được đặt trên một phiến đá. Ngôi mộ thật sự của Đức Giêsu đã bị phá huỷ năm 1009 do Khalif Hakem. Phần mộ tưởng niệm ngày nay có một vòm mái Moscovite, được xây lại vào năm 1810 do những người Chính Thống Hy Lạp và Nga Sô. Bên trong ngôi mộ, một phiến đá cẩm thạch ghi dấu nơi xác Đức Giêsu an táng. Theo truyền thống, mọi người tin rằng phiến đá nguyên thuỷ an táng Ngài nằm ngay phía dưới phiến đá cẩm thạch này. “Vậy họ điệu Đức Giêsu đi. Chính Ngài vác lấy Thập Giá đến nơi gọi là Núi Sọ, tiếng Do Thái là Golgotha.” (John 19:17). Nhà Thờ Mồ Thánh là nơi Cực Thánh của người Thiên Chúa Giáo vì nơi đây là nơi đóng đinh Ngài cùng với Ngôi Mộ của Ngài. Sự kiện đóng đinh Đức Giêsu xảy ra ngoài tường thành và là một địa điểm gần thành.” (John 19:20). Năm 324, Nhà Thờ Mồ Thánh đầu tiên được xây dựng tại trung tâm thành phố trong nội thành. 11 năm sau cuộc đóng đinh, Golgotha bao gồm đường kính mới, được xây dựng vào năm 44 A.D. với tường thành mới do Herod Agrippa. Giữa thế kỷ vừa qua, di tích bức tường cổ của thành phố được tìm thấy bên phía đông bắc của Nhà Thờ bên cạnh bệnh viện Nga Sô. Những nấm mồ của người Do Thái bên trong Nhà Thờ chứng tỏ đây là khu vực ngoại thành thời Đức Giêsu, vì theo luật Do Thái, không ai được quyền an táng trong khu vực thành đô Jerusalem. Khu vực đóng đinh Đức Giêsu được sùng kính đặc biệt do những người Thiên Chúa Giáo đầu tiên. Năm 135 A.D. Hadrian muốn phá bỏ tận gốc những di tích của Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo, nên ông đã xây một đền thờ Roma kính thần Jupiter nằm trên núi Can-Vê và phần mộ Đức Giêsu. Ông cũng đã làm như thế tại Belem trên nơi Giáng Sinh của Đức Kitô. Sự thù ghét này đã mang kết quả ngược lại, chính vì ông đã cho ghi lại nơi những di tích quý giá này nên vua Constantine 2 năm sau khi chiến thắng, đã cho xây dựng lại trên những di tích đó. Năm 326, đền thờ do Hadrian xây dựng bị phá huỷ do Thánh Hoàng Hậu Helena. Núi Can-Vê và phần mộ Đức Kitô được tìm thấy nguyên vẹn như trong tường thuật của Phúc Âm. Vua Constantine ra lệnh với sự kiểm soát của Thánh Hoàng Hậu Helena mẹ vua đã xây một Đại Giáo Đường ngay trên Núi Can-Vê và phần mộ Đức Kitô. Công trình vĩ đại này của vua Constantine bị phá huỷ vào năm 614 do người Ba Tư. Công trình được xây dựng lại nhưng với kích thước nhỏ hơn do Abbot Modestos thực hiện, nhưng lại bị phá huỷ do Khalif Hakem vào năm 1009. Sự phá huỷ này đã là nguyên nhân chính dẫn tới việc tổ chức Đạo Binh Thánh Giá. Nhà Thờ được sửa chữa lại vào năm 1048 do Constantine Monomochus. Năm 1149 Đạo Binh Thánh Giá sau khi chinh phục được Jerusalem, đã dựng lên Nhà Thờ Mồ Thánh như hiện nay. Mặc dù có nhiều những sửa chữa và thêm bớt vào trong công trình xây dựng, nhưng Nhà Thờ Mồ Thánh như hiện nay vẫn giữ được những nét nguyên thuỷ ban đầu. Nhà Thờ Mồ Thánh được chia thành 6 phần do 6 cộng đoàn quản nhiệm được ký kết dưới sắc lệnh Status Quo trong thời kỳ người Thổ Nhĩ Kỳ cai quản vào năm 1852. Buổi chiều cùng ngày, Hành trình Bước Theo Thầy chúng tôi đi về Núi Sion. Nơi đây, chúng tôi thăm viếng Đại Giáo Đường Dormition, nơi Đức Mẹ Maria an nghỉ. Một tượng Đức Mẹ rất lớn đang nằm nghỉ yên rất bình an. Đại Giáo Đường Dormition - Đức Mẹ An Nghỉ, là một kiến trúc đặc biệt trên núi Sion. Nơi đây, Đức Nữ Trinh Maria qua đời. Năm 1100, Đạo Binh Thánh Giá xây một Nhà Thờ lớn và đặt tên là Nhà Thờ Đức Mẹ Maria trên núi Sion. Nhà Thờ bị phá huỷ năm 1219 do người Hồi Giáo chiếm khu vực này. Năm 1898, người Thổ Nhĩ Kỳ trao khu vực này cho hoàng đế Đức Wilhelm II. Hoàng đế trao lại cho quý cha Benedictine. Các Ngài đã xây dựng Nhà Thờ như hiện nay vào năm 1910. Hậu cung Nhà Thờ được trang trí bằng hình Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu với mỹ thuật mosaics tuyệt vời. Sàn nhà có biểu tượng của Chúa Ba Ngôi với sự hiện diện của các Tông Đồ bằng mỹ thuật mosaics do Zodiac thực hiện. Dưới hầm Nhà Thờ, tượng Đức Mẹ Maria đang an nghỉ trên giường được điêu khắc bằng đá để diễn tả sự kiện Đức Mẹ qua đời.

Sau đó, Hành trình Bước Theo Thầy hướng về Nhà Tiệc Ly-The Room of the Last Supper. Phòng Tiệc Ly là nơi Đức Giêsu ăn bữa tối Tiệc Ly sau cùng với các Tông Đồ. Ngài thiết lập Thánh Lễ đầu tiên cho nhân loại (Mark 14:12 – 16, Luke 22:7 – 13). Cũng tại Phòng Tiệc Ly này, Đức Giêsu đã hiện ra 2 lần với các Tông Đồ sau khi Ngài sống lại (John 20:19 – 23, 22, 24, 29). Tại đây, Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trên các Tông Đồ (Acts 2:1 – 4). Những người Công Giáo tiên khởi đã chọn Núi Sion là trung tâm điểm của các sinh hoạt. Vào thế kỷ thứ 1, một Nhà Thờ đã được xây dựng tại đây. Nhà Thờ này không bị tàn phá vào năm 70 A.D. cũng như trong cuộc binh biến năm 135 A.D. Giáo Hội Byzantines đã gọi nơi đây là Núi Thánh Sion và được TiênTri Isaia nhắc đến trong Thánh Kinh. Năm 614, quân Ba Tư phá huỷ Nhà Thờ này và Đạo Binh Thánh Giá xây dựng lại và thế kỷ 12 với hình dáng như ngày nay. Năm 1176, Phần Mộ Vua David được toạ lạc trong nhà nguyện dưới. Năm 1552, những người Công Giáo bị trục xuất ra khỏi nhà nguyện trên và người Thổ Nhĩ Kỳ đã biến nhà nguyện trên thành nguyện đường Hồi Giáo với mái và vòm cầu nguyện theo kiểu Hồi Giáo. Chúng tôi đứng thành vòng tròn trong Nhà Tiệc Ly để hát và cầu nguyện. hạnh phúc dâng lên Thầy những tâm tư và nguyện vọng của mỗi người.

Sau đó, chúng tôi thăm viếng Phần Mộ của Vua David. Nam thăm một bên. Nữ thăm bên khác. 7 chàng ngự lâm pháo thủ chúng tôi lại được dịp đội mũ kipa truyền thống của người Do Thái khi cầu nguyện. Phần Mộ Vua David là nơi Cực Thánh của người Do Thái sau Bức Tường Phía Tây (Western Wall). Phần Mộ Vua David được khám phá do Rabbi Benjamin quê Tudela khi ông thăm viếng Jerusalem năm 1172. Phần mộ này được xây bằng đá được phủ vải thêu với triều thiên bằng bạc của Torah.

Hành Trình Bước Theo Thầy rất nhiều lần đi ngang qua Thung Lũng Kidron nổi tiếng trong Tân Ước. Thung lũng Kidron nằm giữa và ngăn cách Núi Cây Dầu với Kinh Thành Jerusalem. Đức Giêsu nhiều lần đã đi qua thung lũng này để vào Đền Thánh qua cửa Golden Gate hay từ Đền Thánh lên Núi Cây Dầu để cầu nguyện tại vườn Giệtxemani (Gethsemane), hay đến nhà Lazarô tại Bêtania. Ngày Thứ 5 Tuần Thánh, Ngài đã qua thung lũng này từ Phòng Tiệc Ly và gặp các Tông Đồ tại vườn Giệtxemani (Gethsemane). Sau đó, Ngài bị bội phản và bị điệu đến nhà Thầy Cả Thượng Tế Caipha. Tại thung lũng Kidron, có 4 ngôi mộ đặc biệt: Mộ của Absalom, Jehoshaphat, Thánh Giacôbê, và Thánh Zacharias. Hình thù của những ngôi mộ này có hình dáng của thời kỳ Hellenistic nguyên thuỷ. Theo tương truyền, thung lũng Kidron sẽ là nơi Phán Xét Chung ngày Tận Thế. Do đó, thung lũng này đã trở thành nghĩa trang lớn và những người Do Thái, Hồi Giáo, và Công Giáo thích chọn phần mộ của mình nơi đây.

Để cùng Thầy hành trình trong cuộc sống, chúng tôi đến thăm viếng Nhà Thờ Thánh Phêrô Gà Gáy - St Peter in Gallicantu, nơi Thánh Phêrô chối Chúa 3 lần, khi Thầy Chí Thánh bị hành hạ và nhục mạ tại nhà Thầy Thượng Tế Caipha. Chúng tôi thăm viếng những di tích và phòng giam Thầy Chí Thánh bị hành hạ tại đây. Tận mắt nhìn thấy Con đường Chúa Đã Đi Qua còn giữ nguyên vẹn 2000 năm nay. Ngài thường đi lên Đền Thánh bằng con đường này, và nhất là sau khi bị hành hạ tại Nhà Thầy Thượng Tế Caipha, quân lính cũng dẫn Ngài đi trên con đường này lần sau cùng trong cuộc đời của Ngài. Theo lịch sử, Nhà Thờ Thánh Phêrô Gà Gáy được xây dựng vào năm 1931 bên thung lũng Kidron do quý cha Assumptionist, bên cạnh ngôi nhà của Thầy Cả Thượng Tế Caipha. Đức Giêsu bị bội phản và bị bắt tại Vườn Giệtxêmani và bị điệu đến nhà này. Nơi đây, Ngài trải qua đêm kinh hoàng của sự kết án đầu tiên (Matthew 26:57 – 63, Mark 14:53 – 65, Luke 22:63 – 71, John 18: 12 – 14). Tại đây, Thánh Phêrô đã khóc lóc thảm thiết lúc gà gáy khi những lời tiên báo về sự chối Chúa của Phêrô ứng nghiệm: “Này Phêrô, Thầy nói cho con biết, hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì 3 lần con đã chối là không biết Thầy.” Quả thật, Phêrô đã chối Ngài 3 lần khi gà gáy lần thứ 2 (Matthew 26:34, Mark 14:66 – 72, Luke 22:54 – 62, John 18:15 – 18). Do kết quả của những lần khai quật, quý cha Assumptionist xác định Nhà Thờ Thánh Phêrô Gà Gáy nằm trên khu vực dinh Thầy Cả Thượng Tế Caipha. Tại đây, toàn bộ những di tích cũ được tìm thấy như cối xay bằng đá, hầm nhốt tù nhân, sân xét xử, nơi ở của gia nhân...Di tích của một Nhà Thờ đời xưa kiểu Byzantine đuợc tìm thấy. Những sỏi đá và đường đi bên cạnh sườn đồi còn giữ nguyên vẹn giống như thời Đức Kitô chịu hành hình. Vì đây là con đường ngắn nhất từ vườn Giệtxêmani lên Đền Thánh. Có thể những bước chân của Đức Kitô đã đi trên những viên đá này. Trong thời Đức Giêsu, nơi này nằm trong khu vực nội thành Jerusalem.